Xuân Mậu Tuất - 2018

Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Xuân Mậu Tuất - 2018

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          


Mời các bạn cùng chung vui

Ngày Xuân Mậu Tuất
2018

          




:flower: :flower: :flower:
          
          
          
Nhạc

Tử Vi


Bài viết


Thơ


Đối vui


Cười


Tranh ảnh
  •           


Phim
  •           



          
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Xuân Mậu Tuất - 2018

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           






    Xuân Ca Ngày Cũ
    - từ La Hối đến Nguyễn Hiền
    ___________________________________
    Quỳnh Giao - 2008







    Khi các nụ thủy tiên đầu tiên tỏa hương thơm trong nhà thì dù chưa nghe được tiếng pháo, người người đã thấy rộn ràng trong tâm tưởng những khúc nhạc Xuân của thời trước, nay đã thành Xuân ca của mọi thời.

    Trong số này, có lẽ nên hồi tưởng lại La Hối và bài Xuân và Tuổi Trẻ.

    La Hối là nhạc sĩ có duy nhất một tác phẩm, nhưng lại nổi tiếng nhờ ca khúc duy nhất ấy. “Xuân và Tuổi Trẻ” là bài hát không thể thiếu mỗi độ Xuân về. Ông vốn là người Việt lai Hoa, nên dù viết bằng Việt ngữ, bài hát có âm hưởng Trung Hoa rất đặc biệt. Ngay từ đầu thập niên 1950 thính giả đã yêu thích bài hát vì ý nhạc phong phú, vi vút như những cánh bướm chập chờn.

    Nhưng, trong nghề với nhau thì các ca sĩ thì thường dễ hụt hơi vì đoạn chuyển khúc:
    • Vui hát đi cho lòng thêm sướng,
      Vui hát đi cho lòng thêm tươi,
      Ta hát ca đón mừng Xuân mới,
      Ta hát ca cho lòng thêm hăng hái...
    Mười trường canh hát liền một hơi không được ngắt! Và “...hăng hái” phải được ngân khá dài.




    Rời xa chúng ta được ba năm, Nguyễn Hiền là tác giả của những bài hát nhẹ nhàng đầm ấm cũng cống hiến một bản nhạc về Xuân rất đẹp, phổ thơ Kim Tuấn. Ðó là “Anh Cho Em Mùa Xuân”, nổi tiếng trong thời kỳ 1960-1970. Ðây là một bài ca về Mùa Xuân mà cũng là một bài ngợi ca quê hương với nét nhạc rất trữ tình.




    Giữa hai tác giả ấy và cùng trong dòng nhạc nhẹ nhàng, thanh cao, thích hợp với mọi thời kỳ, Tuấn Khanh, tác giả của “Hoa Soan Bên Thềm Cũ” có tác phẩm “Mộng Ðêm Xuân” nhịp “Boston” tha thiết và êm đềm như một bài thơ.
    Thế rồi, qua những năm dài chiến chinh, Xuân của người lính chiến cũng trở thành Xuân của mọi người. Ngày nay dù chinh chiến đã tàn, ít ai quên được những bài Xuân ca viết cho chiến sĩ. Tiêu biểu nhất có
    • Nguyễn Văn Ðông với “Phiên Gác Ðêm Xuân”
      Trần Thiện Thanh với “Ðồn Vắng Chiều Xuân”...





    Nói tới nhạc Xuân của Việt Nam, không thể không nhắc tới Phạm Duy.

    Ông đã soạn tám bài hát về Xuân:
    • “Hoa Xuân”,
      “Ðêm Xuân”,
      “Xuân Thì”,
      “Xuân Nồng”,
      “Xuân Ca”,
      “Xuân Hành”,
      “Tuổi Xuân”,
      “Xuân Hiền”.
    • Ðó là không kể tới “Bến Xuân” soạn chung với Văn Cao,
      hoặc “Xuân Trên Buôn” dân ca cải tiến của sắc dân Ê Ðê
      “Mùa Xuân Yêu Em”, phổ thơ Ðỗ Quý Toàn.
              
    Trong các ca khúc trên, bài “Hoa Xuân” được hát nhiều nhất vào dịp Nguyên Ðán. Lời ca và nét nhạc bình dị, tươi tắn, diễn tả trạng thái tâm hồn phơi phới trước thiên nhiên và đồng loại. Lãng mạn nhất thì có “Ðêm Xuân”. Nghe “Ðêm Xuân”, ta hiểu thế nào và tại sao các cụ ta xưa thường dùng chữ “Xuân” để tả những gì đẹp đẽ và thơ mộng.

    Riêng với người viết, nhạc và lời của “Xuân Thì” là một công phu trác tuyệt.

    “Xuân Thì” không tả cảnh Xuân mà là tâm sự của tác giả về mình, về nhân thế, với đặc tính cố hữu trong lời ca của Phạm Duy là lòng nhân ái. Ông mong có một Mùa Xuân thái hòa cho nhân loại. Ông thương từ cây súng cô đơn đến những nụ đào nở trên lối mòn chiến xa. Ông ôm nhân loại trong mình, cười tuôn nước mắt cho Xuân tình dấy men. Cùng với lời ca súc tích và đầy hình ảnh, Phạm Duy dùng cách chuyển khúc từ giai điệu “thứ” sang “trưởng” thật thần tình để diễn tả nỗi hân hoan thăng hoa từ sự khổ đau.

