Trần mộng Tú

Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5388
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: Trần mộng Tú

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           

    Dòng suối Đa Mê và chim Humming Bird




    Ghi dấu 56 năm ra đi của nhà văn Nhất Linh

    Buổi chiều tháng 6. Tôi đứng trong nhà nhìn qua khung cửa sổ, cái vườn bậc thang dựng trên một con dốc thoai thoải. Mỗi bậc trồng một loại hoa khác nhau. Tháng này hoa Mẫu Đơn (Peony) đang thi nhau nở, cái lộng lẫy của Mẫu Đơn làm những loại hoa khác như chìm đi. Có một con chim Humming Bird từ đâu bay tới, nó đập cánh xoay tròn chung quanh bông Mẫu Đơn, cứ xoay hoài mà không đậu lại. Tôi chưa nhìn thấy con chim này đậu bao giờ. Hình như loại chim này không biết đậu và không biết mỏi cánh.

    Con chim này làm tôi nghĩ đến những con người dành cả cuộc đời mình cho một lý tưởng, một đam mê nào đó, không bao giờ ngưng nghỉ. Họ ngưng lại để chết, thế thôi.

    Tôi hình dung ra sự liên hệ giữa loài chim Humming Bird và nhà văn Nhất Linh.

    Anh Thiết, người bạn rất thân thiết của chúng tôi kể cho chúng tôi nghe về cuộc đời của hai đấng thân sinh ra anh. Nhà văn, nhà cách mạng Nhất Linh Nguyễn Tường Tam và Mẹ anh, Chị Tam (những bạn thân của Nhất Linh thường gọi bà như vậy.)

    Thế hệ của chúng tôi khi nói về Nhất Linh, thường ai cũng chú trọng về sự nghiệp đồ sộ văn học của Nhất Linh, của Tự Lực Văn Đoàn, mặc dù Nhất Linh có làm cách mạng và dưới một cái nhìn nào đó cái chết của Nhất Linh có dính dáng đến chính trị.

    Hôm nay nhân ngày Giỗ thứ 56 của Văn Hào Nhất Linh, một nén hương thắp lên bàn thờ như một lời mời anh linh của người đã khuất về chia xẻ cùng con cháu, hậu duệ, niềm cảm xúc giữa vạch ngang sinh tử.

    Khi nghĩ về Nhất Linh, ngoài sự ngưỡng mộ văn tài ông tôi thường hay suy nghĩ về con người cách mạng và cuộc đời tình cảm của ông.

    Suốt thời tuổi trẻ, ông giống như con chim Humming Bird, đôi cánh đập liên hồi chung quanh đóa hoa. Ông xoay tròn chung quanh đời sống từ năm 19 tuổi. Ông cũng bắt đầu đời mình bằng một xây dựng mái ấm gia đình. Ông lấy vợ năm 19 tuổi, một cô gái 18 tuổi đảm đang buôn bán và giỏi chịu đựng.

    Trong bài viết này, tôi không nhắc lại từng giai đoạn làm chính trị của ông mà nhiều người trong chúng ta ai cũng biết là từ năm 21 tuổi ông đã sang Tây, rồi từ Tây ông trở về nước, sang Tàu. Ông qua bao nhiêu chặng đường: Nam Vang, Quảng Châu, Hà Giang, Côn Ninh, Trùng Khánh. Ông làm cách mạng, ông chống cả Việt Minh và Pháp.

    Song song với cách mạng những tác phẩm của ông theo nhau ra đời trong từng con sông, từng ngả đường của Chính trị và Văn chương.

    Người vợ đảm đang đó lui vào sau cánh cửa ngay sau một năm lấy nhau: “Mỗi người có một bổn phận, anh có bổn phận với xã hội, em có bổn phận với gia đình”.

    Trên cái nhìn phiến diện chúng ta thấy “Bà Tam” rất thiệt thòi. Đôi khi chúng ta tự hỏi bà có khóc thầm bao giờ không? Tôi chắc là có, bà khóc khi lo lắng không biết rõ cái nguy hiểm trong những công việc ông đang làm ở mức độ nào. Bà buôn bán giỏi, kiếm tiền nuôi con và chắc chắn là cái quỹ hậu phương cho chồng mỗi khi cần đến. Đặc biệt là khi nào cần sự hiện diện bà không hề từ nan. Bà sẵn sàng xếp việc buôn bán lại, mở cửa đi tìm tới ông, xa thế nào bà cũng tới được để hỗ trợ tinh thần khi ông cần tới.

