30/04/2016 - 41 năm mất miền Nam Tự Do

Trả lời
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Trận Chiến Ðấu Bi Hùng của Trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu, Tháng 4 1975

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  • Trận Chiến Ðấu Bi Hùng
    của Trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu,
    _____________________Tháng 4 1975

    __________________________________








    Một lớp của liên lớp 11 niên khóa 1973-1974
    chụp trước dãy phòng học tại khu văn hóa của Trường Mẹ.
    Tạm biệt, vĩnh biệt các bạn học của tôi, của tháng năm vui buồn thời ấu th
    ơ.




    Từ bên kia bờ sông Bến Hải, vết xích chiến xa T-54 và các sư đoàn Bắc Việt đã xoá nát văn kiện Hiệp Ðịnh Ba Lê 1973 tiến dần về Nam. Như là một định mệnh oan nghiệt, cả nước bị ém chặt và bức tử theo ván bài chiến lược quốc tế được quyết định từ ngoài cương thổ Việt Nam. Hoa Kỳ làm ngơ, thế giới cúi mặt trong lúc lãnh thổ miền Nam lần lượt lọt vào tay quân đội chính quy Bắc Việt. Quảng Trị mất, kế đến là Huế, Đà Nẵng, Qui Nhơn, Cao Nguyên, Nha Trang, Phan Thiết… Và rồi đầu tháng Tư 1975, mặc dầu bị Sư Đoàn 18 Bộ Binh của tướng Lê Minh Đảo cầm chân quyết liệt tại Long Khánh suốt 12 ngày đêm, Bắc quân lại tiếp tục tràn về ven biên ngoại ô Sài Gòn.

    Quân ta cứ rút, cứ rút. Vũng Tàu, những ngày cuối tháng tư năm 1975, một trong những phần thân thể còn lại của Tổ Quốc, cũng đang lên cơn sốt hốt hoảng và náo động. Dòng người di tản, cả lính lẫn dân, đổ về Vũng Tàu từ cả hai mặt, đường bộ cũng như đường biển. Vũng Tàu chênh vênh bên bờ nước, tuyệt vọng, cùng đường. Ngày 26 tháng 4, quân đội miền Bắc tấn chiếm Biên Hoà, Bà Rịa, sau đó, cầu Cỏ May nối liền Bà Rịa và Vũng Tàu bị giật sập. Vũng Tàu co ro trong thế cô lập, chờ chết.

    Trường Thiếu Sinh Quân, mặc dù toạ lạc ngay cửa ngõ của thị trấn, nhưng bị ngăn cách bởi những vách tường đá kiên cố bao quanh, những giao động âu lo, tuyệt vọng từ một Vũng Tàu hỗn loạn đã không lọt được vào trường. Các Thiếu Sinh Quân vẫn sinh hoạt đều đặn như mọi ngày. Thiếu Sinh Quân liên lớp 12 (lớp người viết), đang trong thời gian học thi tốt nghiệp, vẫn cắm cúi miệt mài với bài vở. Trong thời gian này, phần lớn các Thiếu Sinh Quân lớp nhỏ cư ngụ ở các vùng Sài Gòn, các tỉnh vùng 3 và vùng 4 đã được nhà trường cho về với gia đình. Các Thiếu Sinh Quân ở vùng 1 và vùng 2 phải ở lại trường do tình hình chiến sự rối ren hay đã mất vào tay Bắc quân. Không khí nhà trường vì thế càng tăng vẻ yên tĩnh, nặng nề. Cái nặng nề và yên tĩnh đó trở nên ngột ngạt và căng thẳng dần khi chúng tôi nhận ra những nét lo âu, bức xúc trên gương mặt của các cán bộ, nhân viên cơ hữu của trường.

    Ngày 28 tháng 4, chúng tôi được lệnh tập họp sau bữa ăn chiều. Trung Tá Ngô Văn Dzoanh, Chỉ huy trưởng, thông báo tình hình khẩn cấp, ban hành lệnh giới nghiêm và tuyên bố:
    • – Các em không có gì phải rối loạn, lo âu. Nhà trường đã có kế hoạch di tản!

    Mặc dù còn trẻ, nhưng chúng tôi đã cảm thức cái nguy cơ, cái bất thường, tuyệt vọng của tình hình đất nước trong những ngày qua, nên dù đã được chỉ huy trưởng trấn an, chúng tôi cũng đã phải trải qua một đêm mất ngủ. Tổ quốc, tương lai, gia đình, bè bạn và ngôi trường thân yêu này ngày mai sẽ ra sao? Chúng tôi trằn trọc đến sáng, khi mặt trời lên, trên gương mặt của đám Thiếu Sinh Quân chúng tôi, ai cũng hiện lên những nét lo âu, sợ sệt của đám gà con đang bối rối chui rúc dưới lông cánh gà mẹ trong lúc diều hâu đang lờ lững lượn trên vòm trời .

    Khung trời rộng dường như nhỏ dần lại trên khoảng không gian trường Thiếu Sinh Quân sáng ngày 29 tháng Tư, cùng lúc những lo âu của anh em lại trương lớn dần và căng thẳng thêm. Bỗng chợt âm thanh của đạn trọng pháo từ đâu xé gió rít qua không gian… và Ầm! Ầm! Tiếng nổ ù tai của những viên đạn rớt vào chân núi đài viba ngay đằng sau lưng trường.

    Đại Úy Lê Viết Đắc, cán bộ tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn Hùng Vương, liên lớp 12, rút súng ra khỏi vỏ, chạy ngược xuôi ra lệnh cho các Thiếu Sinh Quân nằm sát xuống đất để tránh miểng đạn. Trong bối cảnh của tiếng những mảnh đất đá rơi xào xạc trộn lẫn âm thanh vang dội của đạn trọng pháo, ông như một con gà mẹ đang dáo dác bảo vệ đàn con. Không biết mục tiêu của những viên trọng pháo đó là ai, là trường Thiếu Sinh Quân hay là đơn vị đồn trú tại đài viba gần trường, nhưng âm thanh của tiếng đạn nổ và cảnh núp đạn lần đầu tiên kể từ ngày vào trường đã gieo cho những đầu óc còn non nớt chỉ biết ăn, học và chơi của chúng tôi cái cảm giác kỳ lạ, hoang mang, lo sợ về sự sống và sự chết.

    Chúng tôi vẫn nằm yên. Địch pháo thêm vài đợt, đạn rơi bên ngoài trường, sau đó rồi im. Tình hình yên tĩnh trở lại.
    Khoảng 11 giờ trưa, trong cái cảm giác hụt hẫng, hoang mang, toàn trường như bất động lắng nghe tiếng Đại Úy Hoàng, cán bộ liên đoàn trưởng, thông báo qua loa phóng thanh:
    • – Toàn trường chuẩn bị di tản! Các thiếu sinh quân cấp trưởng trang bị vũ khí và nhận nhiệm vụ hướng dẫn và bảo vệ đoàn quân. Tập họp kiểm điểm quân số! Chuẩn bị lên đường khi có lệnh.


    Thế là hết ! Cơn bão lịch sử sắp tràn qua ngôi trường thân yêu đầy những kỷ niệm của tuổi thơ. Lệnh ra được tuân theo răm rắp. Khoảng xế một giờ trưa, toàn thể Thiếu Sinh Quân bắt đầu di chuyển khỏi nhà trường cùng với tất cả cán bộ, nhân viên. Đoàn di tản bắt đầu rời trường theo thứ tự từ nhỏ đến lớn. Là Thiếu Sinh Quân tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn Hùng Vương, liên lớp 12, tôi đi hàng đầu cùng các em nhỏ. Đội ngũ Thiếu Sinh Quân lặng lẽ di chuyển dưới ánh nắng Vũng Tàu chói chang. Đa số anh em là những đứa trẻ mất cha, mất mẹ trong chiến tranh, ngôi trường Mẹ Thiếu Sinh Quân trở thành tổ ấm đầu đời và tương lai, nay phải đoạn lìa, phải ra đi, những trái tim non đã bước đi những bước bùi ngùi, vương vấn. Đi về đâu? Với ai?

    Thông báo toàn trường sẽ được di tản bằng tàu không là câu trả lời trọn nghĩa cho những ý nghĩ mênh mang trong đầu những đứa trẻ chưa thành người lính. Đi được nửa đường thì đột nhiên chúng tôi bị một số binh sĩ Thuỷ Quân Lục Chiến chặn lại. Trung tá Dzoanh đến tiếp chuyện với người chỉ huy toán lính. Chúng tôi không rõ nội dung cuộc nói chuyện, song thấy không khí và sắc mặt của cả hai bên đều lộ vẻ căng thẳng. Qua tiếng được, tiếng mất, chúng tôi đoán Thuỷ Quân Lục Chiến đã chiếm giữ bến cảng để họ di tản. Họ buộc chúng tôi phải quay trở lại trường. Cuối cùng, lệnh quay về trường được ban xuống.

    Trên đường về, tâm hồn của tất cả mọi người đều trĩu nặng. Bắc quân càng lúc càng sát nách, đường thoát bị tắt nghẽn, sinh lộ càng lúc càng hẹp dần. Không ai bảo ai, tất cả mọi người đều thấy cái cơ may được di tản thật là mong manh

    Về đến trường, chúng tôi được tập trung ở sân banh. Chỉ huy trưởng thông báo là kế hoạch di tản được thay đổi. Theo kế hoạch này, chúng tôi sẽ được bốc tại trường bằng trực thăng để đưa ra Hạm Đôi 7 ở ngoài khơi Vũng Tàu. Thời gian như chậm lại trong giây phút chờ đợi nặng nề. Cả đám chúng tôi cùng bật dậy như những chiếc lò so khi thấy một chiếc trực thăng đáp xuống sân trường. Niềm hy vọng lại nhen nhúm bốc lên cùng đám bụi mù tung cao theo cánh quạt. Hành khách của chuyến không vận đầu tiên này gồm một cố vấn Mỹ mặc thường phục, Trung Sĩ 1 Ngộ, cán bộ trường, và 7 em Thiếu Sinh Quân thuộc Tiểu Ðoàn Quang Trung, là liên lớp nhỏ nhất của trường.

    Chuyến bay cất cánh rời khỏi vận động trường. Chúng tôi thẫn thờ tìm chỗ ngồi chờ đợi. Thời gian ngóng đợi kéo dài khoảng một tiếng đồng hồ mà chúng tôi có cảm tưởng như là một thế kỷ. Anh em nhìn lên bầu trời xanh chờ bóng dáng của chiếc trực thăng, chờ âm thanh của những cánh quạt. Chiếc trực thăng cứu tinh ngày càng biền biệt tăm hơi khi buổi chiều càng lúc càng ngả bóng dần trên sân trường. Nhìn lên cột cờ, lá cờ vàng ba sọc đỏ của Tổ Quốc vẫn còn tung bay. Nhìn xuống sân trường, đoạn trường, ngao ngán.

    Khoảng 6 giờ chiều, chúng tôi sững sờ nhìn chiếc xe chở Trung tá Chỉ huy trưởng lăn bánh vội vàng rời khỏi cổng trường. Trái tim nghẹn đắng một nỗi uất ức kèm theo một nỗi chới với hoảng hốt của một đứa bé lạc mẹ giữa buổi chợ đông nghẹt những người. Loa phóng thanh một lần nữa xác định một thực tế phũ phàng:
    • – Kể từ giờ phút này, chúng tôi không còn trách nhiệm với các em nữa, các em hãy tự lo lấy bản thân!

    Thế là quá rõ. Chúng tôi đã bị bỏ rơi. Ngôi trường này là nhà. Các cán bộ là người thân. Giờ đây chúng tôi biết phải làm gì, biết đi về đâu. Thế là như một bầy ong vỡ tổ, chúng tôi tung ra tản mát chạy khỏi trường. Chạy đi đâu? Chẳng biết ! Tại sao chạy? Chẳng hiểu! Thấy bạn bè chạy thì mình cũng chạy. Thế thôi!

    Tôi và Nguyễn Lương Thịnh, biệt hiệu Thịnh nhóc (hiện ở tại Việt Nam), cùng chạy chung. Tay cầm súng, tay gạt các nhánh sậy che phủ con đường mòn sau núi, chúng tôi chạy hộc tốc như bị cọp đuổi sau lưng. Chúng tôi ra tới Bãi Trước và nhận ra tình trạng náo loạn ngoài đường phố, tiếng đạn nổ tứ tung, dân chúng ai cũng đóng chặt cửa, trốn trong nhà. Thật không khác một đám loạn kiêu binh

    Tôi thấy ở phía trước mặt, cách chỗ tôi đứng khoảng 200 thước, một Thiếu Sinh Quân cũng cầm súng như tôi bị một người lính, không biết là ta hay địch giả dạng, hành hung và giật lấy khẩu súng của em. Tôi không hiểu vì sao. Hoảng hốt tôi và Thịnh vội vàng vất súng và quay ngược chạy trở về trường. Trong phút giây này, có lẽ chỉ có trường tạm thời còn là tổ ấm dung thân. Mệt và khô cổ đến đắng họng. Chẳng hiểu sao chúng tôi lại có thể chạy liên tục từ trường ra bãi trước và từ bãi trước trở về trường như vậy.

    Về đến gần trường, tôi chợt nhớ ra gia đình người bạn cùng liên lớp là Tô Trích Long Vân. Cha của Vân là Thiếu Úy Tô Trích Mầu, một cán bộ của trường. Gia đình của Vần nằm trong khu gia binh gần trường. Thế là chúng tôi chạy đến gõ cửa xin tạm náu. Bố mẹ Vần dọn cơm cho chúng tôi ăn. Mẹ Vần nhìn Thịnh và tôi đang ngấu nghiến ngồi ăn với ánh mắt xót thương, trìu mến. Tôi không bao giờ quên được ánh mắt của bà. Có lẽ bà đang nghĩ tội nghiệp cho hai đứa chúng tôi.

    Là những bạn học cùng lớp, Vần còn có gia đình ruột thịt ở bên cạnh, hai đứa chúng tôi thì tứ cố vô thân, không biết sẽ trôi dạt về đâu trong cơn biến loạn. Xong bữa cơm, nhìn ra ngoài trờI, đêm đen đã trùm kín không gian tự lúc nào. Căn nhà như thu mình trong nỗI lo âu. Mọi người cứ ngồi nhìn nhau chẳng ai nói một lời.

    Trong lúc mọi người đang chìm đắm trong những suy tư riêng, tôi bỗng nghe tiếng loa phóng thanh từ trong trường vọng lại:
    • – Các anh Thiếu Sinh Quân lớp lớn xin trở về trường! Chúng em cần các anh lắm.

    Tiếng gọi của em nhỏ Thiếu Sinh Quân vang vọng trong màn đêm, thúc bách não nuột như tiếng kêu chim chíp của gà con mất mẹ, làm cho tôi vô cùng xốn xang, bức xúc. Các em chẳng có nơi nào dung thân, chỉ còn biết trông cậy vào các anh lớn đùm bọc. Là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn lớp lớn nhất, tôi nhận ra trách nhiệm của mình. Tôi không thể ngồi yên khi nghĩ đến bạn bè và đàn em đang ở trong trường. Có thể lúc này Bắc quân đã có mặt đâu đó gần Vũng Tàu hay quanh trường, nhưng tiếng gọi loa đã khiến tôi phải đứng lên và cương quyết trở lại trường với các em. Bố Mẹ Vần lo lắng khuyên chúng tôi đổi ý. Tôi cám ơn Bố Mẹ Vần và nói trước khi cùng Thịnh phóng vào đêm tối:
    • – Tụi con không thể bỏ các em được!

    Về đến trường, các bạn cùng liên lớp với tôi như Lâm A Sáng, Phạm Ngọc Trình, Nguyễn Văn Minh cũng đã có mặt. Tôi nhận thấy các bạn đã phá cửa kho vũ khí của trường và đang hì hục khuân vác súng đạn ra các ổ canh gác. Một toán các Thiếu Sinh Quan khác thì đang xả thịt một con bò, lui cui nấu cơm và luộc thịt. Thế là tôi vớ lấy một cái nón sắt, chụp một khẩu carbine cùng với Thịnh, cũng trang bị y hệt, lúc nào cũng kè kè bên cạnh. Hai đứa chúng tôi tự xem trách nhiệm tổ chức canh gác như nhiệm vụ được anh em giao phó.

    Nhìn lên bầu trời đen thẳm với nỗi cô đơn chợt đến, chợt đi, tôi suy nghĩ lan man với một bài toán không đáp số. Vì trách nhiệm của anh lớn bảo bọc đàn em, chúng tôi sẵn sàng cho một cuộc chiến. Cuộc chiến này sẽ đi về đâu ? Chúng tôi không biết. Tương quan lực lượng nghiêng lệch ra sao? Chúng tôi chẳng cần bàn. Không ai trong chúng tôi tin là mình sẽ chiến thắng, nhưng chúng tôi vẫn sẽ chiến đấu, ít nhất chúng tôi cũng phải đánh trả đích đáng những ai muốn chiếm lấy ngôi trường này, nơi dung thân cuối cùng của chúng tôi.

    Tôi và Thịnh vác súng đi một vòng toàn trường. Thăm các chốt và các chòi canh. Các chốt canh gác các hướng xâm nhập chủ yếu đều được trang bị vũ khí cộng đồng với xạ thủ, phụ tá xạ thủ và nhân viên tiếp đạn. Nhìn những Thiếu Sinh Quân đàn em chững chạc, tự tin bên những ổ súng, thành thạo nạp những băng đạn vào súng, sẵn sàng khai hoả, tôi bỗng thấy các em chợt lớn lên như những anh hùng Phù Đổng. Tôi đặt mật khẩu dặn các chốt canh phải học thuộc, nếu thấy bóng người thì lên tiếng hỏi. Trả lời không đúng mật khẩu là “quạng” liền lập tức. Toàn trường đặt trong tình trạng báo động và sẵn sàng chiến đấu bất cứ lúc nào.

    Sau khi dạo vài lần, nhận thấy các chốt canh đã được chuẩn bị đạn dược chu đáo, mật khẩu thông thuộc, tất cả mọi người đều được phân phát khẩu phần đầy đủ. ( Nhìn các bạn “chén” bữa cơm nửa khê, nửa sống một cách ngon lành, tôi có cảm giác bữa cơm hôm nay có lẽ là bữa cơm ngon nhất kể từ ngày nhập trường của các bạn.)

    Tôi và Thịnh quay lên phòng làm việc của chỉ huy trưởng nghỉ dưỡng sức. Lúc này Thịnh quá mệt, chẳng còn tha thiết gì nữa. Cậu ta chui ngay vào một góc và chỉ vài phút sau là đã bắt đầu “kéo đờn cò.” Ngoài trời đêm đen thật thanh vắng, tôi ra ngoài đứng trên ban công nhìn qua trại gia binh bên cạnh, tự hỏi không biết gia đình Vần đang làm gì và nghĩ đến ánh mắt yêu thương của Mẹ Vân nhìn hai đứa tôi khi ăn cơm với linh cảm mình sẽ không bao giờ có lại được bữa cơm đó.

    Nhìn qua lầu 2 phòng quân số, tất cả đều yên tĩnh. Tôi biết một số quá mệt, chắc cũng đã “hồn bướm mơ tiên,” tuy nhiên hẳn cũng đã phân công thay phiên nhau ngủ. Những con gà con rối loạn chỉ trong vòng vài tiếng đồng hồ nay đã trở thành những con mãnh hổ đang nằm phục sẵn. Không ai có thể ngờ được sức mạnh của những con mãnh hổ này lợi hại đến nhường nào.

    Tôi quay lại phòng chỉ huy trưởng, và ngủ thiếp đi tự lúc nào không hay. Trong giấc mơ, tôi thấy mình đang ở nhà quây quần cùng với cha mẹ và anh em. Hai đứa em gái của tôi, bấy giờ mới được 7 và 8 tuổi, đòi tôi dẫn đi chợ. Hằng năm, mỗi lần được về phép thăm nhà, anh em chúng tôi, như đã thành thông lệ, thường được cha mẹ cho tiền. Hai cô em gái của tôi thì rất thích ăn yaourt. Ở chợ gần nhà có quán của bà Ba, yaourt của bà làm thật là ngon tuyệt. Thế là ba anh em chúng tôi lại đến vòi mẹ xin tiền rồi mỗi đứa một bên, tôi dắt hai em đi chợ. Đi gần đến chợ thì… một em Thiếu Sinh Quân lay tôi dậy. Tôi mở mắt thấy trời hừng sáng. Em nói
    • Anh Dũng ! Có lính đông lắm, đang đi về phía mình

    Tôi bật dậy, nhảy ngay ra ban công nhìn về hướng đại lộ độc đạo dẫn vào cổng trường. Trời đang mưa lâm râm, còn mờ mờ tối, cảnh vật rất yên tĩnh. Tôi chẳng nhìn thấy gì và nghĩ cậu bé lay mình dậy chắc vì hoảng sợ nên tưởng tượng, trông gà hoá cuốc. Sắp sửa quay lưng trở về chỗ nằm thì tôi chợt nghe tiếng oang oang của Hạ Sĩ Hoành, các anh em đặt biệt hiệu vui là Hoành heo. Anh Hoành là hạ sĩ quan cán bộ hỏa đầu vụ. Tôi ngạc nhiên với sự hiện diện của Hạ Sĩ Hoành, chẳng biết Anh nhập cuộc từ bao giờ. Hạ sĩ Hoành bảo chúng tôi:
    • – Tụi bay ở đó đi! Chắc là lính mình đó ! Để tao ra coi thử!

    Cùng đi với hạ sĩ Hoành là Nguyễn Văn Thành liên lớp 12 và một Thiếu Sinh Quân nữa tôi không biết tên. Đến lúc đó tôi mới phát hiện có môt nhóm người lố nhố ở tít đằng xa đang tiến dần về phía chúng tôi. Tôi đứng trên lầu căng mắt theo dõi và dặn anh em chuẩn bị sẵn sàng cho mọi bất trắc. Đột nhiên, tất cả chúng tôi đều nghe tiếng hạ sĩ Hoành la lớn:
    • – Việệt Cộộộng!

    Tiếng hô vừa dứt thì lập tức tất cả hỏa lực đặt sẵn ở lầu 1 phòng quân số, phòng chỉ huy, các khu vực tháp canh nhất tề khai hoả yểm trợ cho đồng đội chạy trở vào trường. Bắc quân chắc không thể nào ngờ họ lại được đón tiếp một cách “nồng hậu” như vậy. Suốt khoảng thời gian gần 15 phút, hoả lực từ trong trường dập ra thật dữ dội. Bắc quân bị tấn công bất ngờ, chui rúc tìm chỗ tránh đạn, chỉ nghe rời rạc vài tiếng AK bắn trả. Có lẽ họ nghĩ trường Thiếu Sinh Quân đã di tản và bỏ trống. Những phút giây khai hoả dữ dội ở cổng trường đã làm cho tất cả lực lượng chiến đấu còn lại của trường tỉnh táo và sẵn sàng ở vị trí ứng phó 5/5.

    Bên ngoài trường, hẳn là đồng bào đã choàng thức và ngạc nhiên, lo âu, nhìn về hướng trường Thiếu Sinh Quân. Một buổi sáng họ không bao giờ quên. Trong trường, anh em di chuyển nhộn nhịp hẳn lên. Tôi nhìn thấy Lâm A Sáng (hiện đang định cư tại Seatle, Washington ) và Phạm Ngọc Trình (đã chết ở Việt Nam) chạy lúp xúp sang ban quân số, đứa vác súng, đứa vác đạn. Đến ban quân số, tầng trên đã chật ních những xạ thủ, Sáng và Trình phải nằm thủ ở bậc cầu thang. Thoắt một cái khẩu trung liên Bar của Sáng và Trình đã sẵn sàng tham gia cuộc chiến. Súng vẫn còn nổ giòn giã thì Hoàng Văn Mạ đang thủ khẩu đại liên trên lầu gào lớn:
    • – Ê, tụi bay! Bắn cho chính xác và vừa thôi, coi chừng hết đạn nghe!

    Tiếng gào của Mạ, như thể một mệnh lệnh, khiến cho tất cả các khẩu súng đều ngừng khạc lửa. Khói súng mịt mù. Mùi thuốc súng nồng nặc. Tai tôi lùng bùng vì tiếng đạn tưởng rách màng nhĩ. Xa xa ngoài cổng trường, các bóng Bắc quân biến đi đâu mất. Bên trong sân trường và các ổ chiến đấu thì hết sức tĩnh mịch, cái yên tĩnh rùng rợn của một hứa hẹn đổ máu thật dễ sợ mà lần đầu tiên trong đời tôi mới cảm thấy. Tôi đoán Bắc quân thế nào cũng sẽ tấn công để chiếm trường. Tôi cũng biết quyết tâm của những tay súng Thiếu Sinh Quân liều lĩnh. Chúng tôi lúc này như đã ở vào thế cận chân tường, chiến đấu trong tâm trạng “điếc không sợ súng” và ý nghĩ “không còn gì để mất!”