    Bản “Xuân Nồng” của ông hoàn toàn tả cảnh Xuân, mà là mùa Xuân miền Nam. “Xuân về không có mưa phùn mà chỉ có bụi xe”... nhưng vẫn là Xuân nên thơ. Nét nhạc Phạm Duy thường đi đôi với lời, nên tình và cảnh của ngày Xuân trong Nam được diễn tả bằng nhịp ba linh hoạt với âm giai “Fa trưởng” trong sáng.

    “Xuân Ca”“Xuân Hành” là hai ca khúc Phạm Duy soạn theo khuynh hướng những bài hát tâm linh. Người từ lòng người đi ra rồi sẽ trở về lòng người. Hãy hưởng Mùa Xuân trong từng chớp mắt trong cuộc sống ngắn ngủi này. Mùa Xuân của Phạm Duy có từ trong đêm tân hôn của cha mẹ, và từ đó ông ra đời góp chung câu gào thiết tha cho Mùa Xuân vĩnh cửu. Nếu chết đi thì xin được tái sinh nhiều lần để được tiếp tục đi mãi trong Mùa Xuân. Bài này soạn theo giai điệu ngũ cung, rất Việt Nam.






    Một bậc sư trong nghệ thuật dung hợp cái rất Tây và rất Ðông trong tân nhạc là Dương Thiệu Tước. Ông vua của tiết điệu bán cổ điển Tây phương trong nhạc Việt đã cống hiến cho chúng ta bản luân vũ được coi là hay nhất của Việt Nam, ca khúc “Bến Xuân Xanh”.

    Dương Thiệu Tước sáng tác “Bến Xuân Xanh” rất công phu. Tác phẩm dài tổng cộng 180 trường canh (gấp ba một bài luân vũ trung bình có 64 trường canh, như “Thu Vàng” của Cung Tiến) và được viết bằng âm giai “Do trưởng”, loại âm giai được coi là “sáng”.
    (Xin có đôi lời về nhạc thuật ở đây: giới sáng tác nhạc cho
    • âm giai “Ré giáng trưởng” và “La giáng trưởng” là âm giai “dịu” nhất.
      Âm giai “Sol thứ” và “Si thứ” là âm giai “buồn” nhất.
      Âm giai “Do trưởng” và “Fa trưởng” là âm giai “sáng” nhất)

    Vì thế, “Bến Xuân Xanh” đòi hòi ca sĩ phải trình bày đúng âm giai nguyên thủy. Khi nghe một người trình bày không đúng “ton” (thí dụ người hát không lên được những nốt cao nhất của bài hát, phải hạ xuống một hay hai “cung”) thì ông hơi hơi buồn. Ðoạn biến khúc của “Bến Xuân Xanh” được Dương Thiệu Tước chuyển sang âm giai “La giáng trưởng” trở nên êm dịu lạ thường trước khi về lại cung “Do trưởng” trong sáng.

    Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước còn soạn phần nhạc mở đầu (introduction) và kết thúc (Coda) thật vi vút, du dương. Lời ca trong “Bến Xuân Xanh” tràn đầy thơ, nhạc, hoa, nắng, gió và sóng nước: toàn những biểu tượng lung linh rực rỡ của Mùa Xuân. Khi Dương Thiệu Tước vừa tạ thế ở trong nước, trong dịp tưởng niệm ông ở hải ngoại, 12 năm về trước, nhạc sĩ Nghiêm Phú Phi đã nhắc tới bản luân vũ này với lòng khâm phục. Không thua kém gì các nhạc khúc về sông nước nổi tiếng của Tây phương!

    Ngoài “Bến Xuân Xanh” độc đáo nói trên, Dương Thiệu Tước có soạn ba bài khác về Mùa Xuân, là
    • “Vui Xuân”,
      “Vườn Xuân Thắm Tươi”,
      và “Tìm Xuân”
      .
    Nhưng chỉ cần viết một “Bến Xuân Xanh” thôi, Dương Thiệu Tước đã xứng đáng với một chỗ đứng sáng chói trong nền tân nhạc Việt Nam.






    Một nhạc sĩ khác cũng xứng đáng với ngôi vị trên mà lại không được quần chúng để ý, và chỉ được giới thẩm âm biết tới, đó là Vũ Thành. Người nghệ sĩ tài hoa này có ca khúc mang tựa đề về Mùa Xuân là “Tình Xuân”. Cũng với âm giai sáng “Do trưởng”, ông dùng ý nhạc cao sang, thanh thoát, cho ta nghe và thấy được một Mùa Xuân đầy sắc hương thi vị. Tuy nhiều sáng tác khác của ông không có tựa đề về Mùa Xuân nhưng luôn luôn gợi nhớ tới Xuân.
    • Câu mở đầu của bản “Nhớ Bạn” là “Xuân vương trên ngàn hoa...”
      Bản “Say Nhạc Canh Tàn” cũng mở đầu bằng “Gió Xuân đưa mây vật vờ...”
    Nhạc Vũ Thành cũng như con người nghệ sĩ của ông: già dặn, thanh cao mà ẩn dật như một cội mai...






