Thích Trí Quang

Trả lời
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Thích Trí Quang

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           




    Hòa thượng Thích Trí Quang viên tịch,
    thọ 96 tuổi

    _____________________________
    09/11/2019 _ Hoài Hương _ VOA




              

    Di ảnh Hòa Thượng Thích Trí Quang. (Ảnh: Báo Giác Ngộ)

              


    Hòa Thượng Thích Trí Quang, một nhân vật quan trọng trong Phật Giáo Việt Nam cận đại, đặc biệt giai đoạn chiến tranh Việt Nam, viên tịch lúc 21 giờ 45 phút (giờ Việt Nam), ngày 8 tháng 11, 2019, theo thông báo phát đi vào ngày 8 tháng 11 từ chùa Từ Đàm, đứng tên Tỳ Kheo Thích Hải Ấn.

    Hòa Thượng Trí Quang là một trong những nhà lãnh đạo Phật giáo gây nhiều tranh cãi nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam. Mãi cho tới ngày nay, nhiều thập niên sau khi chiến tranh kết thúc, báo chí, dư luận quốc tế, trí thức trong và ngoài nước vẫn chưa hết thắc mắc, không biết Hòa Thượng Thích Trí Quang theo quốc gia hay cộng sản; là cao tăng dấn thân vì đạo, bị cộng sản Bắc Việt lợi dụng, hay là ‘CIA chiến lược’ như tố cáo của các cán bộ cộng sản, hoặc ‘cộng sản nằm vùng’ hoạt động theo chỉ đạo từ Hà nội. Những thắc mắc đó vẫn là đề tài tranh cãi không dứt giữa các nhà khoa bảng, các nhà báo, cũng như trong giới tình báo Mỹ.

    Nhưng điều mà dường như mọi người đều đồng ý là Hòa Thượng Thích Trí Quang là một lãnh đạo Phật giáo đầy quyền lực vào lúc mà sức mạnh của giáo hội Phật Giáo lên cao nhất trong những năm đầu và giữa thập niên 1960. Lúc đó, Time, tạp chí có uy tín của Mỹ, đã đăng ảnh của Hòa Thượng trên trang bìa với dòng chữ “người đã làm lung lay nước Mỹ”.




    Thân thế và sự nghiệp

    Theo quyển “Tiểu Truyện Tự Ghi” của Hòa Thượng Thích Trí Quang, thì ông sinh quán của tại làng Diêm Điền thuộc khu vực phía tây sông Nhật Lệ, tỉnh Quảng Bình.

    • Tên thật là Phạm Quang, Thích Trí Quang sinh ngày 21/12/1923 tại Quảng Bình,
    • xuất gia năm 1936, lúc 13 tuổi. Ông là đệ tử của Hòa Thượng Thích Trí Độ, Chủ tịch Hội Phật Giáo Cứu Quốc.
    • Tham gia hoạt động của Hội Phật giáo này của Việt Minh, ông bị Pháp bắt giam năm 1946.
    • Năm 1947, khi được thả, ông theo Việt Minh vào chiến khu chống Pháp.
    • Nhưng sau đó ông bỏ Việt Minh, trở lại con đường tu hành cho tới năm 1963, ông ‘cảm thấy có trách nhiệm phải đứng lên bảo vệ Phật tử và Phật giáo’ sau sự kiện “Pháp Nạn Phật giáo’, khi 8 thanh niên Phật tử bị bắn chết vào đêm 8/5/1963 ở chân cầu Trường Tiền.
    • Làn sóng phản đối lan rộng, lên tới cao điểm khi xảy ra vụ tự thiêu của Hòa Thượng Thích Quảng Đức ngày 11/6/1963, làm thế giới bàng hoàng xúc động, tên tuổi của Thượng tọa Thích Trí Quang lan sang Hoa Kỳ và thế giới.
    • Năm 1964, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN) ra đời,
      • đưa Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết làm Đệ Nhất Tăng Thống,
      • Thượng Tọa Thích Trí Quang là Chánh Thư ký Viện Tăng Thống,
      • trong khi Thượng Tọa Thích Tâm Châu là Viện trưởng Viện Hóa Đạo.




    Tranh cãi

    Báo chí ngoại quốc gọi Hòa Thượng Thích Trí Quang là ‘người đã lật đổ chính quyền Tổng thống Ngô Đình Diệm’ vào năm 1963.

    • Các học giả cánh hữu cho rằng Thích Trí Quang có nhiều khả năng là cán bộ cộng sản hoạt động dưới sự chỉ đạo của Hà Nội.
    • Còn các học giả cánh tả lại cho rằng ông là một Thủ lãnh tôn giáo đấu tranh bất bạo động cho hòa bình và để bảo vệ Phật giáo.


    Trong bài tham luận mang tựa đề “Political Monks: The Militant Buddhist Movement during the Vietnam War” - “Tăng Sĩ làm chính trị: Phong trào đấu tranh Phật giáo trong Chiến tranh Việt Nam”, tác giả Mark Moyar của Đại học Cambridge viết trong phần tóm lược nội dung:
    • “Từ tháng 11/1963 cho tới tháng 7/1967, phong trào đấu tranh Phật giáo là nguyên nhân chính gây bất ổn chính trị tại Nam Việt Nam. Trong khi nhóm Phật giáo đấu tranh cho rằng họ đại diện cho đại đa số Phật tử và chỉ đấu tranh cho tự do tôn giáo, trên thực tế họ chỉ là một thiểu số, không đủ tư cách đại diện, đang tìm cách khống chế cả chính trường.”


    Một nữ phóng viên chiến trường, từng đoạt giải Pulitzer và làm phóng viên tại Toà Bạch Ốc, bà Marguerite Higgins, là một trong những người hiếm hoi đã trực tiếp phỏng vấn Hòa Thượng Trí Quang. Sau cuộc phỏng vấn tại Chùa Xá Lợi vào cuối năm 1963, bà Higgins không dấu vẻ hoài nghi của bà đối với Hòa Thượng. Bà viết trong quyển ‘Our Vietnam Nightmare - Cơn Ác mộng Việt Nam của chúng ta’, miêu tả vị cao tăng của Phật giáo Việt Nam là “một Machiavelli thắp nhang.” Machiavelli ám chỉ một người quỷ quyệt, không có đạo đức, chủ trương “cứu cánh biện minh cho phương tiện.”




    Nhà đấu tranh cho nhân quyền và Phật giáo Võ Văn Ái, cũng là một sử gia chuyên nghiên cứu về đạo Phật và lịch sử Việt Nam, nói cá nhân ông rất khâm phục Hòa Thượng Thích Trí Quang, vì ông là nhà sư am hiểu giáo lý Phật giáo rất thâm sâu, và có nhiều đóng góp cho Phật giáo Việt Nam.
    Ông Võ Văn Ái nói:
    • “Ngài là đại biểu, là tiếng nói của tinh thần Phật giáo qua suốt 2000 năm, mà qua suốt 2000 năm đó đã chứng tỏ sự kết hợp của Phật giáo Việt Nam, đối với dân tộc Việt Nam trên lĩnh vực tâm linh, văn hóa cũng như trong vấn đề chống ngoại xâm. Trong cuộc đóng góp cho dân tộc Việt Nam trên phương diện tôn giáo, tôi thấy sự đóng góp của Hòa Thượng Trí Quang rất lớn và cho thấy tinh thần của Phật giáo Việt Nam.”





    CIA nói gì về Hòa Thượng Trí Quang?

    Theo một tài liệu được giải mật của CIA có tựa đề “Momorandum for the Director”- (Báo cáo lên Giám Đốc) ghi ngày 11/9/1964 về đề tài ‘Động cơ, Mục tiêu và Ảnh hưởng của Thích Trí Quang’ ký tên George A.Carver, Jr., đại diện nhóm ‘South Vietnam Working Group’, các tác giả nói về Hòa Thượng Thích Trí Quang như sau:
    • “Đầy tham vọng, khôn khéo, một người không ngần ngại dùng mọi mánh khóe để lôi kéo, vận động chính trị và là một kẻ mị dân bẩm sinh. Ông là một trong những người hiếm khi xuất hiện - một nhà lãnh đạo chính trị thiên bẩm.”

    Sau khi phân tích, tài liệu này kết luận rằng ‘không có bằng chứng thuyết phục để kết luận Thích Trí Quang là cộng sản’. Các tác giả nói rằng những người tố cáo Hòa Thượng Trí Quang là cộng sản thường là người của chế độ Tổng thống Ngô Đình Diệm, tuy cũng có một số nhà quan sát Mỹ hiểu biết và công tâm cũng tin như vậy.
    • “Sau khi suy xét cẩn thận, kết luận của chúng tôi là Trí Quang có phần chắc không phải là một người cộng sản, hoặc một gián điệp Việt Cộng.”

    Kết luận đó được dựa trên cơ sở
    • ‘Không một ai trong số nhiều người Việt thù ghét Thầy Trí Quang, chỉ chờ cơ hội để bôi nhọ ông, và không ngừng tìm cách chứng minh ông là cộng sản, có thể đưa ra bằng chứng vững chắc về bất cứ liên kết nào giữa ông với cộng sản.”


    Đây cũng là ý kiến của nhà nghiên cứu James McAllister của Đại học Cambridge, trong bài tham luận “Thích Trí Quang và Chiến Tranh Việt Nam” (Only Religions Count in Vietnam: Thich Tri Quang and the Vietnam War) được Nhà Xuất Bản Modern Asian Studies ấn hành năm 2007. Bài tham luận viết:
    • “Nói tóm lại trong quá trình nghiên cứu của tôi, tôi không tìm ra được bất cứ quan chức Mỹ nào có thể nhận diện được, chưa nói tới bất cứ quan chức cấp cao nào, nghĩ Thích Trí Quang là người cộng sản hay có cảm tình với cộng sản.”


              

    Thông báo của chùa Từ Đàm.

              

    ______________
    Theo bản tin trên báo Giác Ngộ, từ sau năm 1975,
    • "Đại lão Hoà thượng ở tại chùa Ấn Quang, rồi tu viện Quảng Hương Già Lam (TP.HCM) độc cư, chuyên tâm hành trì, viết sách, dịch và chú giải kinh, luật, luận…

      Năm 2013, ở tuổi 91, Đại lão Hòa thượng đã trở về thăm quê nhà sau hơn 60 năm xa cách và lưu lại chốn cũ là chùa Từ Đàm, tiếp tục việc dịch thuật kinh điển và chuyên tâm hành trì cho tới ngày viên tịch.

      Ngài cũng đã về thăm lại nơi chôn nhau cắt rốn, nơi được Bổn sư thế độ xuất gia, thăm lại mộ phần của song thân ở Quảng Bình.

      Được biết, Đại lão Hòa thượng được Bổn sư phú pháp, Thiền tông Lâm Tế, Thiền hệ Đạo Mân Quốc sư, lưu xuất từ Tổ sư Nguyên Thiều, với pháp danh Nhật Quang, pháp tự Trí Hải, pháp húy Thiền Minh. Đạo hiệu Trí Quang là do Giáo thọ sư của ngài là Đại sư Trí Độ ban."




    ___________________
    Theo thông báo ngày 8 tháng 11 của chùa Từ Đàm, di huấn của Cố Hòa Thượng Trưởng Lão là:

    • “Sau giờ chết rồi độ 6 giờ là liệm.
      Liệm rồi các Pháp tử lạy 3 lạy rồi là đưa ra xe tang.
      Không bàn thờ, bát nhang, báo tang, thành phục, đưa đám, phúng điếu.
      Chuyển đến lò thiêu; thiêu rồi đem về chùa làm tuần, chung thất, trăm ngày, tiểu tường và đại tường.
      Mỗi lễ chỉ tụng một trong các kinh: Địa tạng, Kim cương, Bồ tát giới, Pháp hoa và Thủy Sám.
      Mỗi lễ đều không thông báo và mời ai dự cả.”





    https://www.voatiengviet.com/a/tu-dam-h ... 58371.html
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Đại lão Hòa thượng Thích Trí Quang: 'Một trang lịch sử'

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           




    Đại lão Hòa thượng Thích Trí Quang:
    'Một trang lịch sử'

    _____________________________
    Cao Huy Thuần _ Từ Paris, Pháp _ 10 tháng 11 2019




              

    Nhà sư Thích Trí Quang bên ngoài Dinh Độc lập ở Sài Gòn, nơi ông dàn dựng một buổi biểu tình ngồi cùng với các nhà sư Phật giáo khác
    Ông yêu cầu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu rút lại một sắc lệnh công nhận phe phái ôn hòa, do lãnh đạo thân chính phủ là Thích Tâm Châu, làm Giáo hội Phật giáo chính thức vào năm 1967. (GETTY IMAGES)

              


    Thầy tôi, Trưởng lão Hòa Thượng Thích Trí Quang, vừa thị tịch hôm qua, 8/11/2019. Di huấn để lại: không bàn thờ, không bát nhang, không báo tang, không phúng điếu, không vòng hoa, không đưa đám. Tôi chỉ xin phép Thầy thắp một nén nhang tưởng niệm.

    Tôi có hai lần khai sinh. Lần thứ nhất khi tôi sinh ra. Cha mẹ tôi cho tôi hình hài, máu huyết. Nhưng tôi chưa biết tôi là ai, sống như thế nào, trên đường nào tôi sẽ đi. Sinh ra, tôi có hai mắt. Nhưng chưa thấy đường đời. Phải đợi đến khi lên chùa Từ Đàm, sau ngày ông Diệm bị lật đổ, tôi mới thấy con đường sẽ đi. Thảo nào chữ nghĩa bác học gọi con đường là đạo. Thấy đạo, tôi khai sinh cho tôi.