    Bên ngoài, trời đã bắt đầu rạng sáng. Trấn tĩnh đội hình, Bắc quân bắt đầu tấn công chiếm trường. Họ cho một toán quân tiến qua khách sạn đối diện trường ở bên kia đường và chiếm giữ các vị trí trên các tầng lầu nhằm giảm lợi thế của chúng tôi khai hoả từ trên cao. Một mặt, họ đưa hỏa lực mạnh như súng cối, súng phóng lựu, B-40 để công phá chúng tôi từ mặt đất, vì với vị trí phòng thủ kiên cố, hoả lực nhẹ của họ không có tác dụng uy hiếp được chúng tôi.

    Cuộc chạm súng đợt hai khởi diễn với quả đạn pháo của Bắc quân rớt vào giữa sân banh sau lưng chúng tôi. Lần đầu tiên bị pháo giữa sân trường, lẽ ra phải nằm xuống tránh miểng đạn, một số các em hoảng sợ chạy tán loạn tìm chỗ che lưng, cũng may là không ai bị trúng thương. Tiếp theo là một phát B-40 thổi tung cổng trường, một em Thiếu Sinh Quân, có lẽ thuộc liên lớp 9 hoặc 10, chạy ra kéo cửa đóng lại. Vừa đóng xong, em chạy qua nấp bên bức tường đá phía phòng chỉ huy. Tất cả sự việc xảy ra trong vòng không đầy một phút, em vừa kịp lách mình vào thành đá là một quả B-40 thứ hai nốI tiếp một lần nữa mở toang cổng trường. Giỡn mặt với tử thần như vậy cũng tạm đủ. Từ giờ phút đó chẳng ai “thèm” chạy ra đóng cửa nữa. Nhìn rõ mặt, đánh nhau mới “sướng!”

    Mặc dầu có những lỗi lầm ngu ngơ của lần đầu tiên trong đời đối mặt với kẻ thù như vừa kể, cuộc chạm súng đợt hai đã diễn ra thật dữ dội. Đối phó với địch quân trên tầng lầu khách sạn, Phú Văn Đại cầm khẩu M-79 bắn trực xạ vào các ô cửa phòng khách sạn. Chẳng hiểu hắn luyện tập khi nào mà xử dụng vũ khí rất chuyên nghiệp. Bắc quân bị khốn đốn rất nhiều với anh chàng này. Đối phó với toán quân trên bình địa là các khẩu đại liên phối hợp với các khẩu trung liên, tiểu liên thay phiên bọc lót cho nhau. Những tràng đạn giòn tan đủ âm độ được tô điểm bởi những phát nổ cầm chừng của các khẩu garant nhịp nhàng ăn ý, lâu lâu lại có tiếng dậm đậm đà của cây phóng lựu M2. Tất cả các âm thanh quyện lại như một giàn nhạc giao hưởng điêu luyện và biến thành một lướI đạn chằng chịt phủ xuống đầu đốI phương.

    Với quân số hơn một tiểu đoàn chính quy Bắc Việt, đối phương dồn hoả lực cố gắng tạo kẽ hở để vượt lên tiến đến gần chúng tôi. Nhưng với vị trí thuận lợi và những tay súng gan lì không hề nao núng trước làn đạn kẻ thù, các em nhỏ Thiếu Sinh Quân đã buộc Bắc quân phải bó tay, dậm chân tại chỗ suốt hơn một giờ chiến đấu.

    Đến khoảng 7 giờ sáng, từ bên phòng chỉ huy trưởng, tôi chạy băng qua phòng quân số để theo dõi việc tiếp đạn cho các khẩu đại liên đặt tại đó. Qua hai cánh cổng mở toang, tôi thấy một bộ đội cộng sản đang đặt khẩu phóng lựu trên vai nhắm thẳng ngay tôi. Tôi bật ngay khẩu carbine trên tay hướng về hắn bóp cò. Cùng lúc, viên đạn từ nòng súng của hắn cũng xẹt ánh sáng xanh bay về phía tôi. Chệch qua mặt tôi khoảng hai gang tay, viên đạn trúng đài biểu tượng Nhân Trí Dũng phá tan một mảnh đá lớn.

    Ngay lúc đó, tôi cảm thấy hoa mắt, chân và vai tê rần. Khuỵu xuống vớI chân phải bị trúng thương, tôi liếc nhìn xuống chiếc áo sơ mi đang mặc loang lổ đầy máu tươi. Một thoáng tích tắc ngạc nhiên không hiểu tại sao áo mình đầy những máu mà không cảm thấy một chút đau đớn gì thì tôi ngã ra ngất xỉu. Trong lúc đó Lâm A Sáng cũng bị một phát đạn vào chân. Lê Văn Tánh (còn ở tại Việt Nam) chạy lại băng bó cho Sáng, một lúc sau cũng lãnh một viên đạn vào đùi.

    Thế là Phạm Ngọc Trình cõng Lâm A Sáng, Nguyễn Văn Minh cõng tôi chạy qua khu Văn hoá. Nghe kể lại, hai Thiếu Sinh Quân đã dùng tấm drape giường làm võng khiêng tôi đang mê man ra đến bệnh viện Vũng Tàu cách trường vài cây số.

    Các anh em Thiếu Sinh Quân ở lại vẫn tiếp tục chiến đấu mãi cho đến gần 10 giờ sáng. Khi ấy đạn dược đã gần cạn, các bạn mới quyết định gọi loa điều đình ngừng bắn và treo cờ trắng đầu hàng. Một sự đầu hàng trong danh dự vì các em vẫn đường hoàng làm lễ hạ Quốc kỳ và thay vào đó bằng tấm drape trắng dong lên cho phép Bắc quân đặt chân vào ngưỡng cửa ngôi trường yêu dấu. Bắc quân hẳn phải bàng hoàng khi thấy những đối thủ kiêu hùng của họ chỉ là các em Thiếu Sinh Quân tuổi trung bình 15, 16 mà thôi. Họ uất ức, nhưng chắc hẳn cũng phải thán phục các tác giả của 6 xác bộ đội đang nằm phơi nắng ngoài cổng trường.

    Theo lời thuật lại của Lâm A Sáng, thì trong hơn 100 Thiếu Sinh Quân tham gia trận đánh, đa số đã leo rào sau trường trốn thoát trước khi Bắc quân xông vào cổng trường, chỉ còn vài chục em nhỏ ở lại với các anh lớn bị thương không thể đào thoát. Tất cả bị bắt giữ đem nhốt qua trại gia binh Cô Giang bên cạnh trường. TrạI Gia Binh Cô Giang vốn là ngõ ngách quen thuộc của các Thiếu Sinh Quân. Kết quả là tất cả đã chui rào biến mất, khiêng luôn cả Lê Văn Tánh bị thương nặng ở đùi theo. Nhốt Thiếu Sinh Quân ở Trại Cô Giang chẳng khác nào thả hổ về rừng.

    Trở lại phần tôi, tỉnh dậy trong bệnh viện Vũng Tàu thì trời đã tối. Chân và vai đau đớn vì miểng đạn, mặt thì sưng vù không há miệng được do vết thương ở bên má. Cho đến bây giờ, hơn 27 năm sau, ngồi viết đến đoạn này tôi vẫn không ngăn được niềm xúc động và tự hào cho tình yêu thương lẫn nhau hiếm có của những con người Thiếu Sinh Quân.

    Bệnh viện đầy ngập những người bị thương. Nhân viên y tế không đủ để chăm sóc. Tôi bị bỏ nằm trên nền đất lạnh cả đêm chẳng có y tá nào ngó ngàng tới. Chỉ có một em Thiếu Sinh Quân lớp 9 mà mãi đến 27 năm sau, tình cờ do một duyên may tôi mới được biết tên, là Nguyễn Kim Hùng (hiện cư ngụ tại Oklahoma), đã ở lại chăm sóc cho tôi. Em thức suốt đêm cạy miệng đổ sữa cho tôi cầm sức và quanh quẩn bên tôi để giúp đỡ. Đến sáng hôm sau thì một đám bạn cùng lớp gồm Thịnh nhóc, Thành râu (hiện định cư tại Minnesota), Thiện huế và vài anh em nữa tôi không nhớ tên đến bệnh viện đón tôi đi. Các bạn rất vất vả thay phiên nhau cõng tôi đi mãi đến khi trời chập choạng tối thì chúng tôi mới về đến Bà Rịa. Nghỉ ở Bà Rịa một đêm, sáng hôm sau, chúng tôi lại dìu dắt nhau tìm phương tiện để trở về thành phố.

    Lịch sử đã sang trang. Hơn một phần tư thế kỷ đã trôi qua. Trường Thiếu Sinh Quân ngày nay đã trở thành trụ sở của một công ty dầu khí ở Vũng Tàu. Tuy nhiên, trong lòng những người dân xứ biển, hình ảnh hào hùng của các Thiếu Sinh Quân trong trận đánh giữ trường lịch sử mãi mãi sẽ không bao giờ phai nhạt. Tổ quốc sẽ ghi danh trong quân sử những người con Thiếu Sinh Quân vũ dũng kiêu hùng đã viết nên thiên anh hùng ca bất khuất cho quân đội.




    CTSQ Nguyễn Anh Dũng và CTSQ Lâm A Sáng
    Colorado, ngày 24 tháng 10 năm 2002
    (Edited by Bắc Phong Sài Gòn/ K23 Thủ đức)

    nguồn: buonvuidoilinh.wordpress.com
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Vài nét về một anh hùng: Đại tá Hồ Ngọc Cẩn

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  • Vài nét về một anh hùng:


    _______Đại tá Hồ Ngọc Cẩn
    ____________________________________________





    Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn



    Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn sinh ngày 24 tháng 3 năm 1938, tại Cần-Thơ. Thân phụ là một hạ sĩ quan trong quân đội Quốc Gia Việt Nam. Thủa nhỏ ông rất khỏe mạnh, không hề bị bệnh tật gì.
    Năm 10 tuổi ông bị bệnh quai bị, cả hai bên. Tính tình hiền hậu, giản dị, trầm tư, ít nói.
    Khi ông bắt đầu đi học (1945) thì chiến tranh Pháp-Việt bùng nổ, nên sự học bị gián đoạn.
    Mãi đến năm 1947 ông mới được đi học lại. Ông học không lấy gì làm giỏi cho lắm, thường thì chỉ đứng trung bình trong lớp.
    Năm 1951, phụ thân nộp đơn xin cho ông nhập học trường Thiếu Sinh Quân.Thời điểm này, trên toàn lãnh thổ VN có 7 trường TSQ, phân phối như sau :
    • – Trường TSQ đệ nhất quân khu, ở Gia-Định.
      – Trường TSQ đệ nhị quân khu ở Huế.
      – Trường TSQ đệ tam quân khu ở Hà-Nội.
      – Trường TSQ Móng-Cáy dành cho sắc dân Nùng.
      – Trường TSQ đệ tứ quân khu ở Ban-Mê-Thuột.
      – Trường TSQ Đà-Lạt của quân đội Pháp.
      – Trường TSQ Đông-Dương của quân đội Pháp, ở Vũng-Tầu.

    Hồ Ngọc Cẩn được thu nhận vào lớp nhì trường TSQ đệ nhất quân khu niên khóa 1951-1952. Trường này dạy theo chương trình Pháp. Ông đỗ tiểu học năm 1952. Cuối năm 1952, trường TSQ đệ nhất quân khu di chuyển từ Gia-Định về Mỹ-Tho.
    Khi hiệp định Genève ký ngày 20-7-1954, thì ngày 19 tháng 8 năm 1954, trường TSQ đệ tam quân khu di chuyển từ Hà-Nội vào, sát nhập với trường TSQ đệ nhất quân khu ở Mỹ-Tho.
    Niên học 1954-1955, trường TSQ đệ nhất quân quân khu bắt đầu dạy chương trình Việt, và chỉ mở tới lớp đệ ngũ. Hồ Ngọc-Cẩn học lớp đệ lục A, giáo sư dạy Việt-Văn là ông Nguyễn Hữu-Hùng, từ Bắc di cư vào. Thực là một điều lạ, là giữa một số bạn học chương trình Việt từ Bắc vào, mà Hồ Ngọc-Cẩn lại tỏ ra xuất sắc về môn Việt-Văn. Trong năm học, có chín kỳ luận văn, thì bài của Cẩn được tuyển chọn là bài xuất sắc, đọc cho cả lớp nghe bảy kỳ. Nhưng bài của Cẩn chỉ đứng thứ nhì trong lớp mà thôi. Năm này Cẩn bắt đầu làm thơ. Thơ của Cẩn không có hùng khí, đa số những bài thơ này cực kỳ lãng mạn.

    Ghi chú.
    Ông Hùng bấy giờ mới đỗ tú tài. Trong thời gian dạy tại trường TSQ, ông tự học, đỗ cử nhân luật. Sau khi đỗ cử nhân luật, ông được bổ làm thẩm phán ở Tuy-Hòa, rồi làm bộ trưởng Lao-Động, rồi thẩm phán ở Phước-Tuy, rồi lại làm bộ trưởng Lao-Động. Sau 1975 ông sống tiềm ẩn ở Houston, bang Texas, Hoa-kỳ và từ trần năm 2000.


    Hết năm học, Cẩn đã 17 tuổi. Theo học quy của trường TSQ, thì khi một học sinh mười bẩy tuổi, mà chưa học hết đệ ngũ, sẽ được gửi đi học chuyên môn. Còn như mười bẩy tuổi, mà học hết đệ ngũ, lại tỏ ra xuất sắc thì được giữ lại học đệ tứ, rồi... cho học lên cao nữa. Niên khóa 1955-1956, Hồ Ngọc-Cẩn được gửi lên học tại Liên-Trường Võ Khoa Thủ-Đức, về vũ khí. Sau ba tháng, Cẩn đậu chứng chỉ chuyên môn về vũ khí bậc nhất với hạng ưu. Sáu tháng sau đó, Cẩn lại đậu chứng chỉ bậc nhì, và bắt đầu ký đăng vào quân đội với cấp bậc binh nhì.

    Quy chế dành cho các TSQ Việt-Nam thời ấy là quy chế dành cho các TSQ Pháp trong thời bình. Một học sinh ra trường, thì ba tháng đầu với cấp bậc binh nhì, ba tháng sau với cấp bậc hạ sĩ, ba tháng sau thăng hạ sĩ nhất, và ba tháng sau nữa thăng trung sĩ. Chín tháng sau Cẩn là trung sĩ huấn luyện viên về vũ khí.

    Chiến tranh tại miền Nam VN tái phát vào năm 1960 tại một vài vùng. Sang năm 1961 thì lan rộng. Để giải quyết nhu cầu thiếu sĩ quan, bộ Quốc-Phòng cho mở các khóa sĩ quan đặc biệt. Được nhập học trường này, tất cả các hạ sĩ quan có trên năm năm công vụ, có bằng Trung-Học đệ nhất cấp. Với sự nâng đỡ đặc biệt của đại tướng Lê Văn-Tỵ Tổng-tham mưu trưởng, nguyên là một cựu TSQ, các hạ sĩ quan xuất thân từ trường TSQ, không cần phải hội đủ trình độ học vấn, cũng như thâm niên công vụ, đều được nhập học.

    Nào ai ngờ, với sự nâng đỡ đặc biệt này, đã cung cấp cho đất nước VN không biết bao nhiêu sĩ quan gương mẫu, anh hùng trên chiến trường.

    Hồ Ngọc-Cẩn tốt nghiệp khóa 2 sĩ quan đặc biệt với cấp bậc chuẩn úy. Dường như có một mật lệnh của Tổng-Thống Ngô Đình-Diệm hay đại tướng Lê Văn-Tỵ, các tân chuẩn úy, xuất thân từ trường TSQ, đều được đưa về phục vụ tại các binh chủng : Dù, Thủy-Quân Lục Chiến (TQLC) , Biệt-Động Quân (BĐQ), Quân-Báo, An-Ninh Quân Đội, và Lực-Lượng Đặc Biệt (LLĐB).

    Sau khi ra trường, Hồ Ngọc-Cẩn theo học một khóa huấn luyện BĐQ, rồi thuyên chuyển về phục vụ tại khu 42 chiến thuật, với chức vụ khiêm tốn là trung đội trưởng. Lãnh thổ khu này gồm các tỉnh Cần-Thơ (Phong-Dinh), Chương-Thiện, Sóc-Trăng (Ba-Xuyên), Bặc-Liêu, Cà-Mâu (An-Xuyên). Về sau, vì tình hình chiến tranh thay đổi, quân cộng-sản từ du kích chiến, chuyển sang đánh cấp tiểu đoàn và trung đoàn, các đại đội BĐQ cũng phải kết hợp thành tiểu đoàn. Các đại đội BĐQ của khu 42 chiến thuật kết thành hai tiểu đoàn. Tiểu đoàn mang số 42, đơn vị mà Cẩn phục vụ, được tặng mỹ danh là tiểu đoàn Cọp ba đầu rằn. Tiểu đoàn mang số 44 được tặng mỹ danh là Cọp xám U-Minh Hạ.




    Tôi đã gặp Hồ Ngọc-Cẩn bao giờ ? Tại đâu ? Câu truyện như thế này :

    Năm 1966, khi đọc trong Đại-Nam chính biên liệt truyện, Đại-Nam nhất thống chí viết về « Ngụy Tây-sơn », có rất nhiều nghi vấn trong những trận đánh giữa vua Quang-Trung, với vua Gia-long tại rừng U-minh. Tôi nảy ra ý xuống vùng tận cùng của đất nước này tìm hiểu thêm. Bấy giờ đang xẩy ra vụ biến động miền Trung, « các thầy mang bàn thờ xuống đường » , chiến cuộc tại miền Tây cực kỳ sôi động, mẹ tôi, bà má má (vú nuôi) cực lực phản đối, vì đi như vậy dễ tiêu dao miền Cực-lạc lắm. Nhưng bố tôi, sau khi tính số Tử-vi của tôi, cụ lại khuyên tôi nên đi. Cụ nói « Con đi lần này sẽ có thêm nhiều bạn tốt, hơn nữa có dịp biết về vùng đồng lầy Cà-mau ». Tôi nhất quyết đi, bà má má tôi khóc khốn khổ, nhưng cũng không cản được cái tính phiêu lưu và mê sưu tầm của tôi.

    Nhưng làm thế nào để có thể được vào tất cả những làng, những xã, mà không gặp trở ngại ? Làm sao có phương tiện di chuyển ?
    Chỉ một cú điện thoại, ông bố tôi đã kiếm cho tôi cái giấy giới thiệu của tờ tuần báo trung lập lớn nhất ở Paris. Bà má má kiếm cho tôi giấy giới thiệu của tờ nhật báo Hoa-văn tại Hương-Cảng. Thế là tôi bỗng trở thành ký giả bất đắc dĩ. Tôi đến bộ tư lệnh MACV xin giúp phương tiện làm phóng sự chiến trường ở vùng 4 chiến thuật. Tôi chỉ mong tìm hiểu lịch sử, chứ nào có chủ tâm làm ký giả !

    Nhưng sau chuyến đi ấy, quá xúc động về cuộc chiến tranh thê thảm, tôi đã viết rất nhiều bài ký sự chiến trường, đăng trên một số báo ngoại quốc.
    Khởi đầu, uất hận trước cái chết của một cô bạn gái tên Đặng-thị Tuyết, mới hai mươi tuổi, làm nữ cán bộ Xây-Dựng Nông Thôn tại kinh Tắc-Vân, Cà-Mau. Tôi là thầy thuốc, mà cô bị trúng đạn, chết trên tay tôi. Tôi viết bài « Giang biên hoa lạc » gây xúc động mạnh cho độc giả Hương-Cảng và giới Hoa-Kiều tại VN. Sau tôi có dịch bài này sang tiếng Việt với tên là « Hoa rơi bên bờ kinh Tắc-Vân » . Tôi gửi bài này dự thi giải ký sự chiến trường của Cục Tâm-Lý Chiến năm 1967. Bài của tôi được giải nhì. Giải nhất về Trang-Châu cũng là một bài ký sự của y sĩ tiền tuyến. Một trong các giám khảo nói với tôi
    • « Về nội dung, bài của cháu với Trang-Châu cùng nói lên niềm mơ ước của tuổi trẻ quên mình cho quê hương. Nhưng bài của Trang-Châu trung thực, còn bài của cháu thì ướt át quá, thê thảm quá, dù rằng đó là sự thực ».


    Sau đây, tôi xin trích nguyên văn một đoạn tôi viết về Hồ Ngọc-Cẩn, trong bài « Ngũ Hổ U-Minh Thượng », kể chuyện năm tiểu đoàn trưởng nổi danh can đảm, có máu văn nghệ, nhất là phong lưu tiêu sái, tại chiến trường cực Nam năm 1966. Ngũ hổ là :

    • · Đai-úy Hồ Ngọc-Cẩn, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 1/33,
    • · Thiếu-tá Lưu Trọng-Kiệt tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 42 BĐQ.
    • · Thiếu-tá Nguyễn Văn-Huy tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 44 BĐQ,
    • · Thiếu-tá Lê Văn-Hưng tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 2/31.
    • · Đại-úy Vương Văn-Trổ tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 3/33.

    Ghi chú:
    Tôi xếp theo thứ tự abc. Trong năm người thì
    • Kiệt tuẫn quốc năm 1967.
      Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Hưng tự tử,
      Cẩn bị xử bắn.
      Còn Trổ , sau lên đại tá lĩnh tỉnh trưởng Kiên-Giang, hiện định cư tại Houston, bang Texas, Hoa-Kỳ.
      Còn Huy tôi không biết sau ra sao ?


    Ngày 19 tháng 4 năm 1966, tôi tới phi trường Vĩnh-Lợi bằng phi cơ Caribou của quân đội Hoa-Kỳ. Người đón tôi là thiếu tá Raider, của cố vấn đoàn 42. Tại bản doanh của cố vấn đoàn 42, đại tá cố vấn trưởng Hathaway không biết gì về chủ đích chuyến đi của tôi. Ông chỉ căn cứ vào giấy giới thiệu do hai chủ báo cấp, mà đoán rằng tôi là tên thầy thuốc trẻ, thích phiêu lưu, nên đi làm ký giả. Ông cho tôi biết tình hình địch rất chi tiết. Về tình hình quân đội VN tại năm tỉnh tận cùng của đất nước, ông nói :
    • – « Khu 42 chiến thuật, do sư đoàn 21, thuộc quân đoàn 4 trấn nhậm. Sư đoàn có ba trung đoàn mang số 31, 32, 33. Trung đoàn 31 đóng tại Chương-Thiện. Trung-đoàn 32 đóng tại Cà-Mau. Trung-đoàn 33 đóng tại Ba-Xuyên. Ngoài ra còn có hai tiểu đoàn Biệt-Động Quân mang số 42 và 44. Tiểu đoàn 42 đóng tại Bặc-Liêu, tiểu đoàn 44 đóng tại Ba-Xuyên ».

    Ông ca tụng quân đội VN như sau :
    • « Lương bổng cho người lính VN, chỉ gọi là tạm đủ ăn. Doanh trại không có, trang bị thiếu thốn. Nhưng họ chiến đấu như đoàn sư tử. Tuy vậy vẫn có những điều đáng phàn nàn. Ông là thầy thuốc cầm bút, xin ông lướt qua những cái đó ».

    Bốn hôm sau, có cuộc hành quân cấp sư đoàn. Tôi được gửi theo tiểu đoàn 42 Biệt-Động Quân. Tiểu đoàn trưởng là thiếu-tá Lưu Trọng-Kiệt, tiểu đoàn phó là trung-úy Hồ Ngọc-Cẩn. Cái tréo cẳng ngỗng là đối với cố vấn đoàn thì tôi là ký giả. Còn Kiệt với Cẩn lại tưởng tôi là bác sĩ tình nguyện ra mặt trận. Tiểu đoàn được đặt làm trừ bị tại phi trường Vĩnh-Lợi, từ bẩy giờ sáng, chuẩn bị nhảy trực thăng vận. Nếu khi nhảy, thì tiểu đoàn sẽ nhảy làm hai cánh. Cánh thứ nhất gồm đại đội 1, 2 do Hồ Ngọc-Cẩn chỉ huy. Cánh thứ nhì gồm đại đội 3 và đại đội chỉ huy, do thiếu tá Lưu Trọng-Kiệt chỉ huy. Tôi với Kiệt, Cẩn ngang ngang tuổi nhau. Tôi có máu giang hồ của người tập võ, coi trời bằng vung, lại cũng có học qua quân sự, nên chúng tôi thân cận nhau dễ dàng. Đại-úy cố vấn tiểu đoàn muốn tôi nhảy theo bộ chỉ huy. Anh hỏi tôi :
    • – Lần đầu tiên ra trận, « sơ » có sợ không ?

    Tôi trả lời như những nhân vật trong lịch sử Việt-Nam :
    • – Tráng sĩ khi ra trận, không chết thì cũng bị thương. Nếu sợ chết thì đừng ra trận.