    Sau cùng, nói về Mùa Xuân trong nhạc, xin nhắc tới Phạm Ðình Chương, người được thính giả mang nợ nhiều nhất mỗi khi Xuân về. Ngày Xuân có thể thiếu pháo mà không thể không có “Ly Rượu Mừng”!
    Có lần ông nói đùa:
    • “Nếu mọi người chỉ cần trả một đồng thôi mỗi khi hát ‘Ly Rượu Mừng’, thì tôi đã thành triệu phú từ lâu”.
    Ngoài nét nhạc phơi phới hân hoan, dễ nghe dễ hát, lời ca lại mang nội dung thích hợp với mọi tầng lớp thính giả. Vì thế “Ly Rượu Mừng” không chỉ được cất lên mỗi dịp Tết Nguyên Ðán mà còn thường được mọi người chung hát tại các buổi họp mặt, tiệc tùng, cưới hỏi...

    Một bản nhạc Xuân khác của Phạm Ðình Chương cũng thường được nghe trình bày hợp ca tại các đài phát thanh, hay đồng ca vào những dịp họp mặt tất niên tại các trường học là bản “Ðón Xuân”.

    Nhưng thật ra, bài Xuân ca tuyệt vời nhất của Phạm Ðình Chương chính là “Xuân Tha Hương”. Tác phẩm này được viết với nhịp điệu Boston 3/4 chậm rãi, tha thiết. Âm giai “Ré trưởng” không quá cao hoặc quá thấp nên thích hợp với mọi giọng hát. Ý nhạc nhẹ nhàng, uyển chuyển, nhờ ông dùng nhiều chuyển âm. Gần như cứ hai trường canh ông lại thay đổi hợp âm, mang lại cho “Xuân Tha Hương” sắc thái đặc biệt Phạm Ðình Chương.

    Bản nhạc còn tuyệt vời vì lời ca buồn man mác, nhẹ nhàng kín đáo chứ không rũ rượi sầu thảm. Trong thập niên 60 khi bài hát được thịnh hành, người ta yêu lời ca vì nhớ tới Hà Nội và những ngày Xuân êm đềm xa xưa.

    Ngày nay, người ta càng yêu lời ca hơn vì nỗi buồn tư hương bao phủ lên cả quê hương yêu dấu.




              

    Quỳnh Giao - 2008           
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Xuân Mậu Tuất - 2018

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          






Xuân tha hương
Phạm đình Chương
____
Thái Thanh



          
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Xuân Mậu Tuất - 2018

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           






    Năm Tuất
    nói chuyện chó

    ___________________________________
    Nhật Hoa - 01.2018





              
              





    Loại động vật được thuần hóa sớm nhất từ chó sói

    Chó thuộc loài động vật ăn thịt có thính giác và khứu giác rất phát triển. Theo phân tích AND, thời gian chó sói tiến hóa thành chó nhà từ hơn 13 vạn năm trước và đã gắn bó rất thân thiết với cuộc sống con người. Nhưng quan điểm chung lại cho rằng, chó trở thành bạn thân thiết của con người cách đây mới hơn 1 vạn năm. Cho đến nay chó cũng được "phân ngành" theo các lĩnh vực hoạt động của con người, như: chó săn, chó giữ nhà, chó chăn cừu (đây là sản phẩm của người Anh), chó làm xiếc, chó dẫn đường, chó kéo xe, chó nghiệp vụ, chó làm thí nghiệm, chó cảnh... Chó kéo xe là loài chó rất khoẻ, dẻo dai, có lông và da dày, có thể sống ở nhiệt độ -70 độ và được dùng cả trong những công việc mạo hiểm như thám hiểm Bắc Cực. Cho đến nay có khoảng hơn 300 loài chó.




    Người bạn tận trung nhất

    Chó là bạn thân thiết và trung thành của người nên người xưa còn gọi chó là nghĩa khuyển và có nhiều truyền thuyết về chúng. Sách Sưu thần ký của Can Bảo đời Tấn (0265 - 0420 ) có viết rằng :
    • thời Tam Quốc, dưới thời Ngô Tôn Quyền, ở Tương Dương có người tên Lý Tín Thuần nuôi con chó có tên là Hắc Phong. Một hôm Lý ra ngoài thành uống rượu say, trên đường về nhà nằm ngủ ngay dưới bãi cỏ. Gặp lúc quan thái thú đi săn đốt bãi cỏ để đuổi thú, khiến quần áo Lý bén lửa cháy. Hắc Long thấy vậy đến kéo chủ dậy nhưng chủ không dậy. Chó bèn đến ngòi nước cách đó 35 bước, dầm mình cho ướt để về dập lửa cho chủ. Cứ như vậy chó chạy đi chạy lại nhiều lần, cuối cùng chó mệt quá nằm chết ngay bên cạnh chủ. Khi Lý tỉnh dậy thấy chó chết vì cứu mình thì báo cho quan thái thú biết. Quan thái thú nói:
      • Đúng là sự báo ân của loài chó còn hơn sự báo ân của con người. Con người không biết suy nghĩ thì sao bằng được loài chó.
      Sau đó, quan thái thú đã cử hành đám tang cho Hắc Long rất long trọng và tôn làm nghĩa khuyển.