    Đầu năm 1964, một nhóm giáo chức đại học Huế họp nhau tại trường Đại học sư phạm để quyết định về việc ra một tờ báo tranh đấu tiếp nối khí thế của "cách mạng" 1963, chống lại khuynh hướng lập một "chế độ Diệm không có Diệm" được người Mỹ ủng hộ. Trong dự định ban đầu, tờ báo là tiếng nói của lực lượng giáo chức và sinh viên Huế đã tham gia vào việc lật đổ Diệm.

    Chuếnh choáng hơi men chiến thắng của một cuộc nổi dậy thành công, tham vọng của chúng tôi là biến đại học thành một thành trì chống độc tài. Tuổi trẻ thường có những giấc mơ phạm thượng. Buổi họp giao cho ba chúng tôi, anh Tôn Thất Hanh, anh Lê Tuyên và tôi, trách nhiệm suy nghĩ và điều khiển tờ báo. Tên của tờ báo, Lập Trường, là do chúng tôi đặt ra.

    Lúc đó tôi 27 tuổi. Ít lâu sau buổi họp, tôi được mời ăn cơm với ông tướng chỉ huy Vùng I chiến thuật. Khi đó tôi mới thấy mình đang chơi một trò chơi quá so le trước gươm giáo, với một tuổi đời còn quá non và một tầm nhìn không xa hơn quyển sách. Quần chúng, tờ báo có. Nhưng dăm ba anh nhà giáo thì an ninh quân đội muốn tóm lúc nào chẳng được?

    Nương thế "cách mạng", chúng tôi ra báo không cần xin phép, nhưng anh sĩ quan tâm lý chiến đang ngồi ăn cơm chình ình trước mắt tôi, tôi qua mặt anh ta được chăng? Viết bài thì phải có lập trường chống Cộng hẳn hoi, anh ta khuyên nhủ thế, không chống Cộng tức là thân Cộng.

    Tôi viết thế nào đây? Viết thế nào khi có một bức màn sắt chia hai giữa quân đội và quần chúng, một bên biện minh rằng đảo chánh Diệm là để chống Cộng tốt hơn, một bên đòi thanh trừng vây cánh của chế độ cũ để khỏi bị độc tài đàn áp nữa? Trong tình thế đó, Lập Trường là con chuột nhắt khốn đốn dưới nanh vuốt của ba con mèo: tướng tá, người Mỹ, và dư đảng Cần Lao của ông Diệm.

    Về chiến thuật, chúng tôi có thể tạm thời tìm đường sống bằng cách khai thác mâu thuẫn quyền lực giữa các tướng tá cát cứ mỗi vùng để giữ một thế đứng độc lập ở miền Trung, làm đối trọng với thủ đô Sài Gòn. Nhưng đó không phải là một cái thế trường kỳ. Cũng về chiến thuật, chúng tôi có thể nói với người Mỹ: ông chống Cộng mà không có dân thì ông chống với ai? Ông hô hào tự do mà ông không để cho dân tự định đoạt vận mệnh của mình bằng lá phiếu thì ông tự do chỗ nào?

    Nhưng đó là lấy lý nói với lý; trên thực tế người Mỹ đâu có làm chiến tranh vì lợi ích của dân Việt Nam? Chỉ với hai con mèo ấy thôi, chuột nhắt chúng tôi đã chưa biết tờ báo sẽ sống chết lúc nào. Nói gì con mèo thứ ba, các lực lượng tôn giáo quá khích, sinh ra và lớn lên nhờ chiến tranh. Chỉ với một lý luận này thôi, họ đã dồn chúng tôi vào chỗ bí: quốc sách đã là chống Cộng, vậy thì chỉ có chống Cộng với những lực lượng chống Cộng, không thể chống Cộng với những kẻ lừng khừng.

    Chỗ dựa duy nhất của chúng tôi là quần chúng đang căm giận dư đảng của chế độ cũ. Nhưng quần chúng mà không có tổ chức thì khác nào gạch đá không có xi măng? Sự thế hiển nhiên thúc đẩy chúng tôi đi tìm xi măng. Nghĩa là lên chùa Từ Đàm! Chứ đâu nữa? Từ Đàm chẳng phải là nơi đã khởi đầu và tạo nội dung, hình hài, ngọn lửa cho cuộc tranh đấu hay sao?

    Tôi phải kể rõ ngọn ngành như vậy để giải thích tại sao một tờ báo bắt nguồn từ đại học lại trở thành một tờ báo được xem như tiếng nói bán chính thức của Từ Đàm, nghĩa là của Phật giáo.

    Chùa không làm chính trị: thái độ đó của Phật giáo chắc như đinh đóng cột. Lý tưởng của bọn trẻ chúng tôi cũng vậy, trùng hợp với chùa như bản chính với bản sao, có ông trời đóng dấu. Hồi đó, Sartre là ông thần triết lý của thời đại chúng tôi, và vở kịch "Les mains sales" của ông làm chúng tôi mê tít: chính trị là lĩnh vực của "những bàn tay bẩn" mà chúng tôi ghê tởm.

    Chúng tôi đang say men tranh đấu, chưa thừa hưởng được bả rượu chính trị của các bậc trưởng thượng. Lên chùa Từ Đàm với tâm hồn phơi phới giống như đi tìm lại thời gian chưa mất, nói phỏng theo văn chương của Proust. Một lần nữa, tôi kể rõ ngọn ngành như vậy để trả lại cho César cái gì của César: tờ Lập Trường không phải là do chùa Từ Đàm lập ra, không phải là công cụ chính trị của Thầy tôi.

              

    Một tu sĩ Phật giáo che ô cho nhà sư Thích Trí Quang, người lãnh đạo nhóm năm 1967

              

    Thầy tôi, Trí Quang, ngồi trong phòng khách, nhìn ra sân khi chúng tôi đến. Thầy chào bằng một nụ cười, trên miệng và trên mắt. Hai mắt là cái hồn trên mặt Thầy. Mắt Thầy sáng quắc, dữ. Sau 1963, quần chúng thần tượng hóa lãnh tụ, kháo nhau "mắt Thầy có điện".

    Cặp mắt ấy quyến rũ tôi ngay từ phút đầu, không phải vì "có điện" mà vì nó trở nên hiền hòa ngay khi Thầy cười. Hai con mắt Thầy cùng cười với miệng, cái dữ biến đi đâu mất. Với cái hồn hiền hòa ấy trên mắt Thầy, tôi quên tuốt đã nói chuyện gì buổi chiều hôm đó, hình như chẳng có chuyện gì quan trọng, hình như cũng chẳng đề cập đến cả tờ báo, hình như giữa bản sao với bản chính có chuyện gì nữa đâu mà nói với ông trời.

    Thế mà, khi từ giã Thầy, chúng tôi có cảm tưởng như mình đã là chiếc đũa trong một bó, muốn bẻ gãy cũng không dễ. Tờ báo ra đời sau đó. In ở nhà in đại học và trong sự chờ đợi nóng hổi của quần chúng, in bao nhiêu cũng không đủ bán, bán cũng không nghĩ đến chuyện thu tiền. Đó là giấy khai sinh thứ hai của tôi.

    Tờ báo ra đời trong bối cảnh "cách mạng" 1963 bị phản bội. Lý lẽ của chiến tranh buộc người Mỹ ủng hộ tích cực những lực lượng chủ trương chiến tranh; những lực lượng này, được thể, quay lại trả thù những người đã tham gia lật đổ chế độ cũ. Diệm đổ, nhưng chính quyền Diệm vẫn còn y nguyên từ trung ương đến xã thôn, với bộ máy đàn áp không suy suyển.

    Chiến tranh cho phép họ trả thù với một lý lẽ sơ đẳng và đui mù như bom đạn: chúng nó là cộng sản, chúng nó tiếp tay cho cộng sản, cộng sản mạnh lên là vì chúng nó. Chiến tranh còn cho phép họ trả thù những người cầm đầu phong trào một cách "hợp pháp" trâng tráo: tóm chúng nó đi lính là xong! Ai muốn hiểu những diễn biến chính trị trong những năm 1964-66 chỉ cần suy nghĩ trên sự đối đầu giữa hai tranh chấp về thừa kế: thừa kế Diệm hay thừa kế phong trào lật đổ Diệm.

    Thừa kế Diệm tức là tiếp tục chiến tranh và dựa trên chiến tranh để nắm quyền. Thừa kế 1963 là đòi tuyển cử để lập một chế độ mới. Khí giới của phe kia là bom đạn. Khí giới của phe này là lá phiếu. Có một lúc, người Mỹ cũng bị phanh thây: họ thừa biết bom đạn không giải quyết được tất cả, làm chiến tranh mà không có dân thì khác nào lùa dân qua phía cộng sản. Nhưng, như một ngạn ngữ của họ đã nói, rốt cuộc "chim cùng lông thì cùng bay với nhau".

    Thế nhưng, oái oăm của thời cuộc, dân chúng cũng không phải là con số không, dù là trước mắt tướng tá. Lồng trong chiến tranh còn có một bối cảnh khác cũng lao xao binh khí: tranh giành quyền lực giữa các ông tướng chỉ huy các vùng chiến thuật.

    Giữa họ với nhau, đảo chánh lật nhau không khó; giữ thế đứng của mình trong vùng cát cứ khó hơn, mà muốn thế phải dựa vào dân, trước hết là mấy ông "nhân sĩ" được dân nghe. Chúng tôi, ở miền Trung, có cái thế đó để đối đầu với các ông tướng ở Sài Gòn và đòi họ "cách mạng".

    Trong bối cảnh ấy, Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc ra đời tại Huế năm 1964. Do tờ Lập Trường chủ xướng, hành động này là để bảo vệ thành quả của 1963, chống lại một cuộc đảo chánh ở trung ương của phe tướng tá thân chế độ cũ.

    Tổ chức này cũng vậy, không do Thầy tôi đẻ ra; lúc ấy Thầy đang ở Sài Gòn. Ai học lịch sử cách mạng Pháp đều biết Comité de Salut public. Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc là dịch nguyên văn tổ chức của Robespierre. Trong đầu bọn trẻ trí thức nửa mùa chúng tôi hồi đó, 1963 như được ủ hơi men của cách mạng 1789 thần thoại.

    Ra đời chưa kịp khóc ba tiếng, các tỉnh ở miền Trung đã tức tốc đẻ theo, cùng một khuôn, một mặt, các HĐNDCQ địa phương. Tự động đẻ. Chẳng do chỉ thị một ai. Rồi cũng tự động, các HĐNDCQ khắp miền Trung kéo nhau về Huế để thống nhất đường lối. Tranh đấu trở thành chính trị.

    Mà toàn là tự động! Ký giả ngoại quốc bắt đầu kéo nhau đến Huế, tưởng như sắp chứng kiến một màn thay bậc đổi ngôi. Người Mỹ lân la dọ ý chúng tôi về tướng Thi, tư lệnh Vùng I, tưởng như HĐNDCQ sắp sửa làm bàn đạp cho một người hùng mới. Miền Trung bỗng nhiên trở thành trung tâm chính trị mà Huế là đầu não một cách tự phát, tự phất.

    Quần chúng hưởng ứng nhiệt liệt, chẳng cần biết lãnh tụ của HĐNDCQ là Bác sĩ Quyến hay là ai. Mơ hồ, họ chỉ thấy ai đó "đằng sau" tờ Lập Trường, nghĩa là Thầy tôi.

    Họ thấy như vậy cũng không phải là vô căn cứ. Không có Thầy, sao lại có một "Thư về Huế" của Thầy đăng trong Lập Trường, ngày 23-5-1964? Thầy viết: "Tiếng "thầy" được kêu lên trong khi chết chóc, trong cơn điên loạn, trong những ngày Từ Đàm bị bao vây và tấn công như một chiến khu, tiếng "thầy" được gọi lên trong nước mắt và máu, tiếng "thầy" đó, tôi biết Phật tử Huế đã dành cho tôi".

    Giữa lãnh tụ và quần chúng, mấy ai có được sự gắn bó thiết tha như vậy. Chừng đó thôi, mấy lời tình cảm huyết lệ ấy đủ để quần chúng biết Thầy ở đâu mà đứng theo Thầy. Từ tờ Lập Trường cho đến HĐNDCQ, tôi lặp lại, trí thức ở Huế không phải là công cụ của Thầy, Thầy không nhúng tay vào bất cứ hành động nào của họ, nhưng không có Thầy thì họ không phải là họ, được dân thương đến thế.

    Ai muốn hiểu Thầy tôi thì hãy hiểu Thầy qua ngọn lửa Quảng Đức, đừng lầm Thầy như một chính trị gia, vị thế đó thấp kém lắm, không xứng đáng với Thầy. Tự gánh trên vai trách nhiệm về ngọn lửa Quảng Đức, Thầy không thể cho phép thời cuộc phản bội lại ngọn lửa đó, chỉ thế thôi.

    *

    Nhưng thời cuộc không phải lúc nào cũng chiều Thầy. Miền Trung, trở thành một trung tâm chính trị, sẽ đưa Thầy vào một thế khó xử, khi tranh chấp giữa địa phương với trung ương leo thang đến mức ly khai. Ly khai? Sao nghe được! Nhưng bỏ quần chúng nửa đường, sao đành!

              

    Ngày 31/3/1975: Nhà lãnh đạo Phật giáo quyền lực nhất Nam Việt Nam, Thích Trí Quang (bìa trái) biểu tình đòi Tổng thống Thiệu từ chức. Trí Quang dẫn đầu một cuộc biểu tình của các nhà sư, giáo sĩ và cư sĩ. Thích Trí Quang được cho là đã góp phần cho việc lật đổ cố Tổng thống Ngô Đình Diệm vào tháng 11/1963

              

    Thầy như một sĩ quan chỉ huy một chiến hạm bị địch bắn đắm, danh dự phải giữ là chịu đắm theo tàu. Đây là nguồn cơn của biến động miền Trung năm 1966. Một biến động đè nặng trong lòng Thầy, khó nguôi.

