Xuân Đinh Dậu

Trả lời
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Xuân Đinh Dậu

Bài viết bởi Hoàng Vân »

Last edited by Hoàng Vân on Thứ tư 18/01/17 20:09, edited 17 time in total.
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Xuân Đinh Dậu

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          


.. mời bạn cùng nghe một bài Xuân, hát đã lâu rồi nhưng năm nào cũng mang ra ..
.. :giggles: :flower: ..



Hình ảnh


[/audio]
Đám cưới đầu Xuân
Trần thiện Thanh .. Hoàng Vân . Bạch Vân




.. mời các bạn đã, hoặc chưa từng hát cho nhà Nam, tham gia ca hát mừng Xuân nhé .. :flwrhrts: ..
          

          
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Xuân Đinh Dậu

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          





          
Last edited by Hoàng Vân on Thứ hai 02/01/17 08:07, edited 1 time in total.
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5388
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: Xuân Đinh Dậu

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           


    Xuân Bất Tái Lai: Năm Ba Đã Tới






    Chữ rằng: Xuân bất tái lai
    (Bà Huyện Thanh Quan)


    “49 chưa qua, 53 đã tới”. Ông bà nhà mình túi khôn rủng rỉnh dậy dỗ con cháu đố có sai bao giờ.

    Thái hồi nhỏ có lần cắc cớ hỏi người chị, “Sao lại 49? Sao lại 53?”

    Đang dở dang với nồi cơm nấu củi ướt, nước mắt nước mũi chảy tèm lem vì khói, bà chị nhấm nhẳng mắng thằng bé mấy mắng,

    – Thì mày cứ 53 đi, biết liền…

    Đúng như lời phán của bà thần mồm miệng cà pháo mắm tôm, năm nay 53, Thái biết liền, biết tỏ tường, biết đứt đuôi con nòng nọc, biết mọc dài đuôi tôm!

    Khổ! Hôm đó, trời mùa hè Bắc Mỹ nóng hầm than hầm lửa. Lưỡi thiên hạ ai nấy thè dài thoòng loòng. Nóng! Nguyên cả bản đồ nước Mỹ đỏ choi chói như miếng thịt bò tươi roi rói. Nóng! Cứ thế sáng, trưa, chiều, tối, mở tung vòi sen nước lạnh! Ui chu choa! Mát đã đời con heo sữa nướng! Nóng! Lòng thầm bảo lòng, bớt ăn mặn nói sạo, thêm ăn chay cúng dường; nếu không, mai mốt chết rớt thẳng xuống địa ngục; lúc đó không chết vì nóng cũng thúi hẻo vì ngồi trên vỉ nướng than, thằng quỷ BBQ thịt mông mỡ cháy xèo xèo!… Nóng! Phòng họp Sở Xã Hội bật máy lạnh tầng số cao ốc. Nhưng chẳng hiểu quỷ buông ma vồ thế nào, đang rì rào thổi hơi lạnh ru mát hồn trần, AirCon bỗng khựng lại, hục hặc ho khan như dân ho lao thời kỳ mãn phần. Thở hắt dồn dập thêm được mấy hơi, AirCon quyết định nhắm mắt lại, chết thẳng cẳng!

    Máy Air-Con chết yểu! Thiên hạ quen ăn trắng mặc trơn hốt hoảng nhìn nhau. Không ai bảo ai, trần gian nhanh tay hất đẩy mở tung cửa sổ kính bóng lộn. Hơi nóng ẩm ướt bên ngoài ùa vào đè nặng chình chịch từng phân vuông mấy chục khuôn mặt cổ thắt cà vạt. Đang dở dang bài thuyết trình, Thái nhìn Xếp, thăm dò, chờ đợi quyết định chung thẩm. Quái lạ! Trời nóng! AirCon chết non! Nhưng mặt đỏ gấc (bia 33) của Xếp vẫn căng căng đôi mắt chăm chú nhìn biểu đồ những bà mẹ chửa hoang ghé vào văn phòng An Sinh Xã Hội tháng qua. Hiểu ý, Thái nuốt nước miếng, vuốt mồ hôi lấm tấm vầng trán, tay cầm bản thuyết trình quạt phe phẩy, tiếp tục nói…

    Mới được mấy dòng, chắc chưa quá năm phút, chuyện xảy ra. Thái tự nhiên xây xẩm mặt mày. Đầu óc quay cuồng xoay xoay cơn lốc! Sàn nhà xi măng cốt sắt bỗng dưng bập bềnh xanh xanh sóng nước! Thái như bị rắn độc mổ ngay bắp vế, nọc rắn xanh lè chạy thông thốc lên đầu tê liệt hóa toàn bộ hệ thần kinh. Lưỡi hồng đơ ra thẳng băng cán cuốc. Thái hốt hoảng nhìn đôi chân mềm nhũn chảy nhão sáp nến… Hai tay cuồn cuộn cơ bắp tập tạ tự nhiên mềm xèo sợi bún. Bài thuyết trình cầm trên tay rớt thẳng xuống nền nhà như lá thu chết vàng trên cành cây! Thái gượng lại, tính cúi xuống nhặt trang giấy nằm ngửa tênh hênh trên nền thảm đỏ. Nhưng sức lực sung mãn đã bốc hơi cạn đáy như ly bia cúng cô hồn đêm hè nghĩa trang nóng nực. Thái đủ tỉnh táo quyết định không cong người cúi xuống nhặt; chẳng phải tại sợ phô bày (mông) ra cho thiên hạ ngắm (muốn ngắm, cho ngắm) nhưng bởi biết mình sẽ ngã. Và nếu té lăn đùng trên sàn nhà, ghế Phó Văn phòng Sở Xã Hội hóa ra kiềng hai chân, lung lay, rồi té đổ cái rầm! Thế là xong!

    Nấp trong kẹt xó nhà cả ngàn năm nay, người lạ mặt lừng lững hiện ra. Bước thẳng tới, thiên hạ ngồi chễm chệ lên trên ghế da từng in hằn một bóng hình quen thuộc.

    Thảm họa! Thảm họa! Đại thảm họa!

    Gượng hết sức lực còn sót lại dưới đáy nồi phở, Thái bước đi thật chậm những bước chân tử tội tới ghế điện!… Bình thường mấy bước thảnh thơi rong chơi, nhưng giờ này hóa ra muôn trùng vạn dậm. Thiên hạ nổ tung con mắt xanh lè nhìn Phó Thái “dead man walking!” Trần gian hồi hộp chờ đợi giây phút “gà cồ cắt tiết” té gục trên sàn (như nữ ca sĩ thời danh Edith Piaf)… Nhưng không! Phó Thái lết được tới ghế. Thái ngồi xuống, vừa kịp đèn xe cấp cứu chớp sáng đỏ lòe mang thẳng vào phòng Cấp Cứu.

    oOo


    Không biết tại vắng vẻ khách hàng hay tại bệnh tình nghiêm trọng của “Thái nhân”, Bác sĩ phòng Cấp Cứu trực tiếp đo đo nhịp tim; tiện tay ngài hút luôn mấy ống máu đỏ đặc sền sệt tiết canh từ cánh tay Thái; hứng chí, đốc tờ gửi Thái sang phòng dò tìm cục máu đông. Cuối cùng ngài phán,

    Ủa!? Mọi sự bình thường! Nhưng sao lượng đường lại rớt xuống thấp quá nhỉ!?
    Thái trợn mắt, ngơ ngác nhìn ông đốc tờ đang đăm chiêu suy nghĩ như táo…“quân” mười năm chưa ra, như gái…“góa” ngồi cọc gỗ. Cuối cùng đốc tờ nghiêm mặt hỏi,

    Ông có chuyện gì căng thẳng hay không?
    Ơ hay! Con lạy ngài! Đời này thì làm sao mà né được căng thẳng, nhất là ở đất Bắc Mỹ. 7 ngày một tuần, ngày nào thiên hạ cũng cúi gầm mặt nhìn bùn đen, ai nấy hùng hục cày như trâu rừng điên. Cuối tháng lãnh lương, tưởng ôm được vào lòng nguyên vẹn đống tiền. Nhưng có mà! Tiền thuế trừ đầu trừ đuôi, thế là mất toi một mớ bạc cho Chú Sam. Thái thở dài, đất Mỹ, âm thịnh dương suy, con gái hiếm hoi như cây vàng. Thái (hên? thì cứ cho là hên đi) lấy được vợ (bạn thời trung học), đẻ được ba mặt con. Tưởng ăn đời ở kiếp! Ai dè, sáng sớm hôm đó, bừng con mắt dậy, cả hai nhìn nhau, ngáp, chán nhau! Hết tình hết nghĩa, vợ bỏ đi, để lại hai cái một đực cho ông chồng gà tồ; Thái một mình gà trống nuôi ba chú gà con!… Chuyện đời éo le ba năm rõ mười như thế, sao ngài đốc tờ lại hỏi một câu…khéo là vớ vẩn! Thái ôm miệng kể với con Thi,

    Nghe ông Bác sĩ hỏi, bố nghĩ chắc tại niềng răng… Ui chu choa! Giờ vẫn còn đau, đau căng căng cái đầu!
    Nghe Bố Thái tâm sự đời cô Lựu, không e dè kiêng nể, con Thi nhấm nhẳng phán ngay,

    Thì cũng tại bố! Ai bảo bố điệu! Khi không đi niềng răng…
    Thái thộn mặt quê một cục táo thối,

    “Ơ! Cái con quỷ!”
    Chữ nghĩa táo tợn đã lên tới đầu nhọn đỉnh lưỡi hồng hồng; dây cung căng cứng đã nhắm thẳng ngay đích. Nhưng Thái kịp nhịn, nuốt trôi cơn giận vào thẳng dạ dầy đang sôi sùng sục axít. Hãi quá! Cứ như vầy thì chẳng mấy chốc lại lở loét (cha nó cái) bao tử! Con với cái! Trứng khôn hơn rận! Tưởng mình nói ra tâm sự, nó mở miệng an ủi mấy câu. Ai ngờ quân này phản thùng! Con ranh!

    Cơ khổ! Cũng tại hôm đó, khám răng định kỳ, Nha sĩ ái ngại nhận xét,

    Ông bị hở lợi… Hàm dưới hở hang như nhà trống cửa. Gió thổi thông thốc, có ngày rụng hết nguyên hàm dưới.
    Hãi quá! Hèn chi gặp Bác sĩ (Nha sĩ) và Cha cụ, thiên hạ né thẳng cẳng. Bói ra ma, quét nhà ra rác. Cứ mỗi lần gặp hai văn phòng “Bác” và “Cha”, rác, chả biết ở đâu moi ra, nguyên một đống, đổ ngập sân chùa… Gặp Bác sĩ, đôi chân cứng cỏi mềm nhũn sáp ong, bởi cận ảnh quằn quại với thuốc men và xạ trị. Gặp Cha cụ, thiên hạ hãi hùng với viễn ảnh mai này chết đi, rớt xuống hỏa ngục, nóng! Cứ thế, trăm lần là cả trăm, bước ra khỏi hai Nhà, Nhà Thương và Nhà Thờ, trần gian lạnh teo…lại, thế là rớt xuống, xìu không kịp bóp thắng!

    Giờ Thái bị Nha sĩ dọa với cận ảnh vừa móm vừa rụng. Cơ khổ! “Cái răng cái tóc là góc con người”. Liếc chung quanh, phòng vệ sinh nam không có ai, Thái len lén nhìn vào gương! Ơi, sói sọi! Gia tài cha mẹ để lại vớt vát được cái hàm răng. Giờ nguyên hàng tiền đạo hàm dưới mà bị đốn gục thì thật là ôi thôi! Đờn phồn hoa cũng là đời bỏ đi.

    Thái nghe lời Nha sĩ niềng sắt hàm dưới, đóng lại những khoảng trống gió thổi tung bay. Tiện tay, cô ấy niềng sắt luôn hàm trên… Vậy là xong. Hàm răng mới, tương lai mới, cơn đau mới! Ở tuổi 53 người đàn ông niềng răng, nhe ra hai hàm răng thiếc như sát thủ Terminator (“I’ll be back!”). Niềng xong, tối hôm đó, người ngây ngây sốt. Nguyên ngày hôm sau, thân nhiệt cao ngất ngưởng tòa nhà. Ui chu choa, “Thứ nhất đau mắt, thứ nhì rắt răng!” Nguyên hai tuần đầu, hàm răng hành tội “Thái nhân”. Hết ngày dài lại tới đêm thâu, chân răng âm thầm chuyển động theo chiều kéo của sợi dây nhựa. Thái ăn không nổi! Hút cháo từng muỗng như người dở hơi! Thiên hạ trong quán cafeteria của Sở trăm người như một cộ mắt nhìn Phó phòng,

    Ủa! Sao lại húp cháo như bà đẻ vậy? Đau hả?
    Thái cộ mắt ốc nhồi nhìn người lỡ miệng. Tư tưởng ô uế cứ thế chạy rần rần trong mạch máu, Thái cự nự rộn ràng trong đầu, “Chỉ được cái tinh vi! Mắt để đâu? Sao không nhìn?”

    Tối hôm đó, đang ngồi nhai cơm, Thái bỗng nghe cái cạch! Tưởng mình nhai dính hạt sạn, Thái nhè ra coi. Ai dè, nguyên một hột sắt của hàm thiếc bị bung ra. Cơ khổ! Đây là hột sắt nằm ở vị trí cuối cùng của hàm thiếc. Rụng hột cuối, đầu sắc nhọn chìa ra, nhắm thẳng thịt da…đâm nát bét!!! Tàn đời cô Lựu! Thái vật vã cả đêm như người ngậm kim chích trong miệng. Sáng dậy Thái hốt hoảng gọi văn phòng Nha sĩ, hai tay trình hột sắt, “con nhờ bà lớn cứu con!” Cứ thế Thái ngồi ăn cơm, nhưng bụng đánh lô tô rộn ràng bởi sợ hột sắt khác rớt ra… Vãi tội!

    Mấy ngày hôm sau, họp, trời nóng, máy AirCon đứt ngang đường tơ, Thái gặp sự cố! Hên, bà độ, chưa té!

    oOo


    Từ giây phút suýt ngã bổ ngửa trong sở, Thái bỗng như người cám lợn dở hơi, sáng trưa chiều tối, đầu óc choáng váng quay cuồng không thật tính người. Đêm khuya, chẳng ai bắt vạ cáo gian nhưng bụng dạ hồi hộp như người thiếu thuế ngong ngóng đợi chờ giây phút Lý trưởng sai lính đóng gông kéo vào sân đình. Ăn trưa, Thái húp tô phở tái hành trần mà tưởng như đang nhai cháo loãng không thịt không hành. Chả hiểu sao, Thái giờ bước những bước chân khập khiễng như người bị ma nhập; như cây nến hồi hộp đợi chờ giây phút lửa đốt “đuôi”, thân nến nhũn chảy hóa sáp, thế là té nhào! Thái giờ thở khò khè như người bị đẩy vào lò hơi ngạt!

    Bình thường Thái mê tít thò lò khi được đi phi cơ, nhất là những chuyến bay quốc tế có phi hành đoàn trẻ măng mặc quốc phục đẹp như thiên thần chạy tới chạy lui phát cơm thịt gà rót rượu đỏ mời khách ngồi ghế hạng nhất. Thế đấy, Thái giờ này ngột ngạt hai buồng ngực khi bị đẩy vào phi cơ Boeing 747 Cathay Pacific. Một mình một ghế da rộng rãi thênh thang First Class, nhưng Thái ướt đẫm mồ hôi, tưởng mình ngồi ghế điện! Khi cửa phi cơ đóng lại, đèn khoang tàu tắt tối thui chuẩn bị cất cánh, Thái hồi hộp, thở dồn dập như sắp sửa bị chôn sống tập thể, như nắp áo quan từ từ đóng lại chôn lấp mấy trăm mạng người!!! Cứ thế Thái ngáp ngáp hớp lấy khí trời trong khoang tàu chật hẹp như cá mắc cạn! Chuyến bay dài 5 tiếng trở thành thảm họa! Thái nhấp nha nhấp nhổm chờ đợi giây phút phi cơ hạ cánh. Thiểu não ngước nhìn nhân viên phi hành đoàn mặc áo xường xám xinh đẹp đi tới đi lui, Thái thiếu điều muốn chắp hai tay, cúi đầu, mở miệng năn nỉ, “Bẩm bà! Xin bà cho con…xuống!” Tàn đời tướng cướp!