    Hình tượng chó trong thành ngữ

    Hình tượng chó cũng có trong thành ngữ dân gian Trung Hoa, Việt Nam. Sách Kim lâu tư,. Lập ngôn thượng của Lương Nguyên Đế thời Nam Triều, có câu:
    • Không có chó thì không có kẻ canh nhà, không có gà thì không có kẻ báo thức vào buổi sớm.
      Câu này ám chỉ những người chỉ trọng hình thức mà không trọng nội dung, không có thực tế.
    Còn có nhiều câu thành ngữ lấy hình tượng chó chỉ tính cách của con người như:
    • cẩu bất giảo bái niên đích, quan bất đả tống tiền đích
      (chó không cắn người đến chúc tết, quan không đánh người đưa tiền,
      ý chỉ người dẻo mồm, người đưa hoặc cho tiền đều được đón tiếp tử tế);
    • cẩu cẩu đăng dinh
      (tìm mọi cách để trục lợi,
      ý chỉ xấu xa như chó);
    • cẩu bì cao dược
      (thuốc cao bôi lên da chó,
      ý chỉ hàng giả, hàng bịp bợm);
    • cẩu nhục bất thượng trác
      (thịt chó không để trên bàn tiệc,
      ý chỉ người không đủ tư cách);
    • cẩu giảo nhân hữu dược y, nhân giảo nhân một dược trị
      (chó cắn người còn có thuốc chữa, người cắn người thì không có thuốc chữa,
      bị người khác bôi nhọ thì rất lâu mới lấy lại được danh dự)...



    Một trong 8 món ăn ngon của cung đình

    Trong văn hoá ẩm thực của người Việt Nam và Trung Hoa có món thịt chó. Trong di chỉ tầng văn hoá thời Tiên Tần ở Bán Pha Tây An Trung Quốc, đã từng đào được rất nhiều xương chó. Điều đó chứng tỏ đương thời chó không chỉ phục vụ săn bắn, chăn dê mà còn là món ăn khoái khẩu của con người. Thời Xuân Thu Chiến Quốc, thịt chó quý hơn thịt lợn. Sách Quốc ngữ. Việt ngữ thượng viết:
    • Việt Vương Câu Tiễn để đẩy mạnh chính sách giáo dân,
      ai sinh được con trai thì thưởng 2 vò rượu, một con chó,
      ai sinh được con gái thì được thưởng 2 vò rượu với 1 con lợn.
    Sách Mạnh Tử. Lương Huệ Vương thượng có viết:
    • trong ba loại thịt : gà, chó, lợn thời Tiên Tần thì thịt chó thuộc loại quý hiếm nhất.
    Thời nhà Chu (cách đây hơn 2.800 năm), bậc thiên tử thích ăn thịt chó vào 3 tháng mùa thu. Thịt chó là một trong 8 món ăn ngon trong cung đình. Đến đời Hán đã có nhiều món ăn được chế biến từ thịt chó. Cho đến nay thịt chó vẫn là món ăn ngon, nhất là vào mùa thu đông. Nhưng nhà y học Lý Thời Trân lại khuyên không nên ăn thịt chó vào tháng 9, vì nếu ăn vào tháng này thì thần thái sẽ bị tổn thương.




    Đặt chó trấn cửa thế nào cho đúng?

    Trong phong thuỷ học, chó cũng là vật để hóa giải sát khí trong nhà, để cầu mong sự tốt lành, tránh điều dữ, nhưng không để hình chó ở cửa chính mà để ở cửa ngách; vì trấn thủ ở cửa lớn thông thường người ta dùng tượng sư tử. Nhưng nhiều nhà không có cửa ngách, cửa sau nên cũng có người dùng chó để trấn cửa lớn. Việc đặt tượng chó ở nơi gần cửa là thích hợp nhất, đầu chó phải hướng ra cửa, nhưng có một điều phải chú ý, không nên đặt nó ở phương Đông Nam, về số lượng chỉ 1 đến 2 con là lợi nhất.

    Phong thuỷ học cũng nêu ra cần đặt chó theo phương vị và màu sắc.
    • Nếu đặt ở phương Bắc phải là chó đen,
      nếu ở phương Tây nên là chó trắng,
      phương Nam nên là chó màu vàng sẫm.
    Những người sinh tuổi Thìn không nên đặt tượng chó trong nhà vì Thìn Tuất xung nhau, tránh được thì tránh, đặc biệt không nên đặt trong phòng ngủ của mình. Đối với người sinh tuổi Dần, Ngọ, Mão đặt chó trong nhà rất thích hợp.