    Bối cảnh của 1966 là chiến tranh lan rộng, tiến gần thành phố, ban đêm đại bác đã dội về tận Sài Gòn, làm rung cửa sổ. Từ chống chiến tranh, Phật giáo đứng lên đòi hòa bình, theo đề nghị của Thầy. Tiếng nói đó làm phiền cả hai bên, nhưng trực tiếp và sát cạnh là người Mỹ. Đòi cách mạng, họ còn nhịn. Đòi hòa bình, họ nổi khùng. Làm sao vượt qua chống đối của họ bằng chính triết lý căn bản của họ?

    Thầy đòi bầu cử Quốc hội lập hiến. Trong khí thế sôi động ở miền Trung, Thầy nghĩ ảnh hưởng sẽ lan vào Sài Gòn và bầu cử sẽ bất lợi cho những ai chủ trương chiến tranh. Mà thật vậy! Không riêng gì miền Trung, toàn thể các tỉnh đến tận Sài Gòn, mọi tầng lớp dân chúng, chỉ trừ những lực lượng tôn giáo sống chết với chiến tranh, nhiệt liệt ủng hộ chủ trương bầu cử để thay thế chế độ tướng tá bằng một chính phủ dân sự.

    Dân chúng biểu tình ở Sài Gòn, chiếm cả sân bay Tân Sơn Nhất, kêu gọi đình công, trương cả biểu ngữ "Yankee Go Home". Miền Trung thì khỏi nói: ngay cả quân nhân, ngay cả tướng tư lệnh, cũng sát cánh với dân thường, cảnh sát, công an sát cánh với công chức, trí thức, sinh viên, thương gia, tạo nên một phong trào đòi hỏi bầu cử. Đố một ông tướng nào tại vị ở miền Trung mà dám đi ngược lại phong trào.

    Đố Thiệu-Kỳ đưa được một tướng khác thay thế. Đố ông Kỳ lột chức được thị trưởng Đà Nẵng bằng cách nào khác hơn là dọa bắn vào đầu ông Mẫn. Phe quân đội chia hai: một bên là đồng minh của Thiệu-Kỳ, dựa trên những đảng phái và tôn giáo thánh chiến, sợ bầu cử sẽ có lợi cho Phật giáo; một bên là đồng minh của miền Trung, quân và dân hiếm khi một dạ một lòng như vậy.

    Một lòng đến nỗi tư lệnh sư đoàn I huấn luyện quân sự cho sinh viên, thanh niên, phát vũ khí cho họ để bảo vệ Huế, tiếp ứng Đà Nẵng, dọa sẽ chống lại Kỳ nếu Kỳ dùng bạo lực.

    Quân và dân sát cánh tại miền Trung thì người Mỹ sát cánh với Thiệu-Kỳ trong chiến dịch đàn áp và phân hóa Phật giáo. Họ sẽ phân hóa được bằng cách lập một cánh Phật giáo đối nghịch với Thầy tôi. Nhưng trước khi đó, họ thẳng tay đàn áp phong trào cái đã, tại Sài Gòn trước, tại miền Trung sau.

    Phân hóa hay đàn áp, mục tiêu họ nhắm là Thầy tôi. Triệt hạ Thầy thì triệt hạ được phong trào hòa bình, đập nát được thanh thế miền Trung mà Westmoreland, mà Taylor, mà Lodge, mà Rostow xem như thành trì Phật giáo. Hơn thế nữa, triệt hạ Thầy tôi thì họ sẽ tương kế tựu kế tổ chức được một Quốc hội theo ý họ, gạt Phật giáo vĩnh viễn ra khỏi các cơ quan dân cử, leo thang chiến tranh. Súng đạn đi đầu lá phiếu.

    Lấy cớ trừng phạt ly khai, ông Kỳ dồn đại quân ra Đà Nẵng, nhắm Huế. Dân chúng tự động đem bàn thờ ra ngoài đường để cản chiến xa từ Quảng Trị vào An Hòa. Trong vòng nửa giờ, các đường chính của thành phố Huế đã đầy bàn thờ Phật. Thầy nói: Thầy bị động.

    Trước sự đã rồi, Thầy ra lệnh chính thức. Quần chúng thỉnh Phật ra đường, hương án trang nghiêm, tụng niệm như ở trong nhà, như ở trong chùa. Kỳ điều đình với Thầy. Thầy không trả lời. Kỳ giới nghiêm, tung tiểu đoàn "Trâu Điên" xung kích, bắn, bắt, đánh, đập, uống bia cho say rồi vung chai đập đánh, đánh cả sinh viên, học sinh.

    Trước đó, binh sĩ Vùng I và sinh viên "quyết tử" đã quyết ăn thua đủ với Kỳ, dàn trận bên này đèo Hải Vân, chực nổ súng. Công binh đã đặt mìn, sẵn sàng phá hủy các cầu từ Đà Nẵng ra, từ Quảng Trị vào, cắt đứt tiếp vận từ Quảng Trị. Tại Huế, đại pháo và đại liên đã được bố trí dọc theo kỳ đài, chỉa xuống bộ tư lệnh giới nghiêm đóng tại Phu Văn Lâu. Quân nhân hỏi ý Thầy.

    Đau xót: ông thầy tu trong Thầy không cho phép Thầy dùng bạo lực. Đưa bàn thờ ra đường là tranh đấu bất bạo động. Nổ súng là bạo động, Thầy đành bảo họ hủy mìn, dẹp súng. Nội chiến là chuyện Thầy không làm, dù hậu quả là cả quân lẫn dân Phật tử bị bắt, bị đàn áp sau đó.

    Thất bại, Thầy đành chịu. Nhưng bất bạo động là kim chỉ nam của Thầy. Khí giới duy nhất của Thầy là tuyệt thực. Bị bắt và giải về Sài Sòn, Thầy tuyệt thực đúng 100 ngày.

              

    Thích Trí Quang (áo xanh) cười cùng các nhà sư khác khi biểu tình ngồi ở bên ngoài Dinh Độc lập năm 1967

              

    Trong biến cố 1966, một tờ báo lớn Mỹ đặt câu hỏi to tướng: Ông Trí Quang muốn gì? Muốn gì mà ông chống hết chính quyền này đến chính quyền khác? Muốn gì mà ông không biết nhân nhượng? Muốn gì mà ông đòi Quốc hội? Rồi muốn gì mà ông hết đòi Quốc hội lại chống Quốc hội?

    Trong bấn loạn hỏa mù của đảo chánh và chiến tranh, của ngoại thuộc và nội chiến, nếu chịu khó nhìn và hiểu thì những gì mà Thầy tôi muốn cực kỳ đơn giản, có thể tóm gọn vào trong một bức thư, "Thư về Huế" mà tôi đã nói ở trên.

    Thầy tôi muốn gì năm 1964? Dân đã lật ông Diệm thì cứ tưởng là rạng đông sẽ sáng sau đêm tối âm u. Nhưng ai ngờ! "Ai ngờ sự vận động để cải thiện chính sách thực đã không đơn giản như chúng ta tưởng. Đảo chính quá dễ nhưng cách mạng quá khó.

    Hóa cho nên đời sống hiện tại của chúng ta và của tín ngưỡng chúng ta gần như vẫn ác mộng giống quá khứ và chưa chừng mà tiếp tục cả đến tương lai". Thầy muốn gì? Muốn cái đuôi của ông Diệm không làm khổ dân và khổ Phật giáo.

    Bằng cách nào? "Nỗ lực và nỗ lực một cách liên tục để chấm cho dứt những chính sách không phù hợp với sự sinh tồn của Dân tộc và Phật giáo, phát triển Phật giáo bằng sự thực hiện của bản thân mà không bằng cách làm thương tổn các tôn giáo khác, càng nêu cao đức tính Từ bi bao nhiêu lại càng thực hiện đức tính Vô úy bấy nhiêu: đó là "ý thức Phật tử" đơn giản vô cùng nhưng khó khăn vô tận".

    Đúng là khó khăn vô tận, vì Thầy thất bại năm 1966. Nhưng thế nào là "ý thức Phật tử" vào thời cuộc 1966? Là đại bác dội đêm, là chiến tranh, là phải hòa bình. Có người tưởng Thầy tôi đòi hỏi Quốc hội để chiếm đa số, để khuynh loát, để thủ diễn vai tuồng mới trên chính trường miền Nam.

    Họ chịu khó nhìn chính trị ở miền Nam một cách lô gích thì biết Thầy tôi muốn gì: chừng nào còn chiến tranh, chừng đó còn người Mỹ; chừng nào còn người Mỹ, chừng đó còn bộ máy quân sự phục vụ chiến tranh; chừng nào còn bộ máy quân sự phục vụ chiến tranh, chừng đó còn những thế lực ăn theo chiến tranh; chừng nào còn những thế lực ăn theo chiến tranh, chừng đó Phật giáo còn bị đè xuống, chận họng.

    Cách giải quyết vấn đề, đứng trên cương vị của một ông thầy tu, là tháo vất cái mắc xich đầu tiên, là chấm dứt chiến tranh! Thế là làm chính trị hay sao?

    Thầy tôi mang đủ thứ tiếng. Có người nói Thầy thân Cộng. Có người nói Thầy thân Mỹ. Có lúc Thầy được đội cả hai cái mũ một lần. Lẳng lặng, Thầy nói với người thân: "Càng nhiều mũ càng tỏ ra thật không có mũ nào. Trái lại, càng nhiều mũ càng tốt: càng làm cao lên, và rõ ra, cái tư thế đặc biệt của Phật giáo. Nên Phật giáo không cần tránh mà còn cần đến cái tác dụng nghịch lý ấy".

    Chính cái nghịch lý ấy làm nên Thầy. Thầy là một nghịch lý to tướng. Một ông thầy tu có tầm cỡ và sức thu hút đặc biệt của một nhà chính trị lớn, lớn nhất miền Nam lúc đó, nhưng lại từ khước cái khả năng hiếm có ấy để làm ông thầy tu.

    Câu hỏi mà các ký giả Mỹ đặt ra về Thầy không phải là không có căn cơ: họ bị Thầy thu hút như một tài năng chính trị, nên họ không thể tưởng tượng Thầy thật không muốn làm chính trị. Họ lầm.

    Bây giờ thì chắc người ta hiểu Thầy hơn. Thời thế bắt buộc Thầy phải xông trận, như một người lãnh đạo. Nhưng đó là cái thế bất đắc dĩ của một ông thầy tu cỡ lớn, quá lớn để từ khước một trách nhiệm đặc biệt mà lịch sử bất thần đặt lên vai.

    Nhưng Thầy không bị lịch sử lừa phỉnh để đi vào con đường khác với con đường của ông thầy tu. Cái vui thú của Thầy là lúc Thầy được xa cái chợ chính trị để làm cái việc của ông thầy tu là dịch kinh, giảng kinh. Trăm ngày tuyệt thực, đó là lúc Thầy vui. Vì Thầy làm được cái việc Thầy muốn: viết được hai bản thảo "Nghiên cứu Khởi tín luận" và "Khảo luận Tây du bằng Duy thức học".

    Ông thầy tu tuyệt thực như thế nào, với tâm trạng gì? Thầy nói: "Có hai việc mà tuyệt thực tuyệt đối phải có.

    Một là phải có một tâm thức thanh thản, không buồn, không giận, không cầu hồ gì. Không cầu chết cũng không sợ chết, tiếp cận hoàn toàn với đức hỷ xả của Phật.

    Hai là tuyệt đối không ăn, dĩ nhiên, cũng không uống, không chích bất cứ thứ gì". Thân thì không ăn uống, tâm thì hỷ xả. Ấy là ông chính trị gia hay ông thầy tu?

    Thầy tôi có thắng có bại trong hành động, như bất cứ ai hành động. Nhưng thắng, Thầy dành cho người khác hưởng; bại, Thầy nhận một mình. Thắng hay bại, Thầy đều cô đơn. Suốt đời, Thầy cô đơn. Sau mỗi tranh đấu thắng lợi, bao giờ cũng có lắm anh chính khách xun xoe sau lưng các lãnh tụ.

    Ai tranh đấu bên cạnh Thầy chỉ hưởng cơm hẩm nước rau. Suốt đời, Thầy không nhân nhượng với cái gian, cái ác, cái xảo quyệt, cái ma lanh ma lẹ của bán buôn chính trị. Về riêng Thầy, có lần tôi nghe Thầy nói một câu bâng quơ: nước trong quá thì không có cá. Có gì để nhậu nhẹt trong cái am của Thầy đâu!

    Ai chơi hoa, cắm hoa đều biết: dù hoa thanh khiết đến bao nhiêu đi nữa, sau ba ngày thì nước trong bình bắt đầu hôi. Có kẻ chỉ thấy hoa đẹp, không thấy nước hôi. Thầy thấy nước hôi, không dùng hoa đó để cúng Phật. Tôi học được ở Thầy cái nhìn đó để không sợ cô đơn trong cuộc đời. Và trong sự thật.

    *

    Thầy sống cô đơn như vậy từ sau 1975 đến nay, không màng thế sự, khen chê, không thanh minh, không tiếp khách. Thầy sống như Thầy đã tuyệt thực, thanh thản dịch kinh. Thầy sống như để trả lời câu hỏi về Thầy ngày trước: Thầy chỉ là một ông thầy tu không hơn không kém, bây giờ cũng như bao giờ.

    Có điều là ông thầy tu này có cặp mắt sáng quắc, dữ thì thật dữ mà hiền thì thật hiền, khi dữ thì Vô úy, khi hiền thì Từ bi, hai chữ đỏ như son trong Lập Trường ngày trước. Tôi không biết nên nói gì với tuổi trẻ ngày nay ngoài hai chữ mà tôi đã học được ngày xưa.