    Ông Bác sĩ tâm lý nghe Thái khai bệnh, hỏi ngay,

    Công việc trong Sở ra sao? Có căng thẳng lắm không?
    Thái lầm bầm trong miệng, lại áp lực căng thẳng trong đời… Nhìn Thái ngớ ngẩn như người hâm hâm cám lợn, đốc tờ e dè hỏi,

    Ông và vợ ông…quan hệ ra sao?
    Thái nhìn đốc tờ tâm lý! Không biết nên vui hay buồn! Vợ Thái bỏ đi cả mười năm rồi. Máu ghen trong lòng đã lạnh như chén cơm nguội để quên xó bếp nguyên cả đêm hè nóng nực. Cơm giờ thiu, hóa mắm, thiên hạ bịt mũi chạy xa trăm thước! Có mấy lần thấy bóng vợ cũ ngoài phố, Thái tự động né! Khỏi gặp, khỏi mất công chào hỏi. Giáng Sinh, diện bồ đồ kẻng nhất, xịt nước hoa CK, Thái chở con Thi, thằng Thiên và bé Thảo tới trước cửa nhà vợ. Bấm chuông kính koong kính koong, đợi vợ ra mở cửa, Thái cúi đầu hỏi han lịch sự căn bản mấy câu cho phải phép với vợ cũ, rồi bước ra xe, lái về nhà, vui chơi cuối tuần với bạn nhậu. Thái giờ không vướng bận, không tơ tưởng, không hờn ghen! Ghen làm gì cho nó rách việc! Thái nghĩ thầm trong bụng.

    Thấy Thái ngớ ngẩn không trả lời, ông đốc tờ phán một câu xanh lè máu mặt,

    Ông có dấu hiệu như người bị anxiety attack…
    Thái trợn mắt,

    Mama Mia… Anxiety attack?
    Ngoại trừ trong Sở bị bọn “xấu” rình rình cơ hội đâm lén sau lưng chiến sĩ, Thái vẫn tỉnh bơ ngồi ghế Phó phòng bởi biết mình làm được việc. Chưa kể Thái được điểm cao với Xếp… Anxiety attack, nếu có may ra thì hồi xưa cơ, khi vợ mới bỏ đi. Đêm khuya nằm ngủ chơ vơ một mình, Thái dại dột nhấc điện thoại gọi vợ, cầu may… Ai dè, đêm khuya thanh vắng, đầu giây bên kia tiếng người đàn ông giọng thở hổn hển như người hấp hối sinh thì! Nổi cơn ghen (Hoạn Thư), Thái hồi đó dự tính bịt mặt làm Ninja, đưa người tình về huyệt đất sâu (Cô cương, cho cô đi thăm bác sĩ Cường). Còn bây giờ, họa may Thái sợ con Thi khôn ba năm dại một giờ vác balô ngược, mang đứa cháu ngoại không bố về nhà, quẳng ra sàn nhà bắt ông ngoại nuôi! Con Thi tưởng hỏng; nhưng không, càng lớn càng ngoan. Con bé giờ học ra trường, y tá lương lậu cao ngất ngưởng. Cuối tuần con bé ở nhà nấu cơm, phụ bố dạy dỗ thằng Thiên và bé Thảo. Con Thi tự động phong quân hàm Đại tướng, quyền sinh quyền sát. Bà thần thường xuyên nhảy lên lưng voi “điều binh” thằng Thiên bé Thảo; hứng chí, có lần bà đãng trí ”khiển tướng” luôn cả Bố Thái. Hên, chưa lần nào bị Thái Thượng hoàng mắng cho mấy mắng. Thái chép miệng, đời hồng tươi roi rói như vậy, lấy cái quái gì ra để mà anxiety attack.

    Thái gõ cửa văn phòng khác, đốc tờ cũng lại rút máu đo đo đếm đếm hẳn hoi. Cuối cùng ngài phán,

    Độ sắt trong máu ông dư quá…
    Thái phản đối,

    Ơ hay! Ngài có nói quá lời hay không! Từ ngày vợ bỏ, tôi ăn chay trường. Thịt heo cũng không, thịt bò cũng từ. Lấy đâu ra mà dư thừa chất sắt!…
    Đốc tờ nhà mình chắc tối qua vợ không cho ngủ chung, nghe Thái phàn nàn, mở miệng mắng

    “Thái nhân” sa sả,

    Độ sắt dư trong máu là do di truyền. Nếu muốn cự, ông phải cự nự bố mẹ của ông thì đúng nhất.
    Thái ngỡ ngàng nhìn ngài đốc tờ,

    Di truyền trong máu! Hãi thế cơ!
    Không bỏ cuộc, Thái lại gõ cửa thêm một văn phòng khác. Hình như Bác sĩ trần gian có họ hàng với bá tước Dracula, đi tới đâu, hút máu thiên hạ tới đó. Gặp Thái, ngài đốc tờ lại rút máu. Đo đo đếm đếm, cuối cùng ngài phán, chữ nghĩa rõ ràng,

    Độ PSA của ông cao…
    Thái run run như chuột nhắt đứng trước mèo mun,

    Thưa ngài, ngài nói tiếng Việt hộ con. Độ PSA là cái gì vậy?
    Đốc tờ áo trắng lạnh lùng buông máy chém,

    Năm nay ông 53. Ông có vấn đề với prostate rồi…
    Ơi 53! 49 đã qua, 53 đã tới. Thái muốn chửi văng xích địa cho sướng miệng, kẻo không ấm ức con tì con vị, kiếp tới đầu thai không lọt. Nhưng chợt nhớ mình đang ở văn phòng đốc tờ, Thái không dám, yên lặng lắng nghe ngài đốc tờ vừa phán vừa tí toáy viết,

    Tôi viết giấy giới thiệu ông đi gặp Bác sĩ chuyên môn.
    Một tuần sau, Thái cắn răng dang rộng đôi chân, cúi người xuống trong tư thế người đàn ông nào trên cõi đời ô trọc này cũng muốn né, để ngón tay ông Bác sĩ chuyên môn nhuần nhuyễn đi sâu thăm thẳm vào tận bên trong… khám!

    Ơi vất vả! Ghét của nào, trời cho của ấy.

    oOo


    Tuổi 53, Thái tốn cả đống của bởi tiền thuốc men. Cổ tay bầm dập toàn vết kim đâm, hết ống máu này tới ống máu kia. Cứ thế, Thái lê la hết văn phòng này tới văn phòng đốc tờ khác. Thái hao bao nhiêu máu, làm bao nhiêu thử nghiệm, Bác sĩ vẫn lắc đầu kiếm không ra bệnh.

    Thái giờ gầy rạc mặt mày hốc hác xanh xao.

    Đau! Nhưng Thái vẫn phải cắp ô đi làm. Ngày nào cũng vậy, trong sở, Thái hồi hộp chờ đợi giây phút tái ngộ sự cố, Phó phòng té ngã lăn quay trên sàn sân khấu. Lần này có mà Trời cứu! Thái mệt nhoài mà vẫn phải dấu, chẳng dám nói với ai bởi sợ sẩy miệng mất ghế! Cái mệt cứ thế nhân lên gấp đôi! Về tới nhà, giây phút thật thà với chính mình, Thái thở dài, thả người rớt xuống giường. Thái mệt tựa cụ voi già lần đường ra nghĩa trang voi!

    Thái cay cú với đời bởi không biết mình mắc bệnh gì. Có những lúc nổi quạu, Thái nói độc địa, “Thà là bị ung thư gan, phèo, phổi. Bệnh chi cũng được. Ít ra còn biết để mà uống thuốc, chạy xạ trị!”

    Thái tức nền y khoa thượng thặng Bắc Mỹ không tìm ra nguyên nhân khiến Thái đèn cạn dầu. Chung cuộc, cả hai, y khoa vật lý cũng như y khoa tâm lý đầu hàng bó tay trước bệnh tình của “Thái nhân”.

    Thái thắc mắc, chẳng lẽ mình bi ma nhập!? Cũng dám lắm! Thái nhớ hồi xưa, ui chu choa, một thời lê la đầu đường xó chợ với đám bạn bè ăn chặn đồ cúng cô hồn ở nghĩa trang Đô Thành gần nhà! Thôi, đúng rồi. Giờ hồn ma hiện về đòi nắm xôi gấc! Nếu biết có ông thầy pháp nào ở gần nhà, Thái gõ cửa, cúng nguyên con gà trống thiến, nhờ thầy đuổi tà. Biết đâu!? May thầy phước ta!

    Không khí bình thường rộn ràng chợ trời trong nhà từ ngày Thái bệnh trầm lắng hẳn xuống. Con Thi biết Bố Thái ốm, tự động sắn tay áo, nhảy vào bếp nấu cơm. Từ hãng về tới nhà, Bố Thái bỏ lên giường nằm thẳng cẳng, mặt tươi hoa hướng dương giờ héo úa hoa cám lợn!

    Bình thường đi học về, thằng Thiên quẳng cặp trong phòng, phóng ra sân chơi bóng rổ với đám bạn. Thấy Bố Thái héo tàn dung nhan, thằng Thiên bỏ chơi bóng rổ, lấy dầu nóng Vicky, bóp chân cho Bố Thái, miệng hỏi, – Bố ơi, bố khỏe chưa?

    Bố Thái ngạc nhiên nhìn thằng con mê chơi thể thao,

    Ủa! Sao con không đi chơi bóng?
    Thằng Thiên nói như thần,

    Con bóp chân cho bố, bố khỏe, bố mở tiệm Phở Thái cuối tuần.
    Thái lại cự nự rộn ràng trong bụng,

    Mẹ bố mày! Lanh như quỷ! Khối đứa con gái lại khổ vì thằng này!
    Thằng Thiên giờ lớp 10, nhổ giò cao hơn bố, đối đáp lanh lợi không thua chi mẹ. Điện thoại cuối tuần nhắc lên, toàn là con gái gọi tên thằng Thiên. Gái Mỹ, gái Tàu, gái Việt, gái Mễ, gái Phi, thằng Thiên quen hết, đủ cả! Thái lo sợ vu vơ, hy vọng tử vi thằng này không có sao Đào Hoa. Kẻo không, tự nhiên Thái lên chức ông nội mấy chục đứa cháu quốc tế… Cơ khổ! Vãi tội! Biết thế hồi xưa đi tu quách cho xong. Giờ chả phải lo lắng chuyện vợ chuyện con. Ngày ngày sư Thái ngồi trên chùa, tụng vài chục trang kinh độ trì khắp cả năm châu thiên hạ!

    Nhưng mặc cho con Thi quán xuyến việc nhà, thằng Thiên chiều chiều bóp chân, Thái vẫn đêm đêm ác mộng buông cánh dơi đen chập chờn đôi mắt đỏ lửa. Cơm nhai trong miệng khô khốc giấy vụn! Bia lạnh ngọt lịm cần cổ giờ sao nước nguội, vị nhạt phèo phèo!

    Nằm trên giường nhìn qua khung cửa, Thái nhận ra trời xanh ngăn ngắt dịu dàng, đâu đây tiếng chim hót líu lo bình dị trên cành cây, tiếng chó sủa vu vơ nghe vui tai, tiếng mưa rơi lộp độp trên tàng lá xanh, tiếng sấm ầm ù từ xa vang dội một góc trời, tiếng côn trùng đêm khuya đều nhịp mời gọi bạn đời, tiếng hát trong trẻo của cô ca sĩ cất lên cao vút bài tình ca! Thái thở dài, nuối tiếc cuộc sống sung mãn thuả xưa. Khi xưa sức khỏe tràn trề, Thái chỉ nghĩ: chuyện đương nhiên! Không một lần Thái biết mở lời tạ ơn Trời Phật tặng ban sức khỏe tràn đầy trên đôi bàn tay! Hồi xưa mê tiền như mê gái, Thái cày chết bỏ! Tiền giấy ba số, một cọc, cầm no nê! Đếm! Sướng tê tê đầu ngón tay! Giờ chết đi, Thái chép miệng, chả mang theo được đồng bạc cắc nào xuống cõi âm phủ để mua tô cháo lòng heo ăn cho ấm dạ!

    Thái ứa nước mắt xót xa cho mình và cho cuộc đời. Vòng tròn sinh, bệnh, lão, tử, thiên hạ từ ngàn năm trước cho tới cả ngàn năm sau, chẳng ai thoát. Giờ mới thấm! Thái ước mơ sức khỏe của một thời!

    Thái đọc lời kinh nho nhỏ, “Xin cho con mọi sự bình thường”.

    Thái nghĩ, sinh ra trong đời, làm người bình thường, vững vàng đi đôi chân không trên mặt đất, thế là đủ, vậy là vui!

    Lần đầu tiên trong đời Thái nghĩ tới cái chết. Thần Chết của chung thiên hạ giờ này tự nhiên biến ra của riêng Thái. Lần đầu tiên trong đời Thái sờ được, sát cận mặt mũi và lưỡi hái sắc bén của Tử Thần. Đi tới đâu Thái cũng hốt hoảng nhận ra tà áo đen thấp thoáng ẩn trốn trong đám đông. Ngồi ăn trưa trong quán cafeteria của Sở, Thái giật mình nhận ra người thâu ngân viên cầm trên tay lưỡi hái Tử Thần. Thái dụi mắt, đứng dậy, tiến lại quầy móc bóp trả tiền, tiện miệng hỏi,

    Sao hôm nay người đẹp mặc áo đen tuyền vậy?
    Cô thâu ngân viên gốc Mễ vẫn thế, ngàn đời ánh mắt mở lớn sâu thăm thẳm nét đa tình. Nghe Thái hỏi, người đẹp chớp chớp đôi mắt tô đen đậm đặc nhìn thật quyến rũ,

    Bồ Việt Nam tặng quà sinh nhật tối hôm qua.
    À ra thế! Chúc mừng sinh nhật nhé.
    Cám ơn Thái nhé.
    Tiện thể người đẹp hỏi thăm hàm răng niềng sắt của Phó Thái,

    Bao giờ Nha sĩ gỡ bỏ hàm thiếc?
    Nhắc tới vết thương, Thái nổi quạu, tính ăn nói nhấm nhẳng. Nhưng chợt nhớ mình đang nói chuyện với người đẹp, ai lại bất lịch sự như thế! Thái cười cười nói cho xong chuyện,

    Cũng chả biết khi nào. Kỳ này dám chết chôn với hàm thiếc. Mai mốt thiên hạ đào mả, xương cốt mục hết, còn trơ ra hàm thiếc cho vào viện bảo tàng.
    Người đẹp nhăn nhăn mặt, mắng yêu Phó Thái,

    Nói bậy không à!
    Tan sở, Thái lái xe tới trường đón con gái. Thấy bóng Hùng Thái Vương, Mỵ Nương Thảo toe toét miệng cười, nhảy tưng tưng giơ tay đòi bế. Bố Thái rộn ràng bế cô con gái rượu vào lòng. Mặt bố sát mặt con, bé Thảo hôn bố chùn chụt,

    Bố ơi, Thảo thương Bố Thái quá.
    Bố Thái bẹo má con gái,

    Bé Thảo ơi, bố cũng thương bé Thảo quá. Bố thương bé Thảo như thương cục vàng.
    Bé Thảo trợn mắt,

    Bố ơi, sao lại thương cục vàng?
    Ừ nhỉ! Sao lại thương như thương cục vàng? Bố Thái gãi gãi tóc như trên đầu có nguyên quân đoàn chí rận đóng bốt,

    Ừ, thì…thì vàng có giá. Vàng mắc lắm con ơi.
    Bố Thái lanh miệng lãng sang chuyện khác,

    Bé Thảo đói không?
    Bé Thảo quên chuyện cục vàng, chu đôi môi hồng múi cam, nhõng nhẽo với Bố Thái,

    Bố ơi, con đói…
    Bố Thái ngó tiệm McDonald bên lề đường,

    Bố mua French fries nhé.
    Bé Thảo lắc đầu, điệu bộ cương quyết (y như mẹ nó), – Con thít ăn Phở.