    Người tuổi Tuất đón năm Tuất thế nào?

    Trong văn hoá sinh tiêu truyền thống Trung Hoa cổ xưa, năm Tuất là năm khởi đại vận cuối cùng của người tuổi Tuất, còn gọi là năm Thái Tuế của họ nên có nhiều đổi mới trong thoái vận, nhưng cũng ẩn chứa sức mạnh và tiềm năng mới. Trong năm này nên vạch ra nhiều kế hoạch cho tương lai. Vì là năm đại vận của người sinh tiêu Tuất, nên năm nay có những điều không như ý nhưng không cần phải bận tâm. Tuy vậy tài lộc và khả năng thuyết phục vẫn tăng lên, đại lợi về quyền uy và tiêu thụ. Lưu ý cần có sách lược "lấy tĩnh chế động", tránh tham gia các hoạt động nguy hiểm hay đi du lịch, đọc nhiều sách, chú ý đến cuộc sống gia đình.






    Nhật Hoa - 01.2018           
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Xuân Mậu Tuất - 2018

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          






nhà em có nuôi 1 con chó .. :giggles: ..

____

Nhà em có nuôi một con chó
Trông nó to như con bò
Sáng nó kêu gấu gấu gấu
Trưa nó kêu gâu gâu gâu
Chiều nó kêu gầu gầu gầu...

Gâu gầu gâu gầu gấu gâu gâu gâu!

Nhà em có nuôi một con chó
Trông nó to như con bò
Nhưng nó ngoan lắm lắm lắm
Ai cũng khen hiền thật hiền
Ba má thương nhiều thật nhiều.




:wlkdg:
:rn4yrlf:

          
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Xuân Mậu Tuất - 2018

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           





    hai chó mới vào
    ___________________________________


    • Trong quán nhậu, khách gọi bồi:
      • – Anh ơi, cho thêm hai đĩa thịt dê!
      Cùng lúc đó, một ông khách mới vào quán kêu:
      • – Cho tôi hai đĩa thịt chó!
      Bồi nhanh nhẩu hướng vào bếp la lớn:
      • – Hai dê ăn thêm, hai chó mới vào.
              

              
    .:lol2:
              
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Xuân Mậu Tuất - 2018

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           






    Năm cũ, năm mới
    ___________________________________
    Huỳnh Kim Quang






              
              





    Tôi nhớ lúc còn bé ở miền quê Việt Nam hễ nghe nói đến Tết là lòng rộn ràng, nao nao mong cho mau tới. Cái đêm trừ tịch tôi không tài nào ngủ được, cứ chờ cho tới trời sáng để mặc áo mới và đi chơi. Trời tờ mờ sáng, người lớn lục đục thức dậy thì mình cũng thức theo, lăng xăng đủ thứ kiếm quần áo mới đóng vô. Trong xóm tôi ở, đám nhỏ đứa nào cũng mang cùng tâm trạng đó. Mà thiệt ra áo mới thì có gì đâu. Chỉ là một bộ pijamas mới mà mẹ may cho bằng vải thường, màu sọc hay ca rô, có 3 cái túi và một đôi dép nhựt. Vậy mà đã thấy bảnh, thấy sang trọng hết cỡ rồi. Sáng Mùng Một Tết mẹ cho mấy đồng bỏ túi rồi theo mẹ đi chùa, đi dạo trong xóm hay đi xe ngựa lên thị xã để xem người ta đánh bầu cua cá cọp, hay xem hô lô tô, hát bài chòi. Đi rong rong như vậy trong ba ngày Tết, cứ sáng đi tới chiều tối về, thì đã thấy vui và mãn nguyện.

    Không biết con nít Việt Nam ở trong nước ngày nay còn có tâm trạng vui Tết như vậy không. Chứ ở đây dường như con nít không có được không khí vui đùa và nao nức của con nít ở trong nước vào mấy ngày Tết âm lịch vào thuở bé thơ của tôi. Con nít Việt ở ngoại quốc chỉ vui mấy ngày lễ Nô En, hay Tết Tây, mà không khí và tâm trạng khác hẳn với cái vui ngày Tết Việt Nam ở quê nhà.

    Hồi còn nhỏ tôi cứ thắc mắc mãi, tại sao Tết vui như thế mà lại nghe mấy người lớn nói chuyện với nhau thì than thở, rầu đủ thứ. Thì ra càng lớn lên càng hiểu được tâm trạng của ông bà cha mẹ mình. Tết đến phải lo trăm thứ mà thứ nào cũng đòi có tiền. Dù nghèo cỡ nào cũng phải chạy tiền để lo mâm cơm cúng ông bà, lo quần áo, giày dép cho mấy đứa nhỏ, lo bánh mứt trà lá để cúng kiếng và tiếp đãi bà con họ hàng tới nhà. “Dầu nghèo cũng thể,” mẹ tôi hay nói câu này mỗi khi Tết đến.