    Vô úy, ai cũng đã thấy nơi Thầy. Không sợ! Còn Từ bi? Từ bi không phải chỉ là lòng thương. Phải là lòng thương nào có thể vừa cho vui vừa cứu khổ. Điều này, Phật tử ai cũng rõ. Nhưng ít ai biết tại sao phải từ bi như là một định luật.

    Thầy giảng: tại vì sống là tương quan, không ai có thể sống một mình, cho nên sống là phải giúp nhau, cho vui và cứu khổ lẫn nhau. Lòng từ bi đó tạo cho mình cái nhìn bình đẳng: thấy tất cả đều khổ, do đó mình phải cho vui và cứu khổ hết thảy.

    Thầy giảng, tôi hiểu suốt. Và tôi biết đó là lý tưởng của Thầy, Thầy sống như vậy. Nhưng thắc mắc của tôi là ông thầy tu của tôi từ bi như thế nào trong những hành động mà dù muốn dù không cũng mang tính chính trị? Tôi đọc Thầy: "Cứu cánh của từ bi là thấy người với mình là một, thân người tức thân ta…

    Do từ bi, mình tự đưa mình ra chịu khổ cho người. Xem tất cả như con một, thấy thân người như thân mình, thì còn có gì mà không làm nổi?"

    Thầy tôi rất Thầy tôi ở mấy chữ "còn có gì mà không làm nổi". Người ta nể Thầy, sợ Thầy, phe nào cũng sợ Thầy là vì ở Thầy toát ra mấy chữ ấy. Nhưng cái gì nơi người ta sợ Thầy? Cái gì sợ từ bi? Cái ác! "Nhất là vào thời đại này - Thầy viết - thời đại mà về mặt tâm lý ta có thể thấy rõ rệt khắp đây đó hiện thân của lòng tàn ác.

    Tàn ác, như một ngọn lửa tỏa khói đen nghịt và cao ngất, phủ bọc lấy loài người đau khổ. Mà chống lại lòng tàn ác thì chỉ có lòng từ bi".

    Phải đọc thêm một câu nữa để thấy văn tức là người, giọng văn của Thầy thế nào thì Thầy sắc như thế ấy, hiện thân ra như thế ấy trước mắt đối phương, nghĩa là cái ác: "Bởi vậy, kẻ nào mỉa mai rằng thời đại này mà còn nói đến chuyện từ bi, thì kẻ ấy chính là kẻ đang tàn ác.

              

    Một tu sĩ Phật giáo đứng cạnh một biểu ngữ với hình ảnh nhà sư Thích Quảng Đức, người đã tự thiêu trên một góc phố sầm uất Sài Gòn năm 1963, tại chùa Việt Nam Quốc Tự ở thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 6/2018.

              

    Kẻ nào trực tiếp hay gián tiếp làm tổn thương đến uy lực của từ bi là kẻ tội ác của nhân loại, kẻ gieo thảm họa cho loài người. Nếu phải thí dụ kẻ đó là kẻ ma quân thì ma quân ấy chỉ khiếp sợ mỗi một tâm lý độc nhất, tâm lý từ bi mà thôi".

    Tôi gặp Thầy tôi khi lịch sử Phật giáo và lịch sử chính trị miền Nam mở đầu một giai đoạn mới với ngọn lửa Quảng Đức. Lịch sử đã chọn Thầy tôi làm kẻ đứng mũi chịu sào trong giai đoạn đó vì lịch sử biết Thầy chống cái ác như thế nào với một tâm lý gì.

    Bốn phương tám hướng đều thấy: ngọn lửa Quảng Đức là ngọn lửa từ bi. Riêng tôi, ở trong tầm mức thấp bé của một người thường, tôi thấy ngọn lửa đó tiếp tục cháy trong mấy câu hoài niệm Thầy viết cho Lập Trường nhân ngày giỗ đầu của 7 em bé bị đạn của lính ông Diệm bắn chết trước đài phát thanh Huế đêm Phật Đản 1963: "Tôi, cho đến bây giờ, vẫn không sao nguôi ngoai được tâm trạng của một người nhìn thấy đống xương thịt máu huyết bị hất vào một góc tường, xương thịt máu huyết của những kẻ thân yêu mới cười nói với mình trước đó không quá 10 phút! Biết bao giờ, hay sẽ không bao giờ, con người bớt tàn bạo, biết xấu hổ vì tội ác của mình, để con người đừng kinh hãi vì con người".

    Thầy tôi đi vào lịch sử chỉ vì thế: chỉ vì Thầy tự đưa thân ra gánh lấy cái khổ của quần chúng Phật tử, chỉ vì trong xương máu của Thầy có xương máu của 7 em bé trắng trong chết vì cái ác, chỉ vì Thầy lấy cái ác làm kẻ đồng hành khiêu khích không ngừng.

    Về Thầy, tôi nghĩ chỉ có chuyện ấy là đáng nói. Còn tất cả chỉ là một nhầm lẫn to tướng không cần cải chính, bình luận: người ta tưởng nhầm Thầy muốn làm Richelieu, hồng y, thủ tướng của vua Louis XIII nước Pháp. Sự thực, Thầy tôi muốn cao hơn thế: Thầy muốn làm ông thầy tu.




    https://www.bbc.com/vietnamese/forum-50364375
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Đi tìm chìa khóa giải mã 'sự im lặng' của Hòa thượng Trí Quang

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           




    Đi tìm chìa khóa giải mã 'sự im lặng'
    của Hòa thượng Trí Quang

    _____________________________
    Quốc Phương _ BBC _ 15 tháng 11 2019




              

    Thượng tọa Thích Trí Quang (ngồi giữa, nhìn thẳng), một lãnh tụ của phong trào Phật giáo ở miền Trung và miền Nam Việt Nam những năm 60 của thế kỷ trước

              



    Sự 'im lặng' của Hòa thượng Thích Trí Quang, một lãnh tụ của các phong trào đấu tranh sôi động của Phật giáo Việt Nam thời chiến, người được cho là đã từng làm 'rúng động' nước Mỹ, từ sau ngày 30/4/1975 có thể được nhìn nhận như thế nào là một chủ đề được các khách mời Bàn tròn thứ Năm tranh luận tuần này.

    Bên cạnh đó, các ý kiến cũng gợi ý những cách tiếp cận đối với sự thật lịch sử khi cố gắng tìm câu trả lời cho câu hỏi thực chất nhân vật lịch sử và giai đoạn lịch sử đầy biến động, có liên quan tới các phong trào Phật giáo Việt Nam và vai trò lịch sử của Hòa thượng Trí Quang, người vừa qua đời ở Việt Nam, hưởng thọ 96 tuổi, ra sao.

    Trước hết, từ California, Hoa Kỳ, ông Mặc Lâm, nhà báo từng nhiều năm làm việc tại RFA Tiếng Việt, nêu quan điểm với cuộc hội luận hôm 14/11/2019:
    • "Về sự im lặng của Hòa thượng Thích Trí Quang từ sau tháng Tư 1975 đến bây giờ, chúng ta ai cũng ngạc nhiên và có rất nhiều câu hỏi đặt ra xung quanh thái độ này của Hòa thượng.

      "Nhưng chúng tôi nghĩ rằng, chung quy đó là quyền tự do biểu đạt của từng người một trong thế giới này và khi Hòa thượng đã xuống đường, đã đem bàn thờ Phật xuống đường hay là là đã biểu tình (tuyệt thực) trong vòng 100 ngày, cũng như những hoạt động khác, để chống lại một chế độ mà Hòa thượng cho rằng đã không phù hợp với Việt Nam, thì đó cũng là một quyền tự do của người tu hành, kể cả người tu hành đó là Phật giáo, Công giáo hay bất cứ một tôn giáo nào khác.

      "Chúng tôi rất trân trọng những chuyện đó. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh Việt Nam bao nhiêu năm nay, mà Hòa thượng không lên tiếng một chút nào, thì người dân cũng có quyền của họ về suy nghĩ về thái độ sống và thái độ tranh đấu của Hòa thượng, trước đây, nó đã rất mạnh mẽ và rất là dấn thân, nhưng bây giờ lại im lặng hoàn toàn như vậy, thì người dân cũng có thể đánh giá rằng đây là một thái độ có vẻ là nó bị khuất phục trước cường quyền, hay là một thái độ mà ngài có thể là ăn năn.

      "Hay là có thể cảm thấy rằng bây giờ nếu có chống lại chế độ hiện thời đi nữa, thì cũng không đi tới đâu. Cho nên đó là suy nghĩ riêng của ngài mà chúng ta không ai có thể đoán được, hay xét đoán được qua hành động của ngài."






    Vắng mặt hậu 75 và mục tiêu đã đạt?

              

    Có nhiều giả thuyết với quan điểm khác nhau, thậm chí tranh cãi về vai trò, di sản của Hòa thượng Thích Trí Quang, người vừa viên tịch ở Huế, hưởng thọ 96 tuổi

              

    Từ Marseille, nhà biên khảo Trương Nhân Tuấn nói với Bàn tròn:
    • "Hòa thượng Thích Trí Quang cho đến năm 1975 chỉ tóm lược trong ba thứ thôi, đó là: tranh đấu, tranh đấu và tranh đấu. Thứ nhất là tranh đấu cho công lý, giành lại công lý cho Đạo Phật trước sự đàn áp; và thiên vị Thiên Chúa Giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm.

      "Thứ hai là tranh đấu cho đạo pháp và dân tộc; thứ ba là tranh đấu lật đổ chế độ độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm để thực hiện hai mục tiêu vừa nói. Thì bây giờ, đến nay, mục tiêu thứ ba đã hoàn tất từ 56 năm, gần một đời người.

      "Vậy hai mục tiêu giành lại công lý cho đạo Phật, thì Hòa thượng Trí Quang đã làm gì được cho đạo Pháp và dân tộc? Đã thực hiện được gì hay chưa?

      "Thứ nhất là vấn đề tranh đấu cho công công lý, nội dung giành lại công lý cho đạo Phật trước sự đàn áp và thiên vị Thiên Chúa Giáo của chính quyền ông Diệm, câu hỏi đặt ra cho quý vị Phật tử... là công lý đã thiết lập hay chưa? Đạo Phật hiện nay có được quyền tự do tín ngưỡng hay không? Hai vấn đề này tôi không lạm bàn, nhưng theo tôi công lý ở Việt Nam bây giờ chỉ là một diễn viên hài mà thôi.

      "Cái thứ hai là tranh đấu cho dân tộc, thì câu hỏi thứ hai tôi đặt ra là Phật Giáo ở đâu trong lòng dân tộc? Đặc biệt đặt ra cho hậu duệ của Hòa thượng Thích Trí Quang...

      "Câu hỏi đó đến nay chưa ai trả lời hết. Phật giáo của Hòa thượng Trí Quang vắng mặt ở hầu hết những biến cố, những tai ương đã xảy ra cho dân tộc Việt Nam từ năm 1975 đến nay.

      "Cá nhân tôi cho rằng phong trào tranh đấu của Hòa thượng Thích Trí Quang đã mở cửa đưa cho dân tộc Việt Nam vào một giai đoạn khốc liệt nhất trong lịch sử của dân tộc Việt Nam. Nội chiến chấm dứt thì hai mục tiêu đạo pháp và dân tộc và công lý vẫn chưa đạt được.

      "Đến ngày hôm nay người dân biết chết, vẫn phải đi, báo chí Anh quốc bây giờ cũng nhắc lại câu là "nếu cột đèn có chân, thì cây cột đèn cũng vượt biên", thì rõ ràng mục tiêu dân tộc của thầy Trí Quang còn xa lắm, rất là xa, chưa đạt tới đâu.

      "Cái thứ ba là tranh đấu lật đổ chế độ độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm, mục tiêu này, thầy Trí Quang đã thành công hoàn toàn, nhưng vấn đề đặt ra là thực hiện hai mục tiêu đó để làm gì, khi hai mục tiêu chúng ta vừa nói là tranh đấu cho đạo pháp và dân tộc không thực hiện được?

      "Vấn đề là cho rằng chế độ của ông Ngô Đình Diệm là độc tài, gia đình trị, thì bây giờ mình cũng nên nhìn lại, nếu chúng ta so sánh bây giờ giữa ông Diệm và ông Hồ, hay là ông Diệm với những lãnh đạo châu Á cùng thời là Ferdinand Marcos, Tưởng Giới Thạch hay là Sukarno, hay là Mao Trạch Đông, thì rõ ràng ông Diệm là một người hiền hòa, bao dung, có đạo đức, thanh bạch hơn hẳn những ông kia...


              

    Phong trào Phật giáo Việt Nam ở miền Trung và miền Nam đã có những giai đoạn rất sôi động trong thập niên 1960 và trước 30/4/1975

              

    • "Ông Diệm, tôi thấy không có độc tài, ở một đất nước mà trong tình trạng chiến tranh, tự vệ ý thức hệ nữa, mà ý kiến chính trị gia, tôn giáo, được hưởng đầy đủ các thứ quyền tự do hết, còn hơn cả Malaysia hay là Indonesia bây giờ nữa, theo tôi mình so sánh những gì mình có thể so sánh được, nếu ông Diệm là độc tài, thì bây giờ mình đã nhìn thấy sự thật đó là như thế nào rồi,"
      ông Trương Nhân Tuấn nêu quan điểm từ góc độ cá nhân.






    'Không thể đổ tội cho một người'

    Tiến sỹ triết học, nhà nghiên cứu Phật giáo Thái Kim Lan trước hết phản biện một số quan điểm liên quan Hòa thượng Thích Trí Quang và nêu quan điểm về bản chất tình hình chính trị của giai đoạn lịch sử hơn một nửa thế kỷ trước, có liên quan tới các phong trào Phật giáo ở miền Trung và miền Nam Việt Nam, bà nói:
    • "Trước hết, tôi muốn nói như thế này là nhận định lịch sử phải khách quan và rất kỹ lưỡng, bình tĩnh nữa. Bởi vì nếu chúng ta dùng chữ sai, thì sai một li là đi một dặm. Dùng chữ "tiếp tay", là tôi không đồng ý.