    Chúng ta cũng hỏi: Ông có bao giờ trong thế giới chính trị và văn chương của mình, ông quên mất là mình có một người vợ và những đứa con không? Tôi chắc ông không quên vợ con, nhất là bà. Người con út của ông bà đã viết: “Tôi được nghe mẹ tôi kể lại rằng, vào thập niên 30 của thế kỷ trước, cứ mỗi lần cha tôi viết xong và xuất bản một cuốn tiểu thuyết mới thì dù mẹ tôi có bận rộn buôn bán đến đâu, cha tôi cũng buộc mẹ tôi bỏ hết để cùng sống với ông riêng biệt một thời gian bên bãi biển Sầm Sơn”.

    Đó là tình yêu, đó là lòng biết ơn.

    Là một độc giả của ông ngay từ thủa mới trưởng thành cho tới bây giờ, tôi hầu như thuộc lòng cách biểu lộ tình cảm, tài năng của ông trong những tác phẩm. Tôi thấy trong văn chương của ông có đủ cả: thông minh, đa tình, lãng mạn, khôi hài, trong sáng, chừng mực, đạo đức. Bao giờ ông cũng cho những nhân vật của ông biết dừng lại đúng lúc: Một cậu ấm đa tình, xém ngã vào quyến rũ thể xác, bỗng tỉnh ngay được, như trong tác phẩm Cậu Ấm Đi Bắn Vịt Trời. Mối tình rất bạo nhưng rất đời thường và cảm động của Bác Hòa hàng cơm trong Xóm Cầu Mới, Loan và Dũng trong Đôi Bạn với tình yêu lý tưởng, mà những người tuổi trẻ thời đó hằng mơ ước. Rồi tình yêu ngây thơ và bồng bột của Mùi cho Siêu của Bé và Nhỡ rất chân quê nhưng cũng rất lãng mạn cũng trong Xóm Cầu Mới. Mối tình cao cả đồng chí hướng của Thanh và Ngọc trong Giòng Sông Thanh Thủy…

    Văn là người. Những nhân vật trong tác phẩm của ông đã phần nào phản ảnh con người chính ông trong đó. Đôi khi chúng ta tự hỏi: Ông đã có từng rung động, lãng mạn, tiểu thuyết hóa chính mình trong va chạm đời sống như những nhân vật trong các tác phẩm của ông?

    Chắc là có chứ. Một người đã luôn luôn xa gia đình, viết, sống và suy nghĩ như thế. Đi nhiều như thế, khác gì con chim Humming Bird luôn đập cánh, tìm tòi những giọt sương trên những đóa hoa không hề mỏi mệt. Thi thoảng chắc ông cũng có những giây phút ngã lòng, cái ngã lòng của một người yêu cái đẹp, và bằng cách nào đó ông lại đứng thẳng dậy trong những cái ngã ngoạn mục đó.

    Tôi nghĩ ông là một người sống lý tưởng, lãng mạn nhưng đạo đức. Ông may mắn có một người vợ biết chấp nhận hoàn cảnh của mình và hỗ trợ chồng một cách hiểu biết. Bà không thường xuyên bên ông nhưng luôn có mặt những lúc ông cần bà. Một người đàn bà ít học chỉ giỏi buôn bán tính toán chung quanh những thúng cau khô mà sang tận Hồng Kông để chăm sóc chồng ở thời điểm cách đây cả hơn 70 năm, thật là đáng khâm phục. Nhờ sự có mặt của bà mà ông lên tinh thần tiếp tục sáng tác.