    Mấy chục năm ở Mỹ, chưa một lần về ăn Tết ở quê nhà, nên không khí và hương vị ngày Tết truyền thống cũng đã lần lần nhạt đi. Chỉ là nhạt thôi, chứ không phải mất hết. Ở đây mỗi khi Tết đến thì lòng cũng cảm nhận được điều gì đó nôn nao. Và khi đi ngang qua mấy khu chợ Việt trên đường Bolsa, Brookhurst tại Little Saigon nhìn những quày hàng hoa quả, bánh mứt và người mua sắm ra vô tấp nập thì cũng thấy vui vui, có chút rộn ràng xao xuyến với ngày xuân đang tới, dù ở đây hiện là mùa đông!

    Có điều, đối với tôi, cũng vào dịp Tết như vậy mà tâm trạng mỗi năm mỗi khác. Dường như càng lớn lên những cảm nghĩ về Tết của mình càng nghiêng về thân phận làm người, về thực trạng cuộc sống và xã hội chung quanh nhiều hơn là về những thú vui của ngày hội đón xuân sang qua hình thức bề ngoài. Phải chăng càng lớn lên, càng chung đụng và trải nghiệm với thực tế cuộc đời mà vốn dĩ gian truân, mất mát và khổ lụy nhiều hơn hạnh phúc, may mắn, và thành đạt đã làm cho mình suy nghĩ nhiều hơn ý nghĩa đích thực của kiếp người! Phải chăng vì vậy mà càng lớn tuổi con người ta càng sống nặng về nội tâm, về tâm linh nhiều hơn, và như một hệ quả, càng cần đến niềm tin tôn giáo nhiều hơn!

    Nói đến thực trạng khổ đau của cuộc đời thì ở đâu cũng có. Nhưng chỉ mới mấy ngày gần cuối năm nay thôi tôi đã chứng kiến hai sự việc làm mình suy nghĩ nhiều về ý nghĩa của cuộc đời trong không khí sắp Tết.



              
              
    Tối hôm nọ, cũng khoảng 8 giờ, một bà cụ bước vào tòa soạn Việt Báo hỏi mua mấy số báo của mấy ngày trước. Vì cô tiếp khách ở bàn ngoài đã về, nên tôi ra để tiếp bà. Bà cụ đi lom khom với lưng còng kéo nửa phần trên thân hình quặp xuống. Bà cố gắng bước tới và ngước cổ nhìn tôi trong dáng vẻ rất khó khăn và đau đớn. Mà lạ, thân hình bà cụ thì gầy gò, lom khom, nhỏ bé thế kia, nhưng giọng bà thì sang sảng, vừa trong, vừa ấm, vừa rõ mồn một. Tôi lục đủ 4 số báo và mang đưa cho bà. Bà để xách tay lên chiếc ghế nhỏ, rồi lấy ví tiền ra, trong đó có túi nhỏ, trong túi nhỏ đựng tiền cắc. Bà cầm túi tiền cắc nhìn quanh kiếm chỗ cao hơn để đổ tiền ra. Vừa đi bà vừa giải thích,
    • “Cái lưng của tôi bị chúng nó đánh gãy nên phải kiếm chỗ cao để đổ tiền ra mà đếm đưa cho cậu. Chứ đứng khom như thế này thì đau lắm.”
    Tôi dẫn bà đến cái bàn bên trong văn phòng cao hơn. Vừa đổ tiền ra, bà vừa nói như phân bua,
    • “Tôi lại quên mang theo tiền một đồng để trả cho cậu. Cảm phiền!”
    Tôi chỉ cười và phụ đếm tiền cắc với bà cho đủ một đồng. Rồi chợt nhớ đến cái lưng khom của bà nên tôi hỏi ai đánh bà ra nông nỗi này. Bà kể, vài năm trước, có mấy tên cướp xông vào nhà không những lấy hết đồ đạc và tiền bạc mà còn đánh đập bà tới gãy xương sống, rồi chúng bỏ đi. Tôi hỏi bà ở với ai, con cháu bà đâu. Bà bảo,
    • “Chúng nó bỏ tôi một mình sống chết mặc kệ!”
    Tôi không dám hỏi thêm nữa vì sợ đụng đến nỗi đau gia cảnh bất hạnh của bà. Mua báo xong, bà đi mà quên lấy xách tay. Tôi nhắc. Bà cười,
    • “Thấy chưa, tôi lại quên bẵng nữa rồi. Cậu mà không nhắc thì tôi đi luôn thôi. Cái tật hay quên nên cứ mất đồ mãi.”
    Lúc đưa bà ra ngoài tôi không thấy xe nên hỏi bà đi bằng gì. Bà chỉ chiếc xe đẩy cho người khuyết tật vừa có tay cầm cho vững, vừa có chỗ để đồ ở trước cửa tòa soạn. Bà cho biết ở cách đây xa lắm, phải đi xe buýt. Bà nói mỗi ngày phải đọc thật nhiều, đọc mấy tiếng đồng hồ, không đọc thì sống không nổi. Cho nên bà mới đi mua báo thường xuyên để đọc. Tôi đứng trông theo bà đi, lụm khụm, chậm chạp dưới bầu trời đêm đông lạnh thấu xương.