      "Ví dụ như dùng chữ tiếp tay là cuộc vận động Phật giáo, hoặc là Hòa thượng Thích Trí Quang đã tiếp tay cho Cộng sản, tôi không đồng ý. Tôi không đồng ý ở cái chỗ trong lúc cuộc vận động Phật giáo xảy ra, thì mục tiêu của Phật giáo lúc ấy rất là hòa hoãn, chỉ muốn chính quyền ông Diệm chấp nhận sự bình đẳng tôn giáo.

      "Và chấp nhận thứ hai là những nạn nhân của cái đêm Phật đản phải được bồi thường, chính tôi là một trong những người đi tuyệt thực để đòi sự thực thi công bằng như vậy.

      "Thì trong mục tiêu này, không bao giờ có vấn đề tiếp tay cho Cộng sản một chút nào cả, nếu có sự tiếp tay, thì có thể những chuyện xảy ra là sau này, mà đó là xảy ra bên ngoài, chứ không phải là tự thân của cuộc vận động 1963. Thành thử chữ "tiếp tay", chúng ta nên cẩn thận để sử dụng.

      "Điểm thứ hai là vấn đề lật đổ ông Ngô Đình Diệm không có ở trong chương trình của cuộc vận động 1963, mà chúng tôi khẳng định là mặc dù có nhiều cái giải thích khác nhau, nhưng mục tiêu và cuộc tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức chỉ muốn đánh động sự công bằng, tinh thần công bằng mà ông Ngô Đình Diệm và chính quyền Ngô Đình Diệm nên chú trọng.

      "Chứ không phải là có tính cách lật đổ chính trị. Chính trị là người Mỹ làm và chính trị là các tướng lãnh, nhưng mà thực ra chính quyển đã đẩy. Nếu chúng ta đọc lịch sử một cách đúng đắn và có tư liệu hẳn hoi, thì chúng tay thấy rõ ràng là chính quyền càng ngày càng đẩy người Phật tử cũng như quần chúng không đứng về phe của chính quyền nữa.


              

    Chính quyền của Tổng thống Ngô Đình Diệm đã chịu nhiều chỉ trích và cáo buộc cho rằng đã thiên vị Công giáo và ngược đãi, đàn áp Phật giáo

              

    • "Bởi vì chính quyền đã buộc tội, cáo buộc tất cả đều là Cộng sản, mà chúng tôi thực sự lúc đó là sinh viên, rất là trong sáng, ngây thơ, không có một chút gì là chúng tôi nghĩ chúng tôi theo Cộng sản cả. Chúng tôi chỉ thấy nhà Chùa và người dân bị đánh đập và tuyệt thực, chúng tôi can thiệp, chúng tôi muốn đứng ra.

      "Và đó là một tinh thần tự do ngôn luận, và phải nói đó là một điểm son ở trong chế độ đó, chúng tôi có quyền, chúng tôi đã được nói và chúng tôi được phản đối. Còn về lịch sử, tại sao Việt Nam sau này rơi vào tay như các ngài nói là "tiếp tay để rơi vào tay Cộng sản", thì chúng ta phải hỏi tất cả những nhà cầm quyền kế tiếp - trách nhiệm của họ thế nào? Tất cả những hành động của người Mỹ như thế nào?

      "Chúng ta không thể nào nói một cách võ đoán được để mà buộc tội một người được!,"

      Tiến sỹ Thái Kim Lan nói.






    'Chánh pháp và hành động'

    Từ Paris, Pháp, ông Võ Văn Ái, một nhà biên khảo và hoạt động Phật giáo chia sẻ quan điểm của mình, đặc biệt về những câu hỏi đặt ra về "sự im lặng" sau 30/4/1975 của Hòa thượng Thích Trí Quang, ông nói:
    • "Chúng ta có thể biết rất rõ phê bình đó, khi nhìn rằng tất cả những người khác, hay những đảng phái, hay những nhóm bè đứng lên tranh đấu, tố cáo này kia đã đưa lại cái gì cho đất nước Việt Nam? Chúng ta vẫn nằm dưới một chế độ độc tài cộng sản.

      "Thì dù có nói lớn hay không nói lớn, vẫn chưa ai làm được gì cả. Tôi nghĩ rằng trong trường hợp của cố Đại lão Hòa thượng Thích Trí Quang, thì trong thuật ngữ Phật giáo có một câu nói rằng: nói năng như Chánh pháp, im lặng như Chánh pháp.

      "Nghĩa là ngài có nói năng, có phê bình, có xuống đường, có biểu tình, hay là không có tất cả những việc đó, tất cả những điều đó đều là Chánh pháp, chân lý của Đạo Phật."


    Nói về chuyển động của các phong trào Phật giáo trước đây ở miền Nam Việt Nam từ sau mốc 30/4/1975, ông Võ Văn Ái bình luận thêm:

              

    Một cuộc biểu tình của các tu sỹ Phật giáo yêu cầu lãnh đạo chính quyền từ chức (Thượng tọa Thích Trí Quang ngồi chắp tay ở bìa trái)

              

    • "Sau năm 1975, cố Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang ở Bình Định và Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ vẫn tiếp tục con đường đòi hỏi công lý và hòa bình cho dân tộc.

      "Tất nhiên, không có một sự im lặng, không có một sự thối lui, không có một sự khuất phục nào cả."


    Từ Hà Nội, nhà nghiên cứu Triết học và Phật giáo Thái Kim Lan nói thêm:

    • "Câu cuối cùng của tôi là như thế này, sự im lặng của ngài Thích Trí Quang không phải là sự im lặng. Ông làm việc. Và ông làm việc theo một cách khác. Ông dịch sách và ông đã để lại một gia sản đồ sộ về kinh sách Phật giáo cho người Phật tử.

      "Và ông giữ vững quan điểm của mình là sự im lặng này vượt lên trên hết tất cả các tranh cãi mà toàn là giả thuyết và ông không bao giờ trả lời,"

      bà nói với Bàn tròn của BBC News Tiếng Việt.






    https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-50433624
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Thích Trí Quang, Thần Tượng Hay Tội Đồ Dân Tộc

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          


          


Thích Trí Quang,
Thần Tượng Hay Tội Đồ Dân Tộc

          


          
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Thích Trí Quang

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          



          

          


          

Sau giờ chết rồi độ 6 giờ là liệm. Liệm rồi các Pháp tử lạy 3 lạy rồi là đưa ra xe tang. Không bàn thờ, bát nhang, báo tang, thành phục, đưa đám, phúng điếu. Chuyển đến lò thiêu; ....



thương thay 1 di huấn tầm thường mà bề trên đọc không hiểu
... :( ...



hay là đợi Giáo Sư Cao Huy Thuần
(du học Pháp thời VNCH)
Tiến Sĩ Thái Kim Lan
(du học Đức thời VNCH)
giảng nghĩa đâu là Chánh Pháp, Chánh Đạo, Chánh Nghĩa
... :| ...

          

          



          
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Thích Trí Quang

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           





    Sự thật về Thích Trí Quang
              
    và PHÁP NẠN
    của Phật giáo Việt Nam

    ____________________________________
    Gió Bấc _ 24/11/2019



              

              

    Thích Trí Quang qua đời, như hòn đá ném xuống mặt nước gợn lên dư luận tranh cãi,
    • đây là người của CIA
      hay là người tiếp tay cho Cộng Sản.
    Từ Hà Nội Tiến sĩ phật học Thái Kim Lan đã khẳng định trên BBC tiếng Việt là Thích Trí Quang
    “dấn thân bảo vệ đạo pháp và ngay cả sự im lặng của ngài (sau 1975) cũng là cách bảo vệ đạo pháp”.

              
    Đây là sự ngụy biện rất nguy hiểm dễ làm hiểu sai về
    • phật pháp,
    • Phật Giáo chính thống và Phật giáo xã hội chủ nghĩa
    • cũng như vai trò của Thích Trí Quang.
    Vấn đề là phải làm rõ
    • PHÁP NẠN của Phật giáo Việt Nam là gì,
    • thật sự xảy ra từ lúc nào?
    • Vai trò và hành xử của Trí Quang trong từng giai đoạn đó như thế nào?


    Trong 96 năm tại thế (xin phép không dùng thuật ngữ phật giáo với ông Trí Quang vì e rằng như thế sẽ đánh đồng, xúc phạm các nhà xuất gia chân chính) Trí Quang có hai thái độ khác nhau rõ rệt, tương phản như trắng với đen là
    • nhập thế từ nhỏ đến năm 1975
      và xuất thế từ 1975 đến chết.

    Cả hai thái độ đó là theo Khổng giáo chứ không theo Phật giáo. Từ nhỏ, Trí Quang đã xuất gia
    • nhưng không phải để đi tu thoát tục
      mà chỉ là cách, phương tiện lập thân.
    Sau khi xuất gia, Trí Quan thoát ly theo kháng chiến và sau đó quay lại với chùa chiền để học hành tiến thân.
    • Trí Quang là lãnh tụ của phong trào Phật giáo đấu tranh chống Ngô Đình Diệm
      và sau đó là cuộc biến loạn miền Trung đưa bàn thờ Phật xuống đường, lôi kéo quân đội ly khai gây ra cái chết bao nhiêu người.
    Những việc ấy không giới luật nào cho phép và hoàn toàn trái với đạo từ bi của Đức Phật,




    PHÁP NẠN 1963 là sản phẩm của Trí Quang

    Điều này không phải suy đoán mà thể hiện rõ trong Tiểu sử tự ghi của ông.
    • “Tôi đi, vào Ất Mùi 2499 (1955), nhận chức vụ Hội Trưởng Tổng Trị Sự Hội Phật Học, vận động đổi tên Phật Học ra Phật Giáo, đưa Tổng Hội Phật Giáo VN vào đặt trụ sở ở Sài Gòn. Rồi nghỉ việc cho đến Quí Mão 2507 (1963) nhận lại chức vụ nói trên. Với chức vụ này, Phật Đản năm ấy tôi phát động, và chung sức lãnh đạo, việc chống chế độ Ngô Đình Diệm”.{1}


    Từ ngôn ngữ của Trí Quang lịch sử Việt Nam đã xuất hiện khái niệm “Pháp nạn Phật giáo Việt Nam” do sự đàn áp của chính quyền Ngô Đình Diệm.
    Thật sự cái Pháp nạn đó là gì?
    Chính Trí Quang “ra cáo trạng” như sau:
    • “Ông Ngô Đình Diệm muốn Thiên Chúa Giáo của ông độc tôn, muốn anh của ông là Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục làm Hồng Y giáo chủ, nên ông kỳ thị đàn áp Phật Giáo.
    • Ấp chiến lược chỗ thì rào chùa vào trong để hạn chế đi lại, chỗ thì rào chùa ra ngoài để tự do bắn phá.
    • Khu trù mật thì bắt cán bộ cơ sở của Phật Giáo phá nhà bỏ của mà đi.
    • Quân dịch thì bắt Tăng sĩ Phật Giáo làm những chức vụ nguy hiểm mà vô quyền, để tu sĩ Thiên Chúa ra mà nắm quyền chỉ huy ngay từ hạ tầng.
    • Giải thưởng văn chương thì thưởng cho cuốn văn chương bình dân nội dung cốt chống Phật Giáo.
    • Chương trình tú tài C thì đổi toàn lý thuyết thượng đế và nhân vị, lại thêm một bằng ban D với cổ ngữ La Tinh.
    • Sát hại Phật tử thì có tập thể lên đến 36 người ở một nơi cùng một lúc, không còn lẻ tẻ nữa.
    • Cả gan hủy bỏ ngày Phật Đản trong danh sách ngày lễ được nghỉ của công tư chức, và danh sách này bao giờ Thiên Chúa Giáo cũng gấp đôi Phật Giáo cả ngày và giờ nghỉ.
    • Dụ số 10 được thêm dụ bổ túc, tăng cường sự hạ giá và kềm chế đối với Phật Giáo….”.{1}


    Những cáo buộc của Trí Quang phần lớn là quy chụp và mơ hồ. Ông Diệm là giáo dân, ông Ngô Đình Thục là giám mục Công Giáo sự ưu đãi với Công Giáo trong thời này là có thực nhưng có đến mức bức hại Phật Giáo hay không thì cần xem xét.

    Về sự ưu tiên sử dụng sĩ quan công giáo theo lập luận của Trí Quang là không có chứng cứ, ngược lại đa số tướng lĩnh thời ông Diệm từ Dương Văn Minh, Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh, Đỗ Cao Trí, Tôn Thất Đính….đều là phật tử. Trong chính phủ từ Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ, Bộ trưởng Ngoại giao Vũ Văn Mẫu, Bộ trưởng Nội Vụ Trần Thiện Thành, Lâm Lễ Trinh, Giám Đốc An ninh Quân đội Đỗ Mậu và cả chánh văn phòng lẫn võ phòng Tổng thống….cũng đều là phật tử

    Chùa tăng hơn 2000, trường rộng khắp: Có phải là PHÁP NẠN

    Việc hủy bỏ ngày Phật Đản là ngày lễ với công chức thì thử hỏi từ sau năm 1975 đến nay có năm nào công chức được nghĩ lễ ngày Phật Đản không? Về việc ông Diệm duy trì Dụ số 10 có từ thời vua Bảo Đại xem Phật Giáo như các đoàn thể khác trong quản lý về tài sản đất đai. nhưng số lượng chùa chiền ở Miền Nam thời Pháp thuộc là 2.200 ngôi, thời Ngô Đình Diệm tăng lên đến 4.700 ngôi (theo Đoàn Thêm và cư sĩ Mai Thọ Truyền). Theo Đỗ Mậu, thời kỳ này hàng trăm trường trung tiểu học Bồ Đề của Phật giáo cũng được thành lập khắp miền Nam đáp ứng cho gần 20% số học sinh.