    Cẩn hỏi tôi đã học quân sự chưa ? Tôi đáp :
    • – Kiến thức về quân sự của tôi chỉ bằng phó binh nhì thôi. Nhưng cũng biết bò, biết núp, biết nhảy, biết bắn. Đánh nhau bằng súng thì tôi dở ẹc, nhưng đánh cận chiến thì tôi có hạng, vì tôi là ông thầy dạy võ.

    Thông dịch viên dịch lại cho binh sĩ nghe. Họ khen tôi :
    • – Ông bác sĩ này ngon thực !

    Tôi hỏi Kiệt :
    • – Trong hai cánh, thì cánh nào có hy vọng được đánh nhau nhiều hơn ?

    Kiệt chỉ Cẩn :
    • – Anh cứ nhảy theo thằng này, thì sẽ toại nguyện. Tha hồ mà hành nghề.

    Tiểu đoàn cũng có sĩ quan trợ y. Anh biệt phái cho tôi một y tá cấp trung sĩ, với đầy đủ thuốc cấp cứu. Trên lưng tôi chỉ có bộ đồ giải phẫu dã chiến. Khoảng mười giờ thì có lệnh :
    • Một đơn vị địa phương quân chạm địch tại Vĩnh-Châu.
      Địch là tiểu đoàn Cơ-động Sóc-Trăng.
      Tiểu đoàn phải nhảy trực thăng vận đánh vào hông địch.
      Địa điểm nhảy là một khu đồng lầy.

    Sau khi Kiệt họp các sĩ quan, tóm lược vắn tắt nhiệm vụ, tình hình trong mười phút. Cẩn dẫn tôi ra phi đạo. Hai đại đội đã lên trực thăng từ bao giờ. Chúng tôi cùng leo lên một trực thăng. Hai mươi lăm chiếc trực thăng cùng cất cánh. Trực thăng bay khoảng bẩy phút, thì Cẩn chỉ vào khu làng mạc trước mặt :
    • – Kìa, chỗ chúng mình đáp kìa.

    Trực thăng hạ cánh. Thoáng một cái hơn hai trăm người từ trực thăng lao ra. Một cảnh tượng, mà không bao giờ tôi quên :
    Những người lính dàn ra thành một hàng ngang. Họ núp vào cái những cái bờ ruộng, mô đất, tay thủ súng, mắt đăm đăm nhìn về trước. Đó là một làng, lưa thưa mấy ngôi nhà tranh, ẩn hiện dưới những cây dừa xanh tươi. Mặc dù súng trong làng bắn ra, nhưng những người lính ấy, vẫn chưa bắn trả. Tôi đưa mắt nhìn một lượt, các sĩ quan, người thì nằm, người thì quỳ, cũng có người đứng.

    Từ lúc nhảy xuống, Cẩn không hề nằm, quỳ, mà đứng quan sát trận mình, quan sát trận địch. Một là điếc không sợ sấm, hai là tự tin vào số tử-vi của mình thọ, tôi cũng đứng.

    Hơn mười phút sau, cánh quân thứ nhì đã nhảy xuống trận địa. Trận vừa dàn xong, thì sĩ quan đề lô xin pháo binh nã vào những chỗ có ổ moọc-chê, trung liên, đại liên trong làng. Một lệnh ban ra, hơn bốn trăm con cọp dàn hàng ngang, vừa bắn, vừa xung phong vào trong làng. Trong khi súng trong làng bắn ra, đạn cầy các ụ đất, trúng vào ruộng nước, bụi, nước bắn tung.

    Hàng quân tới bờ ruộng cuối cùng, cách bìa làng không đầy năm mươi thước, thì súng nhỏ từ trong mới nổ. Cả hàng quân đều nằm dài ra sau cái bờ ruộng. Giữa lúc đó, sĩ quan pháo binh trúng đạn lật ngươc. Tôi chạy lại cấp cứu, thì không kịp, viên đạn xuyên qua sọ anh. Thế là pháo binh vô hiệu. Trực thăng võ trang được gọi đến. Cố vấn Mỹ báo về trung tâm hành quân. Cố vấn tại trung tâm hành quân ra lệnh cho phi công trực thăng nã xuống địa điểm có địch quân.

    Tôi đứng cạnh Cẩn tại một mô đất. Cẩn không thực tiếp cầm máy chỉ huy, mà ra lệnh cho các đại đội, trung đội qua hiệu thính viên.

    Sau khi trực thăng võ trang nã ba loạt rocket, đại liên, thì lệnh xung phong truyền ra. Cả tiểu đoàn reo lên như sóng biển, rồi người người rời chỗ nằm lao vào làng. Không đầy mười phút sau, tiếng súng im hẳn.

    Bây giờ là lúc tôi hành nghề. Những binh sĩ, tù binh bị thương nặng được băng bó, cầm máu, rồi trực thăng tải về quân y viện. Còn như bị thương nhẹ thì được điều trị tại chỗ. Tôi ngạc nhiên vô cùng, khi thấy những binh sĩ bị thương khá nặng, nghe tôi nói rằng : Nếu họ muốn, tôi có thể gắp đạn, may các vết thương đó cho họ, mà không phải về quân y viện. Họ từ chối đi quân y viện, xin ở lại để tôi giúp họ. Tôi cùng sĩ quan trợ y, bốn y tá làm việc trong hơn giờ mới xong. Tôi hỏi Cẩn :
    • – Tôi tưởng, thương binh được về quân y viện chữa trị, nghỉ ngơi, thì là điều họ mong muốn mới phải. Tại sao họ muốn ở lại ?
      – Bọn cọp nhà này vẫn vậy. Chúng tôi sống với nhau, kề cận cái chết với nhau, thì xa nhau là điều buồn khổ vô cùng. Đấy chúng nó bị thương như vậy đấy, lát nữa anh sẽ thấy chúng chống gậy đi chơi nhông nhông ngoài phố, coi như bị kiến cắn.

    Tôi đi một vòng thăm trận địa. Hơn hai trăm xác chết, mặc áo bà ba đen, quần đùi. Những xác chết đó, gương mặt còn non choẹt, đa số tuổi khoảng 15 đến 20, cái thì nằm vắt vẻo trên bờ kinh, cái thì bị cháy đen, cái thì mất đầu. Cũng có cái nằm chết trong hầm. Không biết, trong khi họ phơi xác ở đây, thì cha mẹ, anh em, vợ con họ có biết không ?

    Sau trận đó thì Cẩn được thăng cấp đại úy. Cuối năm 1966, Cẩn từ biệt tiểu đoàn 42 BĐQ đi làm tiểu đoàn trưởng, tiểu đoàn 1 trung đoàn 33 (Sư đoàn 21). Việc đầu tiên của Cẩn khi làm tiểu đoàn trưởng là xin sư đoàn cho tất cả các sĩ quan, hạ sĩ quan xuất thân trường TSQ về chiến đấu cùng với mình. Cẩn đã được thỏa mãn một phần yêu cầu. Tôi hỏi Cẩn :
    • – Anh đem các cựu TSQ về, với mục đích gì ?
      – Một là để dễ sai. Tất cả bọn cựu TSQ này đều ra trường sau tôi. Chúng là đàn em, dù tôi không phải là cấp trên của chúng nó, mà chúng nó lộn xộn, tôi vẫn hèo vào đít chúng nó được. Nay tôi muốn chúng về với tôi, để tôi có thể dạy dỗ chúng nó những gì mà tại quân trường không dạy. Hai là, truyền thống của tôi khi ra trận là chết thì chết chứ không lùi, vì vậy cần phải có một số người giống mình, thì đánh nhau mới đã. Bọn cựu TSQ đều như tôi cả.



    Suốt năm 1967, Cẩn với tiểu đoàn 1/33 tung hoành trên khắp lãnh thổ năm tỉnh Hậu-Giang, khi Đại-Ngãi, khi Tắc-Vân, khi Kiên-Hưng, khi Thác-Lác, khi Cờ-Đỏ. Sau trận tổng công kích Mậu-Thân, Cẩn được thăng thiếu tá. Năm 1968, Cẩn là người có nhiều huy chương nhất quân đội.
    Thời gian này tôi bắt đầu viết lịch sử tiểu thuyết, nên tôi đọc rất kỹ Lục-Thao, Tam-Lược, Tôn-Ngô binh pháp, cùng binh pháp của các danh tướng Đức, Pháp, nhất là của các tướng Hồng-Quân. Tôi dùng kiến thức quân sự trong sách vở để đánh giá những trận đánh của Cẩn từ 1966. Tôi bật ngửa ra rằng,
    • Cẩn không hề đọc, cũng không hề được học tại trường sĩ quan, những binh pháp đó. Mà sao từ cung cách chỉ huy, cung cách hành xử với cấp dưới, cấp trên, nhất là những trận đánh của Cẩn bàng bạc xuất hiện như những lý thuyết trong thư tịch cổ ?



    Năm 1970, Cẩn thăng trung tá, rời tiểu đoan 1/33 đi làm trung đoàn trưởng trung đoàn 15 thuộc sư đoàn 9.
    Năm 1972, Cẩn được lệnh mang trung đoàn 15 từ miền Tây lên giải phóng An-Lộc.
    Cuối năm 1973, Cẩn được trở về chiến trường sình lầy với chức vụ tỉnh trưởng, kiêm tiểu khu trưởng Chương-Thiện.
    Lần cuối cùng tôi gặp Cẩn vào mùa hè năm 1974 tại Chương-Thiện. Tôi hỏi Cẩn :
    • – Anh từng là trung đoàn trưởng, hiện làm tỉnh trưởng. Anh có nghĩ rằng sau này sẽ làm sư đoàn trưởng không ?
      – Tôi lặn lội suốt mười bốn năm qua, gối chưa mỏi, nhưng kiến thức có hạn. Được chỉ huy trung đoàn là cao rồi. Mình phải biết liêm sỉ chứ ? Coi sư đoàn sao được.
      – Thế anh nghĩ sau này anh sẽ làm gì ?
      – Làm tỉnh trưởng bất quá một hai năm nữa rồi tôi phải ra đi, cho đàn em họ có chỗ tiến thân. Bấy giờ tôi xin về coi trường TSQ, hoặc coi các lớp huấn luyện đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng, đem những kinh nghiệm thu nhặt được trong mười mấy năm qua dạy đàn em. Tôi sẽ thuật trước sau hơn ba trăm trận đánh, mà tôi trải qua, nhờ anh viết lại. Bộ sách đó, anh nghĩ nên đặt tên là gì ?
      – « Cẩm nang của các đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng trong chiến tranh chống du kích taị vùng đồng lầy ». Nhưng liệu bộ Quốc-phòng có cho phép in hay không ?
      – Không cho in thì mình cũng cứ thuật, rồi đem giảng dạy, ai cấm được ?



    Đây là cuộc gặp gỡ cuối cùng của tôi với Cẩn.
    Sau khi miền Nam mất, tôi không được tin tức của Cẩn. Mãi năm 1976, tôi được tin : Ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi tên tướng mặt bánh đúc Dương Văn-Minh ra lệnh đầu hàng. Cẩn chống lại lệnh đó. Các đơn vị Cộng-quân tiến vào tiếp thu tiểu khu Chương-Thiện, thì gặp sức kháng cự, chết rất nhiều. Cẩn bị bắt, rồi bị đem ra xử tử.

    Ghi chú:
    • Tại Sài-Gòn 9 giờ bẩy phút, tiếng súng kháng cự tại các đơn vị dù chấm dứt.
      Tại bộ chỉ huy tiểu khu Chương-Thiện kéo dài tới 15 giờ.
      Trong khi đó, tiếng súng kháng cự của các Thiếu-Sinh-Quân còn kéo dài tới 19 giờ bốn mươi lăm phút tại Vũng-Tầu.

    Nếu tôi không lầm thì các TSQVN là những người chiến đấu cuối cùng của miền Nam.


    Cuộc xử Cẩn do hai nhân chứng thuật lại:
    • Một là Trung-tá Bùi Văn Địch (Hiện sống ở Berlin), xuất thân trường Thiếu-Sinh-Quân Hà-Nội, sau đi vào Mỹ-Tho.
      Trung-tá Địch đã sống với Cẩn 2 năm tại trường Thiếu-Sinh-Quân Mỹ-Tho. Thời gian 1972, cả hai từng cùng phục vụ tại sư đoàn 9 bộ binh.
    • Hai là phu nhân của Trung-tá bác-sĩ Jean Marc Bodoret, nhũ danh Vũ-Thị Quỳnh-Chi (Hiện sống ở Marseille), em ruột của cựu Thiếu-sinh-quân Vũ Tiến Quang.
      Quang là người nạp đạn cho Cẩn xử dụng khẩu đại liên 30, bắn đến viên đạn cuối cùng trong công sự chiến đấu tiểu khu Chương-Thiện. (Xin xem bài Cái bóng của Hoài-văn vương Trần Quốc Toản trong sách này).
      Bà Bodoret chứng kiến tận mắt hai cuộc xử án Cẩn.



    Cuộc xử án như sau:

    Ngay khi Cẩn bị bắt, người ta để Cẩn lên một chiếc xe mui trần, chở đi khắp thành phố Chương-Thiện cho dân chúng xem chiến lợi phẩm. Ngồi trên xe, Cẩn thản nhiên mỉm cười, vẫy tay chào dân chúng. Cái gọi là tòa án nhân dân được lập ngay trước tòa hành chánh. Sau khi quan tòa kết tội Cẩn bằng những từ ngữ hiếm hoi thấy trong các đạo luật trên thế giới. Người ta kêu gọi dân chúng, ai là nạn nhân của Cẩn thì đứng lên tố cáo, rồi muốn đánh, muốn chửi tùy thích. Nhưng chỉ có vài cán bộ nội thành tố cáo Cẩn là ác ôn có nợ máu. Dân chúng không có ai lên tiếng cả. Người ta hỏi : Những ai đồng ý xử tử Cẩn thì dơ tay lên ! Lại cũng chẳng có ai dơ tay. Thế là cuộc xử án ngừng lại.

    Rồi, ba tuần sau, cuộc xử án Cẩn lại diễn ra ở sân vận động thể thao Cần-Thơ. Lần này người ta chuẩn bị kỹ hơn, người ta cho tụi bò-vàng xen lẫn với dân chúng. Cũng bản cũ soạn lại, nhưng người ta khôn khéo hơn, người ta không hỏi xem Cẩn đã nợ máu với ai, thì hãy ra mà xỉ vả, đánh đập. Người ta chỉ hỏi : Ai đồng ý xử tử Cẩn thì dơ tay. Bò vàng dơ tay, một số dân chúng dơ tay. Số đông vẫn cứng đầu, không dơ tay.
    Người ta hỏi Cẩn có nhận những tội mà tòa án nêu ra không ? Cẩn cười nhạt :
    • « Nếu tôi thắng trong cuộc chiến, tôi sẽ không kết án các anh như các anh kết án tôi. Tôi cũng không làm nhục các anh như các anh làm nhục tôi. Tôi cũng không hỏi các anh câu mà các anh hỏi tôi. Tôi chiến đấu cho tự do của người dân. Tôi có công mà không có tội. Không ai có quyền kết tội tôi. Lịch sử sẽ phê phán đoán các anh là giặc đỏ hay tôi là ngụy. Các anh muốn giết tôi, cứ giết đi. Xin đừng bịt mắt ».

    Rồi Cẩn hô:
    • « Đả đảo cộng-sản. Việt-Nam muôn năm »

    Sau khi Cẩn bị băn chết, dân chúng hiện diện khóc như mưa như gió. Trời tháng năm, đang nắng chói chang, tự nhiên sấm chớp nổ rung động không gian, rồi một trận mưa như trút xuống. Nắng mưa là hiện tượng bình thường của trời đất. Nhưng dân chúng Cần-Thơ thì cho rằng, trời khóc thương cho người anh hùng, gặp cơn sóng gió của đất nước.




    Khi tôi gặp Cẩn, thì tôi chưa khởi công viết lịch sử tiểu thuyết. Thành ra cuộc đời Cẩn, cuộc đời các cựu TSQ quanh Cẩn, in vào tâm não tôi rất sâu, rất đẹp. Vì vậy sang năm 1968, khi bắt đầu viết, thì bao giờ tôi cũng khơỉ đầu bằng thời thơ ấu của những nhân vật chính. Trong bộ nào, cũng có những thiếu niên, khi ra trận chỉ tiến lên hoặc chết, chứ không lùi.

    Có rất nhiều người đặt câu hỏi : Giữa tôi và Cẩn như hai thái cực .
    • Cẩn chỉ học đến đệ lục, tôi được học ở nhà, ở trường đến trình độ cao nhất.
      Cẩn là người Nam, tôi là người Bắc.
      Cẩn theo đạo Chúa, tôi là cư sĩ Phật-giáo.
      Tôi thì sống trong sách vở, hay đi trên mây, Cẩn thì lăn lộn với thực tế.
      Tôi không biết uống rượu, Cẩn thì nổi danh tửu lượng cao nhất sư đoàn 21 bộ binh.
      Tôi thấy người đẹp là chân tay run lẩy bẩy, Cẩn thì rửng rưng.

    Thế mà khi gặp nhau, chúng tôi thân với nhau ngay. Thân đến độ giãi bầy cho nhau tất cả những tâm sự thầm kín nhất, không một người thứ nhì biết được.
    Tại sao ? Cho đến nay, tôi mới trả lời được rằng :

    Cẩn cũng như những người quanh Cẩn,

    là những hình bóng thực, rất quen thuộc

    mà trước kia tôi chỉ thấy trong lịch sử. Nay được gặp trong thực tế.


    Hai mươi mốt năm qua, đúng mười hai giờ trưa, ngày 30 tháng tư, dù ở bất cứ nơi nào, tôi cũng mua bó hoa, đèn cầy, vào nhà thờ đốt nến, đặt hoa dưới tượng đức mẹ, và cầu xin cho linh hồn Cẩn được an lành trong vòng tay người.

    Tôi lược thuật về cuộc đời Cẩn mà không phê bình, vì Cẩn là bạn thân của tôi. Vả tôi không đủ ngôn từ đẹp đẽ để tặng Cẩn.




    Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ
    Thứ Tư, 28 Tháng 1 Năm 2009 09:04

    nguồn: batkhuat.net
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Cái bóng của Hoài Văn Vương Trần Quốc Toản: Vũ Tiến Quang

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  • "Cái bóng của Hoài Văn Vương Trần Quốc Toản:"



    __________Vũ Tiến Quang


    ____________________________________________




    Vũ Tiến Quang sinh ngày 10 tháng 9 năm 1956 tại Kiên Hưng, tỉnh Chương Thiện.
    Thân phụ là hạ sĩ địa phương quân Vũ Tiến Đức.

    Ngày 20 tháng 3 năm 1961, trong một cuộc hành quân an ninh của quận, Hạ Sĩ Đức bị trúng đạn tử thương khi tuổi mới 25. Ông để lại bà vợ trẻ với hai con. Con trai lớn, Vũ Tiến Quang 5 tuổi. Con gái tên Vũ thị Quỳnh Chi mới tròn một năm. Vì có học, lại là quả phụ tử sĩ, bà Đức được thu dụng làm việc tại Chương Thiện, với nhiệm vụ khiêm tốn là thư ký tòa hành chánh. Nhờ đồng lương thư ký, thêm vào tiền tử tuất cô nhi, quả phụ, nên đời sống của bà với hai con không đến nỗi thiếu thốn.

    Quang học tại trường tiểu học trong tỉnh. Tuy rất thông minh, nhưng Quang chỉ thích đá banh, thể thao hơn là học. Thành ra Quang là một học sinh trung bình trong lớp.
    Cuối năm 1967, Quang đỗ tiểu học. Nhân đọc báo Chiến Sĩ Cộng Hoà có đăng bài:
    • "Ngôi sao sa trường: Thượng-sĩ-sữa Trần Minh, Thiên Thần U Minh Hạ", bài báo thuật lại:
      Minh xuất thân từ trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam. Sau khi ra trường, Minh về phục vụ tại tiểu đoàn Ngạc Thần (tức tiểu đoàn 2 trung đoàn 31, sư đoàn 21 Bộ Binh)
    mà tiểu đoàn đang đồn trú tại Chương Thiện. Quang nảy ra ý đi tìm người hùng bằng xương bằng thịt. Chú bé lóc cóc 12 tuổi, được Trần Minh ôm hôn, dẫn đi ăn phở, bánh cuốn, rồi thuật cho nghe về cuộc sống vui vẻ tại trường Thiếu Sinh Quân. Quang suýt xoa, ước mơ được vào học trường này. Qua cuộc giao tiếp ban đầu, Minh là một mẫu người anh hùng, trong ước mơ của Quang. Quang nghĩ: "Mình phải như anh Minh".

    Chiều hôm đó Quang thuật cho mẹ nghe cuộc gặp gỡ Trần Minh, rồi xin mẹ nộp đơn cho mình nhập học trường Thiếu Sinh Quân. Bà mẹ Quang không mấy vui vẻ, vì Quang là con một, mà nhập học Thiếu Sinh Quân, rồi sau này trở thành anh hùng như Trần Minh thì … nguy lắm. Bà không đồng ý. Hôm sau bà gặp riêng Trần Minh, khóc thảm thiết xin Minh nói dối Quang rằng, muốn nhập học trường Thiếu Sinh Quân thì cha phải thuộc chủ lực quân, còn cha Quang là địa phương quân thì không được. Minh từ chối:
    • - Em không muốn nói dối cháu. Cháu là Quốc Gia Nghĩa Tử thì ưu tiên nhập học. Em nghĩ chị nên cho cháu vào trường Thiếu Sinh Quân, thì tương lai của cháu sẽ tốt đẹp hơn ở với gia đình, trong khuôn khổ nhỏ hẹp.

    Chiều hôm ấy Quang tìm đến Minh để nghe nói về đời sống trong trường Thiếu Sinh Quân. Đã không giúp bà Đức thì chớ, Minh còn đi cùng Quang tới nhà bà, hướng dẫn bà thủ tục xin cho Quang nhập trường. Thế rồi bà Đức đành phải chiều con. Bà đến phòng 3, tiểu khu Chương Thiện làm thủ tục cho con. Bà gặp may. Trong phòng 3 Tiểu Khu, có Trung Sĩ Nhất Cao Năng Hải, cũng là cựu Thiếu Sinh Quân. Hải lo làm tất cả mọi thủ tục giúp bà. Sợ bà đổi ý, thì mình sẽ mất thằng em dễ thương. Hải lên gặp Thiếu-tá Lê Minh Đảo, Tiểu Khu trưởng trình bầy trường hợp của Quang. Thiếu Tá Đảo soạn một văn thư, đính kèm đơn của bà Đức, xin bộ Tổng Tham Mưu dành ưu tiên cho Quang.

    Tháng 8 năm 1968, Quang được giấy gọi nhập học trường Thiếu Sinh Quân, mà không phải thi. Bà Đức thân dẫn con đi Vũng Tàu trình diện. Ngày 2 tháng 9 năm 1969, Quang trở thành một Thiếu Sinh Quân Việt Nam.

    Quả thực trường Thiếu Sinh Quân là thiên đường của Quang. Quang có nhiều bạn cùng lứa tuổi, dư thừa chân khí, chạy nhảy vui đùa suốt ngày. Quang thích nhất những giờ huấn luyện tinh thần, những giờ học quân sự. Còn học văn hóa thì Quang lười, học sao đủ trả nợ thầy, không bị phạt là tốt rồi. Quang thích đá banh, và học Anh văn. Trong lớp, môn Anh văn, Quang luôn đứng đầu. Chỉ mới học hết đệ lục, mà Quang đã có thể đọc sách báo bằng tiếng Anh, nói truyện lưu loát với cố vấn Mỹ.

    Giáo-sư Việt văn của Quang là thầy Phạm Văn Viết, người mà Quang mượn bóng dáng để thay thế người cha. Có lần thầy Viết giảng đến câu:

    • "Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
      Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh"
      (Người ta sinh ra, ai mà không chết.
      Cần phải lưu chút lòng son vào thanh sử).


    Quang thích hai câu này lắm, luôn miệng ngâm nga, rồi lại viết vào cuốn sổ tay.

    Trong giờ học sử, cũng như giờ huấn luyện tinh thần, Quang được giảng chi tiết về các anh hùng:
    • Hoài Văn Vương Trần Quốc Toản, thánh tổ của Thiếu Sinh Quân, giết tươi Toa Đô trong trận Hàm Tử.
      Quang cực kỳ sùng kính Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng, từ chối công danh, chịu chết cho toàn chính khí.
      Quang cũng khâm phục Nguyễn Biểu, khi đối diện với quân thù, không sợ hãi, lại còn tỏ ra khinh thường chúng.
    Ba nhân vật này ảnh hưởng vào Quang rất sâu, rất đậm.