    Mấy hôm nay, trên lề đường nhỏ gần tòa soạn, có một người vô gia cư ở đó cả ngày lẫn đêm. Người đó đẩy theo một chiếc xe đẩy hàng của siêu thị với đủ thứ đồ đạc được đựng trong nhiều cái bao vừa chất, vừa treo lủng lẳng đầy cả xe. Ở một bên đường còn có tấm nệm cũ mèm màu xanh dương bỏ lăn bỏ lóc ra đó đã mấy ngày. Người đó, có vóc dáng đàn ông, trạc chừng chưa tới năm mươi, tóc tai dài phủ vai và bù xù rối bời, mặc bộ đồ màu đen lếch thếch, và dơ bẩn. Có hôm đi làm về khuya tám chín giờ tối tôi còn thấy ông đi tới đi lui thất tha thất thểu trên lề đường. Trời thì lạnh căm căm, cả đêm phải nằm ngoài sương gió như thế thì làm sao chịu đựng nổi.
              
              
    Trong khi bên ngoài kia, cách đó không xa, trên đường Bolsa ở khu chợ Tết trước Phước Lộc Thọ bao nhiêu người tấp nập đi mua sắm Tết tưng bừng, thì ở đây, ở một cái góc nhỏ của trần gian này cũng có những người thầm lặng gánh chịu nỗi đau khổ ngút ngàn của thân phận. Với bà cụ mua báo, với người vô gia cư, không biết họ có nghĩ đến cái Tết không, và nếu có thì cảm nghĩ của họ như thế nào! Nhưng theo lẽ thường thì nếu có nghĩ tới Tết chắc họ cũng không cảm thấy có gì vui, bởi như cụ Nguyễn Du viết trong Truyền Kiều:
    • “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
      Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.”
              
    Thật ra trong tâm của người đàn ông vô gia cư và bà cụ kia có đau khổ không, hay họ không hề nghĩ cuộc sống của họ như thế là buồn phiền!

    Có lần ban đêm tôi ngừng xe lại đến gần người đàn ông vô gia cư để biếu cho ông ít tiền mua thức ăn. Lạ thật! Ông không lấy. Tôi hỏi sao ông không nhận tiền tôi biếu để mua thức ăn. Ông nói có đi chùa làm công quả và được cho ăn rồi. Tôi lại hỏi sao ông không đến những chỗ tạm trú của chính phủ dành cho người vô gia cư mà ở đây trời lạnh làm sao ngủ và dễ bệnh. Ông cười bảo là không sao và kêu tôi đừng lo cho ông, đi về đi, lái xe cẩn thận. Lần đầu tiên trong đời tôi nhìn thấy nụ cười của một người vô gia cư! Nói ông không khổ thì chắc là không đúng, vì với cảm thức của một người bình thường thì hoàn cảnh sống như thế không thể là điều mong ước. Nhưng sống trong tình cảnh như vậy mà còn nở được nụ cười là điều rất lạ. Nghĩ đến nụ cười của người đàn ông vô gia cư này bỗng nhiên tôi lại nhớ hai câu thơ của Thiền Sư Mãn Giác đời nhà Lý:
    • “Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
      Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.”


      (Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết,
      Đêm qua sân trước một cành mai.)
      (Hòa Thượng Thích Thanh Từ dịch Việt)
              




    Nhưng hai người đó không phải là những người Việt duy nhất chịu đựng nỗi khổ đau trong cuộc đời trước những ngày sắp hết năm cũ và bước qua năm mới. Rất nghiều người Việt trong và ngoài nước hiện đang đau khổ như thế hay nhiều hơn thế nữa. Chưa hết, còn hàng chục triệu người trên Trái Đất này hiện đang gánh chịu vô vàn đau thương và thống khổ vì thiên tai, nhân họa, chiến tranh, thù hận, đói nghèo, và số phận hẩm hiu.

    Trong những người đang vui vẻ đón Tết như tôi, chắc cũng không ít người mà trong đó có tôi có lẽ vui xuân là cách để quên đi năm cũ nhiều bất an, đau khổ và mong một năm mới bình an, vui vẻ hơn! Bởi vậy cho nên mới có tục lệ chúc nhau phát tài phát lộc, sống lâu trăm tuổi, hạnh phúc và vui vẻ cả năm. Mà chắc cũng vì vậy nên có nhiều cấm kỵ lạ đời, như ngày Tết không quét rác ra ngoài, không nói điều xui xẻo, ngay cả không dám tới nhà những người có thói quen kỹ lưỡng xông đất đầu năm.

    Mong điều tốt đẹp đến trong năm mới là chuyện nên làm, vì ngay khi nghĩ tới điều tốt thì chính mình đã tự làm tốt mình, ít nhất bằng suy nghĩ trong tâm thức. Nhưng để điều tốt đẹp mà mình mong muốn thực sự xảy ra thì chắc chắn con người cũng phải biết làm, biết tạo điều kiện, tạo duyên cho những điều tốt đẹp ấy thành hiện thực. Điều đó đơn giản thôi, vì theo luật nhân quả, có tạo nhân thì mới có kết quả, không tạo nhân thì kết quả không đến. Muốn có quả tốt đẹp thì phải tạo nhân tốt đẹp. Giống như đức Phật nói trong Kinh Pháp Cú (Dhammapada):
    • “Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác.
      Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
      Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác.
      Nếu nói hoặc làm với tâm thanh tịnh, sự vui sẽ theo nghiệp kéo đến như bóng theo hình.”