    Bố Thái dụ khị con nít,

    OK! Bố con mình ghé vào tiệm Phở…
    Bé Thảo lắc đầu mấy vòng, chữ nghĩa rõ ràng,

    Con thít ăn Phở Thái cơ…
    Nắm áo Bố Thái, bé Thảo năn nỉ,

    Bố ơi, lâu rồi, sao bố không nấu Phở Thái nữa?
    Thái nhìn con gái, nước mắt muốn ứa ra!

    Bé Thảo ơi, gió độc thổi xuống, dính ngay bố, giờ bố gà toi rồi!!!

    Không biết có phải hồi đó tại bố ác, bố xù hồ sơ mấy chục bà mẹ chửa hoang gõ cửa Sở Xã Hội xin tiền an sinh. Giờ mới 53 tuổi, đèn dầu của bố bị trời phạt cạn láng dầu!

    Hay bởi hồi nhỏ nghịch ác, bố chuyên viên cầm ná bắn bách phát bách trúng, chết bao nhiêu chim sẻ, sóc nâu bay nhảy chuyền cành. Hồn chim hồn sóc bay cao lên tới điện Phật, đòi bố trả nghiệp!

    Hay bởi hồi đó bố ác, cậy cửa tủ, ăn cắp tiền ông bà nội. Tiền giấy Con Cọp 500 đồng cất trong hộp tự nhiên không cánh biến mất mấy tờ, ông bà nội Hoa Sơn Luận Kiếm, cãi nhau um xùm… Hên, ông nội không tung đệ nhất vũ phu chưởng trong khi giao chiến trên võ đài với bà nội!

    Hay tại hồi đó, cô bạn gái e thẹn đỏ hồng hồng khuôn mặt không chịu, nhưng bố ác, cứ hôn đại; cô ấy giận, khóc mòn cả đôi mắt tiên sắc lem lẻm.

    Bố ác! Bố bị Trời phạt! Bố giờ hết xí quách! Bố thở không ra! Bố mệt như người chết đói, cậy miệng đổ cháo nuốt cũng chả trôi. Chắc bố sẽ chết! Mấy bữa nữa thôi!

    Khi bố chết, bé Thảo ở với chị Thi với anh Thiên. Chiều chiều tan học bé Thảo đừng nheo nheo mắt kiếm tìm bóng dáng Bố Thái bên vệ đường nữa, chị Thi sẽ đến đón con; chị Thi sẽ hôn bé Thảo thay cho bố. Mai này sinh nhật mười tám tuổi trăng tròn, tuổi đẹp nhất đời con gái, ở trên thiên đàng, bố sẽ đốt nến cầu nguyện cho riêng cô con gái rượu của bố càng lớn càng thêm xinh đẹp, thêm một tuổi, thêm một khôn ngoan. Mai mốt bé Thảo tốt nghiệp ra trường, đừng khóc khi không có Bố Thái ôm hôn con chúc mừng cô Cử! Ngày con bước lên xe hoa, đội khăn voan cô dâu trắng toát, anh Thiên đại diện bố cầm tay con dẫn vào nhà thờ, bước lên cung thánh. Nhớ đừng quên, khi nào thấy gió thổi hây hây bên đôi má hồng, bé Thảo biết Bố Thái hiện về hôn cô con gái rượu. oOo

    Nghe lời đề nghị của Bác sĩ tâm lý, Thái tập thiền.

    Thái hít vào, hít thật sâu, hít thật dài khí trời thơm tho vào hai buồng phổi hồng hồng tươi.

    Thái thở ra, thở nhẹ, thở chậm từng hơi ra ngoài cửa miệng.

    Thái thở vào bầu không khí trong lành, tẩy sạch độc tố tô đen hai buồng phổi, trái tim, gan và ruột.

    Thái thở đẩy ra hơi thở đậm đen độc tố trong người và trong hồn.

    Hít vào hạnh phúc! Thở ra ưu phiền!

    Bây giờ hạnh phúc.

    Hiện tại thiên đàng.

    Thiệt đúng là số con trâu sinh ban ngày, vừa mới hít vào thở ra được mấy cú, tiếng hét con Thi từ trong nhà bếp thông thốc chạy thẳng vào đôi tai thiền Thái sư,

    Bố ơi, bố quên mua chai nước mắm Hai Con Cua rồi…
    Thái mở mắt ra, bụng tức anh ách! Mẹ bố mày, nước mắm Con Cua với nước tương Con Tép! Thiền không xong, bệnh tật rề rề, bố mày mất việc, cho mày trắng mắt ma!

    Hôm qua, Xếp ghé vào văn phòng Phó Thái,

    Gần cuối năm rồi, sao không
    lấy mấy ngày nghỉ đi…

    Phó Thái ấp úng, không biết Trưởng Phòng muốn nhắn nhủ điều gì. Thái gà toi, cả và thiên hạ chẳng ai biết, ngoại trừ con Thi và thằng Thiên. Toi thì toi, Thái vẫn không quên đề cao cảnh giác địch quân vẫn đang rình rình cơ hội xé rào, đánh úp, mở lớn mặt trận Hạ Lào 72, Cổ thành Quảng Trị. Có lần con Thi gà tồ (như bố) viết lên FaceBook, “Bố đau! No time for boy friend!” Bà thần! Hãi quá! Hên, Thái phát giác ra kịp thời kho rác trên trang mạng lẩu thập cẩm FaceBook. Thái giận, mắng con bé mấy mắng,

    Chuyện Bố Thái nuốt giây thung là chuyện nhà mình! Không được tung hê, bê chuyện nhà lên trang Face…
    Lần đầu tiên trong đời Đại tướng Thi thấy Thái Thượng hoàng tím mặt, buông lời mắng mỏ không tiếc lời. Biết tội nặng đáng bị đày đi hoang đảo, An Tiêm đời mới mở miệng xin lỗi, xóa ngay hàng chữ, “Bố đau…”.

    Thái gà toi, nhưng vẫn vừa đủ sức làm mặt lạnh. Ngày ngày vẫn cắp ô đi làm, miệng vẫn huýt sáo như chả có chuyện gì. Hakuna Matata! Thái quần tây ủi láng o, cổ thắt cà vạt, chân đôi giầy da. No worries! Giờ thuyết trình, Phó Thái vẫn hiên ngang đứng lên, ăn nói sang sảng, mặc dầu trong bụng vẫn hãi, chờ đợi giây phút gió độc thổi tới quật ngã!…

    Bởi Thái khéo dấu, Trưởng phòng mặt đỏ trái gấc chả biết chuyện Phó phòng nuốt phải giây thung già hơn nửa năm rồi.

    Thái cuối cùng ậm ừ nửa cho xong chuyện nửa muốn câu giờ,

    – Cám ơn Xếp! Thì cũng đang nghĩ ngợi. Đợi mấy đứa nhỏ nghỉ lễ, lúc đó lấy thêm mấy ngày nghỉ cho tiện…

    oOo


    Mấy hôm trước, đốc tờ tâm lý bốc cho thang thuốc chống trầm cảm. Uống vào, lục dục trần gian, hỉ, nộ, sân, si, ái, ố chả hiểu sao tự nhiên bốc hơi tan loãng vào trong thinh không. Lần đầu tiên trong đời, Thái không giận mà cũng chẳng hờn. Thiên hạ có bóp còi mắng thằng bé sa sả ngoài đường, Thái cũng chẳng phiền hà, cứ như người đã ngộ, vô sắc vô tướng, nơi đâu cũng là thần tiên cảnh. Lần đầu tiên trong đời đàn ông, Thái nhìn phụ nữ mà tâm lặng biển êm, cứ tưởng như đã…cắt cụt, giờ hóa ra nguyên vẹn hình hài Thái giám. Si! Ái! Ố! Cả ba giơ tay chào vĩnh biệt chủ nhân.

    Thái kể chuyện với cô bạn Bác sĩ,

    Giờ có mà cũng như không… Chẳng cảm giác! Chẳng đòi hỏi! Cứ như chết khô mốc meo mười đời trái mướp mới nhú dài gần gang tay!
    Cô bạn lắng nghe Thái kể

    chuyện tuổi 53, cười hóm hỉnh,

    Khéo ví von nhỉ! Ông cholesterol bình thường chứ?
    Thái gật,

    Đo đạc hẳn hoi rồi. Bao nhiêu phòng mạch là bấy nhiêu lần bị hút máu. Có bác sĩ nào nói cholesterol đâu.
    Cũng không tiểu đường?
    Thái lại lắc, – Không!

    Thái bồi thêm một câu cho xong phần thủ tục hồ sơ bệnh lý,

    Không tim, gan, phèo, phổi. Mọi sự bình thường.
    Thái nói nho nhỏ,

    Prostate thì có hơi sưng sưng… Nhưng đã đi khám…cúi xuống, dang ra, kiểu khám cổ điển đấy mà. Nhưng cũng chẳng thấy chi. Cô bạn nhíu mày, – Còn vụ anxiety attack?
    Thái chỉ ngón tay trỏ vào miệng,

    Thiệt tình! Không có cái dại nào bằng cái dại này. Tự nhiên đi niềng hai hàm răng. Hồi xưa mơ làm Ninja, giờ thành sát thủ Terminator thứ thật. Hồi mới niềng, hai hàm răng, ui chu choa, nó hành, ngày cũng như đêm. Nhưng cũng gần năm rồi. Khổ riết hóa quen. Giờ gỡ ra, dám lại nhớ da diết hàm răng sắt.
    Cô bạn chống cằm, – Ông 53 rồi phải không!

    Thái gật đầu. Cô bạn gật gù,

    Mai ông ghé vào văn phòng tôi đi…
    Nghe nói tới văn phòng bác sĩ, Thái xìu, mặt Thái dài như trái cà dái dê,

    Để làm gì?
    Cô bạn nhìn đồng hồ,

    Tới giờ phải đi rồi. Nhớ đấy, buổi sáng, trước 9 giờ. Tôi cho khám nghiệm máu!
    Lại khám nghiệm máu! Nhớ tới ống kim chích sắc nhọn đâm thẳng vào da, máu đỏ phun ra có vòi, Thái uể oải đứng dậy,

    Vẽ chuyện! Bói ra ma, quét nhà ra rác. Cơ khổ! Lại mất một đống máu tươi.
    oOo

    Tay cầm chai dầu nóng Vicky, thằng Thiên gõ cửa phòng Bố Thái,

    Bố ơi…
    Thằng Thiên đẩy cánh cửa, phòng Bố Thái tối om. Thằng Thiên bật công tắc đèn. Giường Bố Thái nệm trải thẳng băng không một nếp nhăn. Thằng Thiên ngạc nhiên nhìn vào phòng tắm, phòng trống trơn. Ủa, Bố đâu rồi? Thằng Thiên hỉnh hỉnh hai lỗ mũi. Mùi gừng thơm phưng phức ở đâu xông vào thông thốc. Mùi gừng quen thuộc lâu lắm rồi không ngửi thấy, giờ này ngập tràn căn phòng Bố Thái. Thằng Thiên bước ra cửa, nhìn xuống nhà bếp. Ánh đèn rực rỡ bật sáng chưng một góc nhà. Thằng Thiên chạy xuống vừa kịp nhận ra bé Thảo đang ngồi trên bàn ăn, tay cầm đùi gà chấm muối tiêu ăn ngon lành. Cạnh đó Thái đang dậy con Thi học nấu Phở Thái.

    Thằng Thiên trợn mắt, ngỡ ngàng nhìn bố!

    Lâu lắm rồi Bố Thái đau, không xuống bếp. Một tay con Thi quyền sinh quyền sát. Sợ oai Đại tướng Thi, Binh nhì Thiên ngậm bồ hòn, không dám hó hé. Con Thi “bắt ăn rau, phải ăn rau; cho tôm, mới được đỏ au tôm hùm”. Có một lần, thằng Thiên dại miệng đòi ăn Phở Thái, con Thi mắng ngay,

    Ra tiệm mà ăn… Tao không biết nấu. Đừng có giở quẻ!
    Thằng Thiên xịu mặt! Nhưng ngán bà chị, thằng con trai râu quai nón mọc xanh xanh quai hàm yên lặng ngồi nhai cơm trắng với cá kho tộ. Lâu lâu thằng Thiên còn phải quay sang gỡ xương cá cho bé Thảo. Con bé mà hóc xương, thằng Thiên mệt cầm canh với con Thi.

    Giờ thấy bố xuống bếp, đứng nấu Phở Thái. Thằng Thiên vui như Tết! Nó chạy tới, nhắc bổng em gái lên trời, xoay xoay con bé mấy vòng,

    Ơi, vui quá! Bố nấu phở Thái. Bé Thảo thích không?
    Bé Thảo cười toe toe,

    Bé thít. Anh Thiên thít Phở Thái không?
    Đại Tướng Thi quay sang Binh nhì Thiên, chỉ tay năm ngón,

    Bố dậy nấu phở… Mi dọn bàn cơm đi.
    Bố Thái nhắc nhở con gái,

    Sao lại ăn nói trống không thiếu thốn chữ nghĩa như thế?
    Con Thi cười nho nhỏ, lập lại lệnh truyền, lần này đầy đủ vốn liếng,

    Bố dậy chị nấu phở. Thiên dọn bàn cơm ăn tối cho chị được không?
    Thằng Thiên hỏi Bố Thái,

    Bố ơi, nhà mình khuya nay có đón Giao Thừa không bố?
    Bố Thái nếm thử nước Phở Thái,

    Nước súp ngọt xương gà! Ngon quá! Con nói cái gì? À! Thì bố đang nấu Phở Thái đây nè. Cúng ông bà giờ Giao Thừa xong, bố con mình tưng bừng tái khai trương tiệm Phở Thái ngày đầu năm.
    Thằng Thiên cầm hai tay bé Thảo đập đập vào nhau,

    Hoan hô Bố Thái! Hoan hô Phở Thái! Hoan hô Giao Thừa! oOo
    Đọc bản xét nghiệm của phòng Lab gửi tới, cô bạn nói ngay,

    Tôi đoán không sai. Năm nay ông 53 tuổi rồi. Độ Testosterone của ông rớt xuống te tua. Nhìn kỹ đi. Ba mặt một nhời.
    Thái cộ mắt hằn thêm sâu mấy đường trên vầng trán bướng,

    Bà thần. Có tôi với bà mà thôi. Ở đâu chui ra ba mặt một nhời. Mà bà nói tiếng Việt hộ cho tôi nhờ. Testosterone là cái quái gì vậy? Cô bạn nhẩn nha giải thích,
    Đàn bà khi người ta có tháng, hoặc chuẩn bị…tịt, hết trứng, hormone trong người thay đổi. Tính khí nắng mưa bất thường… Ông ba mặt con, ông rành rẽ chuyện này rồi!
    Cô bạn cười cười, nửa đùa nửa thật,

    Hên cho ông, phu nhân nửa đường bước sang ngang; ông không có kinh nghiệm với đàn bà…tịt. Khi đàn bà tịt, tâm lý, thể lý, sinh lý, tất cả xáo trộn, lộn tùng phèo. Gặp họ, nhớ tránh xa ba bước.
    Cô bạn chỉ vào bản xét nghiệm,

    Đàn ông cũng vậy, khi có tí tuổi, male hormone cũng nhấp nhô lên xuống bất thường. Khi testosterone level trồi sụt, mấy ông tha hồ mà nóng lạnh, tính khí hâm hâm như người cám lợn dở hơi. Có ông bị nặng, liệt giường liệt chiếu một khoảng thời gian. Có người như ông…
    Cô bạn Bác sĩ cười tủm tỉm, hóm hỉnh nói tiếp,

    Tự nhiên trở nên Thái giám… Có mà như không có! Nhìn mà cũng chẳng cảm thấy chi… Tịt…
    Thái trợn mắt, kinh ngạc,

    Are you serious? Kính thưa vị Bác sĩ yêu mến… Tôi có bao giờ nghe đám đàn ông tụ tập chung quanh bàn nhậu bù khú tào lao chuyện trồi sụt testosterone! Ngài không nói giỡn chơi đấy chứ?
    Cô bạn đứng dậy bỏ đi, không quên mắng Thái mấy mắng,

    Mấy ông chỉ được cái sĩ diện hão! Chuyện trên trời dưới đất thì ra vẻ ta đây biết hết, um xùm tranh cãi. Còn chuyện cận ngay trước mắt, toòng teng treo ngay trong người thì chẳng bao giờ dám bàn với nhau. Rõ là khổ cánh đàn ông!
    Bước ra khỏi cửa văn phòng cô bạn Bác sĩ, Thái bước đi những bước chân thêng thang với trời mới đất mới. Cỏ xanh! Trời xanh! Hồn trần trong xanh gạn bỏ những ưu phiền của tuổi 53, tuổi độc!