    Suốt các niên học từ 1969-1974, mỗi kỳ hè, được phép 2 tháng rưỡi về thăm nhà, cậu bé Thiếu Sinh Quân Vũ Tiến Quang tìm đến các đàn anh trấn đóng tại Chương Thiện để trình diện. Quang được các cựu Thiếu Sinh Quân dẫn đi chơi, cho ăn quà, kể truyện chiến trường cho nghe. Một số ông uống thuốc liều, cho Quang theo ra trận. Quang chiến đấu như một con sư tử. Không ngờ mấy ông anh cưng cậu em út quá, mà gây ra một truyện động trời, đến nỗi bộ Tổng Tham Mưu Việt Nam, bộ Tư-lệnh MACV cũng phải rởn da gà! Sau trở thành huyền thoại. Câu chuyện như thế này:

    Hè 1972, mà quân sử Việt Nam gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa, giữa lúc chiến trường toàn quốc sôi động. Bấy giờ Quang đã đỗ chứng chỉ 1 Bộ Binh. Được phép về thăm nhà, được các đàn anh cho ăn, và giảng những kinh nghiệm chiến trường, kinh nghiệm đời. Quang xin các anh cho theo ra trận. Mấy ông cựu Thiếu Sinh Quân, trăm ông như một, ông nào gan cũng to, mật cũng lớn, lại coi trời bằng vung. Yêu cậu em ngoan ngoãn, các ông chiều…cho Quang ra trận. Cuộc hành quân nào mấy ông cũng dẫn Quang theo.

    Trong môt cuộc hành quân cấp sư đoàn, đánh vào vùng Hộ Phòng, thuộc Cà Mau. Đơn vị mà Quang theo là trung đội trinh sát của trung đoàn 31. Trung đội trưởng là một thiếu úy cựu Thiếu Sinh Quân. Hôm ấy, thông dịch viên cho cố vấn bị bệnh, Quang lại giỏi tiếng Anh, nên thiếu úy trung đội trưởng biệt phái Quang làm thông dịch viên cho cố vấn là thiếu úy Hummer. Trực thăng vừa đổ quân xuống thì hiệu thính viên của Hummer trúng đạn chết ngay. Lập tức Quang thay thế anh ta. Nghĩa là mọi liên lạc vô tuyến, Hummer ra lệnh cho Quang, rồi Quang nói lại trong máy.

    Trung đội tiến vào trong làng thì lọt trận điạ phục kích của trung đoàn chủ lực miền, tên trung đoàn U Minh. Trung đội bị một tiểu đoàn địch bao vây. Vừa giao tranh được mười phút thì Hummer bị thương. Là người can đảm, Hummer bảo Quang đừng báo cáo về Trung-tâm hành quân. Trận chiến kéo dài sang giờ thứ hai thì Hummer lại bị trúng đạn nữa, anh tử trận, thành ra không có ai liên lạc chỉ huy trực thăng võ trang yểm trợ. Kệ, Quang thay Hummer chỉ huy trực thăng võ trang. Vì được học địa hình, đọc bản đồ rất giỏi, Quang cứ tiếp tục ra lệnh cho trực thăng võ trang nã vào phòng tuyến địch, coi như Hummer còn sống. Bấy giờ quân hai bên gần như lẫn vào nhau, chỉ còn khoảng cách 20-30 thước.

    Thông thường, tại các quân trường Hoa-kỳ cũng như Việt Nam, dạy rằng khi gọi pháo binh, không quân yểm trợ, thì chỉ xin bắn vào trận địa địch với khoảng cách quân mình 70 đến 100 thước. Nhưng thời điểm 1965-1975, các cựu Thiếu Sinh Quân trong khu 42 chiến thuật khi họp nhau để ăn uống, siết chặt tình thân hữu, đã đưa ra phương pháp táo bạo là xin bắn vào phòng tuyến địch, dù cách mình 20 thước. Quang đã được học phương pháp đó. Quang chỉ huy trực thăng võ trang nã vào trận địch, nhiều rocket (hoả tiễn nhỏ), đạn 155 ly nổ sát quân mình, làm những binh sĩ non gan kinh hoảng. Nhờ vậy, mà trận địch bị tê liệt.

    Sau khi được giải vây, mọi người khám phá ra Quang lĩnh tới bẩy viên đạn mà không chết: trên mũ sắt có bốn vết đạn bắn hõm vào; hai viên khác trúng ngực, may nhờ có áo giáp, bằng không thì Quang đã ô-hô ai-tai rồi. Viên thứ bẩy trúng…chim. Viên đạn chỉ xớt qua, bằng không thì Quang thành thái giám.

    Trung-tá J.F. Corter, cố vấn trưởng trung đoàn được trung đội trưởng trinh sát báo cáo Hummer tử trận lúc 11 giờ 15. Ông ngạc nhiên hỏi:
    • - Hummer chết lúc 11.15 giờ, mà tại sao tôi vẫn thấy y chỉ huy trực thăng, báo cáo cho đến lúc 17 giờ?

    Vì được học kỹ về tinh thần trách nhiệm, Quang nói rằng mình là người lạm quyền, giả lệnh Hummer, thay Hummer chỉ huy. Quang xin lỗi Corter. Trung-tá J.F. Corter tưởng Quang là lính người lớn, đề nghị gắn huy chương Hoa Kỳ cho Quang. Bấy giờ mới lòi đuôi chuột ra rằng các ông cựu Thiếu Sinh Quân đã uống thuốc liều, cho thằng em sữa ra trận.

    Đúng ra theo quân luật, mấy ông anh bị phạt nặng, Quang bị đưa ra tòa vì "Không có tư cách mà lại chỉ huy". Nhưng các vị sĩ quan trong sư đoàn 21, trung đoàn 31 cũng như cố vấn đều là những người của chiến trường, tính tình phóng khoáng, nên câu truyện bỏ qua. Quang không được gắn huy chương, mà mấy ông anh cũng không bị phạt. Hết hè, Quang trở về trường mang theo kỷ niệm chiến đấu cực đẹp trong đời cậu bé, mà cũng là kỷ niệm đẹp vô cùng của Thiếu Sinh Quân Việt Nam.


    Câu truyện này trở thành huyền thoại.
    Huyền thoại này lan truyền mau lẹ khắp năm tỉnh của khu 42 chiến thuật : Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Chương Thiện. Quang trở thành người hùng lý tưởng của những thiếu nữ tuổi 15-17!

    Năm 1974, sau khi đỗ chứng chỉ 2 Bộ Binh, Quang ra trường, mang cấp bậc trung sĩ. Quang nộp đơn xin về sư đoàn 21 Bộ Binh. Quang được toại nguyện. Sư đoàn phân phối Quang về tiểu đoàn Ngạc Thần tức tiểu đoàn 2 trung đoàn 31, tiểu đoàn của Trần Minh sáu năm trước. Thế là giấc mơ 6 năm trước của Quang đã thành sự thực.

    Trung đoàn 31 Bộ Binh đóng tại Chương Thiện. Bấy giờ tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Chương Thiện là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, tham mưu trưởng tiểu khu là Thiếu Tá Nguyễn Văn Thời. Cả hai đều là cựu Thiếu Sinh Quân. Đại-tá Cẩn là cựu Thiếu Sinh Quân cao niên nhất vùng Chương Thiện bấy giờ (36 tuổi). Các cựu Thiếu Sinh Quân trong tiểu đoàn 2-31 dẫn Quang đến trình diện anh hai Cẩn.
    Sau khi anh em gặp nhau, Cẩn đuổi tất các tùy tùng ra ngoài, để anh em tự do xả xú báp. Cẩn bẹo tai Quang một cái, Quang đau quá nhăn mặt. Cẩn hỏi:
    • - Ê ! Quang, nghe nói mày lĩnh bẩy viên đạn mà không chết, thì mày thuộc loại mình đồng da sắt. Thế sao tao bẹo tai mày, mà mày cũng đau à?
      - Dạ, đạn Việt-cộng thì không đau. Nhưng vuốt anh cấu thì đau.
      - Móng tay tao, đâu phải vuốt?
      - Dạ, người ta nói anh là cọp U Minh Thượng…Thì vuốt của anh phải sắc lắm.
      - Hồi đó suýt chết, thế bây giờ ra trận mày có sợ không?
      - Nếu khi ra trận anh sợ thì em mới sợ. Cái lò Thiếu Sinh Quân có bao giờ nặn ra một thằng nhát gan đâu?
      - Thằng này được. Thế mày đã trình diện anh Thời chưa?
      - Dạ anh Thời-thẹo không có nhà.

    Thiếu Tá Nguyễn Văn Thời, tham mưu trưởng Tiểu-khu, uy quyền biết mấy, thế mà một trung sĩ 18 tuổi dám gọi cái tên húy thời thơ ấu ra, thì quả là một sự phạm thượng ghê gớm. Nhưng cả Thời lẫn Quang cùng là cựu Thiếu Sinh Quân thì lại là một sự thân mật. Sau đó anh em kéo nhau đi ăn trưa. Lớn, bé cười nói ồn ào, như không biết tới những người xung quanh.

    Bấy giờ tin Trần Minh đã đền nợ nước tại giới tuyến miền Trung. Sự ra đi của người đàn anh, của người hùng lý tưởng làm Quang buồn không ít. Nhưng huyền thoại về Trần Minh lưu truyền, càng làm chính khí trong người Quang bừng bừng bốc lên.

    Tại sư đoàn 21 Bộ Binh, tất cả các hạ sĩ quan cũng như các Thiếu Sinh Quân mới ra trường, thường chỉ được theo hành quân như một khinh binh. Đợi một vài tháng đã quen với chiến trường, rồi mới được chỉ định làm tiểu đội trưởng. Nhưng vừa trình diện, Quang được cử làm trung đội phó ngay, dù hầu hết các tiểu đội trưởng đều ở cấp trung sĩ, trung sĩ nhất, mà những người này đều vui lòng. Họ tuân lệnh Quang răm rắp!

    Sáu tháng sau, đầu năm 1975 nhờ chiến công, Quang được thăng trung sĩ nhất, nhưng chưa đủ một năm thâm niên, nên chưa được gửi đi học sĩ quan. Quang trở thành nổi tiếng trong trận đánh ngày 1-2-1975, tại Thới Lai, Cờ Đỏ. Trong ngày hôm ấy, đơn vị của Quang chạm phải tiểu đoàn Tây Đô. Đây là một tiểu đoàn được thành lập từ năm 1945, do các sĩ quan Nhật Bản không muốn về nước, trốn lại Việt Nam … huấn luyện. Quang đã được Đại Ttá Hồ Ngọc Cẩn giảng về kinh nghiệm chiến trường:
    • "Tây Đô là tiểu đoàn cơ động của tỉnh Cần Thơ. Tiểu đoàn có truyền thống lâu đời, rất thiện chiến. Khi tác chiến cấp đại đội, tiểu đoàn chúng không hơn các đơn vị khác làm bao. Nhưng tác chiến cấp trung đội, chúng rất giỏi. Chiến thuật thông thường, chúng dàn ba tiểu đội ra, chỉ tiểu đội ở giữa là nổ súng. Nếu thắng thế, thì chúng bắn xối xả để uy hiếp tinh thần ta, rồi hai tiểu đội hai bên xung phong. Nếu yếu thế, thì chúng lui. Ta không biết, đuổi theo, thì sẽ dẫm phải mìn, rồi bị hai tiểu đội hai bên đánh ép. Vì vậy khi đối trận với chúng, phải im lặng không bắn trả, để chúng tưởng ta tê liệt. Khi chúng bắt đầu xung phong, thì dùng vũ khí cộng đồng nã vào giữa, cũng như hai bên. Thấy chúng chạy, thì tấn công hai bên, chứ đừng đuổi theo. Còn như chúng tiếp tục xung phong ta phải đợi chúng tới gần rồi mớí phản công".

    Bây giờ Quang có dịp áp dụng. Sau khi trực thăng vận đổ quân xuống. Cả đại đội của Quang bị địch pháo chụp lên đầu, đại liên bắn xối xả. Không một ai ngóc đầu dậy được. Nhờ pháo binh, trực thăng can thiệp, sau 15 phút đại đội đã tấn công vào trong làng. Vừa tới bìa làng, thiếu úy trung đội trưởng của Quang bị trúng đạn lật ngược. Quang thay thế chỉ huy trung đội. Trung đội dàn ra thành một tuyến dài đến gần trăm mét. Đến đây, thì phi pháo không can thiệp được nữa, vì quân hai bên chỉ cách nhau có 100 mét, gần như lẫn vào nhau. Nhớ lại lời giảng của Cẩn, Quang ra lệnh im lặng, chỉ nổ súng khi thấy địch. Ngược lại ngay trước mặt Quang, khoảng 200 thước là một cái hầm lớn, ngay trước hầm hai khẩu đại liên không ngừng nhả đạn. Quang ghi nhận vị trí hai khẩu đại liên với hai khẩu B40 ra lệnh:
    • "Lát nữa khi chúng xung phong thì dùng M79 diệt hai khẩu đại liên, B40, rồi hãy bắn trả".

    Sau gần 20 phút, thình lình địch xả súng bắn xối xả như mưa, như gió, rồi tiếng hô xung phong phát ra. Chỉ chờ có thế, M79 của Quang khai pháo. Đại liên, B40 bị bắn tung lên, trong khi địch đang xung phong. Bấy giờ trung đội của Quang mới bắn trả. Chỉ một loạt đạn, toàn bộ phòng tuyến địch bị cắt. Quang ra lệnh xung phong. Tới căn hầm, binh sĩ không dám lại gần, vì bị lựu đạn từ trong ném ra. Quang ra lệnh cho hai khẩu đại liên bắn yểm trợ, rồi cho một khinh binh bò lại gần, tung vào trong một quả lựu đạn cay. Trong khi Quang hô:
    • - Ra khỏi hầm, dơ tay lên đầu ! Bằng không lựu đạn sẽ ném vào trong.

    Cánh cửa hầm mở ra, mười tám người, nam có, nữ có, tay dơ lên đầu, ra khỏi hầm, lựu đạn cay làm nước mắt dàn dụa.
    Đến đây trận chiến chấm dứt. Thì ra 18 người đó là đảng bộ và ủy ban nhân dân của huyện châu thành Cần Thơ. Trong đó có viên huyện ủy và viên chủ tịch ủy ban nhân dân huyện.

    Sau trận này Quang được tuyên dương công trạng trước quân đội, được gắn huy chương Anh Dũng Bội Tinh với nhành dương liễu. Trong lễ chiến thắng giản dị, Quang được một nữ sinh trường Đoàn Thị Điểm quàng vòng hoa. Nữ sinh đó tên Nguyễn Hoàng Châu, 15 tuổi, học lớp đệ ngũ. Cho hay, anh hùng với giai nhân xưa nay thường dễ cảm nhau. Quang, Châu yêu nhau từ đấy. Họ viết thư cho nhau hàng ngày. Khi có dịp theo quân qua Cần Thơ, thế nào Quang cũng gặp Châu. Đôi khi Châu táo bạo, xuống Chương Thiện thăm Quang. Mẹ Quang biết truyện, bà lên Cần Thơ gặp cha mẹ Châu. Hai gia đình đính ước với nhau. Họ cùng đồng ý :
    • Đợi năm tới, Quang xin học khóa sĩ quan đặc biệt, Châu 17 tuổi, thì cho cưới nhau.




    Nhưng mối tình đó đã đi vào lịch sử…
    Tình hình toàn quốc trong tháng 3, tháng 4 năm 1975 biến chuyển mau lẹ.
    • Ban Mê Thuột bị mất,
      Quân Đoàn 2 rút lui khỏi Cao Nguyên,
      rồi Quân Đoàn 1 bỏ mất lãnh thổ.
      Rồi các sĩ quan bộ Tổng Tham Mưu được Hoa Kỳ bốc đi.

    Ngày 29-4, trung đội của Quang chỉ còn mười người. Tiểu đoàn trưởng, đại đội trưởng bỏ ngũ về lo di tản gia đình. Quang vào bộ chỉ huy tiểu khu Chương Thiện trình diện Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn. Cẩn an ủi:
    • - Em đem mấy người thuộc quyền vào đây ở với anh.

    Ngày 30 tháng 4 năm 1975, viên tướng mặt bánh đúc, đần độn Dương Văn Minh phát thanh bản văn ra lệnh cho quân đội Việt Nam Cộng-hòa buông súng đầu hàng. Tất cả các đơn vị quân đội miền Nam tuân lệnh, cởi bỏ chiến bào, về sống với gia đình. Một vài đơn vị lẻ lẻ còn cầm cự.
    Tiếng súng kháng cự của các đơn vị Dù tại Sài-gòn ngừng lúc 9 giờ 7 phút.
    Đúng lúc đó tại Chương Thiện, tỉnh trưởng kiêm Tiểu Khu trưởng là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn. Ông đang chỉ huy các đơn vị thuộc quyền chống lại cuộc tấn công của Cộng quân. Phần thắng đã nằm trong tay ông. Lệnh của Dương Văn Minh truyền đến. Các quận trưởng chán nản ra lệnh buông súng. Chỉ còn tỉnh lỵ là vẫn chiến đấu. Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn ra lệnh:
    • "Dương Văn Minh lên làm Tổng-thống trái với hiến pháp. Ông ta không có tư cách của vị Tổng Tư Lệnh. Hãy tiếp tục chiến đấu".

    Nhưng đến 12 giờ trưa, các đơn vị dần dần bị tràn ngập, vì quân ít, vì hết đạn vì mất tinh thần. Chỉ còn lại bộ chỉ huy tiểu khu. Trong bộ chỉ huy tiểu khu, có một đại đội địa phương quân cùng nhân viên bộ tham mưu.
    Đến 13 giờ, lựu đạn, đạn M79 hết.
    Tới 14 giờ 45, thì đạn hết, làn sóng Cộng quân tràn vào trong bộ chỉ huy. Cuối cùng chỉ còn một ổ kháng cự từ trong một hầm chiến đấu, nơi đó có khẩu đại liên. Một quả lựu đạn cay ném vào trong hầm, tiếng súng im bặt. Quân Cộng Sản vào hầm lôi ra hai người. Một là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, tỉnh trưởng, kiêm tiểu khu trưởng và một trung sĩ mớí 19 tuổi. Trung sĩ đó tên là Vũ Tiến Quang.

    Bấy giờ đúng 15 giờ.
    Kẻ chiến thắng trói người chiến bại lại. Viên đại tá chính ủy của đơn vị có nhiệm vụ đánh tỉnh Chương Thiện hỏi:
    • - Đ.M. Tại sao có lệnh đầu hàng, mà chúng mày không chịu tuân lệnh?

    Đại Tá Cẩn trả lời bằng nụ cười nhạt. Trung sĩ Quang chỉ Đại Tá Cẩn:
    • - Thưa đại tá, tôi không biết có lệnh đầu hàng. Ví dù tôi biết, tôi cũng vẫn chiến đấu. Vì anh ấy là cấp chỉ huy trực tiếp của tôi. Anh ra lệnh chiến đấu, thì tôi không thể cãi lệnh.

    Cộng quân thu nhặt xác chết trong, ngoài bộ chỉ huy tiểu khu. Viên chính ủy chỉ những xác chết nói với Đại Tá Cẩn:
    • - Chúng mày là hai tên ngụy ác ôn nhất. Đ.M. Chúng mày sẽ phải đền tội.

    Đại Tá Cẩn vẫn không trả lời, vẫn cười nhạt. Trung sĩ Quang ngang tàng:
    • - Đại tá có lý tưởng của đại tá, tôi có lý tưởng của tôi. Đại tá theo Karl Marx, theo Lénine; còn tôi, tôi theo vua Hùng, vua Trưng. Tôi tuy bại trận, nhưng tôi vẫn giữ lý tưởng của tôi. Tôi không gọi đại tá là tên Việt Cộng. Tại sao đại tá lại mày tao, văng tục với chúng tôi như bọn ăn cắp gà, phường trộm trâu vậy? Phải chăng đó ngôn ngữ của đảng Cộng-sản?

    Viên đại tá rút súng kề vào đầu Quang:
    • - Đ.M. Tao hỏi mày, bây giờ thì mày có chính nghĩa hay tao có chính nghĩa?
      - Xưa nay súng đạn trong tay ai thì người đó có lý. Nhưng đối với tôi, tôi học trường Thiếu Sinh Quân, súng đạn là đồ chơi của tôi từ bé. Tôi không sợ súng đâu. Đại tá đừng dọa tôi vô ích. Tôi vẫn thấy tôi có chính nghĩa, còn đại tá không có chính nghĩa. Tôi là con cháu Hoài Văn Vương Trần Quốc Toản mà.
      - Đ.M. Mày có chịu nhận mày là tên ngụy không?
      - Tôi có chính nghĩa thì tôi không thể là ngụy. Còn Cộng quân dùng súng giết dân mới là ngụy, là giặc cướp. Tôi nhất quyết giữ chính khí của tôi như Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng, như Nguyễn Biểu.

    Quang cười ngạo nghễ:
    • - Nếu đại tá có chính nghĩa tại sao đại tá lại dùng lời nói thô tục vớí tôi? Ừ! Muốn mày tao thì mày tao. Đ.M. tên Cộng Sản ác ôn! Nếu tao thắng, tao dí súng vào thái dương mày rồi hỏi: Đ.M.Mày có nhận mày là tên Việt Cộng không? Thì mày trả lời sao?

    Một tiếng nổ nhỏ, Quang ngã bật ngửa, óc phọt ra khỏi đầu, nhưng trên môi người thiếu niên còn nở nụ cười. Tôi không có mặt tại chỗ, thành ra không mường tượng ý nghĩa nụ cười đó là nụ cười gì? Độc giả của tôi vốn thông minh, thử đoán xem nụ cưòi đó mang ý nghĩa nào?
    • Nụ cười hối hận ? Nụ cười ngạo nghễ? Nụ cười khinh bỉ? Hay nụ cười thỏa mãn?



    Ghi chú :
    Nhân chứng quan trọng nhất, chứng kiến tận mắt cái chết của Vũ Tiến Quang thuật cho tác giả nghe là cô Vũ Thị Quỳnh Chi. Cô là em ruột của Quang, nhỏ hơn Quang 4 tuổi. Lúc anh cô bị giết, cô mới 15 tuổi (cô sinh năm 1960). Hiện (1999) cô là phu nhân của bác sĩ Jean Marc Bodoret, học trò của tôi, cư trú tại Marseille.


    Cái lúc mà Quang ngã xuống, thì trong đám đông dân chúng tò mò đứng xem có tiếng một thiếu nữ thét lên như xé không gian, rồi cô rẽ những người xung quanh tiến ra ôm lấy xác Quang. Thiếu nữ đó là Nguyễn Hoàng Châu.
    Em gái Quang là Vũ thị Quỳnh Chi đã thuê được chiếc xe ba bánh. Cô cùng Nguyễn Hoàng Châu ôm xác Quang bỏ lên xe, rồi bọc xác Quang bằng cái Poncho, đem chôn.

    Chôn Quang xong, Châu từ biệt Quỳnh Chi, trở về Cần Thơ. Nhưng ba ngày sau, vào một buổi sáng sớm Quỳnh-Chi đem vàng hương, thực phẩm ra cúng mộ anh, thì thấy Châu trong bộ y phục trắng của nữ sinh, chết gục bên cạnh. Mặt Châu vẫn tươi, vẫn đẹp như lúc sống. Đích thân Quỳnh Chi dùng mai, đào hố chôn Châu cạnh mộ Quang.

    Năm 1998, tôi có dịp công tác y khoa trong đoàn Liên Hiệp các viện bào chế Châu Âu (CEP= Coopérative Européenne Pharmaceutique), tôi đem J.M Bodoret cùng đi, Quỳnh Chi xin được tháp tùng chồng. Lợi dụng thời gian nghỉ công tác 4 ngày, từ Sài-gòn, chúng tôi thuê xe đi Chương Thiện, tìm lại ngôi mộ Quang-Châu.

    Ngôi mộ thuộc loại vùi nông một nấm dãi dầu nắng mưa, cỏ hoa trải 22 năm, rất khó mà biết đó là ngôi mộ. Nhưng Quỳnh-Chi có trí nhớ tốt. Cô đã tìm ra. Cô khóc như mưa, như gió, khóc đến sưng mắt. Quỳnh-Chi xin phép cải táng, nhưng bị từ chối. Tuy nhiên, cuối cùng có tiền thì mua tiên cũng được. Giấy phép có. Quỳnh-Chi cải táng mộ Quang-Châu đem về Kiên Hưng, chôn cạnh mộ của ông Vũ Tiến Đức. Quỳnh-Chi muốn bỏ hài cốt Quang, Châu vào hai cái tiểu khác nhau. Tôi là người lãng mạn. Tôi đề nghị xếp hai bộ xương chung với nhau vào trong một cái hòm. Bodoret hoan hô ý kiến của sư phụ.

    Ngôi mộ của ông Đức, của Quang-Châu xây xong. Tôi cho khắc trên miếng đồng hàng chữ:

    "Nơi đây AET Vũ Tiến Quang, 19 tuổi,
    An giấc ngàn thu cùng
    Vợ là Nguyễn Hoàng Châu
    Nở nụ cười thỏa mãn vì thực hiện được giấc mộng"


    Giấc mộng của Quang mà tôi muốn nói, là: được nhập học trường Thiếu Sinh Quân, rồi trở thành anh hùng.
    Giấc mộng của Châu là được chết, được chôn chung với người yêu.
    Nhưng người ta có thể hiểu rằng: Quang thỏa mãn nở nụ cười vì mối tình trọn vẹn.




    Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ.
    Paris ngày 13 tháng 4 năm 1999.
    (Từ Lịch Sử Thiếu Sinh Quân Việt Nam)


    nguồn: batkhuat.net
Last edited by Hoàng Vân on Thứ ba 28/03/17 09:22, edited 2 time in total.
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Gương Anh Dũng Can Trường của Tập Thể Thiếu Sinh Quân QLVNCH vào những ngày "Quốc Phá Gia Vong" 30 tháng 4 năm 1975.

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  • Gương Anh Dũng Can Trường của

    Tập Thể Thiếu Sinh Quân QLVNCH

    vào những ngày "Quốc Phá Gia Vong"
    30 tháng 4 năm 1975.

    ____________________________________________




    Lời Mở Đầu:

    Có rất ít người hiểu rõ những nét hào hùng của Thiếu Sinh Quân, nhất là trong thời cận đại 1954 đến năm 1956 rồi cho đến ngày 30 tháng 04 năm 1975. Họ là những đứa con trung thành với Tổ Quốc Dân Tộc, những cán bộ nòng cốt trung kiên của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, những chiến sĩ can trường “chống cộng” của Người Việt Quốc Gia. Từ trước tới nay đã trải qua bao thế hệ, Họ vẫn xứng đáng là “Những người con yêu của Đất Mẹ Việt Nam”.

    Chúng tôi xin tóm lược những sự kiện được dẫn chứng từ các tài liệu lịch sử được sưu khảo từ năm 1899 trong Văn Khố Pháp Quốc, và những sự kiện lịch sử thời cận đại, từ năm 1956 đến năm 1975, đặc biệt là trong những ngày đau thương của đất nước Việt Nam, trước và trong ngày 30 tháng 4 năm 1975, để chứng minh những điều của ”Lời mở đầu” trong tập tài liệu nói về “Thiếu Sinh Quân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà”..








    Lược sử Trường Thiếu Sinh Quân VNCH

    Vào thời Pháp thuộc, dưới triều đại Vua Minh Mạng, năm 1899, Toàn Quyền Đông Dương Paul Doumer ký Nghị định ngày 21 tháng 11 năm 1899, cho 2 đơn vi Quân Đội Liên hiệp Pháp, tại Hà Nội và Sài Gòn, được thành lập 2 TOÁN Thiếu Sinh Quân, nhân số TSQ vào thời kỳ nầy, mỗi TOÁN chỉ có 10 người. Từ đó các Trường hay Toán, tại những nơi khác, lần lượt được thành lập, và nhân số các Thiếu Sinh Quân được thu nhận cũng từ từ tăng lên từ 10 đến 20 rồi 50.

    Ngoài Bắc có các Toán Thiếu Sinh Quân:
    • Móng Cái,
      Núi Đèo,
      Đáp Cầu,
      Phủ Lạng Thương,
      Việt Trì,
      Hà Nội;
    tại miền Trung có
    • Trường Thiếu Sinh Quân Huế, (trước tọa lạc tại thành Mang Cá, sau dời vào Thành Nội Huế);

    trong Nam có các
    • TrườngThiếu Sinh Quân Đông Dương (tại Vũng Tàu),
      Thủ Dầu Một (tại Tỉnh Bình Dương),
      Đa Kao (tại Tỉnh Gia Định),
      Thành Ô Ma (Tại Tổng Nha Cảnh Sát cũ Sài Gòn),
      Đặc Lắc (tại Thị Xã Đà Lạt);
      Ban Mê Thuột (tại Tỉnh Ban Mê Thuột),
      và Trường Thiếu Sinh Quân Mỹ Tho (tại Tỉnh Lỵ Mỹ Tho).


    Về phương cách huấn luyện và điều hành của các Toán hay Trường, đều rập theo khuân mẫu của các Trường Thiếu Sinh Quân của Quân Đội Pháp tại Pháp Quốc.

    Sau Hiệp Định Genève 1954, (chia đôi Đất Nước) các Trường Thiếu Sinh Quân Miền Bắc được di chuyển vào Miền Nam, và được sát nhập vào Trường Thiếu Sinh Quân tại Tỉnh Lỵ Mỹ Tho.

    Trong tổ chức của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà chúng ta, có
    • Quân Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam,
      đào tạo và cung cấp cho Quân Đội những Sĩ Quan Hiện Dịch, Chuyên Nghiệp,
    • Quân Trường Võ Khoa Thủ Đức,
      đào tạo và cung cấp cho Quân Đội những Sĩ Quan Trừ Bị;
    • Quân Trường Đồng Đế (Nha Trang),
      huấn luyện và đào tạo những Sĩ Quan cũng như Hạ Sĩ Quan hiện dịch cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà.


    Duy nhất chỉ có một Quân Trường đã đào tạo và cung cấp cho Quân Đội, không những Hạ Sĩ Quan, Sĩ Quan Cấp Úy, Sĩ Quan Cấp Tá và cả những Sĩ Quan Cấp Tướng Lãnh, đó là Trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam Cộng Hoà.

    Về cấp Tướng Lãnh, điển hình qua 2 Vị Tướng, gốc Thiếu Sinh Quân:
    • Thiếu Tướng Nguyễn Văn Vận
      là Vị Tướng Lãnh đầu tiên của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà; Ông có công lao rất lớn trong việc gầy dựng Quân Đội Quốc Gia Miền Nam;
    • Thống Tướng Lê Văn Tỵ,
      Vị Tổng Tham Mưu Trưởng đầu tiên của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.


    Tiếp theo các Tướng Lãnh đàn Anh, còn có các Tướng khác như
    • Trung Tướng Nguyễn văn Là
      (cựu Tổng Tham Mưu Phó Quân Lực),
    • Trung Tướng Nguyễn Hữu Có
      (Cựu Tổng Trưởng Quốc Phòng),
    • Thiếu Tướng Nguyễn Sĩ Quang,
    • Thiếu Tướng Đoàn Văn Quảng
      (Cựu Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt),
    • Thiếu Tướng Hoàng Văn Lạc
      (Cựu Tư Lệnh Phó Quân Đoàn 1/Quân Khu I),
    • Thiếu Tướng Đào Duy Ân
      (Cựu Tư Lệnh Phó Quân Đoàn 3/Quân Khu III),
    • Thiếu Tướng Trương Quang Ân
      (Cựu Tư Lệnh Sư Doàn 23/ Khu 23 Chiến Thuật),
    • Chuẩn Tướng Lý Tòng Bá
      (Nguyên Tư Lệnh Sư Đoàn 25/ Khu 31 Chiến Thuật).

    Tất cả đều là những vị Tướng kiệt xuất trong hàng ngũ Tướng Lãnh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, một lòng trung thành với Đất Nước Dân Tộc.

    Ngoài các Tướng Lãnh kể trên, từ nơi lò luyện thép Thiếu Sinh Quân, còn cung cấp cho Quân Đội
    • hàng trăm hàng nghìn Sĩ Quan Cấp Tá, Cấp Úy, và Hạ Sĩ Quan,
      rải đều cùng khắp 4 Quân Khu, 4 Vùng Chiến Thuật,
      hiện diện đều trong các Quân Binh Chủng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà,
      nhiều nhất là trong các đơn vị hành quân tác chiến.


    Đơn vị nào cũng có Thiếu Sinh Quân, và luôn được cấp chỉ huy tin dùng ở đức tính “gan lì can đảm” trên trận mạc. Đâu đâu cũng có những đứa con trung kiên của đất nước, đồng cam lao cộng khổ với các Chiến Hữu khác, để cùng chia sẻ những nổi nhọc nhằn với Đất Mẹ Việt Nam, trong suốt 30 năm chinh chiến giữa Quốc Gia và Cộng Sản.





    Giai đoạn chuyển tiếp bắt đầu từ thời Pháp thuộc chuyển qua thời kỳ ảnh hưởng Hoa Kỳ, tức là từ năm 1954 đến năm 1956. Giai đoạn này rất là căng thẳng, vì phái bộ viện trợ Hoa Kỳ không có ngân khoản dự trù cho các trường Thiếu Sinh Quân và họ đề nghị với Bộ Quốc Phòng Việt Nam Cộng Hoà cho giải tán hết tất cả 6 Truờng Thiếu Sinh Quân hiện có tại Miền Nam Việt Nam. Nhưng rất may, đến giớ phút chót, nhờ ân đức của Tổng Thống Ngô Đình DiệmTrung Tướng Lê Văn Tỵ (đang là Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực), Tổng Thống Ngô Đình Diệm có quyết định:
    • Không những không giải tán, mà còn ra lệnh cho Tổng Tham Mưu Ttưởng Quân Đội, cho tập trung hết tất cả 6 Trường Thiếu Sinh Quân hiện hữu, nhập lai chung thành một trường Thiếu Sinh Quân thống nhất, tổng cộng 1,350 TSQ đồng di chuyển về Vũng Tàu,
    • và được nâng cấp lên thành “Quân Trường” có tầm vóc Quốc Gia, với danh xưng “Trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam”, vào ngày 01 Tháng 06 năm 1956.
    • Ngân khoản đài thọ cho Quân Trường Thiếu Sinh Quân được du di từ ngân khoản dành cho Quân Đội Quốc Gia hiện hữu.









    Từ ngày Trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam được chính thức thành lâp (tháng 6 năm 1956, cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975), trải qua 19 năm, có thể nói là thời kỳ “CỰC THỊNH” của Trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam.

    Tính từ khi mới thành lập những Toán TSQ (năm 1899) đến năm 1975, Quân Trường Thiếu Sinh Quân đã đào tạo và cung cấp cho Quân Đội được 6,000 đứa con yêu cho đất nước, những cán bộ Quân Sự chuyên nghiệp cho Quân Đội có trình độ Văn Hoá bậc Đại Học như:
    • - Các cựu TSQ tốt nghiệp từ Quân Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, có bằng Cử Nhân Khoa Học Thực Nghiệm,
      điển hình như Cựu TSQ Đặng Phương Thành, Cựu TSQ Nguyễn Ngọc Ánh, và một số Huynh Đệ cùng Khoá khác.
    • - Các cựu TSQ, tốt nghiệp Trường Đại Học Sư Phạm, với Bằng Đại Học Sư Phạm.
      Sau khi tốt nghiệp, được điều động trở về Trường TSQ, làm Giáo Sư Văn Hoá, để tiếp tục đào tạo và dạy dỗ đàn em TSQ. Điển hình như: cựu TSQ Lê Văn Hai, cựu TSQ Chu Văn Hải và một số đông các cựu TSQ khác.
    • - Các cựu TSQ có Bằng Cử Nhân Luật, sau khi tốt nghiệp, được Bộ Ngoại Giao tuyển dụng, để trở thành những Tùy Viên Quân Sự cho các Sứ Quán VNCH tại các nước đồng minh trên thế giới,
      điển hình như cựu TSQ Nguyễn Quang Mông, cựu TSQ Đặng Văn Dũng và một vài cựu TSQ khác.
    • - Các cựu TSQ tốt nghiệp Trường Quân Y hay Dân Y, có bằng Y Khoa Bác Sĩ,
      điển hình như cựu TSQ Trần Thế Tùng tức nhà văn sử học Trần Đại Sỹ.
      Ngoài Trần Thế Tùng, còn có rất nhiều Y khoa Bác Sĩ Quân Y, điển hình như cựu TSQ Đỗ Đình Tưởng, Hoàng Đình Thái,.và một số đông Quân Y Sĩ khác; sau khi tốt nghiệp, họ được bổ sung đi các các đơn vị hành quân tác chiến.
    • - Trước ngày Quốc Phá Gia Vong, vào năm 1972-1973 , còn có 2 cựu TSQ được giữ chức vụ Tỉnh Trưởng,
      đó là cựu TSQ Hồ Ngọc Cẩn (Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng TK/ Chương Thiện vào năm 1973),
      và cựu TSQ Nguyễn Ngọc Ánh (Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng TK/ Bình Tuy vào năm 1972).


    Tiếp nối đàn anh, gần ngày 30 tháng 4 năm 1975, một nhóm 07 TSQ may mắn được trực thăng Mỹ “bốc đi”, nay đã trở thành những chuyên viên cao cấp của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ, có Bằng Tiến Sĩ, có người đang là Giáo Sư Đại Học, (nghành Sinh Lý Hoá = Bio-Chemist) đang phục vụ tại Cơ Quan Nguyên Tử Lực Hoa Kỳ, điển hình như cựu TSQ Phi Quang Khải (mang cấp bậc giả định Chuẩn Tướng).

    Sau năm 1975, kiểm điểm chỉ còn lại 1,500 Huynh Đệ TSQ mà thôi. Như vậy, máu xương cũa TSQ đã cống hiến cho Đất Mẹ Việt Nam lên đến ¾ = 75% nhân số.



    Đàn anh dẫn dắt đàn em trong ngày khai giảng niên học mới




    Đã trải qua 34 năm, kể từ ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà bị "BỨC TỬ”, vào gần kề và trong thời gian ”Quốc Phá Gia Vong” đó, vẫn còn những “Đứa Con Yêu” của Tổ Quốc, những cán bộ trung kiên của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, kể cả một Quân Trường mang tên Thiếu Sinh Quân Việt Nam, nêu gương bất khuất, không chịu đầu hàng Cộng Sản, vẫn cương quyết chiến đấu đến giờ phút cuối cùng, xuyên qua 3 sự kiện “Lịch Sử “ như sau:




    1. Trận chiến trên sông Vàm Cỏ Tây
    với Cố Đại Tá TSQ Đặng Phương Thành:


    Ngày 16 tháng 04 năm 1975 (2 tuần trước ngày mất nước), trên kinh Thủ Thừa thuộc Tỉnh Long An giáp giới Sông Vàm Cỏ Tây,
    • lực lượng Thuỷ Bộ gồm có Giang Đoàn Đặc Nhiệm 99 với gần 100 giang đĩnh, do Vị Tư Lệnh Hải Quân, Phó Đô Đốc Chung Tấn Cang, cấp tốc thành lập để kịp thời đáp ứng cho nhu cầu của đất nước đang cơn ngặt nghèo, dầu sôi lửa bỏng,
      hợp cùng Trung Đoàn 12 thuộc Sư Đoàn 7 Bộ Binh, do Đại Tá Đặng Phương Thành, (gốc Thiếu Sinh Quân, tốt nghiệp Khóa 16 Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam)
      đã chận đánh Công Trường 5 thuộc Quân Đoàn 232 Cộng Sản Bắc Việt. do Tướng Cộng Sản Lê đức Anh Chỉ Huy, ngăn không cho đơn vị này (Công Trường 5) vượt qua Sông Vàm Cỏ.

    Trung Đoàn 12 Bộ Binh và Lực lương Thuỷ Bộ 99, đã đánh một trận để đời tại ngã ba Sông Vàm Cỏ Tây, Cộng quân phải khiếp đảm kinh hồn tháo chạy, để lại trên chiến địa trên 3,000 xác cán binh tử trận. Máu Cộng Quân loang đầy dòng sông. Xác Cộng quân lấp đầy con kinh Thủ Thừa ra tận đến bờ Sông Vàm Cỏ.

    Nhưng rồi….Người Hùng Đặng Phương Thành phải chịu kiếp tù đày khổ sai.
    Nhớ lại cái hận của trận thảm bại năm xưa (tại ngã ba Sông Vàm Cỏ Tây), và nhân cơ hội cựu TSQ Đăng Phương Thành đứng ra tổ chức vượt ngục…bị bắt trở về: trong đêm trời vần vũ mây đen, tại căn hầm “khổ sai” biệt lập, các bạn “tù” kế cận, nghe được tiếng “Kêu Trời” và những tiếng rên la uất nghẹn của người Anh Hùng thất thế sa cơ….
    Sáng sớm hôm sau, khi sương mù còn giăng phủ, người ta lờ mờ thấy mấy tên cai ngục lôi xác một người từ trong xà lim bỏ ra ngoài…rồi ra lệnh cho các bạn tù khác khiêng đi chôn. Các “tù” Quân Nhân QL/VNCH mới nhận ra thân xác của Đại Tá Đặng Phương Thành, mình mẩy tím bầm, môi mắt sưng vù, miệng còn động vũng máu tươi, chết một cách tức tưởi, thật thảm thương !!!

    Đúng là Mãnh Hổ sa cơ, lũ Chồn Cáo chia nhau xẻ thịt.





    2. Tại Tỉnh Lỵ Chương Thiện vùng 4 chiến thuật
    với Cố Đại Tá Tỉnh Trưởng cựu TSQ Hồ Ngọc Cẩn


    Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn xuất thân Khóa 2 Sĩ Quan đặc biệt Trường Đồng Đế (Nha Trang), với cấp bậc Chuẩn Úy giữa năm 1962.
    Thuộc Binh Chủng Biệt Động Quân, Ông là một trong “NGŨ HỔ TƯỚNG” Miền Tây, bởi những chiến tích lẫy lừng trong những cuộc hành quân có tên “Dân Chi” của Sư Đoàn 21 Bộ Binh (Khu 42 Chiến Thuật).
    Ông cũng là Vị Trung Đoàn Trưởng, Chỉ Huy Chiến Đoàn 15 thuộc Sư Đoàn 9 Bộ Binh đến tăng cường, giải vây An Lộc.
    Năm 1972, sau trận An Lộc, Ông được vinh thăng Đại Tá đặc cách mặt trận, và được bổ nhiệm giữ chức Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Chương Thiện (năm 1973). Với tính tình cương trực, yêu thương đồng đội, quí trọng dân chúng, Đại Tá Cẩn đã rất thành công trong chức vụ ”Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng” Tiểu Khu Chương Thiện. (Lính mến, Dân thương).
    Vào những ngày cuối cùng của “THÁNG TƯ ĐEN”, với tinh thần bất khuất, sẵn mang “dòng máu Thiếu Sinh Quân Chống Cộng” trong người, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn cùng một số chiến hữu “gốc Thiếu Sinh Quân” cùng nhau ngăn chặn Cộng quân, chiến đấu đến viên đạn cuối cùng.

    Theo tài liệu ghi chép lại, Đại Tá Cẩn cùng 4 chiến hữu gốc TSQ trong đó có Trung Sĩ Vũ Tiến Quang, và 1 tài xế, trấn thủ trong một pháo đài xây trước Tiểu Khu (cạnh Tòa Hành ChánhTỉnh).
    Sau vài giờ, từ khi Tổng Thống Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng Cộng Sản vô điều kiện và kêu gọi các đơn vị và Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà buông súng “đầu hàng” để “bàn giao”, một toán khoảng 15 cán bộ Cộng Sản hăm hở đi vào Toà Hành Chánh Tỉnh để nhận bàn giao. Tất cả lũ “Vẹm” chưa được đặt chân đến “thềm” trước cửa Tòa Hành Chánh Tỉnh đều bị bắn ngã gục.
    Sau đó, Cộng quân huy động cả Tiểu Đoàn Bộ Binh thêm 4 chiếc M.113 của VNCH (chiến lợi phẩm) ùn ùn mở cuộc tấn công tràn vào. Với 2 khẩu Đại Liên M.60 và khẩu đại bác không giựt 57ly, từ trong “Bunker” thay nhau khạc đạn, 4 chiếc M.113 đều bi bắn cháy bất động. quân Cộng sản vội rút lui ra xa. Chúng chỉnh đốn lại hàng ngũ, rồi lại tấn công…Trận chiến kéo dài cho đến chiều. Cộng quân cũng vẫn không tấn chiếm được pháo đài (Bunker) nầy. Cho đến khi Đại Tá Cẩn cùng 4 chiến hữu chiến đấu đến viên đạn cuối cùng thì mới chịu thúc thủ để cho “tên” tài xế chĩa súng bắt buộc phải buông súng đầu hàng.

    Trận chiến được kết thúc với trên 100 cán binh Cộng Sản bị hạ;
    Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn và các Chiến hữu bị Cộng quân bắt giữ.
    2 chiến sĩ Anh Hùng (gốc Thiếu Sinh Quân) bị hành quyết tại chỗ ngay sau đó.

    Riêng Đại Tá Cẩn bị chúng đặt trên một xe 4×4 mui trần chạy chung quanh Tỉnh Lỵ, phát loa kêu gọi “Đồng Bào” đến dự cuộc “đấu tố “ Tội Ác”??? Đại Tá Cẩn, 2 tay bị trói quặt sau lưng, đứng thẳng, ngẩng đầu nhìn về phía trước, dõng dạt nói trước đám đông dân chúng (mọi người hiện diện, trên gương mặt đều có một nét buồn chán sâu xa). Ông nói:
    • “Tôi nhận thấy, tôi không có làm điều gì có lỗi với đồng bào, dân cư trong Tỉnh, thì làm sao tôi lại có tội với nhân dân!!! Nếu nói rằng tôi có tội!!! thì chỉ có cái tội “Tôi bất tuân thượng lệnh không chịu buông súng đầu hàng Cộng sản”, còn hơn thế nữa, chúng tôi vẫn tiếp tục cầm súng chiến đấu chống lại bọn chúng tới cùng.”

    Sau đó, Cộng quân giải Đại Tá Cẩn về Tỉnh Cần Thơ, khổ sai giam cầm Người, hành hạ đủ điều, cuối cùng bị Cộng quân đem ra “hành quyết” vào sáng ngày 14 tháng 8 năm 1975 tại sân banh Cần Thơ dưới sự chứng kiến của hàng ngàn dân chúng (bị bắt buộc phải đi chứng kiến). Trong số này có một chứng nhân còn sống, phu nhân của Cố Đại Tá Nguyễn Văn Phát. Bà Nguyễn Thị Vi viết trong tác phẩm tựa đề


    "14.8.75
    Ngày cuối cùng của Đại Tá HỒ NGỌC CẨN"
    Ba giờ sáng, mỗi nhà một người cùng ra đi, đến tập hợp tại văn phòng khóm, nơi đã được tên tổ trưởng cho biết trước từ chiều hôm qua. Nhà nào cũng phải có người đi, không được vắng mặt, đặc biệt nhà có Sĩ Quan đi học tập, thì phải là người chủ gia đình, nghĩa là Cha Mẹ hay người Vợ.

    Lý do, địa điểm không được biết trước. Lúc đó người ta đoán lờ mờ có lẽ thì cũng đi “mít tinh” như những lần trước. Cũng được gọi tập hop lúc 3 giờ sáng, rối được dẫn đi bộ tới nơi cử hành lễ, xa trên 2 hay 3 cây số! Lần này thì chắc cũng vậy thôi, cũng đến rồi đi…rồi cùng nhau phải la lớn, hô to các khẩu hiệu “hoan hô” “đả đảo”. Với những thân người uể oải, gương mặt buồn rầu đầy lo lắng, những đôi mắt ngơ ngác trắng bệch vì mất ngủ, những mái đầu bù rối không được chải gỡ, mà gỡ để làm gì? Khi tất cả mọi người đều cần phải tự biến dạng con người mình cho được xấu đi, tàn tạ đi để hoà hợp cho giống hình hài của lũ người man rợ; Để chúng bớt chú ý, vì lý do thấy mình sạch sẽ tươm tất thì sẽ bị chúng để ý theo dõi, hay sẽ bị chúng nhìn bằng cặp mắt căm thù, ghen ghét, rồi có thể bị gọi đến hỏi thăm, bị tù, bị mất nhà như chơi. Chúng sẽ ghép cho cái tội lảm tình báo phản động?!!.

    Như những người khác, tôi cũng có mặt lúc 3 giờ sáng hôm ấy. Với chiếc áo bà ba nhạt mầu và chiếc nón lá bung vành, bộ đồ ngụy trang đặc biệt mà tôi thường dành để đi dự lễ và hội họp, từ sau ngày 30 tháng 4 năm 75. Lách mình chen vào đám đông để tìm một chổ sáng nhất, tôi đứng ngay trên hàng đầu để cho tên tổ trưởng, khóm trưởng thấy mặt, với dụng ý là để cho chúng điểm danh có đi họp, để tránh bị theo dõi báo cáo, để không bị ghép vào tội phản động, tội làm tình báo cho Mỹ, chứ không phải để nghe bọn chúng giáo điều. Sau một lúc điểm danh nhanh chóng, đầy đủ mặt (đâu có ai dám vắng mặt), tên khóm trưởng ra lệnh sắp hàng đôi, rồi đi. Tất cả cùng gập đầu răm rắp nghe theo, mà không được biết là đi đâu?!. Đặc biệt lần này đi trong im lặng, không bị kêu hô hoan nghênh đã đảo gì hết !! Như một đoàn “ma trơi” đi trong sương lạnh. Từng cây thịt chệnh choạng bước, nối đuôi nhau, câm lạnh nghẹn lòng!!.

    Thành phố Cần Thơ còn ngáy ngủ, chìm trong ánh sáng lờ mờ của ánh đèn đường thưa thớt đầy hơi sương, không khí nặng nề khó thở. Đêm vẫn chưa tàn, cánh Thu buồn ảm đạm, mây giăng ngập trời một mầu xám sậm thê lương!! đó đây như nức nở !! Như oán than, như muốn gào, muốn thét lên; tiếng thét câm hờn !! hận nghìn trùng !!
    “Họa Cộng sản đã bao trùm đất nước Việt Nam”.