      (Kinh Pháp Cú, Phẩm Song Yếu, bản dịch Việt của Cố Hòa Thượng Thích Thiện Siêu)
              

    Làm điều tốt đẹp không những cho mình mà còn cho tha nhân, cho xã hội nữa thì hoàn cảnh sống của mình mới thật sự tốt đẹp. Chẳng hạn, nếu chung quanh mình có nhiều người còn khổ đau, bất hạnh thì mình cũng không thể sống bình an và vui vẻ được. Vì vậy cá nhân cần góp phần vào việc xây dựng xã hội tốt đẹp, lành mạnh, phú cường để được sống an cư lạc nghiệp. Trong thế giới toàn cầu hóa ngày nay, nguyên tắc này đã được nhân loại cổ võ thực hiện để cùng nhau sống hòa bình, an ổn và phú cường. Các nước giàu không thể tiếp tục làm giàu nếu phần còn lại của thế giới nghèo khổ, vì khi có nhiều người nghèo khổ thì mức tiêu thụ sẽ thấp khiến cho mức cầu giảm và mức cung sẽ ảnh hưởng theo. Cũng vậy, khi nạn khủng bố lan tràn khắp nơi thì cả thế giới trở nên bất ổn nghiêm trọng.

    Ngày hết Tết đến nhìn thấy còn những người đau khổ chung quanh thì lòng mình không thể dửng dưng mà không nghĩ tới những phận người bất hạnh và cả ngày mai của mình nữa! Năm mới mong rằng nhiều người bớt khổ hơn.





    Huỳnh Kim Quang           
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Xuân Mậu Tuất - 2018

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           






    Mưa xuân
    ___________________________________
    Nguyễn Bính - 1936





              

    Em là con gái trong khung cửi
    Dệt lụa quanh năm với mẹ già
    Lòng trẻ còn như cây lụa trắng
    Mẹ già chưa bán chợ làng xa


    Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay
    Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy
    Hội chèo làng Ðặng đi ngang ngõ
    Mẹ bảo: “Thôn Ðoài hát tối nay”


    Lòng thấy giăng tơ một mối tình
    Em ngừng thoi lại giữa tay xinh
    Hình như hai má em bừng đỏ
    Có lẽ là em nghĩ đến anh


    Bốn bên hàng xóm đã lên đèn
    Em ngửa bàn tay trước mái hiên
    Mưa thấm bàn tay từng chấm lạnh
    Thế nào anh ấy chả sang xem!


    Em xin phép mẹ, vội vàng đi
    Mẹ bảo xem về kể mẹ nghe
    Mưa bụi nên em không ướt áo
    Thôn Ðoài cách có một thôi đê


    Thôn Ðoài vào đám hát thâu đêm
    Em mải tìm anh chả thiết xem
    Chắc hẳn đêm nay giường cửi lạnh
    Thoi ngà nằm nhớ ngón tay em


    Chờ mãi anh sang anh chả sang
    Thế mà hôm nọ hát bên làng
    Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn
    Ðể cả mùa xuân cũng nhỡ nhàng!


    Mình em lầm lụi trên đường về
    Có ngắn gì đâu môt dải đê!
    Áo mỏng che đầu mưa nặng hạt
    Lạnh lùng thêm tủi với canh khuya


    Em giận hờn anh cho đến sáng
    Hôm sau mẹ hỏi hát trò gì
    “- Thưa u họ hát...” rồi em thấy
    Nước mắt tràn ra, em ngoảnh đi


    Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay
    Hoa xoan đã nát dưới chân giày
    Hội chèo làng Ðặng về ngang ngõ
    Mẹ bảo: “Mùa xuân đã cạn ngày”


    Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày
    Bao giờ em mới gặp anh đây?
    Bao giờ chèo Ðặng đi ngang ngõ
    Ðể mẹ em rằng hát tối nay?

              




              
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Xuân Mậu Tuất - 2018

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           





    mẹ dạy
    ___________________________________


    • Dũng:
      • Cậu có hai con chó! Tặng tớ 1 con nhé!
      Trọng:
      • Cậu muốn con nào?
      Dũng:
      • Con trắng nhé!
      Trọng:
      • Không được! Con trắng tớ rất thích!
      Dũng:
      • Vậy thì con đen!
      Trọng:
      • Tớ cũng muốn tặng cho cậu nhưng mà mẹ tớ dạy: đừng tặng người khác những gì mà mình ko thích!
              

              
    .:lol2:
              
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Xuân Mậu Tuất - 2018

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          






Đón Xuân
Phạm đình Chương
____
Thái Thanh



          
Trả lời

Quay về “Chuyên đề”