    Thái nhìn Obama, vị tổng thống da đen đầu tiên của nước Mỹ, ông thần năm nay cũng 53, tuổi độc. Không biết đệ nhất phu nhân Michelle đối phó ra sao với vị lang quân vào những giây phút male hormone của vị tông tông trồi sụt bất thường. Hèn chi năm nay ngài hăng tiết canh vịt quá. Chiến trường Syria, Bắc Iraq, ngài với liên quân đồng minh thả bom tưng bừng!

    Chuông đồng hồ gõ nhịp 12 tiếng. Giờ Giao Thừa linh thiêng của dân tộc đã đến. Trời đêm Ba Mươi Cali tối đen đậm đặc. Thái đốt nhang cúi đầu kính mời ông bà về trần gian ăn Tết với con cháu. Thái xin ơn trời đổ xuống phù hộ, tuổi 53 tuổi độc mau chóng đi qua. Bố Thái quay nhìn ba chị em con Thi, thằng Thiên và bé Thảo khăn đống áo dài gọn gàng chỉnh tề đứng ngay sau. Con Thi nhanh miệng chúc tuổi Bố Thái,

    Năm mới, tụi con chúc bố sức khỏe dồi dào.
    Thằng Thiên vòng hai tay, cúi đầu, chúc Bố Thái,

    Con chúc bố…Phở Thái muôn năm!
    Bé Thảo mặt hồng hồng tươi, cười toét miệng, nói theo anh,

    Phở Thái muôn năm! Bố Thái muôn năm!
    Bên ngoài tiếng pháo Giao Thừa vẫn đang nổ ròn tan một góc khu chợ Việt. Xuân về!

    Nguyễn Trung Tây


    Nguồn: http://danchuaucchau.org


              
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Xuân Đinh Dậu

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          



Xuân thiên
______________________
Khuyết danh

          

Vuờn hoa rắc gấm;
Rặng liễu buông mành.
Phấp phới bướm bay trước gió;
Nỉ non chim hót đầu cành.
Giang sơn mở mặt tươi cười,
trời mây êm tạnh;
Tạo hóa ra tay tô điểm,
nụ thắm màu xanh.

Mới ngày nào thu ủ đông sầu,
sương sa như bạc,
lá rụng như vàng,
chiều tịch mịch vừa trêu vừa gợi;
Mà nay đã trời tươi đất tỉnh,
núi vẽ ra mày,
hoa cười ra miệng,
cảnh xuân thiều càng ngắm càng xinh.


          

          
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Xuân Đinh Dậu

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          


Xuân đến nhà Nam, thủy tiên ai đó khoe hương sắc ?
.. mời bạn cùng vui chơi xướng họa .. :wink2: :flwrhrts: ..

          
Last edited by Hoàng Vân on Thứ hai 02/01/17 09:07, edited 1 time in total.
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Xuân Đinh Dậu

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  • Mưa Xuân
    ________________________







    Hôm ngồi chơi cờ ở Câu lạc bộ Người Cao Tuổi, trong sự rì rào của mọi người chung quanh, cái tên "bà cụ Quất" bỗng lọt vào tai ông Hưng một cách tình cờ, nhưng chợt nó sáng loè lên trong đầu óc của ông như sựt thức tỉnh sau một cơn mơ dài.

    Cái tên gợi lại cho ông cả một thời son trẻ xa xưa mà trong suốt bao nhiêu năm lăn lộn trong cuộc sống, chưa một lần nó làm ông bận tâm tới. Đất nước ngổn ngang, công tác bộn bề cả trăm thứ việc, đó là lý do mà ông có thể nhẹ nhàng rũ bỏ mọi thứ tình cảm lấn quấn riêng tư, kể cả cái khung trời xưa cũ, nơi mà ông đã từng gửi gấm biết bao nhiêu tâm tình cũng như những sôi sục nhiệt huyết của lớp tuổi thanh niên trong thời kỳ tiền cách mạng.

    Ngay chiều hôm ấy ở Câu lạc bộ trở về, ông nói với người con trai :
    • - Thôi, bố không đi Mai Châu ăn tết Mường nữa đâu. Cả nhà cứ đi theo kế hoạch đi.

    Người con nhìn ông hơi một thoáng kinh ngạc, nhưng rồi cũng nhún vai:
    • - Tuỳ bố thôi. Để con bảo chúng nó sắp sẵn xe riêng cho bố.. Mà bố định đi đâu ?

    Ông Hưng giọng quả quyết :
    • - Tao về Canh-Diễn !

    Con trai ông, một Vụ trưởng còn đang tại chức, chợt "à" lên một tiếng rồi cất giọng hơi có vẻ châm biếm:
    • - Ôi dà, tưởng bố đòi sang Tây sang Mỹ gì, chứ về cái nơi đó thì có gì mà vui, toàn những xóm làng nhếch nháp.

    Rồi hắn nhún vai:
    • - Nhưng bố thích thì cứ việc !

    Thế là vào những ngày cận Tết, ông Hưng leo lên chiếc xe bóng lộn do người con trai sắp xếp, với nhiều món quà lỉnh kỉnh mang theo.
    Tay tài xế là một cậu khá trẻ, ăn bận bảnh bao, mồm miệng nhanh nhẩu, cử chỉ nhậm lẹ, rõ ra là một người tháo vát. Ông Hưng hỏi :
    • - Cậu có chắc là xe hơi về tới tận cổng làng không ?
      - Ôi, cái chỗ đó con đi mấy lần rồi, ông đừng lo. Đường xá bây giờ mở rộng, nhựa trải phẳng lì.

    Như sợ cậu tài chưa hiểu cái chỗ mình sẽ tới, ông cố gặng thêm:
    • - Cái đó thì tôi cũng biết rồi. Nhưng nhựa chỉ trải trên con đường tới Nhổn thôi. Còn mình phải đi sâu nữa....
      - Con biết chứ ! Ở đây mình qua cầu Diễn rồi vào ngã tư Nhổn. Từ ngã tư Nhổn mình rẽ vào con đường đi Canh, đi Sấu, đi Giá theo ngả con đê Phùng chứ gì !

    Mặt ông Hưng rạng rỡ hẳn lên khi thấy cái sự thông thuộc đường đi nước bước của chú tài. Ông đáp với giọng thoả mãn :
    • - Ừ, đúng đấy. Ai mà ngờ nhiều con đường tí teo thế mà bây giờ lại trải cả nhựa để cho ô tô đi. Mà chẳng biết cái chợ Đìa ấy bây giờ còn không ?

    Cậu tài hơi nhỉnh mặt lên muốn như chế giễu cái sự lạc hậu của ông, rồi cậu vừa liếc ông qua kính chiếu hậu vừa trả lời :
    • - Chợ dẹp rồi, ông ơi. Bây giờ nó biến thành cái phố nhỏ, người ta xây cất nhà cửa tràn lan khắp mọi chỗ rồi.

    Lòng ông Hưng bỗng thoáng một nét buồn, đồng thời hình ảnh của ngôi chợ cũ ngày xưa bỗng hiện rõ lên trong trí nhớ. Ngày đó, bốn bề là đồng không mông quạnh, gió lồng lộng thổi qua những căn lều lụp sụp, vách thưa, mái xô lệch mà ở đấy, quanh năm, dân làng tụ họp để mua bán, đổi chác những bó rau, những lon gạo, những giỏ tép, những trái cây mới hái xuống từ các vườn cây quanh nhà. Ngôi chợ trở nên ồn ào nhất là vào những dịp giáp tết mà hình ảnh của nó càng trở nên sống động hơn trong trí nhớ của ông qua những câu thơ của Đoàn văn Cừ mà đã có thời gian ông thuộc nằm lòng :

    • Bà cụ lão bán hàng bên miếu cổ
      Nước thời gian gội tóc trắng phau phau
      Chú hoa man đầu chít chiếc khăn nâu
      Ngồi xếp lại đống vàng trên mặt chiếu
      Áo cụ Lý bị người quen sấn kéo
      Khăn trên đầu đang chít cũng tung ra
      Lũ trẻ con mải ngắm bức tranh gà
      Quên cả chị bên đường đang đứng gọi....


    Bây giờ, chiếc xe hơi chở ông Hưng đang lăn qua khu chợ ấy. Chú tài xế quơ tay ra ngoài kính xe :
    • - Chợ Đìa là đây. Ông thấy còn có cái gì dính dấp với ngày xưa không ?

    Ông Hưng nhìn ra lòng không khỏi bàng hoàng khi thấy hai bên mặt đường, nhà cửa đã cất lên san sát, cái đã lên tầng, cái còn mái tôn, cái thụt vào, cái chìa ra với những hàng hiên bầy bán đủ loại hàng hoá : có nhà bán than, có nhà bán gạo, có nhà bán xi măng, lại cũng có nhà chất từng dẫy những bình ga đun bếp. Rồi quán cà phê, quán cơm phở, quán cho thuê băng hình, quán hát karaôkê, mọi thứ cứ xen kẽ mà mọc liên tiếp nhau trên một chặng đường dài.

    Người xưa, cảnh cũ đã tan biến vào dĩ vãng ! Ông Hưng mệt mỏi quay mặt vào trong xe và ngả hẳn người xuống lưng ghế, hai mắt nhắm nghiền như để xua đuổi những hình ảnh vừa hiện ra trước mắt.




    ***

    Ông muốn níu kéo lại ngày xưa ! Cái ngày mà ở nơi chốn làng quê hẻo lánh này tưởng nó cách xa hẳn với đời sống bên ngoài, với những con đường nhỏ luồn lách qua những bụi tre vang tiếng kẽo kẹt theo gió, chui qua cái cổng làng xây gạch để đi vào từng con ngõ nhỏ có những mái nhà tranh nằm im lìm dưới bóng mát của những cây ổi, cây hồng bì, cây na, cây nhãn hay những giàn mướp, giàn thiên lý đang trổ hoa. Con đường làng nhiều chỗ đã được lát gạch dẫn qua nhiều ngả ngóc ngách có những chiếc cầu tre bắc qua từng mương nước mà vào buổi trưa hè với cái nóng nung nấu, không gian im ắng đến có thể nghe thấy tiếng cá quẫy nước trong bờ mương hay tiếng những chim vành khuyên vỗ cánh bay qua đám hoa lựu đỏ lừ. Rồi khi chiều xuống, lúc ánh trăng chưa lên khỏi ngọn cau đã thấy đom đóm lập loè từng đàn, từng tốp bay trên những lùm cây đang yên ả trong vườn. Trẻ con người lớn kéo hết ra sân, trải chiếu ngồi đón gió, ngắm trăng. Trên tầng cao, bầu trời trong vắt không một dải mây có những vì sao mọc lên nom long lanh ướt làm lũ nhỏ chen nhau nằm ngửa, ngước mắt lên trời để thi nhau đếm:
    • - Một ông sao sáng, hai ông sáng sao, ba ông sao sáng….
      (cứ thế mãi cho đến lúc mỏi mồm).

    Trong khi ấy, lửa trong gian nhà bếp đun rơm vẫn bập bùng cháy dưới những nồi khoai lang luộc mà khi khoai chín tới, một mùi thơm lừng theo khói bếp lan toả ra tận ngoài sân, làm cho mấy bát cơm lùa chung với cà muối và rau muống chấm tương vừa ăn hồi chiều đã tiêu ngót ngay đi để dạ dầy sẵn sàng đón nhận những củ khoai nghệ sẽ được bưng ra trong cái rổ con còn nghi ngút khói.

    Cái đồng quê êm ả ấy, riêng ở chốn này, vào cái thời ông Hưng còn trai trẻ, thế mà cũng đã từng chứng kiến biết bao nhiêu những hoạt động hào hứng, sôi nổi của đám thanh niên nam nữ ở cả địa phương cũng như ở trên tỉnh mò về.

    Họ rủ nhau hoạt động cách mạng !

    Khi Phong trào Truyền bá Quốc ngữ nở rộ ra tại nhiều nơi, thì cũng chính ở đây, Hưng và nhiều bạn bè đồng lứa tuổi, những thanh niên tràn đầy nhựa sống và dạt dào lòng yêu nước, cũng đã mở ra rất nhiều lớp xoá nạn mù chữ cho mọi người. Đồng quê, xóm làng ngày nào, chỗ nào cũng vang lên những câu hát :
    • i tờ (t) giống móc cả hai
      i ngắn có chấm, tờ (t) dài có ngang...
      O tròn như qủa trứng gà
      Ô thì đội mũ, Ơ là thêm râu....

    Lý tưởng giải phóng đất nước khỏi ách thực dân, đem lại cho mọi người một đời sống ấm no, hạnh phúc như một thôi thúc mãnh liệt thúc đẩy toàn đám thanh niên nam nữ trong làng nhất tề kéo nhau tham gia đủ mọi thứ sinh hoạt : truyền bá quốc ngữ, học múa võ xuống bình tấn, đinh tấn hay múa bài Mai Hoa Quyền, tập bắn súng gỗ , ném lựu đạn giả, tập đánh trận giả qua những lùm cây bụi cỏ hay quanh những bờ ao, bờ chuôm. Thậm chí có người còn muốn học cả Anh văn để có thể hiểu được những câu khẩu hiệu bằng Anh ngữ : Vietnam to the Vietnamese mà lũ nhỏ đã diễn dịch nôm na là Việt nam to thế Việt nam mẹ sề !

    Và hàng đêm những tiếng hát cũng ở đâu đó vang lên :
    • Anh em trong đoàn quân du kích
      cùng vác súng lên nào
      Đi lên ! Đi lên !
      Xuyên qua rừng qua núi
      Qua mây mù đêm tối
      Vượt suối băng ngàn.....

    Rồi có những bài hát rất kích động lòng người như bài "Người Việt Nam Xin Đừng Quên" :
    • Người Việt Nam xin đừng quên
      Hơn sáu mươi niên
      Loài lang thú chuyên quyền
      Róc xương thịt mình
      Người Việt Nam
      Khốc tàn..điêu linh

    Nghĩa là vào ngày ấy, ở nơi đây đã bừng lên khí thế của cả một giai tầng thanh niên đi xây mộng ước lật đổ ách nô lệ để mưu cầu một đời sống tốt đẹp hơn cho mọi người.





    ***

    Trời đang ong ong nắng bỗng dịu đi và không gian heo hắt lạnh với những ngọn gió ẩm ướt gây thành những cảm giác gây gây. Rồi một cơn mưa nhẹ trút xuống. Những bụi mưa phơ phất quay trong nền trời đã ngả sang mầu xám đục. Ông Hưng tự nghĩ, mưa Xuân chỉ nhẹ nhàng như thế thôi, chẳng phải quan ngại gì cho chuyến đi.

    Khi chiếc xe tới một ngã ba, ông Hưng ngồi bật dậy và nói:
    • - Phải đây là chỗ rẽ đi về làng Kim Hoàng hay làng Thuận Ái không ?

    Chú tài xế nhanh nhẩu :
    • - Thưa đúng đấy. Con đường này khá hẹp nhưng xe con lách nhau cũng vừa.

    Ông Hưng buồn bã:
    • - Thế thì cũng mất luôn cái quán gọi là quán Ba Cây ở đây rồi.

    Rồi ông kể lể:
    • - Gọi là quán Ba Cây vì ở đấy có ba cái cây lớn mọc chụm vào nhau. Có một cái quán nước được dựng lên ngay dưới những tàn cây ấy. Quán nhỏ thôi, mái rơm, phên nứa, bàn làm bằng chõng tre, ghế là những tấm ván dài kê áp vào. Ở đấy có nước chè tươi, có kẹo vừng, kẹo bột, có chè lam, bỏng cốm, nhưng tuyệt nhất là món bún riêu. Vào mùa đông gió lạnh, ngồi trong quán nghỉ chân, tránh cơn mưa phùn gió bấc mà húp bát bún riêu nóng bỏng và cay sè thì phải kể là tuyệt trần đời.

    Tâm tình của ông Hưng lại chìm đắm trong những kỷ niệm xa xưa đến nỗi cái xe vô tới đầu làng lúc nào ông cũng không hay.