    Cần Thơ, Tây Đô Thành, ngày nay vương đầy màu máu! khắp lối đều đỏ! nhuộm đỏ cả những đôi mắt nhung huyền của những thiếu phụ Miền Nam.

    Khởi đi từ đường Lê văn Duyệt, đoàn người chúng tôi được dẫn đi qua đường Trần Thanh Cần, Phan Đình Phùng, Nguyễn An Ninh, rồi Nguyễn Tường Tộ, thẳng vào “sân vận động” của Tỉnh. Trên đường đi, chúng tôi cũng gặp đoàn người khác đông và dài ngoằn ngoèo như đoàn của chúng tôi, từ các ngã đường kéo đến, nhập vào rồi cùng đi. Họ cũng là những người như chúng tôi, bị bắt buộc tập họp, rồi bị dẫn đi, cũng không được biết trước là đi đâu và để làm gì ?

    Đến sân vận động, tôi nhìn thấy nơi đó đã có rất đông người đến trước. Đặc biệt là ở đó đây có nhiều tên cán bộ Cộng sản, tay cầm súng lăm le có vẻ quan trọng lắm, nét mặt chau choắt đăm đăm, chúng ngẩng cổ nhìn soi bói từng người với vẻ căm hờn cay đắng! Một cảm giác lạ đến với tôi như có một điềm gì báo trước. Tôi rùng mình ớn lạnh. Mọi người chắc cũng có cảm giác như tôi, im lặng nhìn nhau lo sợ, đợi chờ. Trời âm u buồn! Buổi bình minh như không chịu đón ánh sáng mặt trời !!! mỗi người trong lúc đó như không có buổi ban mai .. !!..
    • - Làm gì đây? Lễ gì đây? Tiềng xì sào người nọ hỏi người kia: - Ai cũng không biết !!
      - Chắc là đón cán bộ cao cấp trung ương xuống nói chuyện ? - Không biết !!

    Sống dưới chế độ Cộng sản, người dân muốn được an thân thường hay phải nói “không biết”. Giữa sân vận động một chiếc bàn dài được đặt sẵn, chung quanh đây đó đầy sắc cờ được dựng lên ngoài mầu cờ xanh đỏ gọi là “cờ giải phóng quân” của chúng, còn có cờ lễ như các cây phướn đủ màu như đám cúng “tống ôn” của thầy pháp. Ngoài cổng nhiều đoàn người tiếp nối tiến vào, có nhiều chiếc xe hàng to lớn chở đầy người, có lẽ người ở ngoại ô, nơi Quận Xã cũng bị bắt buộc đến. Tất cả mọi người cũng như tôi, cứ phải đứng như vậy trong nhiều giờ, đứng mãi, đứng chai cứng người, đứng đến ngất xỉu luôn !!…

    Khi mặt trời lên cao, nhìn đồng hồ của người bên cạnh đã 9 giờ 30, nhiều đám người vẫn tiếp tục đến càng lúc càng đông hơn, chật ních cả sân vận động. Từng đoàn, từng đoàn được xếp đứng ngay hàng lối, còn lại một lối vào chạy thẳng đến chiếc bàn dài để ở giữa sân. Tiếp đó 4 chiếc quân xa chở đấy ấp cán bộ Cộng sản đến. Đám này ăn vận màu xanh và đen cùng với chiếc nón tai bèo trông thật là ngốc nghếch, thằng nào mặt cũng đầy sát khí, hăm hở như khỉ ăn được đậu phộng rang. Có tiếng xì xèo nho nhỏ:
    • “Hình như xử án? Mà xử ai vậy?
    Câu hỏi lọt vào tai tên “cán bộ 30” đứng gần đó, tên này lớn tiếng ra cái điều sành sỏi:
    • - Hôm nay cách mạng lập tòa án nhân dân xử mấy tên “phản động” bán nước đó.
    Tiếng xì xào bị cắt đứt bởi tiếng máy nổ của đoàn xe từ cổng chạy vào, nhiều chiếc xe jeep và quân xa nối tiếp nhau, giữa đoàn là một xe bít bùng, tất cả dừng lại giữa sân. Các tên Cộng sản cấp cao trên mấy chiếc jeep leo xuống đến ngồi vào bàn. Những tên nầy ăn mặc hoàn toàn khác biệt với đám cán bộ địa phương, chúng ăn vận quần áo ka ky mầu xanh lục, áo 4 túi bỏ ngoài, đầu đội nón cối. Lúc ấy người ta gọi là “bộ đội chánh quy”. Mặt chúng đầy sát khí, với đôi mắt sâu hoắm, xương gò má nhô cao, cầm thì bạnh ra, miệng hô hốc, nước da chì xanh mốc… họ cố sửa tướng ngồi cho có vẻ (?), nhưng sao tôi vẫn thấy như là ở nơi họ có một cái gì biến đổi hình người của họ thành ra dã thú sát nhân.

    Trên các quân xa đầy ắp cán bộ với đầy đủ võ khí cá nhân. Chúng nhẩy xuống chạy nhanh bao quanh làm một vòng rào người, những tên có nhiệm vụ chạy đến sau chiếc xe bít bùng, cửa được mở ra… từ trên xe nhẩy xuống một người hai người rối ba người….người nào cũng bị còng quặt ra sau lưng. Tôi nhìn kỹ hơn, có một người cao lớn mặc bộ bà ba đen, hình như có một nét gì quen thuộc lắm..
    Trời ơi !!! Đại Tá Cẩn!!! Đại Tá đây sao?
    Tôi chỉ thầm hỏi với lòng tôi trong tiềm thức nức nở nghẹn ngào !! Mắt tôi mờ dần… đầu quay quắt mạnh, cổ nghẹn cứng, ngực nặng chĩu, tay thì lạnh buốt, chân run, choáng váng!!… Tôi ngồi bệt xuống một chút, cố nén lòng để không bật ra tiếng nấc, vì tôi biết trong các buổi mít tinh, hội họp, rải rác trong đám đông luôn luôn có bọn chúng gài vào để nghe ngóng, để sách động hô hào.

    Tôi nhắm mắt hình dung lại quang cảnh “toà án nhân dân” trong cuốn phim “Chúng tôi muốn sống” của Lê Quỳnh, quang cảnh hôm nay thật giống cảnh trong phim, cảnh đấu tố xử án tại miền Bắc sau năm 1954. Với mấy cái nón cối để trên bàn, với tập hồ sơ dầy cộm, những tờ giấy trước mặt 5 tên cán bộ “răng hô” ngồi nơi bàn. Chúa ơi !! Tôi sợ quá !! Làm sao bây giờ? Không biết làm sao để trốn ra khỏi đám thú vật và rừng người này? Lúc đó tôi mới thấy mình sai lầm khi chọn đứng vào chỗ trước hết, đứng cho tổ trưởng nó thấy mặt mà, nhưng nếu biết trước được sự việc nầy thì chắc là tôi đã phó mặc cho chúng nó ghi sao thì ghi, báo cáo sao cũng được. Tôi sẽ vắng mặt ở nhà không đi hôm nay, hay cùng đường lắm thì chỗ đứng của tôi hôm nay là nơi sau cùng của đám đông này, để đừng xem, đừng thấy gì hết.

    Làm sao bây giờ? Không làm sao được vì mọi người đều đứng im. Từ nơi bục gỗ, bên mặt chiếc bàn, tên cán bộ tay cầm tờ giấy mở ra bắt đầu đọc, đại ý là thành lập toàn án nhân dân.. Chúng đọc, đọc nhiều trang, nhiều tờ, mà tôi có nghe được gì đâu, Lúc ấy chắc mọi người cũng như tôi, tất cả mọi người đều hồi hộp nhìn những người bị đem ra xử. Với đầu óc quay cuồng, quanh bao ý nghĩ tò mò, đen thui.. tôi nghĩ, ngày nào, rồi đến ngày nào thật gần hay xa đến lượt mình và người thân của mình sẽ bị đem ra xử?!. Tên thứ nhất dứt lời, đến tên thứ hai ngồi giữa cũng tiếp tục nhìn vào giấy đọc, thỉnh thoảng nhìn lên rảo mắt đám đông như hăm he dằn giọng. Danh từ “phản động” “bán nước” được chúng lập lại nhiều lần như đang muốn nhai sống thịt tươi.

    Cứ mỗi lần chúng phát âm đến tên Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, tôi cố dằn lòng, nén tâm để nước mắt không tràn xuống rèm mi, cố mở đôi mắt nhìn Đại Tá vóc dáng hiên ngang, mặt rạng rỡ không hề mất niềm tin, mắt sáng miệng như mỉm cười, nhìn thẳng về đằng trước, mặt ngước cao, nhìn vào khoảng trời rộng mênh mông… Đại Tá không nhìn về phía bàn, không nhìn bọn chúng như không muốn nghe, muốn thấy gì ở cái lũ độc ác vô lương. Miệng Đại Tá mấp máy như đang cầu nguyện, như muốn nói lại lời gì để nhắn nhủ đến toàn quân, toàn dân, tất cả những người của miền Nam yêu dấu, như muốn trả lời câu hỏi của Tổ Quốc quê hương.
    “ANH ĐÃ LÀM GÌ CHO ĐẤT NƯỚC ANH CHƯA?”

    Thì đây là lúc Đại Tá Cẩn đã được dịp trả lời:
    Hôm nay, tôi được làm tròn bổn phận của người trai, đáp đền ơn nước.

    Và chắc trong lòng “người” cũng có chút ước mơ, mơ về các bạn đồng ngũ yêu mến, cũng cùng có một lý tưởng, một niềm tin, Sống Tự Do và Quyết chết cho Tự Do.

    Cả rừng người im lặng, không khí nặng nề nghẹt thở, nhiều tiếng thở nhanh, dồn dập theo giọng nói lớn của tên cán bộ xử án: “Tử Hình”. Tôi chỉ nghe được vậy, một danh từ không quen thuộc, chưa bao giờ đến bên tai tôi bởi bất cứ miệng người nào. Từ ánh mắt như nhìn vào cõi mênh mông rồi bị lôi kéo vào thực tế, Đại Tá Cẩn nhìn thẳng vào bọn chúng, bình tĩnh hiên ngang, không một chút sợ sệt, đang sẵn sàng chờ đợi cái chết. Sau tiếng “Tử Hình” chúng tiếp:
    • “Anh muốn nói gì không? Để tỏ lượng khoan hồng, nhân dân cho phép anh nói lời sau cùng”.
    Còn gì để nói khi bọn nó đã nói quá nhiều, những lời bày vẽ đặt điều, gán ghép buộc tội, rồi sau cùng cũng tự chúng kết án ra lệnh xử tử, mà bản án đã được viết sẵn, cái gì cũng ghi là theo đòi hỏi của nhân dân. Bỗng từ những chiếc máy phóng thanh vang ra liên tiếp:
    • “Đả đảo, Đả đảo; Tử hình, tử hình”.
    Cả rừng người nhứt loạt bắt buộc la theo, la to theo lệnh của tổ trưởng, khóm trưởng đứng gần đó. Ngoài ra còn những tên cán bộ giả dạng dân, len lỏi vào cùng đứng với đám đông, xách động:
    • “Hãy hô lớn lên bà con, hô lớn lên, lớn lên Tử hình tử hình”.


    Lúc đó thân tôi như chìm ngập trong biển người…Chúa ơi!! tất cả đã trở nên độc ác, khát máu hết rồi sao? Không đâu, trông kia cũng có nhiều người họ giống tôi, mặt bơ phờ, xanh mét, môi mấp máy không thành lời, nhưng họ cố lay động làm như cũng đang hô theo. Mắt tôi lúc nầy không rời Đại Tá Cẩn. Đại Tá Cẩn hô to:
    * VIỆT NAM CỘNG HÒA MUÔN NĂM…
    * ĐẢ ĐẢO CỘNG SẢN…

    Nhanh như cắt, nhiều tên cán bộ đang cầm súng đứng quanh vội nhào tới, tên đứng gần nhất nhanh tay rút chiếc khăn trong túi, nhét vào miệng Đại Tá Cẩn, rồi đưa mũi lưỡi lê đẩy chiếc khăn sâu vào thêm và nói: “Câm miệng lại”. Những tên khác kẻ nắm khuỷu tay, kẻ lấy tấm vải đen đã được chuẩn bị sẵn bịt mắt Đại Tá Cẩn, với hai tay vẫn bị còng ra sau, Đại Tá Cẩn nghiêng người lắc đầu như tỏ ý đừng bịt mắt, tôi không sợ, nhưng sau đó, chúng cũng cột mảnh vải đen vào mắt người, mở trói tay và dẫn đến đứng trước hàng bộ đội Cộng sản 5, 6 tên, tay cầm súng lăm le sẵn sàng chờ lệnh. Sau đó một tiếng hô to, một loạt súng nổ, tiếp theo sau là tiếng nổ nhỏ, gọi là phát súng ân huệ bắn thẳng vào trán Đại Tá Cẩn. Đại Tá ngã gục! Quá xúc động, tôi cũng ngã theo, bất tỉnh, không còn nghe thấy gì nữa.

    Khi tỉnh dậy, những bà con hàng xóm chứng kiến cuộc xử bắn Đại Tá Cẩn cũng bàng hoàng xúc động. Họ bảo tôi
    • “Cố gắng lên chị, mình về đi, xong hết rồi”
    Tôi chệnh choạng bước đi, chân nặng nề nương bên cánh tay một người bạn cố gắng bước đi, đi thật nhanh khỏi chỗ này. Tôi không dám quay nhìn lại, đầu óc quay cuồng, choáng váng, lòng đầy uất hận, chạnh nghĩ đến những người thân, đến người chồng, những anh quân nhân QLVNCH giờ đây đang bị giam cầm, đang bị đầy đoạ trong ngục tù Cộng sản. Rồi đây sẽ đến phiên ai, người nào sẽ bị đưa lên đây hành quyết xử bắn .

    Nước mắt tôi chảy dài, tôi khóc, khóc nức nở. Nước mắt và tiếng khóc cũng không làm vơi được niềm uất hận trong tôi. Đi bên tôi còn mấy người lạ trông thấy vậy hỏi tôi:
    • “Bộ chị có bà con với người bị xử tử à?”
    Im lặng tôi không trả lời. Trong lúc ấy tôi nhìn thấy những toán bộ đội Cộng sản mặt mày hớn hở, nói cười luôn miệng, làm như chúng vừa thắng được một trận chiến, giết được người cùng nòi giống Việt ! Con người vô nhân độc ác vậy sao?

    Thượng Đế ơi! Cúi xin Ngài hãy thương xót! Xin thương xót chúng con, những người Việt Nam đã chịu nhiều đau khổ vì chiến tranh, vì tai họa Cộng sản, đã đổi hướng xoay chiều, đưa cả giang sơn nước Việt vào con đường chết, con đường đỏ màu máụ

    Cúi xin Thượng Đế hãy giúp chúng con, giúp những người Quốc Gia Việt Nam yêu nước giữ vững niềm tin chờ ngày phục hận, đem lại ánh bình minh vào “Lý Tưởng Tự Do” .


    Xin cho anh hồn Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn được nhẹ nhàng và mãi mãi ghi sâu vào lòng mọi người Việt Nam yêu Tổ Quốc hôm nay.



    (Để tưởng nhớ và kính dâng anh hồn người anh hùng Hồ Ngọc Cẩn) .






    3. Trường Thiếu Sinh Quân QLVNCH
    và cuộc "Chống Trả" sau cùng.


    Đồng bào trong nước, và dân cư Vũng Tàu còn nhớ, cũng như Người Việt Quốc Gia Tỵ Nạn Cộng Sản Hải Ngoại nghe truyền tụng rằng:
    • “Giờ thứ 25”, giờ phút sau cùng của Ngày “TANG CHẾ” của toàn thể Quân Dân Việt Nam Cộng Hoà, 30-04-1975,
      về sự hào hùng kháng cự, của các “Chú lính tí hon” Thiếu Sinh Quân, tự chỉ huy (không có cán bộ nhà Trường), cho đến giờ phút cuối cùng.
    • Trong lúc đó, tất cả các đơn vị, trước đây đồn trú tại Vũng Tàu đều “rã ngũ”;
    • Trong khi tại Thủ Đô Sài Gòn, T.54 Cộng sản đã ủi sập cổng chính Dinh Độc Lập và chiếm cứ Thủ Đô Việt Nam Cộng Hoà của chúng ta.
    • Chỉ có hai nơi, vẫn còn đang tiếp tục kiên cường chiến đấu, kháng cự không chịu buông súng đầu hàng giặc Cộng. Đó là
      • tại Tỉnh lỵ Chương Thiện do Vị Tỉnh Trưởng gốc Thiếu sinh quân, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn (được tường thuật ở đoạn trên)
      • và Trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam Cộng Hòa tại Thị Xã Vũng Tàu.


    Trường Thiếu Sinh Quân trấn đóng ngay cửa ngõ con đường dẫn vào Thị Xã Vũng Tàu. Cộng quân huy động cả Trung Đoàn Bộ Binh để tấn chiếm Vũng Tàu trên đường xâm nhập từ Tỉnh Bà Rịa vào Vũng Tàu, bắt buộc phải xuyên qua cửa ải Trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam. Đoàn quân Cộng sản, khi vừa tới ngã ba “Bến Đình & Vũng Tàu” thì chạm ngay một lực lượng chống trả (địch chưa biết rõ thực lực của TSQ), trấn thủ bên trong ngôi thành vách đá rộng lớn, phía trước cổng có đề chữ Trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam. Các Thiếu Sinh Quân đóng kín cửa trường, và từ các lỗ châu mai, với những khẩu Đại Liên M.60, các khẩu phóng lựu M.79, các khẩu súng trường M.16, thi đua nhau khạc đạn chận đoàn quân Cộng sản đang hùng hổ tiến vào…sau vài lần cố vượt qua, nhưng tất cả đều bị bắn ngã… Cuối cùng Công Quân phải điều động một Chi Đội T.54 từ Tỉnh Bà Rịa đến trợ chiến, dùng Đại Bác 100 ly của chiến xa bắn thủng cửa thành, gây thêm thương tích cho một vài em TSQ bên trong… Chiến xa dàn trận…Cộng quân phát loa kêu “đầu hàng”!!
    Tình hình nội bộ bên trong Trường, lúc bấy giờ có khoảng 1,000 chú lính tí hon:
    • (7/10 dưới 14 tuổi),
      phần còn lại là các em lớp 12 cũng dưới 18 tuổi,

    tổ chức thành các Đại Đội chiến đấu, y như các bậc đàn anh “Lính Chiến” chuyên nghiệp, của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, (các Đại Đội TSQ được chỉ huy bởi các em lớp 12), Một số bị thương (tự băng bó lấy, không có y tá cũng như Bác Sĩ). Không có ai “nấu cơm cho ăn” như thường ngày…

    Vì sức cô, thế yếu trước đoàn quân hung hăng của Cộng sản có cả T.54 trợ chiến, buộc lòng các em phải cử phái đoàn cầm cờ trắng ra “thương thuyết”. Một em Thiếu Sinh Quân lớp 12 tiến đến gặp viên Chính Ủy để ra điều kiện:
    • “Các Ông không được tiến lấn thêm một bước nào nữa và phải để cho chúng tôi làm lễ hạ Quốc kỳ và cuốn lại Quân kỳ, thì chúng tôi mới chịu “đầu hàng”.
    • Vì muốn đạt được mục tiêu “Chiếm Thị Xã Vũng Tàu” như đã dự định,
      (đã bị các TSQ cầm chận hơn nửa ngày tại ngã ba đường vào Vũng Tàu), trong cái thế chẳng đặng đừng !!!
    • Hơn thế nữa, không biết trong trường TSQ có bao nhiêu “Chiến Binh gan lì”? chịu tử thủ, tiếp tục chống cự.??..

    Viên Chính Ủy phải chấp nhận ”điều kiện” của người đại diện Thiếu Sinh Quân. Và các Em tập họp trước Vũ Đình Trường…trịnh trọng cử hành lễ hạ Quốc Kỳ Việt Nam Cộng Hoà và cuốn lại Quân Kỳ của Trường Thiếu sinh Quân Việt Nam Cộng Hòa.

    Như vậy, mặc dù các Em TSQ chịu “gác súng” đầu hàng, lực lượng Cộng quân đang ở thế thượng phong, nhưng tên Chính Ủy của đoàn quân đang đà chiến thắng, cũng phải nể phục, đứng nhìn Quân kỳ của Trường Thiếu Sinh Quân có thêu ba chữ “Nhân Trí Dũng” cuốn lại và lá Quốc Kỳ “nền vàng ba sọc đỏ” của Việt Nam Cộng Hòa từ từ hạ xuống, một cách trịnh trọng và trang nghiêm. Trong khi trước đó, tại Dinh Độc Lập Sài Gòn,(phía trước tiền đình Dinh Độc Lập) một tên cán binh”quèn”, leo lên sân thượng, hạ cờ Quốc Gia xuống, và cột cờ “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam” lên, một cách rất ư là cẩu thả.

    Sau khi làm lễ “hạ kỳ”, khoảng 1,000 em Thiếu sinh Quân bị Cộng quân giam lỏng trong khuôn viên nhà trường; Nhưng rồi, lần hồi trong đêm tối, nhờ am tường địa hình địa vật nơi ngôi “Trường Mẹ”, các em mở cửa sau, lẩn vào “Núi Lớn” Vũng Tàu, đào thoát ra được hết bên ngoài, hòa nhập vào đoàn người đang trốn chạy nanh vuốt của “loài quỷ đỏ” Phương Bắc.










    Trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam,
    đã trải qua bao nổi thăng trầm, theo thời gian và thời cuộc.
    Nhưng Ba chữ Thiếu Sinh Quân vẫn còn
    Trơ gan cùng tuế nguyệt”;

    Tập thể Cựu Thiếu Sinh Quân Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà tại Hải Ngoại,
    hiện nay vẫn còn mộng ước trở về Đất Tổ Việt Nam,
    để cùng nhau quang phục Quê Hương Xứ Sở.






    Cựu TSQ/QLVNCH Nguyễn Ngọc Ánh

    nguồn: batkhuat.net
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Chuyện Những Người Không Quân Ngày Tan Chiến

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  • Chuyện Những Người Không Quân Ngày Tan Chiến
    ___________________________________________
    Tản Mạn Nguyễn Mạnh Trinh - 01/05/2014



    Nơi ta ở, ngày ấy là.. trại tù. Nơi ta ở, ngày ấy là.. nơi chôn vùi những ước vọng thanh xuân. Nơi ta ở, là những cánh chim bị nhốt trong nan lồng. Nơi ta ở, ngậm ngùi đời bại binh dằn vặt… Một người Không quân, làm thơ, ở Long Khánh, mỗi ngày nhìn ngọn núi Chứa Chan và nghe tiếng còi tàu của chuyến xe lửa chạy qua, lại bồi hồi. Ngày tháng như hun bằng lửa đốt. Tháng ngày. như đếm bằng nỗi niềm. Có một bài thơ, đã được viết lên trong tâm cảm ấy. Và suốt trong những ngày ở trại thù, bài thơ ấy được giấu vào trong tận cùng tâm tư, thỉnh thoảng được đọc cho những người bạn cùng chia sẻ ý nghĩ khi dạt dào cảm khái:

    "Nơi ta ở rào kẽm gai buộc trói
    Lồng nan thưa heo hút mấy khoảng đời
    Mắt man mác áng mây chiều vời vợi
    Hết rồi sao thời cánh vỗ rong chơi

    Núi sắc xám nhạt nhòa không gian tím
    Cánh nhạn bay vỗ mỏi mấy tầng khơi
    Tưởng nhớ thuở còn miệt mài chinh chiến
    Sắc ngựa hồng xoãi vó giữa lưng trời

    Nơi ta ở tiếng còi tàu nhắc nhở
    Đỉnh Chứa Chan như chan chứa nỗi niềm
    Lúc mạt vận thôi cũng đành dang dở
    Mộng kiếm cung vào quá vãng cất riêng

    Núi mù mịt cũng mịt mù năm tháng
    Tàn sớm khuya lụn trưa tối hoang mang
    Vết binh lửa nhét dồn vào quên lãng
    Tim nhói đau khi nhớ lại bàng hoàng

    Nơi ta ở mái tôn cong bốc lửa
    Doanh trại xưa thành ngục thẳm ngậm ngùi
    Lưng gạo mục nuôi thân ngày trâu ngựa
    Đốt nắng trời nghe biển xối mồ hôi

    Cuộc cờ tàn bó tay vì vận nước
    Ta Thần ưng vẫn đợi lúc chuyển đời
    Khi lịch sử với thần phong thổi ngược
    Tinh đẩu nào rạng rỡ đã về ngôi

    Nơi ta ở chập chùng căm với hận
    Vuốt kên kên mắt cú vọ vô nhân
    Conex biệt giam từng ngày tăm tối
    Tiếng kẻng khua như nỗi chết đến gần

    Ta an nhiên chờ một ngày ước vọng
    Cánh chim thần lại ngang dọc tầng cao
    Sẽ có ngày hùm thiêng giơ móng vuốt
    Phi hổ xưa đường mây dệt trăng sao..”