    Hệ thống Phật giáo hoạt động tự do độc lập hoàn toàn vơi chính quyền không trực thuộc một tổ chức đoàn thể nào. Chính quyền cũng không can thiệp vào việc phong phẩm tước, bổ nhiệm trụ trì các chùa chiền. Ngay cao điểm xung đột Phật giáo lập ra tổ chức Ủy Ban liên phái thì chính quyền cũng tổ chức Ủy Ban Liên Bộ do Phó Thủ Tướng Nguyễn Ngọc Thơ, Bộ trưởng Vũ Văn Mẫu cùng hội nghị bình đẳng với nhau để đưa ra một tuyên bố chung gữa hai bên. Chính quyền ngồi đàm phán ngang bằng với để ra thông báo chung là điều hiếm thấy trong lịch sử.

    Việc chính quyền Thừa Thiên - Huế cấm treo cờ ngoài đường trong ngày Phật Đản có thể là sự thiếu tôn trọng với nghi lễ của người dân nhưng vẫn chưa phải là sự xâm phạm đến Phật Pháp vì chân lý tối cao của Phật là cái không trống rỗng, ngay thân xác của người cũng là không thì lá cờ có nghĩa gì? Và cũng đặt thêm câu hỏi là từ sau 1975 đến nay, có khi nào cờ Phật giáo được treo ngoài đường trừ những đại lễ Verak Phật Giáo để tuyên truyền chính trị và quảng bá cho các khu du lịch tâm linh nghìn tỉ của các đại gia?

    Vụ nổ làm chết 8 người trước Đài Phát Thanh Huế năm 1963 đến nay vẫn chưa xác định được kẻ thủ ác nhưng vụ biểu tình trước Đài Phát Thanh để đòi phát băng thuyết giảng của Thích Trí Quang dẫn đến xô xát và vụ nổ này thì đích thị là do Trí Quang chủ xướng. Từ sau 1975 đến nay có khi nào công chúng được nghe đài phát thanh phát lời thuyết giảng của chư tăng?

    Những biến cố tiếp theo đó là những kịch bản tấn công chính quyền tăng dần phù hợp với chiến thuật ba mủi giáp công “chính trị, binh vận, và quân sự” của cộng sản ở Miền Nam mà đỉnh cao là việc phát động phật tử đưa bàn thờ Phật xuống đường trong cuộc biến động miền Trung do Trí Quang cầm trịch.

    Nhìn lại một cách công bằng, trong thời TT Ngô Đình Diệm, có mức độ không công bằng nào đó giữa Phật Giáo và Công Giáo nhưng chưa có hành vi can thiệp vào hệ thống Phật Giáo để gọi là Bức Hại-Pháp Nạn. Những thuật ngữ này được tạo dựng và tuyên truyền thổi phồng lên như một phiên bản của khái niệm Mỹ Ngụy đang áp bức bóc lột nhân dân Miền Nam, phải đứng lên giải phóng. Chính Trí Quang đã kích động, gây ra xung đột và trở thành thủ lĩnh Phật Giáo Đấu Tranh, một quyền lực đối trọng với chính quy

    Quyền lực và vị thế của Trí Quang vẫn còn nguyên vẹn ngay trước ngày 30-4. Chính trong hồi ký của mình Trí Quang tự hào việc có người vận động ông ủng hộ cho Dương Văn Minh làm Tổng Thống và ông đã đồng ý.




    Chiếm trường, cô nhi viên,
    … giam sư:
    có phải là PHÁP NẠN?


    Một thực tế kinh hoàng là sau 1975, Phật Giáo Việt Nam rơi vào cơn đại nạn.
    • Trường Đại Học Vạn Hạnh (thuộc phe Ấn Quang của chính Trí Quang
      và Đại Học Phương Nam (thuộc phe Việt Nam Quốc Tự của Thượng tọa Thích Tâm Châu)
      và toàn bộ hệ thống các trường Phật học, trường Bồ Đề trên cả miền Nam bị đóng cửa, cơ sở vật chất bị tịch thu.

    “Ngay sau tháng 4-1975 chính quyền tổ chức các chiến dịch đàn áp và khủng bố tinh thần.
    • Tượng Phật nhiều nơi bị đập phá.
    • Các cơ sở từ thiện Phật giáo, chẳng hạn Cô nhi viện Quách Thị Trang (Sài Gòn) và nhiều phòng phát thuốc miễn phí tại nhiều địa phương, bị tịch thu.
    • Các nhà ấn loát thuộc quản lý Phật giáo bị đóng cửa.
    • Viện Đại Học Vạn Hạnh bị dẹp.
    • Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội bị ngưng hoạt động.
    • Ủy ban Tái thiết và Phát triển Phật giáo bị giải tán, ngân quỹ bị tịch thu.
    • Tu sĩ bị ép lên khu “kinh tế mới”.
    • Thậm chí Thủ tướng Phạm Văn Đồng còn ký một quyết định yêu cầu nam tu sĩ (18-25 tuổi) phải đi “nghĩa vụ quân sự” (Quyết định số 310/TTG ngày 22-7-1976).
    • Nhiều chùa được yêu cầu treo hình ông Hồ Chí Minh.
    • Trong một số trường hợp, tu sĩ bị triệt luôn đường sống.
      • “Thí dụ tại Long Thành một số tăng sĩ năm 1975 đã trồng tiêu và họ đã bán mùa tiêu trong năm đó được 2 triệu đồng. Chính phủ đánh thuế 1 triệu 9 trăm ngàn đồng.
      • Một số các tu sĩ khác làm mía năm 1976. Họ bán vụ mía được 300.000 đồng, và bị đánh thuế là 300.000 đồng” – theo “Lời kêu gọi bảo vệ nhân quyền” của Viện Hóa đạo, ngày 9-6-1977

    (Nguồn: “Phật Giáo Việt Nam, Biến Cố và Tư Liệu: Hai Mươi Năm Trong Chế Ðộ Cộng Sản, 1975-1995”, Văn Phòng II Viện Hóa Ðạo, Hoa Kỳ, 1996)


    Những vụ tự thiêu trước 1975 đươc Trí Quang phát động và báo chí loan truyền ầm ỉ
    nhưng sau 1975 những cuộc tự thiêu, thảm sát kinh hoàng lại chìm trong im lặng.

    “ngày 2-11-1975 (ngày 29 tháng 9 Ất Mão), 12 vị tăng ni, với người đứng đầu là thầy trụ trì-Đại đức Thích Huệ Hiền, thuộc Thiền viện Dược Sư (ấp Tân Long A, xã Tân Bình, huyện Phụng Hiệp, Cần Thơ) đã thực hiện một cuộc tự thiêu tập thể!

    Trong Bản tuyên bố, 12 vị tăng ni nêu:
    • “Chúng tôi sắp sửa thể hiện việc thiêu thân để bảo toàn chánh pháp, để bảo vệ danh nghĩa của giới Tăng sĩ tại địa phương cũng như toàn quốc…

      Hành động của chúng tôi ngày hôm nay là cốt đem tấm nhục thân này làm bó đuốc soi sáng cho những người mê muội vô ý thức, những người với lòng lang dạ thú”…


    Năm 1977, hàng loạt nhân vật nòng cốt của GHPGVNTN bị bắt:
    • Hòa thượng Thích Huyền Quang – Phó Viện Trưởng Viện Hóa Đạo;
      Hòa thượng Thích Quảng Độ – Tổng thư ký Viện Hóa Đạo;
      Hòa thượng Thích Thuyền Ấn – Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Hoằng Pháp;
      Thượng tọa Thích Thông Bửu – Quyền Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Cư Sĩ;
      Thượng tọa Thích Thông Huệ – Chánh Đại diện GHPGVNTN Quận Gò Vấp kiêm Trưởng ban kinh tế tự túc Tăng Ni;
      và Thượng tọa Thích Thanh Thế, Trưởng ban thanh tra Ban kinh tế tự túc Tăng Ni.

    Riêng Hòa thượng Thích Thiện Minh (cố vấn Hội đồng Viện Hóa Đạo) – một gương mặt rất “cứng đầu”,
    • sau khi yêu cầu các chùa không được “chứa chấp” khiến ông lang thang hết nơi này đến nơi khác, ngày 13-4-1978, nhà cầm quyền bắt ông.
      Ban đầu ông bị giam ở số 4 Phan Đăng Lưu (Bình Thạnh) rồi sau đó được đưa qua Chí Hòa.
      Tại đây, ông bị tra tấn cho đến chết chỉ vài tháng sau. Thi thể ông được bí mật đưa đến trại cải tạo Hàm Tân {2}






    Biến Đạo giải thoát thành công cụ của đảng:
    có phải là Pháp Nạn?


    Sau những cuộc đàn áp bạo lực là chuổi thủ đoạn vận động, chia tác, cưởng ép, mua chuộc để ra đời một giáo hội Phật giáo Việt Nam quốc doanh năm 1981. Với giáo hội này, các chức sắc, giáo phẩm và hệ thống tổ chức đều đươc đảng xét duyệt chuẩn y. Trong đó, điều 7 của Hiến chương của giáo hội quốc doanh ghi nhận:
    • "Giáo hội Phật giáo Việt Nam hoạt động theo đúng Giáo pháp, Giáo luật Phật chế và Pháp luật của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Giáo hội Phật giáo Việt Nam là tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam".{3}


    Điều đó, tệ hơn dụ số 10 của Bảo Đại nhiều lần, Phật Giáo không còn là tổ chức độc lập mà chỉ là thành viên của Mặt trận, một tổ chức ngoại vi của đảng cộng sản. Con đường Trung Đạo theo triết lý của Phật Giáo hoàn toàn bị triệt tiêu từ tư tưởng đến tổ chức. Tiếp theo đó, các quy đinh của luật pháp ràng buộc tổ chức Phật Giáo về mặt nhà nước trực thuộc Ban Tôn Giáo chính phủ từ trung ương đến địa phương.

    Theo hồi ký của Đỗ Trung Hiếu, nguyên là phật tử theo cộng sản và được phân công làm “kiến trúc sư” cho cuộc vận động này thì phương án đầu tiên do Trần Xuân Bách chủ xướng là sẽ áp dụng ở Miền Nam theo mô hình ở Miền Bắc trước 1975, tức là dẹp hết hệ thống chùa chiền cấp cơ sở chỉ để lại vài cán bộ làm sư cấp tỉnh và trung ương. Giữ đươc mô hình Phật Giáo Quốc doanh 1981 là do Đỗ Trung Hiếu thuyết phục được Trần Quốc Hoàng nguyên Bộ trưởng Nội Vụ bị thất sủng chuyển sang làm Trưởng Ban Dân Vận. Điều mà Trần Quốc Hoàng và Nguyễn Văn Linh tâm đắc để giữ lại hình hài Phật Giáo vì đây là công cụ, phương tiện nắm quần chúng tốt nhất.





    Đạo giải thoát bị biên thành công cụ nắm người

    Từ một giao lý, đạo pháp nhằm giải thoát con người qua sự tỉnh thức giác ngộ luật vô thường, vun đắp tâm từ bi, Giáo Hội Phật Giáo Quốc Doanh biến mình thành nô lệ thành công cụ của chính quyền chuyên chế độc tài thì có còn PHÁP NẠN nào lớn hơn cần phải giải cứu, còn có sự suy đồi nào lớn hơn cần phải CHẤN HƯNG.

    Tệ hại hơn nữa là gần đây hình thành một xu thế mới, sự cấu kết
    • giữa chính quyền, những cán bộ được phân công làm sư
      và các đại gia địa ốc, những phù thủy lưu manh,
    đã nở rộ lên phong trào xây chùa to, phật lớn diện tích hàng chục hàng trăm, hàng ngàn ha để kinh doanh tâm linh, áp vong, bán phước, cho thuê nơi đặt hài cốt, linh vị, …. Những ngôi chùa ấy đã bào mòn tài nguyên thiên nhiên môi trường, bòn rút ngân sách quốc gia lẫn tiền bạc của người mê tín để làm giàu cho những kẻ giả danh. Những cái tên
    Trúc Lâm,
    Bái Đính,
    Ba Vàng,
    Tam Chúc
    sẽ lưu danh vào lịch sử như một tội ác của phật giáo quốc doanh.

    Song song với bành trướng những công trình kinh doanh tâm linh chính quyền lại thẳng tay giải tỏa, dùng xe ủi, xe xúc
    san bằng chùa Liên Trì ở Thủ Thiêm,
    chùa An Cư ở Đà Nẵng

              
    mặc cho cộng đồng tôn giáo trong ngoài nước lên tiếng kêu gọi, can ngăn. Hành vi phá sập cào bằng chùa chiền này chỉ có thể so sánh với tập đoàn tội ác Pol Pot khác chăng là Pol Pot đóng cửa tự làm trong phạm vi quốc gia còn cộng sản Việt Nam làm công khai trước dư luận quốc tế.





    Phật Giáo bị bức tử: Trí Quang viết sách kể công xưa

    Tiến sĩ Thái Kim Lan cho rằng
    • "Tôi nghĩ Hòa thượng Thích Trí Quang trong hoạt động về mặt xã hội cũng như văn hóa đối với xã hội, đối với lịch sử, đối với Phật tử chúng tôi, ngài Thích Trí Quang là vị đã cứu độ Phật giáo, cứu độ người Phật tử, ông luôn luôn bảo vệ đời sống của người Phật tử bằng sự dấn thân của ông.” {4}
    Theo đúng kiểu nói vo của quan chức cộng sản, bà Thái Kim Lan không chứng minh đươc Trí Quang đã cứu cho Phật Giáo cái gì, cứu ai mà thực tế, sự kích động của Trí Quang trước 1975 là tác nhân ít nhiều dẫn đến
    • cái chết của 8 người trong đêm Phật Đản tang tóc ở Huế
      và cái chết của Thích Quảng Đức cùng nhiều nhà sư khác.