    Xe ngừng lại ở ven bờ một cái ao lớn, bốn bề lót gạch thẻ bao quanh, mặt nước phản chiếu một mầu vàng óng soi bóng cả một dẫy cây đa, cây đề mọc um tùm ở gần đó. Phía bên kia bờ ao có lát những bậc cấp để làm cầu ao lên xuống. Xa hơn nữa là cái sân rộng mênh mông dẫn tới một ngôi đình với những cột gỗ lim đồ sộ và một mái ngói lâu năm đã ngả mầu rêu xám. Ông Hưng reo lên :
    • - Ao đình Thuận Ái ! Ôi, ngày xưa lũ nhỏ trong làng hay lén ông từ giữ đình lội xuống ven bờ ao để bắt những con ốc cơm bám vào thành gạch xây quanh ao đình. Ốc cơm đem về luộc mà chấm với nước mắm ớt, gừng thì cao lương mỹ vị cũng không sánh bằng.

    Rồi ông tắc lưỡi như nói một mình :
    • - Ừ, chỉ có chỗ này là còn nguyên không thay đổi gì hết thôi.

    Một lát sau, hai người đi bộ trên con đường làng. Ngõ ngách quanh co thì vẫn vậy, nhưng cảnh cũ thì nay còn đâu. Những mái nhà tranh có bờ tre, cổng gỗ, có vườn tược bao quanh nay hầu như tất cả đã biến thành những ngôi nhà kín cổng cao tường có những cánh cổng sắt mở ra như những ngôi biệt thự của nhà giầu có trên tỉnh. Ông Hưng bàng hoàng tự nhủ :
    • - Chết thật ! Thì ra cái nền kinh tế thị trường cũng đã xâm lấn vào tới tận đây.

    Với những khuôn mặt lạ hoắc, không còn chất quê hiền lành, chất phác ngày xưa !




    ***

    Ừ, thì còn tìm ra đâu bè bạn ngày xưa : những Bính, những Hoành, Nam lớn, Nam con, các cô Hoè, Thục, và nhất là Mùi, cô thôn nữ răng đen, má hồng, ngực căng sau lần yếm đỏ, hoa khôi trong làng đã có thời làm ngây ngất bao trái tim của đám trai làng. Bính thì đã hy sinh ở mặt trận Thất Khê. Hoành, Nam lớn chết trong trận Điện Biên Phủ. Mùi mất tích trong Trường Sơn. Chỉ có tin Nam con thì đang là một đại gia giầu có mãi trong tận Sài Gòn. Còn Hoè, còn Thục và một số trai tráng khác nữa thì biệt vô âm tín vì ông Hưng chưa nghe có ai nhắc tới bao giờ.

    Ông Hưng cứ tiếp tục lầm lũi đi như đang lần dò từng bước trong cơn mơ trở về quá khứ. Và ông cũng không phải mất nhiều thì giờ để tìm ra nhà bà cụ Quất là người mà hôm nay ông cố tình tìm tới.

    Căn nhà của cụ thì vẫn như xưa, mái tranh bạc phếch một mầu xám trắng vì dầu dãi nắng mưa, cái cổng gỗ ọp ẹp vẫn còn mặc dù đã phải đóng, phải chêm bằng đủ thứ vật dụng. Một con chó ốm tong teo đang nằm trên hè bỗng chồm lên, hực sủa. Cái hè trước nhà cũng vẫn còn nguyên đó nhưng mấy tấm giại đan bằng tre nay đã không còn. Cả một dẫy cánh cửa bức bàn, một loại cửa lùa cánh gỗ nay cũng đã được thay bằng một tấm bạt nylon dù cũ kỹ nhưng vẫn còn giữ được cái mầu xanh lơ chói mắt.

    Ông Hưng bước lên hè.

    Chẳng có ai ra đón nhưng có tiếng khàn khụa từ trong vọng ra :
    • - Ai đấy ?

    Ra dấu cho chú tài xế chờ ở ngoài hè, ông vội vã bước vào và lên tiếng:
    • - Bà Quất ơi ! Cháu là Hưng, ở Hà Nội về thăm bà. Bà có nhớ Hưng không ?

    Phải một lúc định thần, Hưng mới quen được quang cảnh trước mắt đang chìm đắm trong một thứ ánh sáng nhờ nhờ không đủ soi rõ một cái bàn gỗ thấp kê ngay dưới một cái bàn thờ cũ kỹ. Bà cụ Quất đang nằm trên một tấm phản gỗ kê ở bên cánh trái căn nhà. Phía bên kia là một cái buồng không có vách ngăn và cánh cửa, bên trong chất đủ mọi thứ gia dụng trên đời: chạn ăn, rổ bát, nong nia, thúng mủng ngổn ngang bên những bó củi gỗ và những sọt đựng than, đựng cuốc xẻng làm vườn và cả quần áo ẩm mốc, hôi sì. Một cái bếp lò kê giữa lối đi, mặc dù đã là ngày giáp tết nhưng vẫn mang vẻ tro tàn khói lạnh

    Ông Hưng hơi rùng mình và tự nghĩ :
    • - Đời sống của bà cụ xuống cấp tệ mạt đến thế này ư? Ngày xưa, cái gian nhà này đâu có thế !

    Nhưng cũng chẳng lạ! Đám con cháu của bà đã lên đường đi theo tiếng gọi của non sông và đã hy sinh hết cả trong các trận chiến rồi. Lòng ông Hưng đau quặn lại khi hình dung ra dáng dấp khoẻ mạnh của Hoành, con bà cụ, vẫn thường ra vào nơi chốn này, trong khung cảnh nhà cửa tinh tươm sạch sẽ, có hoành phi, có câu đối, có quạt kéo móc ngang trên trần mà chỉ cần một đứa nhỏ kéo sợi dây là cả gian nhà đều có gió mát.

    Nhất là những buổi chiều hè, Hoành thường hay đứng giữa sân, sừng sững như một tay kiện tướng, hai tay cầm cái quạt thóc to gần bằng nửa cánh phản để quạt tung những bụi, cát và trấu còn lẫn lộn trong thúng thóc mà một người lực điền khác đang đứng trên ghế cao đổ xuống mặt sân gạch. Bắp thịt của Hoành lúc đó nổi lên cuồn cuộn, khuôn mặt của anh đỏ rừ dưới nắng và đầm đìa mồ hôi.

    Con người tràn đầy sinh lực như thế mà đã gục ngã trên một sườn đồi ở Điện Biên Phủ. Bà Quất được tin, khóc ròng rã mấy tháng liền đến độ đôi mắt sưng mọng lên, tưởng đã bị mù hẳn nhưng may, sau còn cứu vãn kịp. Tất nhiên đôi mắt mẹ khóc con ấy đã chẳng còn được tinh tường như xưa.

    Bây giờ, sau ngần ấy năm nước chẩy qua cầu, dễ ngoài chín mươi rồi nhưng bà vẫn còn ở đây, thân hình teo tóp còm cõi nhưng sức lực thì vẫn còn dai như những con đỉa cố bám lấy mảnh đất hương hoả của cha ông. Bà vẫn còn nhận ra ông Hưng. Bà quờ tay về phía ông mà cất giọng như muốn gào rú lên :
    • - Ới giời ơi, thằng Hưng! Hưng đấy hả con?

    Trong khi ông Hưng nghẹn ngào chỉ biết gật đầu thì bà đã ngóc dậy và tiếp tục nói bằng một giọng khàn khụa có lúc hơi khó nghe:
    • - Mày đi đâu từ hồi đó mà sao không thấy về thăm xóm, thăm làng.

    Ông Hưng ấp úng:
    • - Con...con bận việc nhà nước...bận công tác bà ơi....bây giờ con vừa mới được về hưu...

    Bà Quất thổn thức :
    • - Thằng Hoành vắn số, chết từ xưa, đâu có biết hưu là cái gì. Còn nhiều đứa nữa, cái Mùi, cái Hoè thằng Nam...cũng hy sinh hết cả rồi....Thế mà tao chẳng được chết thay cho. Tao đâu có được cái tích sự gì !

    Rồi bà tu lên khóc.

    Ông Hưng vội an ủi :
    • - Ôi, sao lại không tích sự gì ! Nhờ có bà chăm lo đời sống, từng cái ăn, từng thức uống thì chúng con mới rảnh rang đi làm nhiệm vụ. Cái sự hy sinh của bà cũng như các bà mẹ khác, biết lấy gì mà đo cho được.

    Nói rồi ông tiến lại gần phản gỗ để đỡ hẳn bà cụ ngồi dậy. Đầu ông choáng váng, ngất ngư khi thấy cánh tay của bà cụ quá gầy guộc và khẳng khiu như một cành sậy. Ông xót xa nhìn lên khuôn mặt rúm ró, xanh xao của bà có những sợi tóc bạc phơ đang loà xoà rủ xuống. Bỗng ông buột miệng :
    • - Bà ăn uống thế nào ? Sao bà gầy ốm quá thế này ?

    Bà cụ hơi nhếch một nụ cười, vành môi không đủ che hai hàng lợi đã chẳng còn lấy một chiếc răng nào :
    • - Có cái Mỵ, cháu ông Tửu bên hàng xóm đó. Nó chạy qua chạy lại, có gì ăn cái nấy.

    Ông Hưng vừa ngồi xuống một bên mép phản, vừa thở dài :
    • - Thôi thế cũng may. Mà cháu đâu ngờ ông Tửu vẫn còn sống. Ngày xưa ông ấy còn thoát ly trước cả cháu mà.

    Bà cụ gật đầu :
    • - Thế thì chốc nữa qua thăm ông ấy một tí. Bây giờ cũng chỉ như một thứ sư tử về già.

    Hình ảnh anh chàng Tửu với hai hàm răng trắng bóng, mái tóc đen mượt mà với tính tình sôi nổi của anh lại chợt hiện rõ trong trí nhớ của ông Hưng. Đã có một thời ông nghe danh tiếng của Tửu được truyền tụng trong giới quân đội, nhưng rồi bẵng đi, ông không còn nhận được tin tức gì về Tửu nữa. Ai ngờ, cái nhân vật ấy lại đang nằm ẩn nhẫn ở cái nơi xa xôi hẻo lánh này.

    Còn đang mải suy nghĩ về nhân vật Tửu, chợt bà Quất cất lên một cơn ho dài làm ông Hưng vội bước qua, đỡ lấy bà cụ cho dựa vào cánh tay của mình. Lòng ông lại xót xa khi thấy sao mà thân mình của bà gấy ốm như một thứ mèo hen.

    Khi dứt cơn ho, bà mới nói :
    • - Thằng Tửu cũng không còn ở xóm Giếng nữa đâu. Có muốn sang thăm nó thì chờ cái Mỵ tới, nó đưa đi.

    Ông Hưng ngạc nhiên:
    • - Ủa, thế cái nhà của ba gian hồi xưa ở xóm Giếng đâu ?

    Bà cụ thở dài :
    • - Nó bán đi rồi. Giải ngũ ra, nghèo rớt mùng tơi, nó lên tỉnh đi làm thợ sửa xe. Rồi vợ nó ốm một trận thập tử nhất sinh, bán cả nhà đi mà chữa cũng không qua khỏi.

    Giọng bà cụ chợt trở nên linh động hơn :
    • - Mà cái thằng mua lại nhà của nó, biết là ai không?

    Ông Hưng còn đang lúng túng chưa kịp trả lời thì bà cụ đã tiếp :
    • - Lính cũ của nó chứ ai ! Ôi cái thời đổi đời, thằng dầy công, có tài thì đi sửa xe, thằng bất tài vô tướng nhưng giỏi luồn lọt thì giầu nứt đố đổ vách. Cái nhà mua rồi, nó cất lên ba tầng có hàng rào sắt bao quanh, lại nuôi cả chó bẹc-giê giữ của nữa đấy.

    Câu nói của bà khiến ông hơi trạnh nghĩ tới thằng con đang còn tại chức của mình. Quả nó là một tay luồn lọt giỏi. Nhưng ông làm được gì ? Một đôi lần bố con trò chuyện, ông vừa gợi ý thì nó đã nói :
    • - Đời cua cua máy, đời cáy cáy đào, "ông" ơi!

    Rồi nó nhún vai bỏ đi. Như thế cũng còn là ...hiếu thảo ! Bởi ông có vài người bạn, cũng trong hoàn cảnh về hưu như ông, đã có lần bị con cái nói như hắt vào mặt :
    • - Nhà cao cửa rộng, xe hơi đi lại đều ở đó mà ra đó, bố ơi ! Bố có muốn ra đứng đường hay không?

    Ôi, chỉ thiếu điều cắn lưỡi tự tử nhưng ở đời có mấy ai còn đủ can đảm để làm chuyện đó.

    Cuộc trò chuyện với bà Quất xoay ra những tin tức về những con người làm ăn theo thời thế. Ông Hưng không khỏi nghĩ đến lũ con, cháu của những bạn bè xưa cũ đã hy sinh. Bây giờ chúng nó ra sao hay cũng cùng một dạng như con cái của ông, của bạn bè nơi sở làm. Ông cất tiếng hỏi:
    • - Thưa bà, thế còn lũ nhỏ đàn con, đàn cháu trong làng, từ ngày hoà bình thống nhất rồi thì tình hình chúng nó ra sao ?

    Như một cuốn gia phả ghi chép chi li ngọn ngành về mọi sự biến đổi trong ngôi làng nhỏ bé này, bà cụ Quất rành rọt nói về thân phận của từng người quen họ hàng hay chòm xóm thân thuộc:
    • - Em gái cô Mùi, tức cái Ngoan, bây giờ cũng đã già rồi. Có hai đứa con gái thì một đứa chết bệnh Sida, còn đứa kia theo lấy chồng Đài Loan, mấy năm nay không có tin tức gửi về.
      - Thằng Thạch, em thằng Bính cũng hy sinh ở bên mãi bên Nam Lào, nhưng trước đó cũng đã có vợ, có con. Vợ nó lấy chồng khác. Con gái nó chả hiểu làm ăn gì mà bị đưa vào trường phục hồi nhân phẩm mãi trong Sài Gòn.
      - Cháu ruột cô Hoà, gọi cô ấy bằng dì, cái thằng tưởng khá mà sau lại dính vào xì ke ma tuý...
      - Còn thằng cháu đích tôn ông Đoái, cựu xã ủy làng này bây giờ cũng sinh trộm cướp, kéo bè kết đảng hiện đang ngồi tù.
      - Còn ...
      - Còn...

    Tai của ông Hưng thốt nhiên cứ ù cả lên. Ông không còn can đảm nghe tiếp những sự thật phũ phàng cứ tuôn ra tuột tuột từ miệng bà lão như thể chưa bao giờ nó có một dịp như thế để tuôn ra.

    Nhưng bà Quất đâu phải là ma xó ! Bà chỉ như cái gốc đa, gốc đề chôn gốc, mọc rễ ở cái thôn làng nhỏ bé này để chứng kiến những chuyện vật đổi sao rời. Chỉ có điều, những trang sách ghi gói từ trí nhớ của bà sao mà hồi kết cục nó thảm thương và khốn cùng đến thế.

    Ông vội vã đứng dậy xin phép tạm đi ra ngoài để nhìn ngắm cảnh vật đổi thay ở chung quanh nhà. Ông đi mau đến độ xô cả vào con chó ốm đang nằm buồn thiu vẫn dương đôi mắt đờ đẫn nhìn ra ngoài bầu trời vẫn còn đang ẩm sì và vẫn đang còn nhỏ xuống tí tách những giọt mưa trên mái lá.

    Ông bước xuống sân gạch và đi qua cái chỗ mà ngày xưa Hoành đã từng đầm đìa mồ hôi đứng quạt thóc. Ông như nhìn thấy đôi mắt rực ngời tin tưởng của Hoành vẫn còn lẩn quất ở đâu đây. Trong niềm tin ấy, đã nhiều lần Hoành nói với ông :
    • - Mình cứ phải hy sinh đi. Cho đời con, đời cháu nó hưởng.

    Câu nói ấy của Hoành bây giờ có sức mạnh xô ông, làm ông phải ngồi khuỵ xuống bên cạnh cái bể nước mưa mọc đầy rêu xanh vẫn ẩn dưới tán lá của cây hồng bì.

    Ôi những ngày xưa cũ và những hoài bão tràn đầy vinh quang và nhiệt huyết như của Hoành, sau ngần ấy năm, sao lại chỉ nẩy sinh ra những thành quả đớn đau và tủi nhục nhường ấy.