    Họ là những người tù rất trẻ và trong tâm thức dường như vẫn còn dai dẳng một cuộc chiến. Phần đông những người tù cải tạo đều hun đúc trong lòng những nỗi niềm nhưng cố giữ gìn để chờ mong một ngày được trở về nên sự chống đối chỉ là thụ động ngấm ngầm và không thành hành động. Nhưng có một số cá biệt. Họ vẫn nghĩ cuộc chiến vẫn còn và mong ước được một ngày thoát cũi xổ lồng và gặp được “quân bạn” để tiếp tục cuộc chiến đấu. Ôi! quân bạn, cái từ ngữ mà ngày nào ở trên bầu trời đã sát cánh với nhau, thì lúc sa cơ, lại thành chữ thiêng liêng của mộng lại tung hoành như xưa... Họ là những phi công trẻ, của những phi đoàn Thái Dương, Phi Hổ, Thần Ưng, Thiên Lôi, Bắc Đẩu,... hay những sĩ quan không phi hành ngày xưa.




    Đầu năm 1976, thời tiết hình như lạnh hơn mọi năm. Cái đói đi liền với cái rét. Lúc ấy chúng tôi đang ở Long Khánh, hòm thư 7509, mà chúng tôi đã đùa cợt khi nói tới bẩy năm mà chưa chín được thì làm sao “cải tạo tốt” để trở về lại với gia đình. Có phải đó là cái tên tiền định mà bất cứ người tù nào cũng đều căm ghét? Chiến tranh vẫn còn dấu vết, từ những chiếc xe tăng T-54 bị bắn cháy với hàng chữ “tiểu đoàn 87 BĐQ hạ tăng này“ màu đỏ chói đến những căn nhà trong doanh trại cũ đầy dấu đạn. Đó là với cảnh, còn với người thì rõ nét hơn. Những mắt cú vọ, những lời xỉ mạ của kẻ thắng và ánh mắt căm hờn hay chế diễu quân thù của người bại trận tù binh.

    Những tháng ngày nối tiếp để thấy ảo vọng hòa giải hòa hợp là không thực. Trong giờ đọc báo buổi tối, trên tờ Nhân Dân thấy tin những quân nhân của chế độ Tưởng Giới Thạch từ năm 1949 bị tù đày tới bây giờ (1976) mới được xét để trả tự do. Và càng ngày, càng thấy được những ngu dốt của kẻ chiến thắng, ăn nói một điệu như vẹt nhưng đời thường thì phét lác ăn nói ngập ngọng, nhiều khi là sĩ quan mà không thông phép toán cộng trừ nhân chia hay những điều khoa học thường thức sơ đẳng nhất.

    Nhớ lại những ngày ấy, không phải để nhớ đến những người còn sống. Mà, chính là dịp để tưởng niệm những người đã chết. Có rất nhiều anh hùng vô danh của tất cả các quân binh chủng đã ra đi, từ chủ lực quân đến địa phương quân, nghĩa quân. Rất nhiều gương kiêu dũng hào hùng. Riêng tôi, từ những ngày bị tù đày, đã thấy những người đồng đội Không Quân của tôi, kiên cường với lý tưởng của mình và thách đố bạo lực. Những người ấy, thỉnh thoảng còn nhắc lại trong đám bạn bè, nhưng dường như là những chiến sĩ vô danh ít được đời nhắc đến. Thực ra, tù đày là đồng nghĩa với khổ sở với nhân phẩm bị chà đạp và chẳng có ai hãnh diện vì cái thua thiệt của mình. Nhưng với người đã chết, phải có sự công bằng, của nén nhang tưởng nhớ của lòng tri ân vô vàn của những người còn sống sót.




    Một ngày trong năm 1976, ở trại tù L9-T5, khối chúng tôi bị trực nên được lệnh di chuyển hai conex lên phi trường không biết để làm gì. Lăn từng bước từng bước, ba chục tù một conex xúm nhau đẩy trên mặt đất ghồ ghề. Nửa chừng thì được lệnh lăn trở về vì không cần nữa. Về đến trại thấy ở giữa sân có hai xác người nằm bêu dưới nắng. Thì ra, là hai đồng đội của chúng tôi, vượt ngục ra đến bên ngoài thì bị bắn vì chống cự lại.

    Tất cả chúng tôi, mắt như sầm xuống với một cảm giác đau đớn và nén lại những xúc cảm vỡ òa. Hai xác người bê bết máu còn mặc bộ đồ trận cũ ngày xưa là hình ảnh bám mãi vào tiềm thức tôi và khi nhớ lại không khỏi trào dâng một sự đau đớn. Hai phi công trẻ, Lê Văn Bé và Nguyễn Văn Lộc của phi đoàn A37 ngày xưa bị phơi xác như một lối dằn mặt thị oai dã man thời trung cổ. Và những người quản giáo đã xỉ mạ người chết để răn đe người sống...




    Chuyện cũ tưởng đã vùi trong quên lãng thì một bữa ở xứ người tôi tình cờ gặp lại anh Huỳnh Văn Giàu, người bạn tù ngày xưa. Hai đứa không biết nhau cho đến khi tình cờ nói chuyện về trại tù Long Khánh. Giàu chính là người đã trốn thoát khỏi trại tù thành công và sau đó cũng tổ chức vượt biên để thoát được một địa ngục có thật trong nước. Giàu nói những chuyện ấy, nhỏ nhẹ tự nhiên và không có sự “nổ“ hay khoe khoang bản thân mình. Nhiều khi anh có có vẻ xúc động khi nhắc đến những người bạn đã chết.

    Bé, Lộc, và cả Giàu, cùng nhiều người bạn trẻ khác nung nấu ý định vượt trại với chủ đích đi sang Kam Pu Chia để đến Thái Lan. Dọc đường nếu có ”quân bạn“ của lực lượng kháng chiến sẽ gia nhập. Để sửa soạn họ phải sửa soạn cơm khô và vũ khí. Ở trong tù, cơm đã không đủ no mà phải để dành một nửa phơi khô và giấu diếm ngụy trang để những tên “ăng ten“ hoặc quản giáo khỏi để ý. Còn vũ khí là những trái lựu đạn còn sót lại mà những người tù hay tháo chốt ra để đầy trong lán ngủ mà ít ai để ý. Họ dồn những trái lựu đạn lại gắn chốt vào và cất giấu đi để chờ lên đường. Mỗi người sửa soạn một bao cát may khá kỹ càng để chứa cơm khô, lựu đạn, và một cây dao rựa cầm tay. Thời gian nuôi ý định cũng khá dài và cho đến khi họ cảm thấy sự nguy hiểm là có thể sẽ bị bại lộ.

    Lúc ấy ở L9T5 có quản giáo Hạ người gốc thiểu số thượng du thường tỏ ra căm thù và tổ chức màng lưới ăng ten trong bếp, trong khối để báo cáo mọi chuyện. Hắn mặt mày luôn khó đăm đăm, cái môi sứt luôn luôn đe dọa “cùm nhốt“ những người tù cải tạo. Có lần hắn đã điểm mặt anh Lê Thụy một cựu nhân viên Việt Nam Thông Tấn Xã: ”Có bửa óc anh ra thì cũng chẳng cải tạo được. Chất phản động đã ngấm vào máu anh rồi!”

    Nói như thế khác nào tuyên án tử hình, chắc anh Lê Thụy giờ sống ở Quận Cam còn nhớ? Và, ở trong tù, cũng phải nói có nhiều người quá hèn hạ để chỉ điểm báo cáo bạn bè mình. Và quân chủng Không Quân cũng có những người như vậy. Khi được trả tự do, có một tên hồi trước làm giảng viên trường Anh ngữ làm khối trưởng đã bị đánh ngay tại bến xe Phước Bình vì những việc làm dơ bẩn báo cáo chỉ điểm hãm hại bạn bè.

    Hồi trước, đã có chuyện “tiến sĩ” Nguyễn Văn Hảo gửi thư chui về cho vợ đã viết là “đừng tin những gì mà bọn này nói“. Thế là anh bị biệt giam, và mỗi lần tập họp lại mang ra chì chiết xỉ mạ. Nào học tập mà còn tư tưởng không an tâm, nghi ngờ cách mạng, nào dám dùng chữ “bọn ấy“ để chỉ những người Cách mạng… Thực ra, anh này không phải là phó thủ tướng VNCH Nguyễn Văn Hảo thật mà chỉ trùng tên thôi và chuyện của anh cứ được nhắc lại hoài để bọn quản giáo răn đe hăm dọa. Không biết bây giờ anh lưu lạc nơi đâu?.

    Còn một chuyện khác là chuyện của nhà văn Dương Hùng Cường. Trong khi “lên lớp“ với bài học được soạn sẵn từ trung ương “truyền thống đoàn kết chiến đấu của dân tộc Việt nam” thì Dương Hùng Cường đã phản bác lại là chỉ có truyền thống chia rẽ chứ chẳng có đoàn kết gì cả, và ông đã mang lịch sử từ thời Trịnh Nguyễn phân tranh để chứng minh. Kết quả là một chuỗi ghép tội, nào phản động, nào bóp méo lịch sử theo quan điểm Mỹ Ngụy,.. toàn những tội có thể đáng đem ra bắn bỏ. Dương Hùng Cường cũng là một nhà văn KQ và là tác giả của Buồn Vui Phi Trường, Vĩnh Biệt Phượng, và là cây bút châm chích nổi tiếng Dê Húc Càn của báo Con Ong thời trước. Về sau, ông bị bắt lại lần thứ hai trong Vụ Án Hồ Con Rùa và chết ở trong xà lim của trại giam Chí Hòa.

    Huỳnh Văn Giàu đã kể lại những giây phút sửa soạn ra đi nghẹt thở ấy. Thực ra không phải tất cả những người tham dự đếu đồng nhất ý kiến. Có người muốn chờ đợi thêm một thời gian nữa, có người muốn thực hiện ngay vì những nguy hiểm bại lộ chực chờ.

    Người chủ trương ra đi mạnh mẽ nhất là Lê văn Bé. Anh đang bị bịnh ghẻ vì chứng phù thủng nên cứ phải xin nước cơm để uống thay cho thuốc vitamin. Và cái hình ảnh mà cả anh em trong đội thường thấy là Bé cố gắng tập đi và tập phơi nắng để chữa bệnh ở sân trại. Chính Giàu đã nhiều lần thuyết phục Bé nhưng anh vẫn khăng khăng quyết định hành động. Giàu kể lại là bọn anh đã nghiên cứu khá kỹ những vọng gác và những lối ngõ có thể ra đi an toàn, mang lương khô và lựu đạn dấu ở ngoài và chọn một lối ra vượt hàng rào ở phía suối.

    Anh kể đã dùng hai cây cọc sắt để vượt rào kẽm gai cũng như dò lần ra đường dây điện dể cắt đi làm cho toàn thể cả khu mất điện làm cho các bóng đèn ở hàng rào không ánh sáng để dễ dàng cho việc vượt thoát. Giàu quyết định đi sau nhưng giúp Bé, Lộc và hai người bạn khác một là Quân Báo, một là Biệt Kích ra đi.

    Đêm hôm ấy mưa lớn, tối khoảng mười giờ, Giàu ra hàng rào cắt điện để lúc hai giờ đêm cả nhóm ra đi. Với cách dùng cọc sắt, dặt trên hàng rào, đi qua, rồi cứ thế tiếp tục, cả nhóm ra được bên ngoài. Giàu trở về trại. Và hình như họ chia làm hai toán. Lộc và Bé một toán, còn hai người bạn khác một toán đi song song nhau. Và khi Bé và Lộc bị toán dân quân bắt gặp sau khi đã đi được hai ngày. Bé kêu Lộc chạy thoát đi để anh cản đường và tung lựu đạn ra. Lựu đạn nổ và anh bị bắn hàng tràng đạn vào người. Lộc không đành bỏ bạn lại một mình cũng tung lựu đạn chống trả. Và cả hai đã hy sinh.

    "Không bỏ anh em không bỏ bạn bè", câu châm ngôn của quân chủng thật đúng với trường hợp của Bé và Lộc. Bọn VC đã căm thù bằng cách bêu xác hai anh rồi khi chôn lại chôn sấp nằm úp mặt dưới đất và cũng không cho làm bia mộ để làm dấu cho thân nhân về sau. Ông già Trạch, một người tù cải tạo trong toán đi chôn thấy thế nhảy xuống huyệt để lật ngửa xác Bé lên thì bị một tên vệ binh lên cò súng và chửi thề rồi hỏi “Đ.M. mày muốn xuống nằm chung không thì bảo?” Về sau, những người bạn tù đi qua, lén lút mang lại những hòn đá để làm dấu cho hai ngôi mộ. Không biết thời gian qua, có còn dấu vết gì để thân nhân hai anh cải táng?

    Huỳnh văn Giàu là người tù hầu như duy nhất của L9T5 vượt trại thành công. Anh là người tạo ra nhiều huyền thoại cho những bạn tù cùng trại. Có người nói anh đã qua tới Thái Lan, có người nói gặp anh ở Sài Gòn... Tôi hỏi và Giàu chỉ cười, không nói. Bản tính khiêm nhường khiến anh không muốn nói về mình nhưng lại rất xúc cảm, rất chân thành khi nói về hai người bạn đã hy sinh.




    Đã hơn ba chục năm, đáng lẽ con sông Bến Hải chia cách đã phải lấp từ lâu. Một cuộc chiến tàn khốc mà cả dân tộc bị thiệt hại và chỉ tạo lợi nhuận cho những đám kên kên sống trên những xác chết. Có nhiều người kêu gọi hãy quên đi dĩ vãng để xây dựng lại đất nước và hàn gắn lại dân tộc. Điều ấy, bất cứ một người yêu nước nào dù ở bên này hay bên kia đều mơ ước. Nhưng, những người nắm quyền lực trong tay, chỉ là thiểu số ít ỏi của hơn 80 triệu dân, ngoài mặt nói chuyện đoàn kết nhưng bên trong thì vẫn không từ một thủ đoạn chia rẽ nào để cố giữ lại quyền lực thống trị. Cả với người đã chết, như chuyện áp lực với các nước lân bang đập phá không cho dựng tương đài tưởng niệm những người bỏ mình khi vượt biển. Hay để nghĩa trang quân đội nơi chôn cất các tử sĩ của QLVNCH bị bỏ hoang phế, tượng Tiếc Thương bị kéo sập.

    Như vậy, chuyện cũ đã chưa thể quên lại cộng thêm những chuyện mới xảy ra. Thế thì làm sao tin tưởng được để hòa giải hòa hợp với nhau để hàn gắn lại những đau thương tan nát.




    Nguyễn Mạnh Trinh

    nguồn: 768kq.blogspot.com
Last edited by Hoàng Vân on Thứ tư 08/03/17 15:16, edited 1 time in total.
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5388
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Đi Tìm Xác Em Tôi

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           

    Đi Tìm Xác Em Tôi



    Tác giả tên thật là Nông thị Ngọc Diệp. Khi còn ở Sài Gòn, từng là diễn viên ca vũ kịch. Vượt biển năm 1985, là thuyền nhân tại Galang, Indonesia. Định cư tại Canada năm 1986, sống ở thành phố Toronto. Từ 2005, di dân qua Úc, hiện sống ở thành phố Melbourne. Công việc: nội trợ và là công tác các sinh hoạt văn nghệ Cộng Đồng tại địa phương. Bài Viết Về Nước Mỹ đầu tiên của cô “Kỳ Thị và Bạo Hành” đã được phổ biến ngày 20-2-2016. Sau đây là bài viết thứ ba của tác giả.

    * * *

    Em trai tôi đi vượt biển vào tháng 12/1980. Có ai ngờ được em đi mãi mãi không về... Chuyến tàu của một người quen tổ chức, khởi hành ở cửa Cần Giờ. Tàu thì nhỏ, chở quá đông người, một số đã bỏ về. Nhưng em tôi, Út Trị và anh bạn trai của tôi, anh H. vẫn ngồi trên con tàu định mệnh đó mà không chịu trở về nhà...

    Nhà có bốn chị em gái và hai anh em trai. Anh Ba tôi vừa trầy vi tróc vảy mới lấy được mảnh bằng Bác sỹ Thú Y giữa những duyệt xét lý lịch khắt khe những năm ấy.. Còn Trị, là em út, tuy học giỏi nhất nhà, ngoan hiền nhất nhà, nhưng lại bị bọn Cộng Sản ngành Giáo dục gạt tên em ra, giống như tôi và Sáu, không cho vào Đại Học vì lý lịch của gia đình tôi quá tồi tệ! Anh H. đã tốt nghiệp Đại học rồi, nhưng vì thấy tôi muốn đi vượt biên quá đổi, nên anh đặt hai chổ ngồi cho tôi và anh lên tàu. Vào những ngày giờ, tôi bỗng muốn nhường cho Út đi. Em không muốn đi vượt biên, nhưng chúng tôi khuyên lơn, năn nỉ em, hầu như nài ép em phải đi để có một tương lai ở ngoại quốc, vì em là con trai, em cần đi hơn tôi. Nào ngờ...

    Sau bao nhiêu năm chờ tin trong vô vọng, chúng tôi lấy ngày đi của hai anh em làm ngày giỗ.

    Cho đến 1985, tất cả anh chị em chúng tôi đều lần lượt đến bến bờ tự do. Sau bao nhiêu năm khổ nhục trong trại học tập, ba tôi cũng được bảo lãnh qua Úc sống cuộc sống tràn đầy hạnh phúc và tự do. Nhưng, càng ấm êm, chúng tôi càng đau xót cho em tôi đang ở đâu đó chắc rất lạnh lẻo... Chúng tôi luôn khoắc khoải nhớ thương Út. Riêng tôi, nổi đau, nổi cắn rứt này của tôi kéo dài có lẽ cho đến ngày tôi nhắm mắt....

    Vô tình, người kiến trúc sư VN, anh L. ở Melbourne đang vẻ họa đồ cho nhà của chị Tư của tôi, kể cho chúng tôi nghe chuyến đi tìm cái... đầu ông ngoại của anh! Ông ngoại của anh bị đấu tố trước năm 1954 ở miền Bắc. Gia đình lúc ấy đem cái xác ông ngoại của anh đi chôn mà thiếu cái đầu! Trong nhà làm ăn không trôi chảy, cứ có toàn những chuyện kỳ lạ xãy ra. Rồi có người chỉ anh L. về VN nhờ một người có giác quan thứ sáu, chuyên tìm xác chết thất lạc lâu năm. Anh L đã về VN, theo từng chỉ dẫn của nhà ngoại cảm tên Dũng. Anh đi xe đò đến thành phố Hà Tây, xuống xe ở một ngã ba, tìm đến một căn nhà có trồng nhiều cây hoa giấy được cắt tỉa hình dáng các con thú vật. Vào trong ấy và hỏi tên ông Cang, ông Cang sẽ chỉ dẫn tiếp.

    Ấy thế mà anh L. đã tìm được đến nhà ông Cang. Khi gỏ cửa nhà và hỏi có ai tên Cang ở nhà này không; thật không ngờ, ông ta bước ra, hỏi ngược lại ai đã cho biết cái tên Cang này, vì ông đã đổi tên lâu lắm rồi!

    Ông Cang đã dẫn anh L. đi đến nơi chôn cái đầu. Ông ta là...đao phủ thủ ngày xưa!

    Theo như những người đi chung tàu của em tôi bỏ về SG lại, con tàu không thể ra biển nổi, vì quá khẳm, mà gió biển hôm ấy cấp sáu, cấp bảy, cộng thêm là trên đường ra cửa Cần Giờ, có một nơi có đá ngầm, rất nhiều tàu bị đắm ngay đấy. Tôi cũng biết chuyện này, khi tôi đi công tác vài lần ở Duyên Hải năm 1978, 1979, đi trên con tàu đến đoạn đá ngầm này, gia đình chủ tàu bắt hành khách ngồi im cùng... khấn vái cho tai qua nạn khỏi! Do đó, chúng tôi hy vọng Út nằm đâu đó không xa cửa Cần Giờ.

    Chúng tôi năm người gồm có: má tôi, chị Hai, chị Tư, và Sáu, (em gái tôi) từ Úc Châu về, còn tôi thì từ Canada, hẹn gặp nhau ở Sài Gòn để cùng đi tìm xác Út vào tháng 11 năm 2001.

    Trước khi quyết định về, chị Tư từ Úc đã phone cho nhà ngoại cảm: anh Dũng. Anh tốt nghiệp ĐH Khoa Học trước 1975. Anh rất bận rộn, nhưng vẫn vui vẻ đồng ý giúp chúng tôi mà không hề nhận BẤT CỨ THÙ LAO gì. Chúng tôi ở khách sạn Palace ngày đầu, chờ giấc chiều tan sở rồi, chị Tư mới phone chào anh Dũng và để xin anh chỉ dẫn làm sao tìm được xác Út.

    Trên phone, anh bảo chị Tư kể lại ngày giờ khi em Út đi, em mặc đồ gì, đem theo những gì, đi với ai, đi từ đâu... Rồi anh bảo cứ thắp nhang cầu nguyện hương hồn em Út. Đến tối khuya hôm ấy, anh phone lại, anh bảo hãy chuẩn bị sẵn dụng cụ đào đất, bao nylon đựng xác, trái cây, nhang... để cúng dọc đường, và anh cũng bảo ngày mai đi được rồi! Rồi anh bảo ghi xuống những điều anh đã thấy trước được đây:

    - Chúng tôi đi chẳng bao lâu sẽ có một người đàn bà chỉ đường đi!

    - Trên đường đi, sẽ có một người tên Tâm, một người tên Tùng giúp đở!

    - Sẽ có một em bé gái nhỏ chừng sáu, bảy tuổi, tóc dài, kẹp cây kẹp ba lá, nắm tay dẫn ra một cái miếu hoang. Hãy cúng trái cây và thắp hương ở đây.

    - Sẽ thấy một căn nhà có cánh cửa màu xanh dương. Trước hiên nhà, một cô gái mặc áo đỏ đang ngồi ghế chơi. Từ căn nhà này, cách đấy một trăm mét, có một bãi đầy chuồn chuồn bay. Có một cành cây chết, có vướng một bao nylon rác màu trắng. Dở bao rác lên, có một cái mai con cua chết nằm ngữa, nơi đấy là nơi Út nằm!

    Tất cả chỉ có bấy nhiêu tin tức để đi tìm thằng em trai đã mất từ hơn hai mươi năm trước. Không có lấy một tên đường, không có một số nhà, không có địa chỉ để đi tìm... Chỉ biết là phải đi đến cửa Cần Giờ mà thôi!

    Chúng tôi nhờ nhân viên khách sạn Palace bao thuê một chiếc Toyota Corrola, cộng với cậu tài xế trẻ, trên xe có tổng cộng sáu người.

    Suốt đêm, cả nhà chúng tôi nôn nao! Bao nhiêu chuyện xưa chợt ùa về trong đầu tôi. Tôi đề nghị ghé thăm gia đình anh H, người bạn trai của tôi cùng mất tích chung với Út. Tôi muốn thắp nén nhang cho anh trước khi khởi hành chuyến đi này.

    Đây là lần đầu tiên tôi về thăm lại VN sau mười sáu năm rời xa. Nhưng tôi vẫn nhớ như in trong đầu căn nhà thật khang trang, xinh xắn nằm trong một con hẻm rộng lớn trên đường Trần Hưng Đạo. Tôi hình dung lại những buổi cơm gia đình ấm cúng những ngày cuối tuần, từng nụ cười ấm áp, từng ánh mắt rạng ngời như?đón một đứa con dâu, một em dâu, một chị dâu. Bỗng... Đùng! Tất cả trôi theo thân xác của anh xuống lòng biển sâu...

    Mẹ của anh tóc trắng như tuyết phủ, lưng còng gãy cụp xuống, run-run nắm lấy tay tôi mà đầm đìa lệ! Tôi thắp nhang cho anh, tôi cầu nguyện... Trên bàn thờ, anh vẫn cười tươi với tôi mà tim tôi sao như có ai đâm hằng trăm, hằng nghìn nhát dao...

    ..... Đã bao nhiêu ngày tháng năm qua rồi nhỉ?
    Ai quất nghìn roi cho máu rỉ tim côi
    Đời vẫn lăn hai dòng mưa nắng, nhật nguyệt
    Người chẳng có tin, từ buổi ấy chia phôi...
    Hôm ấy anh đi trên chuyến đò trái ngang
    Con thuyền mong manh tựa như chiếc lá vàng
    Lá vàng rơi em còn nhặt cài lên tóc
    Thuyền bặt tin.. em chỉ khóc.. lệ như tang...