    Sau 1975, trước một chuổi Pháp Nạn đau thương cho đồng đạo, môn đệ, phật tử và cả chúng sanh,
    • bao nhiêu nhà sư đã bị bắt, bị giết trong các nhà tù,
      bao nhiêu phật tử đã bỏ mình trên đường vượt biển,
    tại sao Trí Quang không ra tay cứu độ hay ít nhất cũng một lần lên tiếng.
    • Thượng Tọa Thiện Minh, hòa thượng Không Tánh không xa lạ với Trí Quang nhưng khi Thầy Thiện Minh bị bắt, bị giết Trí Quang vẫn điềm nhiên an trú trong chùa Ấn Quang.
    • Chùa Liên Trì, An Cư bị san bằng thì Trí Quang vẫn ung dung dich kinh sách ở chùa Từ Đàm vừa mới trùng tu trăm ngang ngàn dọc cột gổ quý bóng ngời,


    Thái Kim Lan cho rằng Trí Quang đã
    • “Theo Phật đến từng lời một, không đi sai, không đi ra ngoài, luôn luôn bảo vệ Chánh pháp, ngay cả sự im lặng của ngài cũng chính là một cách bảo vệ Chánh pháp!”{4}
    Thái Kim Lan nguy biện cho rằng Trí Quang sống khổ hạnh, không có chùa riêng, không có tăng đoàn riêng, …thô bỉ hơn còn đem so sánh Trí Quang với Gandhi. Đó là sự báng bổ và dối trá. Sau 1975, Trí Quang sống ở chùa Ấn Quang, sau đó về chùa Từ Đàm những “thủ phủ” của Phật Giáo Quốc Doanh to rộng xênh xang không kém Đại Nội ngày xưa. Trụ trì các chùa ấy liệu quyền lực có lớn hơn Trí Quang không, tăng chúng trong chùa ấy dám mạo phạm trái ý Trí Quang không?





    Trí Quan không im lặng.

    Trí Quang không nói nhưng viết sách và đươc Đảng cho in sách. Trong khi, không thiếu những phật tử, những người từng bị Trí Quang hay ai đó kích động lừa mị theo ảo tưởng đã tỉnh ngộ đã phản tỉnh, sám hối đã lên tiếng phản biện với chính quyền như Lê Hiếu Đằng, Huỳnh Tấn Mẫm…. Trí Quang viết hồi ký và đươc chính quyền cộng sản cho in công khai. Hồi ký của Trí Quang một lần lữa kể công kích động phật tử và dư luận xã hội chống lại, làm suy yếu chế độ VNCH.

    Trong chế độ cộng sản, việc in, xuất bản Hồi Ký của các nhân vật lịch sử được cân đo đong đếm tới từng hạt bụi.
    • Trần Văn Giàu cựu Bí Thư Xứ Ủy Nam Kỳ, giải thưởng Hồ Chí Minh, Nhà Giáo Nhân Dân… đủ loại danh hiệu đã chết từ nhiều năm qua nhưng Hồi Ký Một đoạn đời của ông chỉ mới đươc đăng ở trang web Việt-studies, Diễn đàn….
                
    • Hồ Ngọc Nhuận, Phó Chủ Tịch MTTQ TP.HCM về mặt chức vụ cao hơn Trí Quang nhiều nhưng bản thảo hồi ký Đời của ông ta chỉ lần quẩn từ bàn cán bộ biên tập đến giỏ rác mà có lẽ mãi mãi không được in.
                
    • Ấy vậy mà Hồi Ký Trí Quang Tư Truyện đươc NXB TH TPHCM in phát hành từ năm 2011 và đươc các báo, website trong nước trích đăng, giới thiệu. Điều ấy chứng tỏ tính đảng trong hồi ký Trí Quang cao hơn tính đảng trong hồi ký Trần Văn Giàu hay nói cách khác, đảng tin Trí Quang hơn cựu Bí Thư Xứ Ủy Nam Kỳ.






    Quảng Độ dịch kinh trong tù, Trí Quang trong phòng lạnh,

    Cũng tương tự, Trí Quang dịch 18 bản kinh Đại Thừa, năm bản trong Luật tạng và năm bản Luận tạng, cùng nhiều trong phòng máy lạnh là chính đạo nên đươc Nhà Xuất Bản Tôn giáo in và các trang web tha hồ trích dịch tự do như các văn kiện của Đảng.
    Ngược lại, thầy Quảng Độ dịch Từ điển Phật học Hán Việt (2 tập) Phật Quang Đại Từ điển (9 tập) cực kỳ công phu và mãi giữ trong ngăn kéo. Dù là Từ Điển nhưng chắc là không bao giờ được in
              
    Chiến tranh và bất bạo động trong nhà giam là tà đạo ư?
    Việc ngoan ngoãn dịch kinh sách của Trí Quang cũng chính là tấm bình phong tốt, là điển hình tốt cho bộ máy tuyên truyền của Phật Giáo Quốc Doanh lừa mị phật tử, nhân sinh nói chung vói ý là.
    Thầy Trí Quang vẫn ngồi đây. Đây là chính đạo.

              
    Không phải là công an và không cần truy lý lịch Trí Quang thuộc phe nào nhưng có thể thấy từ thực tế,



              
    tất cả hành động, thái độ của Trí Quang
    từ trước và sau 1975
    đều có lợi cho chính quyền cộng sản.


    Ngược lại,
    chính quyền Cộng Sản cũng đã dành cho Trí Quang
    không ít ưu quyền công khai mà ai cũng thấy.



    Đây là sự thật không thể lầm lẫn
    về việc nhập thế, xuất thế của Trí Quang.

              













    https://www.rfavietnam.com/node/5809
              
Ngoc Han
Bài viết: 1577
Ngày tham gia: Thứ tư 20/05/15 14:24

Re: Thích Trí Quang

Bài viết bởi Ngoc Han »

Ngoài Hoà Thượng Thích Trí Quang còn có những người thân cộng như:
Hoà Thượng Thích Nhất Hạnh, Trịnh Công Sơn, Phạm Thế Mỹ (nhạc sĩ) và một ít Linh Mục, vụ đảo chánh năm 1963, chính các nhân vật cao cấp miền Bắc đã thố lộ là giúp miền Bắc đở tốn công sức 10 năm để chiếm miền Nam. :sad3:
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Thích Trí Quang

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           


    TCS (Huế) thì có thể nói là "thân cộng",
    còn "nằm vùng hoạt động" thì có Phạm Thế Mỹ (Bình Định), Nguyễn hữu Thiết (Ngọc Cẩm) (Phan Thiết)...vv ...

    Còn đám "Thích gian xảo" thì nhiều như cỏ dại, chỉ cần không có tính người thì đầu quân cho ma vương.
    Bây giờ, chùa mọc lên như nấm ở những những nước giàu có (Mỹ, Úc .. vv ..) để các "Thích lưu manh", "Thích trục lợi" ngồi nhà mát ăn bát vàng, lừa lòng tin đơn thuần của bá tánh, của các chính quyền tự do tiên tiến, mà gom tiền, rửa tiền, làm kinh tài cho đại gia đỏ, cho thế giới đỏ ...


    :sad2:
              
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Thích Trí Quang

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           







    Viên tịch hay Đền tội ?
    _________________________
    Bằng Phong Đặng Văn Âu _ 12/11/2019












    Hồ Chí Minh là con quỷ; chứ không phải người!

    Bà Nguyễn thị Năm, ngoại hiệu Cát Hanh Long, là ân nhân của đảng Cộng sản Việt Nam. Bà cống hiến vàng bạc, nuôi dưỡng và che giấu Hồ Chí Minh cùng tập đoàn cán bộ cao cấp. Hồ Chí Minh luôn mồm bày tỏ lòng biết ơn của bà đối với Cách Mạng.

    Nhưng đến năm 1953, Hồ Chí Minh chuẩn bị dư luận để giết bà Nguyễn thị Năm một cách danh chính ngôn thuận bằng bài báo “Địa Chủ Ác Ghê” ký tên CB đăng trên tờ Nhân Dân, cơ quan ngôn luận chính thức của Đảng.

    Hồ Chí Minh dùng bao vải bọc bộ râu, Trường Chinh mang kính đen để không ai nhận ra mình ngồi chứng kiến cuộc đấu tố bà Nguyễn thị Năm. Sau khi bắn bà Nguyễn thị Năm, đội Cải cách ném xác bà vào hòm bằng gỗ tạp. Khổ người của bà cao lớn, chiều dài chiếc hòm không vừa, nên đội Cải cách phải dùng chân để đạp xác bà xuống. Hồ Chí Minh và Trường Chinh đều nghe tiếng xương gẫy kêu răn rắc, nhưng nét mặt vẫn thản nhiên, bình an. (Đó là lời tường thuật của Trần Đĩnh, một cán bộ cộng sản, trong cuốn Đèn Cù; chứ không phải từ một nhà văn phía Mỹ Ngụy).

    Chỉ có loài QUỶ SỨ mới thản nhiên ngồi chứng kiến cái chết của một người phụ nữ yêu nước, lại là ân nhân của mình như bọn Việt Cộng mà thôi!

    Năm 1969, sau Tết Mậu thân một năm, Hồ Chí Minh chết già (79 tuổi). Báo chí Miền Nam hân hoan loan tin: Hồ Chí Minh đã đền tội! Vì Hồ Chí Minh đã gây nhiều tội ác, như phát động chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất long trời lở đất năm 1952, như đọc hiệu lệnh để quân đội Việt Cộng (năm 1968) thảm sát đồng bào vô tội trên cả nước. Kẻ gây ra tội ác, khi chết, dù không bị hành quyết vẫn bị gọi là ĐỀN TỘI, giống như con cái của những nạn nhân Trung Hoa bị thảm sát trong cuộc Cách Mạng Văn Hóa vui mừng khi nghe tin Mao Trạch Đồng đền tội, dù hắn bị chết già!

    Trong lúc đó, nhà Toán học (!) Hồ Hữu Tường, nguyên cố vấn chính trị của Bình Xuyên, đương kim Dân biểu Quốc Hội Lập Pháp Việt Nam Cộng Hòa vận động một phái đoàn Quốc Hội ra Bắc đi phúng điếu Hồ Chí Minh. Lúc bấy giờ chưa có Internet, tôi chỉ viết cho Hồ Hữu Tường mấy chữ: Đồ có học mà ngu!

    Hòa thượng Trí Quang mới chết, tôi đọc thấy tin tức trên mạng: Hòa Thượng Trí Quang Viên Tịch.

    Một độc giả viết email cho tôi, hỏi thiên hạ dùng chữ Viên Tịch có đúng không?
    Tôi trả lời đúng và không đúng!

    Nếu người nào đứng về phía Chống Mỹ Cứu Nước như các ông Trần Kiêm Đoàn, Tạ văn Tài, Ngô Trọng Anh, Cao Huy Thuần thì đúng!

    Còn đối với tôi, Trí Quang không phải là nhà sư, Trí Quang là công cụ của Việt Cộng. Dưới đây là những sự kiện đã xảy ra trong quá khứ:

    Tổng thống Ngô Đình Diệm không đàn áp Phật giáo như Trí Quang vu khống. Dưới chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa, các Bộ trưởng, các Tướng lãnh đa số là Phật Giáo.
    • Đỗ Mậu là Giám đốc An Ninh Quân Đội là Phật giáo.
    • Đại tá Nguyễn văn Y là Giám đốc Cảnh sát Quốc gia kiêm Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình báo là Phật giáo.
    • Thiếu tướng (năm 1963) Trần Thiện Khiêm là Tổng Tham mưu trưởng là Phật giáo.

    Những vị trí đứng đầu ngành An Ninh Quốc Gia và Quân Đội đều là Phật giáo thì Tổng thống Ngô Đình Diệm làm thế nào để sai khiến họ đàn áp Phật giáo?

    Dưới chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa, các Chùa bị hư nát do chiến tranh đều được trùng tu, các trường Bồ Đề của Phật giáo mọc ra như nấm, các khuôn hội của Phật giáo cũng mọc ra như nầm. Nếu bảo Tổng thống Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo, xin hỏi làm sao có hiện tượng Phật giáo được phát triển “hoành tráng” (chữ của Việt Cộng) đến như thế?

    Nếu chế độ Đệ Nhất Công Hòa đàn áp tôn giáo thì làm sao những Trần Quang Thuận, Pháp danh Trí Không (tức là chú tiểu không có trí, về sau đổi pháp danh sang Tâm Đức), Nhất Hạnh cũng được Tổng thống Ngô Đình Diệm dành đặc ân cho đi du học? Xin hỏi cụ Huỳnh văn Lang, Chủ tịch Viện Hối Đoái thời Đệ I VNCH thì sẽ rõ. Tổng thống Diệm muốn Phật giáo được chấn hưng, nên cho nhiều tu sĩ đi du học để Phật Giáo không bị cộng sản dụ dỗ. Không ngờ các tu sĩ Phật giáo du học ngoại quốc đều theo cộng sản!

    Năm 1963, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã nhượng bộ các đòi hỏi của phe “Tranh đấu Phật giáo” tối đa, nhưng Trí Quang nhất định không thỏa mãn. Ở Huế, ai cũng biết ông Cố vấn Ngô Đình Cẩn đều có cuộc uống trà mạn đàm hàng tuần với Trí Quang. Ông Cẩn rất quý trọng Trí Quang. Lần nào Võ Đình Cường bị Công An Trung Phần bắt, Trí Quang nhờ ông Cẩn can thiệp thì Võ Đình Cường đều được thả.