    Trước khi gục ngã, những Hoành, những Bính, những Mùi, những Hoè hay cả nghìn những con người trên đất nước này đã hy sinh đâu có biết rằng mình đã tận tuỵ một đời để chỉ đem lại cho thế hệ đàn con, đàn cháu một đời sống thảm thương đến thế. Cái mà chúng nó "hưởng" là như thế ư?

    Bất giác ông lại nghĩ tới đứa con trai của mình. Hiện nó đang làm Vụ trưởng đầy quyền uy và tiền bạc thì vào như nước chẩy.

    Như thế thì trong đám trẻ của thế hệ thứ hai, thứ ba, có đứa thế này, có đứa thế khác. Nhưng dù là thế nào đi nữa, chúng nó cũng đều chỉ là sản phẩm của một thứ thành quả đang ung thối, mục ruỗng. Nếu biết sự thể cuối cùng cũng chỉ bầy ra được ngần ấy, thì những con người đã hy sinh, trước khi nằm xuống, hỏi có ai nhắm được mắt?

    Khuôn mặt của ông Hưng bỗng nhiên ướt đầm đìa. Nước mắt của ông như nhòe ra, tan vào những giọt mưa xuân đang rơi rả rích qua từng kẽ lá.


    California, tháng 10 2004
    NHẬT TIẾN




              
Last edited by Hoàng Vân on Thứ hai 02/01/17 13:11, edited 1 time in total.
Hình đại diện
thiên thanh
Bài viết: 1352
Ngày tham gia: Thứ năm 14/05/15 11:49
Nơi ở: Phố Cổ

Re: Xuân Đinh Dậu

Bài viết bởi thiên thanh »

          

Gửi riêng các bạn chưa từng đọc nó (một tuỳ bút xuân viết đã lâu). nhân ngày đầu Năm Mới 2016.

Sương xuân và hoa đào




Tôi bao giờ cũng hình dung Tết gắn liền với đất Bắc, nơi đi trước mùa xuân phải có một mùa đông. Mùa đông ở nơi này mỗi năm mỗi khác, nó có thể lạnh nhiều hay lạnh ít, độ ẩm có thể cao hay thấp, nhưng nhất thiết không thể không có gió bấc và mưa phùn. Không khí se lạnh làm cho con người phải co ro một chút, rùng mình một chút, chính là sự chuẩn bị không thể thiếu để cho ta bước vào cái mốc thời gian mới đối với mỗi người mỗi nhà. Thành thử ở Sài Gòn trùng vào những dịp xuân sang tôi vẫn không thấy lòng mình rung động cảm giác về cái Tết ruột rà, cái Tết đích thực. Xin các bạn Sài Gòn tha lỗi cho tôi nếu trong những lời của tôi có gì làm các bạn phật ý, nhưng mãi tới nay, sau nhiều Tết Sài Gòn, tôi vẫn chưa quen được với một ngày đầu năm phải phơi đầu dưới cái nắng chói chang và trầm mình trong cái nóng hầm hập, làm cho con người phải tìm đến với trái dưa hấu mọng nước trước khi ngồi vào mâm cỗ Tết có đủ thịt mỡ và dưa hành, bánh chưng và giò thủ. Ở mỗi nhà vẫn nghi ngút trầm hương thật đấy, ngoài đường xác pháo toàn hồng vẫn tràn ngập lối đi thật đấy, nhưng cái Tết dường như vẫn còn lạc bước nẻo nào, nó chưa hẳn là Tết, chưa đủ là Tết. Đành phải viện hai câu thơ mà nhiều người vốn không yêu thơ cũng thuộc, để giải thích nỗi nhớ về đất Bắc, để biện hộ cho cái cảm xúc không phải đạo của mình trước đất Sài Gòn cũng đã trở thành không kém thân thương:
    • Tự thuở mang gươm đi mở cõi,
      Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long.

      (Huỳnh Văn Nghệ)
Thực ra, chuyện chẳng có gì lạ. Người Việt phương Nam nào mà chẳng có một cái quê còn nhớ hay đã quên, có biết hay không biết, nằm ở phía ngoài kia.

Người xông nhà chúng tôi rất sớm, khi còn tối đất, sáng mồng Một năm Đinh Tỵ (1977), là nhà văn Nguyễn Tuân.
Người xông nhà, theo sự mê tín từ xưa, là một nhân vật đặc biệt quan trọng đối với vận mệnh gia chủ. Tùy theo người xông nhà là ai, năm đó ngôi nhà sẽ có nhiều may mắn hoặc xui xẻo. Những người cẩn thận thường phải tính chuyện mời ai đến xông nhà mình từ lâu trước khi Tết đến. Người xông nhà nhất thiết phải là người đang làm ăn phát đạt, con cháu đầy đàn mà hòa thuận, hoặc một bậc lão niên tài cao đức trọng - chuyện này còn tùy thuộc ở kỳ vọng của gia chủ mong muốn điều gì.

Bác Nguyễn, chọn nhà tôi để đến xông đất đầu năm vì biết chắc chúng tôi không kiêng kỵ, nếu năm đó có chuyện gì không hay xảy đến cho chúng tôi thì ông cũng không bị trách.

Kể ra được (hay bị) một nhà văn đến xông nhà thì, theo lệ thường, chẳng hay ho gì. Xét về truyền thống hiếu học và trọng kẻ sĩ của đất Bắc, nhà văn hẳn là bậc đáng trọng rồi. Nhưng xét về tài lộc thì bất kỳ nhà văn nào cũng nằm ở hạng bét trong thứ bậc giàu nghèo. Tất nhiên, không kể những quan chức bổng nhiều lộc lắm, lại rảnh việc, cũng rửng mỡ xông vào làng văn mà viết sách in thơ.

Cha tôi rất quý Nguyễn Tuân. Ông coi Nguyễn Tuân hơn là một người bạn thời thanh niên. Trong cái nhìn của ông, Nguyễn Tuân là một trong những đại diện cuối cùng cho lớp văn sĩ Bắc hà mỗi ngày một hiếm, những người cho tới lúc ấy còn biết coi tiền bạc như của phù vân, không cúi đầu vâng dạ trước quyền lực. Riêng đặc điểm sau Nguyễn Tuân phủ nhận. Ông luôn phô rằng mình biết sợ, hơn thế, chẳng những ông sợ vừa mà còn sợ lắm lắm. Cái sự phô ấy làm cho người ta lầm tưởng rằng ông không sợ.

Ông đến xông nhà chúng tôi trong chiếc áo choàng màu cứt ngựa. Bỏ nó ra, bên trong vẫn là bộ áo cánh đen thường nhật. Trời rét ngọt, ông mặc thêm áo len và quàng khăn, đội mũ bê-rê. Bộ áo cánh đen là cách diện của ông, của Nguyễn Tuân. Ông bao giờ cũng thích mình phải khác người, cho dù chỉ một chút. Tôi mở cửa đón ông, hơi ngỡ ngàng. Tôi không chờ đợi một người ngoài gia tộc đến xông nhà. Những năm ấy người ngoài ít dám tới nhà chúng tôi lắm. Lại càng không chờ đợi Nguyễn Tuân với sự sợ hãi được khoe khoang của ông. Nhưng không ai đi hỏi người đến xông nhà rằng tại sao ông đến. Với bất cứ người xông nhà nào ta chỉ có thể vồn vã chào đón và đem bánh pháo đầu tiên của ngày mồng Một ra đốt. Nguyễn Tuân đoán ra câu hỏi câm lặng của tôi. Ông ý nhị nói:
  • - Nói thực, mình đến đây sớm vì chẳng biết đi đâu. Mà lại rất thèm đi dạo một lúc trước khi bình minh ló rạng trong cái ngày đầu năm này. Lang thang mãi rồi mình thấy mình đến đây. Không sao chứ ?
Cha tôi nghe léo xéo bước ra, tươi cười ôm lấy bạn dìu vào nhà. Ông sai tôi rót rượu, châm hỏa lò than để nướng mấy con mực. Cha tôi biết Nguyễn Tuân không ưa đồ ngọt, khay mứt trên bàn chắc chắn sẽ không được ông đụng đến. Ông ngồi xuống chiếu, xếp bằng tròn, giơ đôi tay cóng sưởi trên hỏa lò. Lửa than làm vầng trán hói của ông bóng lên trong căn phòng nhỏ. Cha tôi thường tiếp bạn thân trong căn phòng riêng của ông chứ không phải ngoài phòng khách. Hai người bạn già thân tình nhìn vào mắt nhau, chạm ly trong im lặng. Cả Nguyễn Tuân, cả cha tôi, đều không thích những lời ồn ào.
  • - Ngon tuyệt - NguyễnTuân nhắp vài nhắp rượu trong vắt với vẻ thích thú rồi ngửa cổ cạn ly.
    - Làng Vân chính hiệu đấy!
Cha tôi nói, nét hài lòng hiện lên mặt. Ông thích được chiều bạn và khi bạn vui, ông còn sướng hơn chính ông được vui.
  • - Tuyệt!
    - Mình phải đặt loại đặc biệt cho cái Tết đoàn viên này.
Đúng vậy, đây là cái Tết đầu tiên gia đình tôi đủ mặt. Không thiếu ai. Những Tết trước gia đình tôi tan tác. Tôi ở trong tù. Cha tôi bị lưu đầy ở Nam Định.
  • - Hơn hẳn anh Trương Xá. Vào đến cổ họng là biết ngay! - Nguyễn Tuân xác nhận.
Phận con cháu, tôi được phép ngồi bên cạnh các cụ làm chân điếu đóm. Tôi thích nghe bác Nguyễn nói chuyện. Trong câu chuyện của ông bao giờ cũng có một cái gì mới, một cái gì ngồ ngộ, độc đáo mà không phải ai cũng có thể có. Về đời sống cũng như trong văn chương, ông là người uyên bác.

Tính về họ hàng theo đàng mẹ, tôi phải gọi ông bằng bác. Nhưng ông rỉ tai tôi, một lần ở chỗ đông người: "Họ xa rồi, cùng cánh văn chương với nhau, gọi thế nó mất đi cái sự bình đẳng, gia trưởng lắm". Tuy miệng vâng dạ, tôi vẫn kính cẩn gọi bác xưng cháu với ông. Mẹ tôi là người nghiêm khắc trong chuyện xưng hô lắm.

Chuyện vãn một lát, lại chuyện làng văn làng họa, ai mới viết cái gì hay, bức hoạ cuối cùng của ai độc đáo, là đề tài yêu thích của ông, Nguyễn Tuân hỉ hả ra về. Ông nói ông còn phải đến chơi với Văn Cao ("bà Băng bà ấy kiêng. Mình phải đến muộn muộn một tý!"), đến Nguyễn Sáng ("Tết nhất mà nó có một mình, buồn chết đi được! ")

Ra khỏi cổng, Nguyễn Tuân dừng lại hồi lâu trên hè, nhìn phố Hai Bà Trưng thưa thớt người đi lại vào sáng sớm tinh sương, ông nghiêng đầu nói khẽ với tôi:
  • - Anh có thấy Hà Nội buổi sáng mồng Một này thiếu cái gì không?
Tôi không cần động não để tìm câu trả lời. Câu hỏi được đặt ra chỉ là cái cớ cho câu trả lời đã có sẵn, chắc chắn là sẽ rất Nguyễn Tuân. Tôi im lặng, chờ câu ông sẽ nói.
  • - Thiếu sương! - Nguyễn Tuân, mắt vẫn nhìn chung quanh, thở dài.- Anh không nhận ra cái sự thiếu ấy, tôi biết, nhưng tôi không trách. Anh còn quá trẻ. Ngày trước, sáng mồng Một bao giờ cũng có sương nhè nhẹ, không nhiều, một chút gọi là có, nhưng đích thực là sương. Nó bay là là, thoang thoảng, như có mà như không. Rét ngọt. Chỉ có trên các lá cây mới có sương hiển hiện, lâu lâu đọng thành giọt, rơi xuống mặt mình, có khi lọt cả vào cổ áo mình, rất là Tết. Đã mấy năm nay, vào ngày Tết mình cứ thấy thiếu thiếu cái gì đó mà không biết là cái gì. Bây giờ mới hiểu ra: đúng là thiếu nó, thiếu sương.
Tôi bàng hoàng trước nhận xét của ông. Tôi nhớ đến những năm rất xa, khi tôi còn nhỏ. Đúng là Hà Nội những ngày đầu năm ấy sương la đà trên mặt đường, lẩn khuất trong những bãi cỏ, bụi cây.
  • - Thưa bác, có lẽ tại Hà Nội đông dân thêm, nhiều nhà máy nhiều xe cộ, thành thử cái tiểu khí hậu địa phương thay đổi, nhiệt độ do đó mà cao hơn trước!
    - Đốt anh đi! Các anh bây giờ, đụng đến cái gì cũng vội vã chỉ ra nguyên nhân rồi dài dòng giải thích, cứ như chung quanh mình toàn một lũ thất học vậy. Các anh làm văn kia mà - không nhìn tôi, ông nhăn mặt cằn nhằn - Tôi là tôi đang nói cái có, tôi nói cái hiện hữu, nói cái cảm xúc mà cái hiện hữu ấy gây ra. Còn cái chuyện đi tìm cội nguồn của hiện tượng là việc của người khác. Cái bệnh dịch tuyên giáo thật đáng sợ.
    - Thế là mất đứt cái anh sương xuân bảng lảng. Tiếc quá đi mất! - Nguyễn Tuân lại thở dài. Ông buồn thật sự - Thiếu nó,Tết Việt Nam nghèo đi, mà không chỉ nghèo đi một chút đâu nhá, anh hiểu không? Đành vậy, sang năm phải tìm cách đón giao thừa ở ngoại thành, may chăng còn có thể gặp lại nó.
Rồi đột ngột ông quay sang chuyện khác:
  • - Này, năm nay giáp Tết mưa thuận gió hòa, hoa đẹp lắm. Sao mấy hôm rồi không thấy anh đi chợ hoa ?
Đã thành cái lệ, năm nào cha tôi và Nguyễn Tuân cũng rủ nhau đi thưởng hoa ở Cống Chéo Hàng Lược. Có những buổi hai ông la đà từ trưa tới tối mịt mới về đến nhà.
  • - Thưa bác, mấy hôm rồi cháu lại mắc bận.
Tôi nói dối. Thực ra tôi không đi vì tôi không thích chợ hoa. Cái mẩu phố hẹp có tên là Cống Chéo Hàng Lược ngày thường đầy rác rưởi trong những ngày giáp Tết bỗng trở nên nhộn nhịp khác thường. Trên là trời, dưới là hoa. Và người người chen chúc nhau đi xem hoa, mua hoa. Những cây quất trĩu quả vàng chen lẫn với các cành đào cầm trên tay, các sọt đan đựng đủ mọi loại cúc, loại hồng, lay-ơn, thược dược... Ở đây ồn ào quá, nhiều trai thanh gái lịch quá, nhiều quần áo mới quá, nhiều gương mặt hãnh tiến quá. Tôi còn sợ nhìn cái cảnh chợ chiều ba mươi Tết, khi những người bán hoa co ro trong manh áo mỏng, cành đào trong tay, mặt ngơ ngác, lo âu chờ khách. Trong cái bầu không khí vui vẻ quá nhân tạo ấy, bông hoa nào, cành hoa nào, chậu hoa nào cũng có vẻ tội nghiệp bởi cái thân phận hàng hóa của chúng.
- Đào năm nay được mùa. Chợ nhan nhản những đào là đào, giá lại hạ, nhà nghèo nhất năm nay cũng có đào Tết. Thế mà đố có tìm ở Cống Chéo Hàng Lược được một cành nào như cành đào của bố anh. Tuyệt! Không chê vào đâu được. Năm nào cành đào của ông ấy cũng làm tôi mê man, cũng làm tôi sửng sốt: "Thằng cha giỏi thật, sao mà nó khéo chọn đào đến thế!" Thôi, tôi về. Còn phải đến mấy nhà nữa, mà mình thì thích cuốc bộ. Hôm nay tôi đến là để chúc mừng gia đình anh đoàn tụ. Mai có khi tôi còn đến đây nữa. Để ngắm cành đào của bố anh.

Ngày hôm sau ông lại đến thật. Và đúng là chỉ để ngắm có một cành đào mà thôi.