    Rời khỏi nhà của anh H, chúng tôi bắt đầu đi Cần Giờ! Anh tài xế tên là Tony. Anh hay chở du khách ngoại quốc đi chơi. Tony có thể nói tiếng Pháp và tiếng Anh. Tony cũng nói rằng anh là người quê ở Cần Giờ. Lâu lắm rồi anh không về lại đây. Hôm nay được đi Cần Giờ, anh rất là hứng thú! Chúng tôi không dám nói cho anh biết là đi tìm xác em trai, mà chỉ nói là đi tìm nhà người quen mà không có địa chỉ "chắc chắn"! Anh rất sốt sắng, vui vẻ chạy xe ra ngoại ô Saigon. Anh hơi lúng túng vì đường sá thay đổi nhiều quá, Tony bèn dừng xe lại ở một quán cà phê bên đường để hỏi đường. Khi anh trở ra, anh vui vẻ bảo:

    - Chúng mình đi đúng hướng, đúng đường rồi!

    Và anh nói tiếp:

    - Lạ thật! Cả một cái bàn toàn là đàn ông ngồi ăn sáng uống cà phê, chỉ có MỘT NGƯỜI ĐÀN BÀ mà thôi. Mà bà ta lại rất rành rẻ đường sá. Chính bà này đã chỉ đường cho em đó bác và các chị! Mình cứ đi thêm một giờ nữa sẽ qua phà nhỏ, rồi sẽ đi tới một cái chợ, rồi qua cửa Cần Giờ...

    Chúng tôi giật mình, chợt nhớ lại anh Dũng đã bảo sẽ có một người đàn bà chỉ đường đi... Sao lại trùng hợp như thế?!

    Xe chạy trên một con đường đất đỏ đang làm dở, bụi mù mịt. Rồi cuối cùng đến bến phà. Trong thời gian chờ cái phà khoảng nữa giờ nữa mới khởi hành, tôi muốn đi mua ít nón lá để đội vì nắng quá là nắng. Mà "ngũ long công chúa" này chỉ vỏn vẹn có một cây dù thôi! Tôi thấy có một căn phố lầu rộng lớn, phía trước có xe nước mía có ghế ngồi, có mái nhà mát mẻ với các chậu cây cảnh xung quanh. Tôi mua vài ly nước mía cho các chị em tôi uống, và bảo má tôi ngồi chờ tôi băng qua đường để mua thêm vài cái nón lá. Khi tôi trở lại, má tôi và chị chủ nhà đang nói chuyện vui như pháo nổ. Thấy tôi lại chị nhìn tôi một thoáng, và bảo:

    - Bác ơi! Bác nói bác ở Dalat về Cần Giờ tìm người quen.. Bác và các cô trắng trẽo hồng hào thế này, chẻ cái đầu cháu ra, cháu cũng nói các cô và bác không phải ở Dalat, mà ở nước ngoài về! Có đúng không?! Coi nước da của các cô kìa, đỏ au cả lên. Thật là nguy hiểm quá, các cô nhìn yếu đuối như thế này, sao các cậu, các chú đâu mà để bác và các cô đi như dzầy? Bác thì có tuổi, đau yếu, đi vào trong ấy hẻo lánh, rủi ro có gì có ai giúp không? Hay người ta sẽ... làm thịt cả nhà năm người đàn bà, không có lấy một người đàn ông đi cùng?!

    Chúng tôi nhìn nhau, không biết phải nói sao! Nhìn lại em gái tôi, dù Sáu đã mặc một cái quần sa tin đen và chiếc áo bằng gấm lụa trông rất... thôn nữ!. Nhưng lại quên, Sáu xách một cái bóp đầm (hand bag), mang... đôi giày cao gót, nhìn không thôn nữ chút nào cả! Tôi thì mặc một cái jean overalls bạc màu nhìn thật... bụi đời. Đã thế, cái mặt và cánh tay trần của tôi đỏ như da lột vì tôi ở Canada bao nhiêu năm trời, không quen với cái nóng 35, 36 độ C như thế này. Ông bà trời đất đã phù hộ cho chúng tôi ngồi nghỉ chân ngay đúng nhà của chị chủ nhà thật tốt bụng này. Lúc ấy khoảng 11 giờ trưa, chị bảo chúng tôi chờ một chút thôi, rồi chồng của chị đang đi đón thằng bé con tan học về, chị sẽ bảo chồng của chị hộ tống chúng tôi đi vào sâu trong Cần Giờ!. Chị bảo, vợ chồng của chị còn không dám vào trong đó nữa, mà chúng tôi năm người đàn bà từ ngoại quốc về lại dám vào sao?!

    Chờ chỉ độ mười phút, chồng của chị chở thằng bé con đi học về. Chị trình bày câu chuyện, và người chồng thật tốt bụng y hệt như người vợ, đồng ý đi theo hộ tống chúng tôi ngay. Chẳng những thế, anh còn bảo chị vợ và thằng bé con đi theo luôn! Anh dặn dò chúng tôi phải nói với mọi người chung quanh rằng vợ chồng của anh là người nhà của chúng tôi ở đây, để dân chung quanh đấy không ăn hiếp chúng tôi.

    Sau khi qua phà, rồi lên xe hơi đi thêm một đoạn, đến một ngã ba đường, chúng tôi phải xuống xe hơi, vì đường nhỏ quá, nhỏ đến độ xe không cách chi trở đầu xe lại được, mà chỉ có cài số de để đi về thôi... Tony phải ở lại coi chừng xe. Chúng tôi đi bộ vào sâu trong làng, anh chị "bà con" này chạy xe phía trước, rồi chạy ngược lại phía sau kiểm điểm xem chúng tôi có được an toàn không. Càng đi sâu vào làng mạc, nhà cửa càng vắng vẻ. Xa xa mới có một cái nhà. Má tôi không thể đi bộ xa được. Tôi cũng thế. Trước ngày đi về VN vài ngày, tôi bị bong gân khá nặng vì mang giày cao gót trợt té xuống thang lầu. Chân của tôi sưng to, bị đau nhức khi cử động. Bác sỹ dặn tôi phải nghỉ ngơi vài tuần, nhưng tôi đã mua vé về VN rồi, tôi không thể "nghỉ ngơi" được! Tôi bó cổ chân rất chặt. Tôi mang một đôi giày thật êm. Nhưng chỉ đi bộ độ 300 mét thôi, chân tôi bắt đầu làm reo. Tôi ngồi bệt xuống đường để nghỉ chân. Bỗng dưng, có một em bé gái từ trong xóm đi ra, ẹo cái đầu ngắm chúng tôi, rồi buộc miệng hỏi chúng tôi:

    - Đi đâu dậy mấy cô...đẹp ơi!

    Hahaha! Em bé gái trông lôi-thôi lếch-thếch thế kia mà cũng biết nịnh đầm rồi! Tôi bảo em chúng tôi muốn đi tìm một cái miếu nào gần đây để thắp hương!

    Em mừng rỡ, chạy lại nắm tay tôi kéo đi không kịp thở! Em nói:

    - Cái miếu ở ngay sau nhà em nè. Ngày nào em cũng ra miếu chơi hết á! Đi theo em, đi nhanh lên. Tụi mình chơi... thắp nhang ở đó "nheng"?!...

    Chị Tư của tôi bỗng kêu chị Hai tôi giật ngược, và bảo chị Hai tôi mở lại tờ giấy ghi chú lời dặn dò của nhà ngoại cảm xem sao! Thật kỳ lạ! Anh Dũng đã đoán trước có một cô bé gái nắm tay dẫn đi đến cái miếu. Tóc em như râu bắp, rối bời, rít chịch nước biển, được túm lại bằng cái cây kẹp ba lá, đúng hệt như anh Dũng đã nói. Không giải thích được!

    Đi theo em gái, chúng tôi khó nhọc men trên những bờ ruộng ghồ ghề, bước lên những thân cầu mong manh bắc ngang những mương nước nhỏ để đến cái miếu.

    Đây là một cái miếu như bỏ hoang. Ít cọng chân nhang vẫn còn cắm trong lon sữa bò. Một tượng Phật Bà Quan Âm bụi đất bám đầy. Một bức ảnh Phật Thích Ca cũ kỷ trong khung gổ không có kính, nên nhìn càng thấy buồn hơn. Chúng tôi bày hết trái cây ra đấy, phủi bụi, lau sơ khung hình Phật Thích Ca và Phật Bà Quan Âm, rồi chúng tôi thắp nhang van vái.

    Trên đường đi ra, chúng tôi cho em bé gái ít tiền, và dặn em khi nào đi ra đây chơi, nhờ em lau chùi, phủi bụi giùm chúng tôi. Em giương mắt to ngạc nhiên nhìn chúng tôi. Có lẽ đây là lần đầu tiên em được trả tiền cho một việc mà không bao giờ em được ai cho tiền cả!

    Trên đường đi ra, anh chị "bà con" của chúng tôi đã lanh lẹ huy động được năm chiếc xe gắn máy của dân làng gần đó để chở chúng tôi đi sâu vào cửa Cần Giờ mà không cần đi bộ khổ cực nữa. Có hai người làm nghề xe ôm, và ba người là dân làng xin được làm để kiếm thêm tiền. Chị Tư của tôi là người... tròn trịa nhất, đã bị ông tài xế thiếu kinh nghiệm chở...Việt Kiều, chạy ngang qua ổ gà, đã...quăng chị té xuống đất, ướt bẩn hết cả người. Cũng may mà chị và ông ta không sao cả!

    Chúng tôi đến bến tàu, anh chị "bà con" của chúng tôi lo đi ngoại giao để mướn một cái tàu đánh cá đẹp và khá lớn, nhưng phải chờ nước lên mới qua bên kia cửa biển Cần Giờ được. Trong thời gian ngồi chờ nước lên, chúng tôi giở bánh mì, xôi, trái cây, nước... ra ăn uống. Chúng tôi ngồi túm lại với nhau, và mời anh chị "bà con" dùng chung thức ăn, thức uống với chúng tôi! Má tôi chợt hỏi:

    -Anh chị đi theo chúng tôi nãy giờ mà không biết tên anh chị là gì để xưng hô đây nữa.!

    Người chồng vui vẻ trả lời:

    - Dạ bác! Con tên là Tâm đó bác.

    Tôi trợn mắt nhìn anh! Anh vẫn điềm nhiên, vợ anh vẫn vui vẻ nói chuyện. Chị Hai tôi kề tai má tôi nói nhỏ:

    - Má ơi! Ảnh tên... TÂM, tên Tâm đó má ơi!.

    Má tôi líu giọng lại, cứ nhìn anh Tâm, miệng lẩm bẩm:

    - Sao... mà ngộ quá vậy? Sao... kỳ quá vậy... hả con?

    Chị Tư tôi cũng trợn ngược mắt lên, hỏi lại lần nữa:

    - Xin lổi anh, anh vừa nói anh tên gì?

    - Tui tên là Tâm, Nguyễn văn Tâm. Mai mốt chị có dìa VN nữa ghé nhà tụi tui chơi. Cứ nói tên tui là không ai dám gạt hay ăn hiếp chị đâu!

    Cô em gái, Sáu, chậm tiêu nhất. Nhìn thấy chúng tôi to nhỏ với nhau mà ngơ ngác không hiểu gì cả! Chị Hai tôi phải lấy tờ giấy con trong bóp ra, không nói gì mà chỉ lấy ngón tay dí đúng vào cái tên Tâm nằm trên tờ giấy. Sáu giật nẫy mình lên, nhìn anh Tâm chầm-chập, lại hỏi lại câu hỏi ngớ ngẫn này lần nữa:

    - Anh tên là Tâm thiệt à? Oh... My... God...!

    Gần ba giờ trưa, nước lên xấp xỉ đủ để tàu khởi hành qua bên kia là cửa Cần Giờ. Người ta cõng má tôi xuống thuyền trước. Từ trên bờ muốn xuống thuyền, phải xắn quần lên quá đầu gối, chân dẫm lên bùn, lún rất sâu, làm tôi bồi hồi nhớ lại ngày tôi xuống tàu đi vượt biên mười sáu năm trước, tôi cũng lội lên bùn như thế này để leo lên cái thuyền thúng, rồi chuyển qua tàu lớn và đến bờ tự do của Indonesia...

    Sau khi cõng má tôi, họ quay lại cõng tôi, vì tôi đang băng một miếng băng elastic ở cổ chân. Nó cũng đang sưng, đau vô cùng khi tôi cử động.Tàu nổ máy, bắt đầu rẽ sóng chạy xình xịch qua bên kia cửa biển. Nhìn biển bắt đầu mở rộng ra, sóng nhấp nhô, má của tôi rưng rưng nước mắt, tưởng tượng ngày em tôi đi, không biết con tàu nhỏ bé như thế nào... Chị Tư của tôi thì bồi hồi nhớ lại chuyến đi vượt biên của chị, những rượt đuổi giữa đám Công An với con tàu, rồi tàu của chị đã liều mạng, một sống một chết, xã súng bắn hết cả đạn vào bọn CA đang rượt theo! Lucky, bọn chúng chết nhát, tưởng tàu của chị có nhiều đạn dược súng ống lắm, đâu ngờ rằng họ chỉ có một cây súng và một băng đạn độc nhất thôi! Còn tôi, nhìn sóng nước mênh mông, bờ lau sậy xa dần phía sau, tôi bồi hồi xúc động đến đau nhói cả trái tim... Tôi ngồi lâm râm cầu nguyện, lâm râm gọi tên anh H, gọi tên em trai Út vắn số của tôi...

    Tàu chạy chỉ độ nữa giờ đồng hồ là qua đến cửa Cần Giờ. Chị Hai và chị Tư tôi cứ lấy giấy của anh Dũng dặn dò ra xem xét cẩn thận. Theo như anh dặn, tất cả sự việc đều đã xãy ra đúng hệt như có người sắp đặt. Chị Hai tôi quyết định mướn hai xe gắn máy của dân làng chở chị Hai và chị Tư, cùng anh chị Tâm đi tìm căn nhà nào có cánh cửa màu xanh dương. Còn tôi, má tôi, và Sáu thì ở trên thuyền chờ tin tức. Nhìn hai cha con người chủ tàu mặc quần xà lỏn, ở trần trùng trục, nước da nâu bóng ngời, cái bắp tay lực lưỡng, vấn thuốc rê hút phì phèo, tôi bỗng nhiên... lo lắng! Tôi tưởng tượng họ không phải là người VN, mà là.. cướp biển Thái Lan tuy tôi chưa biết bọn cướp biển Thái Lan như thế nào!

    Trên đất liền ở ngay cửa biển Cần Giờ, nhà cửa rất thưa thớt. Xa xa mới thấy có một căn nhà lá. Phải chạy khắp nơi để tìm cho ra cái nhà nào có cánh cửa màu xanh dương, có cô gái mặc áo đỏ ngồi trước hiên nhà không phải là chuyện dể. Anh chị Tâm cũng chạy ngược xuôi trên những bờ ruộng, bờ ao nuôi cá tôm phu tìm kiém.. Còn tôi ngồi chờ trên tàu, tay thọc vào túi quần jean overalls đầy tiền mặt mà lo lắng vô cùng.

    Cuối cùng, chị Hai tôi vui mừng chạy đến báo tin là đã thấy cô gái áo đỏ ngồi trước căn nhà có một cánh cửa màu xanh dương rồi! Nếu chỉ tìm cánh cửa xanh dương, chắc đến tết... Congo! Vì cánh cửa này tróc sơn hết tám mươi phần trăm rồi. Nhờ nhìn thấy cô gái áo đỏ trước, rồi thấy cái cửa xanh dương sau lưng của cô, mới tìm ra khu vực này. Thế là hai xe gắn máy bỏ hai chị tôi lại đấy, cùng vòng lại với anh chị Tâm, đón tôi, má tôi và Sáu. Tôi và Sáu ngồi chung một xe, má tôi một xe, và anh chị Tâm hộ tống vì anh chị không yên tâm để chúng tôi đi với dân chài ở đây! Tôi thật nhớ ơn anh chị này vô cùng, chúng tôi đã gặp người thật tốt giúp đỡ.

    Cả gia đình năm người chúng tôi túa ra tìm chổ nào là đất có đám chuồn chuồn bay! Dân làng bắt đầu tò mò bu chung quanh chúng tôi đến mấy chục người. Lúc ấy, chúng tôi quyết định không giấu giếm nữa. Chúng tôi nhờ họ tìm giúp chúng tôi chổ nào là miếng đất có chuồn chuồn bay.

    Bỗng, chị Tư tôi reo lên, và xăng xái lội xuống một bãi lầy có đầy chuồn chuồn đang bay vần vũ! Chúng tôi mừng rở, rồi vừa cầm máy quay phim, chị Tư vừa lội ra xa hơn. Chị lại reo lên:

    - Đây rồi, đây có cành cây khô với bao rác đây...

    - A! Cái mai con cua đây! Đúng nơi đây rồi.. Đúng chỗ rồi...

    Tôi vì đau chân nên không thể bước xuống bãi sình này được. Nước biển đang ngập lầy lội. Vài căn nhà lá xa xa.Trước mặt là biển mênh mông, chỉ có dăm cây đước, cây lau sậy ngăn sóng biển không bổ mạnh vào đây như phía bên ngoài.

    Dân làng đã biết chúng tôi đi tìm xác người nhà. Họ sốt sắng chạy về nhà lấy thêm cuốc xẻng. Những người đàn bà thì vây xung quanh bàn tán. Cách đây rất lâu, họ nói đã thấy ít tử thi trôi tấp vào đây. Lại có người còn nói thấy một tử thi có cái ba lô bằng kaki vắt chéo ngang vai. Giống như là em tôi ngày em đi... Má tôi khóc sụt sùi dù chưa thấy, chưa tìm được gì cả! Tôi ráng bước lại gần hơn để nhìn cái cành cây khô, cái bao rác màu trắng, và cái mai của con cua chết lật ngửa... Tim tôi tan nát, tưởng tượng anh H. và Út cái ngày giờ xuôi tay thua cuộc vẩy vùng, rồi đau đớn, lạnh lẻo, cô đơn, nằm chôn vùi ước mộng tuổi trẻ nơi đây... Tôi khấn vái em tôi. Tôi gọi tên anh H. Tôi chỉ biết ứa nước mắt cầu nguyện. Ngực của tôi nặng thật là nặng...

    Trong khi tôi đang lặng lẻ cầu nguyện, có khoảng bốn thanh niên lực lưởng bắt đầu đào. Đào tới đâu, nước cứ túa ra tới đó. Họ cố gắng vừa đào, vừa chắt nước đổ sang chổ khác. Trời bắt đầu tắt nắng. Họ không thể nào đào sâu hơn được. Chị Tư tôi cầm phone, cố phone cho anh Dũng. Ở đây không bắt sóng điện đài (reception) dể dàng như trong đất liền. Sau nhiều lần phone, anh bắt phone lên và nói nếu đã tìm được địa điểm đúng rồi thì chỉ việc ráng đào lên thôi. Sẽ thấy được xương cốt nếu đào sâu xuống khoảng hai mét. Chúng tôi năn nỉ dân làng hết sức tát nước ra và xúm nhau đào trước khi trời tối. Nhưng, thật lạ, nước cứ ngập tràn vào, càng lúc càng nhiều hơn, nhanh hơn, không cách nào đào sâu hơn được. Chị Tư lại phone anh Dũng. Anh Dũng bỗng nhẹ giọng lại, khuyên chúng tôi hãy đi về đi: Anh thấy vong hồn của em tôi không muốn bị dời chổ ở nữa.!

    Trời buông sập tối nhanh một cách kỳ lạ. Má tôi và chúng tôi cầu nguyện lần cuối rồi ra về. Chúng tôi cho những người đào đất tiền, trả cho những người chạy xe gắn máy tiền. Tôi đã cẩn thận chia tiền ra làm nhiều túi quần. Sau này, những người biết rành về anh Dũng đã nói, chúng tôi đi về mà chưa lấy được di cốt của em tôi là một chuyện ít thấy khi anh Dũng đã đoán đúng hết các sự việc nhỏ nhặt xãy ra trước đó.

    Trên xe hơi đi về, chúng tôi giở tờ giấy ghi chú ra xem, chợt thấy còn tên một người mà chúng tôi chưa gặp trên đường đi. Đó là tên Tùng! Chúng tôi bàn với nhau:

    - Chắc Tùng là tên của vợ anh Tâm đó mà mình đã quên không hỏi chị ấy...

    Tony chợt lên tiếng:

    - Em tên Tùng đây nè bác và các chị. Tên thật của em là Tùng đó mà!

    Tôi không thể nào ngờ được mọi sự việc lại kỳ quặc như thế! Chúng tôi về đến SG trời đã tối lắm. Dùng cơm tối ở nhà hàng, rồi về lại khách sạn, mở lại cái video xem lại lúc quay phim, nhất là lúc các thanh niên đang trần trùng trục đào bới, tôi chợt thấy đám mây trên trời đang xanh biếc lúc ấy, bỗng dưng tối sầm lại như có một cái màn cửa màu xám đen đang cố kéo lại che mắt của mọi người. Tôi rewind tới, lui. Sao mây đen kia lạ lùng thế? Trời bỗng đổi màu xanh biếc qua màu xám xịt chỉ trong có tíc-tắc...

    Anh chị Tâm phone cho chúng tôi vài hôm sau. Anh bảo chúng tôi hãy trở lại lần nữa đi, mà ngủ đêm ở nhà anh chị trước một ngày, rồi qua bên cửa Cần Giờ sáng sớm hôm sau để có nhiều thì giờ hơn. Nhưng, chị Hai tôi quyết định sẽ không đi lấy cốt của em nữa, vì tối hôm đi tìm cốt Út về, chị lần đầu tiên trong cuộc đời, đã nằm mơ thấy em đứng ở đầu giường, mĩm cười thật tươi với chị như hài lòng với quyết định của chúng tôi. Tôi buốt cả lòng, tôi chưa bao giờ chiêm bao thấy được anh H...

    ....Anh hãy về đây trong giấc ngủ em mong
    Mơ thấy anh trìu mến nắn mấy tơ hồng
    Ngày anh đi tóc em còn xanh như ngọc
    Đợi mỏi mòn nên đã hoá vạn xiềng gông...

    Em tôi và anh H đã không cùng với chúng tôi sống và hưởng thụ một cuộc sống tự do đầy màu sắc ở trần gian, nhưng chắc em cùng anh H đang vui và rất toại nguyện ở một thế giới nào đó. Nơi ấy, chắc chắn là thiên đường, không có áp bức, không có hơn thua, không có bom đạn, không ai... cứu xét lý lịch. Và chắc em cũng đang nắm tay ba của tôi, nắm tay anh H. nhìn thấu lòng thương nhớ của tôi đối với hai anh em...

    Kim Chi



    Nguồn: http://vvnm.vietbao.com

              
Hình đại diện
Vịnh Nghi
Bài viết: 1224
Ngày tham gia: Thứ năm 14/05/15 20:59

Re: Đi Tìm Xác Em Tôi

Bài viết bởi Vịnh Nghi »

Cám ơn anh chị song Vân những bài viết tưởng niệm 30/4 thật hay! :kssflwr:
Carpe diem
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Đêm nhớ trăng Sài Gòn - Du tử Lê . Phạm đình Chương - Bạch Vân

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          

  • .. :flwrhrts: .. Nghi ...



          





Đêm nhớ trăng Sài Gòn
Du tử Lê . Phạm đình Chương
- Bạch Vân



:sad3:
          
Last edited by Hoàng Vân on Thứ tư 08/03/17 15:20, edited 1 time in total.
Hình đại diện
Vịnh Nghi
Bài viết: 1224
Ngày tham gia: Thứ năm 14/05/15 20:59

Re: 30/04/2016 - 41 năm mất miền Nam Tự Do

Bài viết bởi Vịnh Nghi »

Bài ni lần đầu tiên Nghi nghe là ở quán lá, do thị Nắng trình làng :) Lời nhạc ưu tư, miên man cả một trời Sài Gòn da diết nhớ thương, cùng với giai điệu dìu dặt, lắng đọng, mỗi lần nghe là mỗi lần thấm thía, nhức nhối đến mấy tầng tâm tư sâu thẳm, buồn chi lạ. Chị Bạch Vân hát, lúc lên cao vút ở câu cuối, nghe buốt xoáy tâm can luôn, hay. :kssflwr:

30/4 năm nay các sỡi nhà mình đều tơi bời bận rộn, cho nên không còn hơi sức để làm chương trình tưởng niệm nho nhỏ riêng của nhà Nam. Chừng lấy lại khí thế ròi hát bù cũng được ha. :)

:flower:
Carpe diem
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: 30/04/2016 - 41 năm mất miền Nam Tự Do

Bài viết bởi Hoàng Vân »

Vịnh Nghi đã viết:...
30/4 năm nay các sỡi nhà mình đều tơi bời bận rộn, cho nên không còn hơi sức để làm chương trình tưởng niệm nho nhỏ riêng của nhà Nam. Chừng lấy lại khí thế ròi hát bù cũng được ha. :)

:flower:
.. hihi .. :flwrhrts: ..
          
Trả lời

Quay về “Tưởng niệm ngày Quốc Hận 30/04/1975”