    Sau năm 1975, Võ Đình Cường hiện nguyên hình là cán bộ cao cấp Việt Cộng, đặc trách trí vận và tôn giáo vận. Lúc chết, Võ Đình Cường được Trần Kiêm Đoàn viết bài tưởng niệm! Tôi viết thư hỏi ông Trần Kiêm Đoàn tại sao lại tưởng niệm một tên Việt Cộng? Ông Trần Kiêm Đoàn không trả lời.

    Sau khi Tổng thống Ngô Đình Diệm và bào đệ Ngô Đình Nhu bị giết một cách dã man trong thùng xe thiết giáp M – 113, ông Cẩn bị dẫn độ từ Huế vào Sài Gòn để chịu tội. Tòa tuyên án tử hình trong lúc ông Cẩn sắp chết vì bệnh tiểu đường lâu năm. Luật sư bào chữa cho ông Cẩn đệ đơn xin Quốc trưởng Nguyễn Khánh ban lệnh ân xá, nhưng Tướng Nguyễn Khánh sợ uy thế của Trí Quang, nên bác đơn. Trong các nước văn minh, một khi phạm nhân bị trọng bệnh sắp chết thì không bị chịu án tử hình. Do đó, dư luận Quốc tế đánh giá dân Việt Nam man rợ. Còn Tổng thống Lyndon Johnson thì gọi Tướng lãnh Việt Nam là một lũ côn đồ (Thug).

    Nếu Tổng thống Ngô Đình Diệm thật sự là một tội đồ, một nhà độc tài khát máu như sự vu khống của phe “Tranh Đấu” (tôi để hai chữ tranh đấu trong ngoặc kép để người đọc hiểu đó là Trâu Đánh), thì tại sao không có ông Tướng nào dám nhận mình là người đã ra lệnh giết hai anh em ông để được mang danh hiệu “Tổ Quốc Ghi Ơn”?

    Giáo sư Phan Quang Đông chỉ lo công tác gửi Biệt kích ra Bắc, không dính dáng đến cái gọi là đàn áp Phật giáo, bị Tòa Án Đặc Biệt Mặt Trận bắt, tuyên án tử hình. Vợ của Giáo sư Phan Quang Đông là Nguyễn thị Toan, học lớp Đệ Nhất C1 Quốc Học, (tôi học lớp Đệ Nhất B2 cùng năm), chạy lên Chùa van lạy Thầy Trí Quang can thiệp cho chồng, nhưng Thầy Trí Quang lạnh lùng đáp: “Thầy chỉ lo việc Tôn giáo, nên Thầy không dính dáng đến Chính trị”. Quý vị có thấy miệng lưỡi Trí Quang là nhà sư đạo cao đức trọng (!) mà lém lỉnh hơn Việt Cộng không?

    Chẳng biết chị Nguyễn thị Toan và con cái giờ này ở đâu? Chúng tôi quá đau xót cho thân phận người phụ nữ hết sức hiền lành mà có chồng bị quỷ dữ ra tay giết hại.

    Giáo sư Phan Quang Đông, người cùng quê Nghệ An với tôi, có cha và mẹ bị Việt Cộng đấu tố chết thảm khốc. Vì thù nhà, Giáo sư Phan Quang Đông nhận lời ông Cố vấn Ngô Đình Cẩn đảm nhiệm công tác thả Biệt Kich ra Bắc, rồi cuối cùng mối thù nhà chưa trả được, thì bị chết dưới bàn tay của bọn người mang danh nghĩa Quốc Gia. Thử hỏi có nỗi đau đớn nào hơn? Giáo sư Phan Quang Đông bị xử bắn tại sân Vận Đông Huế giữa tiếng reo hò của đồng bào Phật tử của Thầy Trí Quang!

    Khi nghe tin Tổng thống Ngô Đình Diệm bị đảo chánh, Giáo sư Phan Quang Đông mang tất cả hồ sơ bí mật của những Biệt Kích đang hoạt động ở Miền Bắc giao cho Tướng Đỗ Cao Trí, đang là Tư Lệnh Vùng I, vì sợ tài liệu lọt ra ngoài thì nguy hiểm tính mạng của anh em. Nhưng Tướng Đỗ Cao Trí đã giao nạp cho Trí Quang theo sự yêu cầu của nhà sư “Tranh Đấu”! Tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa như thế đấy!

    Chính quyền Tổng thống Ngô Đình Diệm đã đổ. Anh em Tổng thống Ngô Đình Diệm đã chết. Nhưng Thầy Trí Quang vẫn chưa hài lòng. Bất cứ chính quyền nào sau đó, Trí Quang đều kết án là “Chính Quyền Diệm Không Diệm”. Trí Quang đòi hỏi Chính quyền phải là dân sự. Đòi hỏi của Trí Quang được thỏa mãn. Quốc trường Phan Khắc Sửu đạo Cao Đài, Thủ tướng Phan Huy Quát đạo Phật cũng không yên thân với tham vọng của Thầy Trí Quang. Chính phủ Phan Khắc Sửu – Phan Huy Quát sụp đổ, giao lại cho Quân Đội. Các Tướng lãnh đề cử Tướng Nguyễn Cao Kỳ đứng ra thành lập chính phủ. Các chính trị gia, quần chúng cho rằng Chính phủ Nguyễn Cao Kỳ chỉ có khả năng kéo dài ba bảy hăm mốt ngày, vì ông Kỳ còn quá trẻ (mới 35 tuổi), chưa có kinh nghiệm chính trị, lại là một “Playboy”. Không ngờ gặp phải anh Tướng “Cowboy” chịu chơi. Ông Tướng nào kéo quân về Saigon đảo chánh, đều bị Tướng Kỳ dẹp một cách gọn ghẽ.

    Tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư lệnh Vùng I, đã được Tướng Kỳ đề nghị làm Thủ tướng trong cuộc họp Hội đồng Tướng lãnh tại Câu Lạc Bộ Hải Quân ở Bến Bạch Đằng; nhưng không dám nhận, vì sợ tình hình chính trị quá khó khăn. Nhưng sau khi thấy Nguyễn Cao Kỳ bình định một cách dễ dàng, có lẽ Nguyễn Chánh Thi nghĩ rằng Nguyễn Cao Kỳ làm Thủ tướng được thì mình cũng làm được. Trí Quang đọc được tham vọng của Nguyễn Chánh Thi, bèn xúi giục Nguyễn Chánh Thi gây nên cuộc Biến Động Miền Trung.

    Tướng Kỳ gửi Chuẩn tướng Nguyễn văn Chuân ra dẹp, nhưng Tướng Chuân bất lực. Tiếp theo Tướng Kỳ gửi Tướng Huỳnh văn Cao ra dẹp, nhưng cũng dẹp không xong, viện cớ mình là Công Giáo mà dẹp phong trào Phật giáo thì sợ mang tiếng đàn áp Phật Giáo. Tướng Kỳ gửi một vị Tướng Phật Giáo. Đó là Trung tướng Tôn Thất Đính, con cưng của Tổng thống Diệm đảo chánh Tổng thống và được Phật Giáo Tranh Đấu tôn vinh là người anh hùng của Phật Giáo. Nhưng Tướng Đính mới đặt chân đến Huế không bao nhiêu ngày thì nhảy sang phe Phật Giáo Tranh Đấu. Tướng lãnh như thế đấy!

    Sau đó, Tướng Kỳ phải đích thân mang quân ra dẹp cùng với Tướng Tư lệnh Cảnh Sát Nguyễn Ngọc Loan. Thầy Trí Quang kêu gọi đồng bào mang bàn thờ ra đường để cản đường Quân đội dẹp loạn. Trước tình trạng đó, Tướng Loan không biết xử trí ra sao, xin lệnh Tướng Kỳ để giải quyết. Tướng Kỳ bảo Tướng Loan cho xe GMC đến khiêng bàn thờ lên xe và nhớ trước khi khiêng thì bảo lính lạy bàn thờ cho đàng hoàng. Đồng bào thấy bàn thờ quý giá của mình truyền từ đời ông, đời cha, nay bị lính của Tướng Loan hốt, xót của quá, đành tự động bưng bàn thờ vào nhà, không cần đợi lính dẹp.

    Tôi nhớ trong vụ dẹp loạn Miền Trung, tôi có thấy Đại Úy Trần Minh Công tháp tùng Tướng Nguyễn Ngọc Loan. Nếu tôi nhận lầm, xin anh Trần Minh Công cải chính.

    Đại sứ Cabot Lodge kể với Tướng Kỳ, ông hỏi Thầy Trí Quang đòi hạ Nguyễn Cao Kỳ xuống thì Ngài định đưa ai lên. Thầy Trí Quang đáp: “Tôi sẽ đưa Nguyễn Cao Kỳ lên”.

    Kể xong. Đại sứ Cabot Lodge nói với Tướng Kỳ: “Nhà sư của nước ông làm chính trị giễu thật”! Đấy! Trí Quang nói với bà Nguyễn Thị Toan, vợ Giáo sư Phan Quang Đông rằng Ngài “chỉ chuyên lo việc Tôn giáo; chứ không dính vào Chính trị”! Trí Quang tưởng Tướng Kỳ giống như các Tướng khác, dễ khuynh đảo, muốn đưa xuống đưa lên lúc nào cũng được! Nếu không có khả năng dẹp loạn của Tướng Kỳ thì Miền Trung đã mất vào tay Việt Cộng từ năm 1966.

    Nhận thấy không thể gây xáo trộn bằng đảo chánh với ông Tướng “Cowboy” Nguyễn Cao Kỳ, Thầy Trí Quang thay đổi chiến lược, chuyển sang đấu tranh Nghị trường, bằng cách đòi hỏi Tướng Nguyễn Cao Kỳ tổ chức bầu cử để có dân chủ. Trí Quang nghĩ rằng đấu tranh Nghị trường thì Phật giáo Tranh đấu sẽ thắng thế, vì Phật giáo chiếm từ 80% đến 90% dân số thì Thượng Nghị sĩ, Dân biểu thuộc phái Ấn Quang chiếm đa số. Trí Quang tha hồ khuynh đảo cơ quan Lập Pháp!

    Theo tôi, Trí Quang không phải là nhà tranh đấu tài giỏi như tờ báo Times thổi phồng là “Người Làm Người Rung Chuyển Nước Mỹ”. Tất cả những kế hoạch từ cài cắm người đến chiến lược hành động đều do Bộ Chính trị Việt Cộng ở Miền Bắc chỉ đạo. Một phần khác, sở dĩ Trí Quang thành công vì sự phản bội của các chính trị gia xôi thịt và tướng lãnh xôi thịt.

    Sau khi Đất Nước Thống Nhất (nói theo luận điệu Việt Cộng), Tố Hữu tiết lộ với bà con của hắn ở Huế rằng Trí Quang và Võ Đình Cường đều được hắn chấp nhận lời tuyên thệ vào đảng Cộng sản. Nay Tố Hữu đã chết, chẳng biết thực hư thế nào. Tôi chẳng cần đếm xỉa Trí Quang là Quốc Gia hay Cộng Sản. Tôi chỉ xin bạn đọc đánh giá Trí Quang qua hành động của Trí Quang gây tình hình chính trị xáo trộn liên tục, gây nên cuộc Biến Động Miền Trung, vận động quần chúng đòi hòa bình bằng mọi giá, đuổi Mỹ về nước mà không hề đả động đến sự hiện diện của quân xâm lược Miền Bắc, thử hỏi Thầy Trí Quang đứng về phía nào. Nếu đồng bào cho rằng Trí Quang có công tranh đấu bảo vệ Đạo Pháp, xin hỏi suốt hơn 4 thập niên Việt Cộng thống trị, Phật Giáo bị bọn cầm quyền bắt buộc Quốc Doanh, Tượng Hồ Chính Minh đưa vào Chùa ngồi ngang với Phật, thì Đạo Pháp có còn không? Cái luận điệu bảo vệ Đạo Pháp là bịp bợm, giống như Kháng Chiến Phục Quốc của Hoàng Cơ Minh là bịp. Chỉ có kẻ nào ngu mới tin thôi!

    Chúng ta đang sống trong thời đại Quỷ Sứ ngự trị. Đạo lý đảo lộn, tất nhiên ngôn ngữ cũng đảo lộn. Thiện thành Ác. Chánh thành Tà.

    Hồ Chí Minh được phong là Cha Già Dân Tộc, cái xác khô được nằm trong lồng kính ở Quãng trường Ba Đình.

    Nhà Yêu Nước Ngô Đình Diệm bị gọi là tội đồ, độc tài khát máu. Không được dựng bia để ghi phương danh Tổng thống và mộ phần bị nằm ở một góc nghĩa địa tại Bình Dương.

    Sự đảo ngược như vậy thì những từ ngữ VIÊN TỊCH hay ĐỀN TỘI còn có nghĩa gì đâu? Chúng ta đang sống trong thời đại của QỦY SỨ thì chỉ có đạo lý của ĐỊA NGỤC mà thôi!

    Khi xưa, tôi thấy Nhà Toán Học Hồ Hữu Tường yêu cầu lập phái đoàn Dân Cử ra Bắc phúng điếu Hồ Chí Minh là một thằng ngu. Và ngày nay những nhà trí thức viết sách bào chữa cho rằng Trí Quang không phải là Việt Cộng cũng là những thằng ngu. Hòa thượng Thích Tâm Châu là người sáng suốt, vì Ngài ghi trong Hồi Ký khẳng định Trí Quang là Việt Cộng.

    Nếu có dư luận viên nào viết hỗn láo với tôi sau khi đọc bài nay, thì tôi biết ngay chúng nó là Việt Cộng!








    Bằng Phong Đặng văn Âu
    10200 Bolsa Avenue, Westminster, CA. 92683 – USA
    [email protected]
    714–276–5600


    https://www.bacaytruc.com/index.php/543 ... -ng-van-au
Trả lời

Quay về “Tội đồ”