Cha tôi không phải nghệ sĩ. Ông, nói của đáng tội, từng là nhà báo. Mặc dầu cũng động tới chữ nghĩa, nhưng nhà báo vẫn có cái gì nó khác với nhà văn (tất nhiên không kể những người có hai nghề nhập một). Nhà báo không có tính lập dị thường gặp ở các nhà văn và các văn nghệ sĩ, hay là tính cách kỳ quặc nào đó ở họ mà người đời quy cho là lập dị. Có điều, mặc dầu có Tây học, ông thích cuộc sống thanh đạm của người xưa và rất yêu hoa. Trong nhà tôi, kể cả những lúc khó khăn nhất, bao giờ cũng có hoa. Trước khi ông đi tù ở nhà tôi là một vườn phong lan đủ loại, nổi tiếng trong những vườn phong lan ở Hà Nội.

Tết nào ông cũng cầu kỳ chơi hai thứ hoa: thuỷ tiên và và đào.

Thủy tiên là thứ hoa không bình dân. Nó không thèm nở nếu chẳng may rơi vào tay người không biết thưởng thức. Để cho thủy tiên nở, phải biết nghệ thuật trổ thủy tiên. Con dao dùng để trổ thủy tiên không phải là con dao bài bất kỳ, mà là một con dao dùng riêng cho nó. Cha tôi mua củ thủy tiên về, giá rất đắt, hình như là phải nhập khẩu chứ nước ta thời ấy chưa có cơ sở gây trồng. Thuỷ tiên có bề ngoài giống một củ hành tây lớn, rất tầm thường, chẳng hứa hẹn một hương sắc nào. Chuẩn bị cho việc gọt thủy tiên, cha tôi hì hục mài dao cho tới khi nó bén đến mức đặt sợi tóc lên lưỡi dao mà thổi phù một cái thì sợi tóc lập tức bị đứt đôi, và đầu nhọn của nó thì chỉ vô ý chạm ngón tay vào là máu ứa ra liền. Rồi ông còn phải ngắm nghía hồi lâu cái củ hành nọ, cho tới khi quyết định đặt nhát cắt đầu tiên lên mình nó. Những nhát cắt, nhát trổ chính xác được ông cân nhắc từng tý, cho tới khi hài lòng đặt nó vào cái bát thủy tinh, cũng lại thứ dành riêng cho nó.

Mẹ tôi chăm chú theo dõi bàn tay khéo léo của cha tôi xoay quanh củ thủy tiên. Bà cũng là người khéo tay, nhưng khéo tay ở những việc khác, chứ trổ thủy tiên thì bà chịu, không biết cách gọt như cha tôi. Những Tết cha tôi vắng nhà, trên bàn thờ ông bà ông vải chỉ có hoa huệ, thủy tiên thì hoàn toàn vắng bóng. Hoa thủy tiên bắt đầu trổ những cánh xanh mập mạp cũng chẳng khác lá hành là mấy, nhưng chúng nhỏ nhắn, ngắn và không vươn quá thành bát đựng. Người gọt khéo có thể chỉ định đúng ngày hoa nở, khéo hơn nữa có thể đúng đến cả giờ.

Thuỷ tiên do cha tôi gọt bao giờ cũng nở hết số hoa nó chứa trong mình vào đúng giao thừa, chính xác vào cái giờ khắc thiêng liêng nhất của sự giao hòa giữa người thuộc cõi âm và người thuộc cõi dương, giữa tổ tiên và con cháu. Cha tôi đứng lặng trước ban thờ ông bà, đầu hơi cúi. Mẹ tôi đứng sau ông thì thầm khấn vái. Hương trầm ngát trong nhà. Rồi pháo của một nhà nào đó nổ vang, kéo theo sau nó cả một đợt sóng triều tiếng pháo râm ran.

Tôi không bao giờ thấy được hương thủy tiên vào lúc thủy tiên nở hết hoa của nó trong hương trầm và khói pháo. Sáng sớm mồng Một, rất sớm, khi trời đất đã lặng đi mọi tiếng động của sự đón Xuân, lúc ấy mới thấy được hương thủy tiên thoang thoảng. Đó là một hương thầm ẩn náu, thoang thoảng mà kiêu sa. Nó không để lại trong tôi một ấn tượng rõ rệt nào. Tôi cũng không cảm nhận được cái đẹp của hoa thủy tiên. Mà cũng có thể đó là do ảnh hưởng câu chuyện chàng Narkisoss trong thần thoại Hy Lạp mải mê ngắm sắc đẹp của chính mình trong nước suối, mải mê đến nỗi ngã xuống mà chết đuối, trở thành loài hoa nọ. Tôi không thích những người say mê chính mình.

Sau khi cha tôi qua đời, chẳng bao giờ trong nhà tôi còn có hoa thủy tiên nữa. Nhưng hoa đào thì không bao giờ vắng bóng trong những ngày Tết gia đình, với cách thưởng thức truyền thống mà những thế hệ đi trước để lại.

Trước Tết một tháng, cha tôi, thường có tôi đi theo, đạp xe lên vùng Quảng Bá, Nhật Tân, Nghi Tàm, nơi có những nhà trồng hoa cha truyền con nối. Cùng với một chủ vườn nào đó đã trở thành người quen, cha tôi đi thăm vườn và xem xét kỹ từng gốc đào để rồi cuối cùng chọn lấy một cành thấp, ưng ý nhất. Tiền đặt mua cành đào được trao ngay cho chủ vườn. Giá thường rất rẻ, lúc ấy chưa có ai mua đào. Ông chủ vườn rút con dao nhíp trong túi ra, đánh dấu cành đào dành cho cha tôi. Chắc chắn nó sẽ không bị bán vào tay ai khác. Bố con tôi hài lòng ra về. Tôi biết, trong óc cha tôi đã hiện lên cành đào trong tương lai sẽ được đặt ở đâu, trong cái bình nào ở nhà mình trong ngày Tết.

Khoảng hai bảy, hai tám tháng Chạp, cha tôi mới lên vườn nhận cành đào về. Ông chủ vườn trao cành đào cho cha tôi với vẻ tiếc rẻ, không ngớt lời khen cha tôi có con mắt tinh đời. Nhưng đó là cách đánh giá của hai người biết chơi hoa với nhau. Người thường sẽ không mua cành đào này. Nó xù xì ở phần gốc, có mấy cành đua dài và gân guốc, trên đó chỉ thấp thoáng một số nụ.

Sau đó là phần sửa soạn cho cái đẹp của cành đào. Cha tôi còn ngắm nó chán chê rồi mới lấy dao cắt bỏ một số cành con, đem thui phần gốc, rồi trịnh trọng đặt cành đào vào trong lọ độc bình. Đó là một cái lọ lớn, thường là lọ sành, nhưng phải thấp, miệng rộng, rất bình dị, đến nỗi khi cành đào đã ngự trong đó thì không còn nhìn thấy cái lọ đâu nữa. Cành đào được đặt trong góc nhà. Những cành đua của nó hướng về phía cửa, khách vào có thể nhìn thấy những cánh tay của nó vươn ra chào đón.

Cũng như thủy tiên, cành đào sẽ nở rộ vào đêm trừ tịch.
  • - Chơi hoa là cách con người tìm niềm vui, tìm tâm trạng thư thái trong mối giao hòa với thiên nhiên - cha tôi tâm sự trước cành đào - Người ta chỉ có thể đón thiên nhiên vào nhà mình, chứ không thể mua sắm thiên nhiên, hoặc tệ hơn, áp giải nó về nhà mình. Vì vậy mà cái bình phải khiêm tốn để tôn vẻ đẹp của cành đào, của mùa xuân. Cành đào đẹp trước hết là ở cái dáng, cái thế của nó: phần gốc xù xì cho ta cảm giác về sự vững bền của nền tảng, những cành đua không nên nhiều quá để tạo ra cảm xúc thanh thoáng, khoáng đạt.
Cha tôi không thích đào rực rỡ quá, khoe khoang quá, hợm hĩnh quá.
  • - Đào như thế này đẹp hơn nhiều, cánh của nó chỉ phơn phớt một màu hồng nhạt, vừa có duyên, vừa thầm kín. - cha tôi dạy - Người Nhật thích màu hồng của hoa sakura - anh đào, có dễ cũng vì lẽ đó. Tín đồ của Thần đạo không chịu nổi những hương sắc quá thế tục. Thêm nữa: trên cành đào Tết không nên có quá nhiều hoa. Lá xanh bên cạnh hoa làm tăng vẻ đẹp của hoa lên. Tất nhiên, mỗi người một ý, nhưng ông nội con và bố đều không ưa những cành đào đầy ắp hoa, cành nào cành ấy đều đặn, trông xa như một cái nơm. Đã thế có người lại còn cắm cái nơm đào ấy vào cái lọ độc bình cổ cao, bằng sứ, với đủ mọi hình vẽ cầu kỳ sặc sỡ, rồi đặt nó ngất nghểu trên bàn thờ ông vải nữa chứ. Không, chỗ của đào không phải ở đó. Bố thích đặt nó ở đây dưới đất, ngang tầm với mình.
Tôi kể cho Nguyễn Tuân nghe cách cha tôi nhìn vẻ đẹp của cành đào. Ông tủm tỉm cười:
  • - Về đại thể, bố anh đúng. Nhưng ông ấy cũng có mắc một chút bệnh giải thích. Cái đẹp, theo tôi, là cái không giải thích được. Chỉ có thể cảm nhận nó mà thôi. Bố anh cũng chẳng giải thích nổi tại sao ông đã cắt đi một cành con này mà không phải một cành con khác, tại sao ông giữ cành đua này mà lại bỏ cành đua kia, cái cành được để lại ấy gợi nên trong lòng ông cảm xúc gì. Còn về phần màu xanh của lá trên cành đào thì ông ấy đúng hoàn toàn. Hay gì một cành đào chi chít hoa? Nó làm ta phát ngán. Mùa xuân thì phải có màu xanh của lá, của sự đâm chồi nảy lộc, mới là xuân!
    Bây giờ, cả bác Nguyễn Tuân, cả cha tôi, đều đã khuất núi.
Chỉ còn lại cái đẹp của hoa xuân mà hai ông tâm đắc ở trong tôi.
Và nỗi bùi ngùi mỗi lần Xuân đến.

24/12/2002
Vũ Thư Hiên
nguồn

          
Last edited by thiên thanh on Thứ hai 02/01/17 15:55, edited 1 time in total.
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Xuân Đinh Dậu

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          



Chợ ngày xuân
______________________
Anh Thơ (1941)

          

Mưa vừa tạnh, nắng bừng trên quán mới,
Trên cây đa lấp loáng gió lao xao
Trên những giải lưng điều bay phấp phới,
Các cô nàng lơ lẳng nón quai thao.

Chợ đông quá! Chỗ này vài chiếu bạc,
Những chàng trai ô mới mở dương vây;
Cười nói, nói luôn mồm và chỗ khác
Mấy cụ ngồi nhắm rượu gật gù say.

Nhưng đông nhất quán hàng người đoán thẻ
- Một lão già kính trắng, bịt khăn đen -
Các cô gái chen nhau vào, vui vẻ
Nghe Thánh truyền sắp đắt mối lương duyên.


          

          
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Xuân Đinh Dậu

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          





  • Hoa mai không nở
    ______________________
    Thu Phong







    1

    Nhà anh không có chó. Chó nhà chú Mười hàng xóm đẻ bốn con, chú ngỏ ý cho anh một con nhưng anh không nhận. Người ta thường nuôi chó để giữ nhà, phòng trộm cướp. Anh không có gì đáng để bị lấy. Nuôi chó chỉ tốn thêm một phần ăn. Nó chia sớt phần cơm ít ỏi của bốn đứa con và vợ chồng anh.

    Họ không có gì đặc biệt, vóc dáng trung bình, ăn mặc xuềnh xoàng, cử chỉ giọng nói không khác dân địa phương. Tuy nhiên, dân ở đây hầu hết làm việc đồng áng ruộng nương, dầm mưa dãi nắng nên có nước da rám nắng; còn hai người đàn ông này trắng trẻo hơn.

    Hai người này anh chưa hề gặp mặt. Người trong xóm anh biết, dân trong rẫy anh quen. Có thể họ ở thị trấn, anh không biết hết mặt dân thị trấn. Cũng có thể họ từ địa phương khác.

    Anh vào bếp lấy thêm món mặn – tóp mỡ kho tiêu, đi ra thì họ đã vào nhà.

    Trà đã hết. Không có tách, anh rót nước trong chai ra hai ca nhựa mời khách.
    • “Thưa, hai anh là…”.

    Người đàn ông nói:
    • “Chúng tôi vừa uống cà phê ở quán bên kia đường”, rồi hỏi với vẻ thân mật:
      “Anh làm thơ viết văn nhiều chứ? Anh còn đăng ở báo Văn nghệ thành phố không?”.
      “Không, dạo này tôi ít viết”, anh đáp lịch sự.
      “Rẫy anh mùa này được khá không?”.
      “Cũng tàm tạm”.

    Người đàn ông bước đến chiếc võng giăng giữa hai cột gỗ, đưa tay kéo miếng ni lông đang bị gấp lại, thản nhiên đặt lưng xuống võng.
    • “Chị và các con chừng nào mới về?”.

    Anh ngạc nhiên, người này biết vợ anh dẫn bốn đứa con về bên ngoại.
    • “Chắc là mai”, anh đáp gọn.

    Người đàn ông đang đứng nhìn một lượt khắp gian nhà với vách ván thủng lỗ chỗ khiến nhiều luồng sáng rọi qua. Ông ta đưa tay nắm tấm màn cũ kỹ ố màu ngăn gian trên với gian dưới, bước vào trong.

    Anh dợm bước theo ông ta. Nhưng người đàn ông nằm võng nói:
    • “Anh yên tâm, anh cứ ngồi ăn, chúng tôi không phải là người xấu, chúng tôi là người tốt”.

    Một lát, người đàn ông vén màn bước ra, nhìn người đang nằm võng gật đầu, rồi đến ngồi trên mép chiếc giường tre xiêu vẹo nơi hai vợ chồng và bốn đứa con anh ngủ hàng đêm khiến nó kêu lên cọt kẹt.

    Ông ta nói với anh:
    • “Tết này nhà anh vui chứ? Bạn bè chắc đến họp mặt đông đủ? Chiều mùng hai anh Hảo đến chơi lâu không?”.

    Họ biết mình chơi thân với Hảo, biết mùng hai Hảo có đến chúc Tết. Họ biết rõ đến vậy chắc phải có ai đó quen thân với gia đình nói với họ, anh nghĩ.
    • “Cũng vui”, anh đáp.
      “Thằng Tôm hết bệnh đau bụng chưa? Nó cứ đau hoài coi chừng nó bị đau bao tử đó!”.

    Anh chột dạ. Cái gì họ cũng biết.
    • “Cám ơn. Nó đã hết đau bụng. Hai anh là…”.
      “Tụi tui là độc giả của anh… Tôi thích thơ”.
      “Tôi cũng vậy, thơ dễ đi vào lòng người”.

    Thì ra hai người này có đọc thơ mình. Có thể họ quen biết với bạn mình nên biết rõ gia cảnh của mình, anh nghĩ.

    Người đàn ông rời giường đến bên anh, nhìn vào thức ăn trên bàn – cái bàn tròn bằng gỗ với mặt bàn ngả màu đen mốc đặt giữa gian trên vừa tiếp khách vừa làm bàn ăn vừa là chỗ cho hai đứa con lớn của anh bày tập vở học hành:
    • “Kìa! Anh cứ ăn tự nhiên đi!”.

    Người kia tiếp lời:
    • “Phải, anh cứ ăn đi! Vừa nói chuyện vừa ăn được mà! Tụi tui bình dân lắm!”.

    Anh ngồi xuống, cầm chén cầm đũa lên, nhìn chén tóp mỡ kho tiêu anh vừa mới mang ra, nhìn chén cơm chiên rồi nhìn dĩa dưa chuột. Nhưng rồi anh bỏ chén đũa xuống. Anh không thể ăn trong hoàn cảnh này. Thái độ của hai người đàn ông thật bất thường. Anh thấy có gì là lạ nơi họ. Anh chưa biết tại sao họ đến.

    Người đàn ông nhìn chai rượu đế quốc doanh đã cạn nằm dưới gầm giường:
    • “Mấy nhà văn nhà thơ thích uống rượu lắm nhỉ?”.
      “Dạ…”.
      “Anh cũng rất thích, đúng không?”.
      “Dạ, thỉnh thoảng tôi cũng uống…Vui với bạn bè thôi”.
      “Sau khi uống anh thường tỉnh hay say?”.


    Đó là câu hỏi thân mật; tuy vậy giọng nói của người đàn ông có điều gì bất thường. Anh linh cảm nó là sự khởi đầu một tình huống không hay cho mình. Anh cảnh giác:
    • “Hai anh muốn biết chuyện ấy thật sao?”.

    Người đàn ông gật đầu.
    • “Tôi nghĩ các anh biết rồi”.
      “Ý anh là anh uống nhiều thì say, uống ít thì không say phải không?”.
      “Tôi nghĩ ai cũng vậy…”.

    Hai người đàn ông nhìn nhau.

    Người đang nằm võng đứng lên, nhìn người đồng hành:
    • “À… anh ấy có câu thơ “Rượu nồng ai uống tỉnh hay say”, anh ấy chỉ muốn hỏi người khác chứ không phải tự hỏi mình”, rồi ông ta bước đến bàn ăn.

    Hai người đàn ông bây giờ mỗi người đứng một bên, và như thế anh lọt vào giữa họ, một gọng kìm.
    • “Đúng! Bản thân anh ấy hiểu rõ chính mình mà!”.
      “Viết câu Rượu nồng ai uống tỉnh hay say là sao? Anh có ẩn ý gì?”.
      “Tôi không có ẩn ý gì hết!”.
      “Anh hãy nói rõ ai tỉnh ai say?”.

    Anh không thể không bực bội:
    • “Ai tỉnh ai say thì liên quan gì đến các anh?”.
      “Anh là tác giả, chúng tôi là độc giả, sao lại không liên quan?”.

    Anh nhìn ra ngoài, im lặng giây lát. Bình tỉnh hơn, nhưng giọng anh vẫn còn chút gay gắt:
    • “Chẳng lẽ anh không biết khi uống cùng một thứ rượu, một lượng rượu, có người tỉnh có người say sao?”.
      “Đó là câu thứ hai… Câu đầu là gì nhỉ?…Phải rồi: “Đông đã tàn sao lá rụng đầy”, người đứng bên phải nói rồi đặt tay lên vai anh, hỏi,“Tôi nhớ có đúng không?”.

    Anh hoang mang, vẫn chưa rõ hai người đàn ông muốn gì.
    • “Với tư cách là một độc giả, tôi muốn hỏi anh: Bây giờ là mùa Xuân sao anh lại bảo là mùa Đông?”.

    Anh ngỡ ngàng, không ngờ người đàn ông lại bắt bẻ kiểu ấy.

    Anh bối rối chưa kịp trả lời, người đàn ông kia hỏi:
    • “Tôi thì muốn hỏi anh: Hết mùa Đông thì sang mùa Xuân, mà mùa Xuân thì hoa nở, tại sao anh viết mùa Xuân lá lại rụng?”.

    Có thật họ không hiểu hay chỉ muốn chất vấn mình, anh tự hỏi. Ngay sau đó anh nhận ra ý định của họ. Giọng nói của họ không có gì là thân mật, êm dịu. Anh thực sự bực bội:
    • “Tôi nghĩ rằng tôi không cần phải trả lời hai anh”.

    Hai người đàn ông nhìn nhau. Một người nói:
    • “Anh ấy không muốn trả lời chúng ta”.

    Người đàn ông ngồi xuống ghế bên anh:
    • “Anh viết hai câu thơ khó hiểu nên chúng tôi mới thắc mắc”.

    Người kia bước lại võng, ngồi xuống:
    • “Tôi thì thấy đó là hai câu sai sự thật, trái qui luật”.

    Anh chợt nhận ra mình không hề mới hai người khách ngồi. Nhưng họ đâu cần anh mời. Anh lắc đầu:
    • “Mấy anh không hiểu gì về thơ”.

    Người ngồi võng nhổm lên:
    • “Anh luôn coi thường độc giả vậy sao?”.

    Anh dịu giọng:
    • “Muốn hiểu thơ phải biết thơ là gì”.

    Người ngồi ghế hỏi:
    • “Theo anh thơ là gì?”.
      “Thơ là thơ. Thơ có thế giới riêng”.
      “Ý anh là thế giới thơ bất chấp sự thật, bất chấp qui luật phải không?”.
      “Không, thơ tôn trọng sự thật và thơ có qui luật của nó”.
      “À! Tôi hiểu rồi, là anh muốn ám chỉ phải không?”.
      “Ám chỉ là một cách diễn đạt của văn chương”.
      “Vậy khi anh viết “Đông đã tàn sao lá rụng đầy”, anh muốn ám chỉ mùa Xuân này hay mùa xuân nào đó đã mang lại sự đau buồn, đúng không?”.

    Anh gật đầu:
    • “Đại ý là vậy”.

    Người đàn ông hỏi lại:
    • “Anh trả lời đúng như vậy?”.

    Anh gật đầu.
    • “Ý anh là mùa xuân này hay mùa xuân nào đó không phải là mùa xuân mà là mùa đông, đúng không?”.

    Anh gật đầu.

    Người đàn ông hỏi lại:
    • “Anh trả lời đúng như vậy?”.

    Anh gật đầu. Các câu gặng hỏi khiến anh bực bội không còn giữ được sự thận trọng.

    Người đàn ông ngổi võng đứng lên, bước lại bàn, ngồi lại chỗ của mình:
    • “Chắc anh có nghe bài hát “Đảng đã cho ta một mùa Xuân” và bài “Mùa Xuân này về trên quê ta khắp đất trời biển rộng bao la?”.

    Anh có nghe hai ca khúc ấy. Đó là hai ca khúc có tựa “Đảng đã cho ta một mùa Xuân”“Mùa Xuân trên thành phố”.

    Anh gật đầu: “Có, tôi có nghe”. Anh muốn nói thêm “Rồi sao?”, nhưng kịp ngưng lại.
    • “Anh xác nhận là anh có nghe hai bài hát ấy, đúng không?’.
      “Đúng!”
      , anh đáp gọn.
      “Có nghĩa là anh sử dụng công cụ ám chỉ để xuyên tạc phải không?”.

    Anh ngớ ra, bất ngờ trước sự áp đặt ấy:
    • “Tôi không hiểu”.

    Người đàn ông chất vấn:
    • “Anh là nhà thơ sao lại không hiểu?”.
      “Ám chỉ và xuyên tạc là hai việc khác nhau”,
      anh nói.
      “Sự thực anh đã biết đảng đã cho ta mùa xuân, vậy mà anh lại viết mùa xuân mang lại đau buồn cho anh, không xuyên tạc thì là gì?”.

    Anh không biết phản ứng thế nào trước kiểu lý luận ấy. Anh đã hết sức chăm chú nghe, quan sát điệu bộ, nét mặt người đàn ông trong lúc ông ta nói, thấy ông ta không vẻ gì là đùa, hoặc nói bừa; trái lại, rất nghiêm chỉnh, tự tin. Vì thế, anh không thể có được vẻ mỉa mai, giễu cợt mà chỉ im lặng.
    • “Sao? Anh có thú nhận không?”.

    Câu hỏi ấy khiến anh thấy cần phải tự vệ:
    • “Đó chỉ là sự suy diễn tùy tiện, tôi không có ý xuyên tạc gì hết!”.

    Hai người đàn ông thay nhau lên tiếng:
    • “Thôi được, tất nhiên là anh phủ nhận. Anh viết câu thứ ba, câu tiếp theo: “Trăm dân còn đợi mùa Xuân thật”…
      “Và câu thứ tư “Ta sá chi xuân giả tạm này” cũng là theo cách ám chỉ hay cách xuyên tạc?”.

    Anh không trả lời, mà hỏi lại:
    • “Tôi có thể biết hai anh là ai; và hai anh đọc bốn câu thơ ấy ở đâu không?”.

    Bốn câu thơ ấy anh chưa gởi đăng báo, chưa cho ai đọc.
    • “Tôi nói rồi: chúng tôi là độc giả của anh”, người đàn ông vừa nói vừa móc từ túi quần ra tờ giấy học trò xếp làm tư.

    Ông ta mở tờ giấy, giơ ra trước mặt anh, hỏi:
    • “Anh xem có phải chữ viết của anh không?”.

    Anh lặng người giây lát, khẽ gật đầu:
    • “Sao anh có…”.

    Người đàn ông đưa mặt mình vào sát mặt anh, thì thầm, âm thanh tựa tiếng rít của rắn:
    • “Bài thơ này cho thấy ý định của anh muốn lật đổ nhà nước. Nó mà đến tay nhà nước anh sẽ bị tội phản động đấy!”.
      “Anh sẽ phải học tập cải tạo ít nhất là hai năm”,
      người kia tiếp lời.

    Anh lên tiếng bảo vệ mình:
    • “Không, tôi không có ý định ấy. Đó là sự suy diễn không đúng”.
      “Này nhé! Nhân dân ta đã có mùa Xuân thế mà anh bảo là trăm dân đợi mùa Xuân nào nữa?”.
      “Thế nào là mùa Xuân thật? Thế nào là mùa Xuân giả, anh giải thích đi!”.

    Anh vẫn bình tĩnh:
    • “Ý tôi là mai giả không tạo ra mùa Xuân thật”.
      “Nghĩa là sao, anh hãy nói rõ hơn”.
      “Hoa mai giả người ta làm lúc nào cũng được, xuân hạ thu đông gì cũng có thể có mai giả; còn mai thật chỉ có vào mùa Xuân thôi”.
      “Đó là cách chối tội của anh. Công an họ không tin anh đâu. Mai giả là giả, còn mùa xuân thì bao giờ cũng thật; chẳng nhẽ anh không thấy điều đó?”.
      “Tôi biết là anh không sợ ở tù !”,
      người đàn ông liếc anh, nói tiếp, “Anh còn thích ở tù nữa!”.
      “Dù sao cũng chỉ có hai năm thôi mà!”.
      “Sao hai anh lại nói thế?”,
      anh hỏi.
      “Nếu sợ anh đã không viết bốn câu thơ này”, người đàn ông nói rồi vừa cười vừa vỗ vai anh, nói tiếp, “Chỉ chuyển chỗ ở, không phải lo làm rẫy, không lo kiếm cơm nuôi bốn thằng nhỏ, đúng không?”.
      “Chỉ có điều vợ anh vất vả một chút. Nhưng không sao, chị ta siêng năng, làm việc bằng hai, cũng bình thường thôi”.

    Đến lúc này anh đã nhận rõ tình thế nào mình đang gặp phải. Hai người này nói đúng, nếu công an đọc được bốn câu thơ của anh, họ sẽ suy diễn như hai người đàn ông này đã suy diễn. Mà biết đâu hai người này chính là công an.
    • “Tôi có thể trình bày bối cảnh mà tôi viết bốn câu thơ ấy được không?”.
      “Anh sẽ không thay đổi được gì…”,
      người đàn ông nói, rồi quay sang người đồng hành: “Nhưng anh hãy nói thử”.

    Anh bắt đầu kể, thật chậm rãi, chuyện xảy ra vào ngày anh viết ra bốn câu thơ ấy.

    Không, trước cả ngày ấy. Anh muốn kể cái hoàn cảnh đã khiến anh viết ra bốn câu thơ định mệnh. Và muốn kéo dài thời gian, không biết để làm gì.




    2

    Giáp Tết, vợ anh và hai đứa con lớn nghỉ sớm, về lo sửa sang nhà cửa chuẩn bị đón Xuân. Anh ở lại rẫy thu hoạch nốt số bắp còn lại, gồm cả bắp cào cào.

    Bán tất cả hoa màu cho thương lái ngay tại rẫy, đếm tiền anh thấy chỉ đủ để mua hạt giống trồng mùa sau, một ít gạo, thịt, mứt Tết, không đủ mua quần áo mới cho bốn đứa con, lì xì cho chúng như đã bàn với vợ. Thôi thì mua cho hai đứa nhỏ đồ mới, để hai đứa lớn mặc đồ cũ. Anh biết hai thằng anh sẵn sàng nhường em. Vẫn lì xì nhưng cho mỗi đứa một ngàn đồng thôi. Anh và vợ không cần đồ mới. Rồi anh tự nhắc mình nhớ mua cho vợ cái kẹp tóc “đẹp đẹp một chút”. Sực nhớ đến mai, anh đi tìm một nhánh mai rừng. Nhưng không có.

    Chiếc xe đạp cà tàng vợ anh đã lấy chở hai con về trước nên anh phải đi bộ từ rẫy về nhà, gần mười cây số. Dọc đường, anh để ý những nhà có trồng mai với ý định nếu có cây nào nở hoa sẽ mua một nhánh. Nhưng không thấy.
    • “Tình trạng này chắc trong xóm cũng khó mà có mai”, anh nghĩ.

    Bước vào sân nhà, nhìn thấy một cành mai rực rỡ cắm trong bình đặt trên chiếc bàn giữa phòng, anh thầm khen vợ chu đáo, tự hỏi cô tìm đâu ra cành mai ấy. Nhưng rồi anh nhận ra đó là cành mai giả. Vợ anh cho biết khắp trong xóm không cây mai nào nở bông dù bà con đã sử dụng mọi cách để kích thích.

    Anh ghét hoa giả, dù chúng giống thật đến đâu. Anh định ném nó ra sân, nhưng nghĩ lại sợ vợ buồn nên thôi.

    Sáng mùng một, anh lấy giấy bút ra để viết một cái gì đấy, một đoản văn, một bài thơ… Còn đang phân vân thì mắt anh chạm bình mai giả…




    3

    • “Anh chắc có nhiều bạn bè, phải không?”.
      “Một vài người”.
      “Anh có thể nói tên những người bạn của anh không?”.

    Sau thoáng suy nghĩ, anh đáp:
    • “Tại sao anh lại muốn biết?”.
      “Thôi, nếu anh không muốn nói thì thôi; dù sao công an cũng đã biết”.
      “Anh có gặp một người tên X phải không?”.
      “Không”,
      anh đáp ngay, dứt khoát.
      “Anh X nói anh nằm trong nhóm của anh ta”.
      “Tôi không biết ai tên X cả. Tôi không nằm trong một nhóm nào hết!”.
      “Thôi được, anh hãy tiếp tục ăn đi!”.

    Hai người đàn ông nháy mắt với nhau, lần lượt đứng lên, đi ra.

    Anh thở ra, thấy lòng nhẹ đi. Bóng tối đang chực nuốt chửng đời anh dường như đã tan.

    Bước ra tới cửa, người đàn ông ngoảnh lại:
    • “Chúng tôi sẽ chờ anh ở quán cà phê bên kia đường. Khi nào anh ăn xong chúng tôi sẽ sang”.

    Câu nói nói ấy đã đóng sập lại cánh cửa vừa mới mở của đời anh. Anh thẫn thờ ngồi xuống ghế, người xơ cứng, bất động.
    Giờ đây anh không còn thắc mắc tại sao hai người đàn ông có được tờ giấy tập học trò của con anh mà chỉ nghĩ đến vợ con. Không biết khi về nhà không thấy anh, năm mẹ con sẽ nghĩ sao, không biết năm mẹ con sẽ xoay xở ra sao khi thiếu anh. Rõ ràng hai người đàn ông ấy đã kết tội anh; hơn nữa, họ đã tuyên bản án!

    Anh không rõ họ có tốt khi chờ anh ăn xong bữa. Anh từng nghe chuyện công an bắt chú rể ngay trong lễ cưới. Quen ăn nhanh, lần này anh nhai nát miếng cơm trắng thành bột mà vẫn chưa nuốt. Không có vị ngọt mà chỉ thấy đắng ngắt trong miệng.

    Anh thẫn thờ gắp từng hạt cơm, cố chống lại số phận. Chưa từng có bữa ăn nào dài như vậy trong đời. Anh ước ao thời gian dừng lại. Anh nghĩ thà họ dẫn anh đi ngay còn hơn.

    Nhìn sang bên kia đường, thấy hai người đàn ông ngồi nhìn sang mình, anh buông đũa. Anh không đủ sức.




              
Trả lời

Quay về “Chuyên đề”