    Hai bức hình chụp ông bà ngồi trong võng bên dòng suối Đa Mê ở Đà Lạt rất đằm thắm, thơ mộng. Được biết đó là hình kỷ niệm 32 năm ông bà lấy nhau. Ông mời bà lên Đà Lạt kỷ niệm ngày thành hôn của hai người như một hành động biết ơn vợ, rất văn minh Tây học thời đó. Ông có ghi chú trên bức hình là “Kỷ Niệm Lễ Vàng” (hình chụp 1957, năm cưới 1925), cho ta thấy tình vợ chồng của ông bà rất thắm thiết. Một chuyện tình đẹp ở ngay đời thường, không phải trong tiểu thuyết.





    Dù làm chính trị thất bại hay thành công trong văn chương, trong một cách nhìn nào đó, ta thấy bà luôn luôn là “vai chính” trong cuộc đời và sự nghiệp của ông. Một vai chính sau cánh cửa gia đình. Qua câu nói của cụ Nguyễn Hải Thần: “Anh Tam, nếu không có chị ấy thì không thể làm nên sự nghiệp này”.

    Con người thông thái hào hoa Nhất Linh biết chân giá trị của người vợ chân chất đó cho đến lúc muốn từ bỏ cuộc sống. Di bút để lại ông không quên cám ơn tình yêu của vợ: “Mình, mối tình của đôi ta trong bao năm đẹp đẽ lắm rồi không mong mong ước gì hơn nữa. Anh. Nhất Linh. 7-7-63″.

    Sự ra đi của ông ở tuổi 57 là một thiệt thòi cho nền văn học Việt Nam. Nếu ông còn sống chắc chắn chúng ta sẽ được phong phú thêm về mặt văn hóa và xã hội trong đời sống này.

    Con chim Humming Bird vẫn đang đập cánh xoay chung quanh bông hoa Mẫu Đơn ngoài vườn, nó bay hoài không ngưng nghỉ, nó chỉ bỏ cuộc khi chết.

    Viết cho ngày 7/7/2019


    Trần Mộng Tú


    Nguồn:http://vietluan.com.au


              
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5388
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: Trần mộng Tú

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           


    Như Mưa Thấm Đất





    Mùa hè năm 1954 tôi mới được 10 tuổi. Tôi chưa học hết tiểu học. (Vì gia đình tôi hồi cư về Hà Nội trễ.) Hai bàn chân bé của tôi được tham dự vào “Cuộc bỏ phiếu bằng chân” của một triệu người miền Bắc di cư vào Nam.

    Lúc đó ba tôi đang làm việc cho Sở Địa Chánh, Hải Phòng. (Ba tôi từ Hà Nội thuyên chuyển xuống làm việc ở đây đã được gần 4 năm).

    Sau những năm loạn lạc từ Hà Nội về Thanh Hóa, Thái Bình, Nam Định rồi hồi cư muộn màng về Hà Nội (vì sợ Pháp bắt lại dọc đường). Cha mẹ tôi chắc chắn không còn chọn lựa nào khác ngoài việc vào Nam để tránh Cộng Sản. Phải bỏ nhà mà đi thôi.

    Gia đình tôi bắt đầu bán dần đồ đạc trong nhà. Từ cái to lớn như cái giường ngủ Hồng Kông của ba mẹ, cao lêu khêu có bốn cái cột đồng để giăng màn, cái sập gụ, tủ chè, cái bàn tròn gỗ mun mặt bằng đá, đôn sứ cho đến những cái nhỏ bé như chậu rửa mặt bằng đồng, bát đĩa, nồi xoong. Người đến mua, là những người ở lại, không tính vào Nam, nhân cơ hội này họ kiếm được chút tiền. Mua xong họ mang ra chợ trời bày la liệt ngoài đó bán lại, nên lúc nào cũng có người lạ ra vào nhà tôi tấp nập.

    Nhà tôi ở ngay trước Vườn Hoa Con Cóc, nơi người ta mang những thứ mua đi, bán lại bày ra ở đó, nên buổi trưa, tôi có thể theo anh chị lớn ra xem chợ trời.

    Chợ trời lúc đó hấp dẫn lắm. Không thiếu một thứ gì trong nhà mà không tìm thấy ở ngoài trời. Giường Hồng Kông, sập gụ, tủ chè, hoành phi câu đối, đôn sứ, tràng kỷ, quạt máy, đĩa hát, nồi niêu, bát đĩa và nhất là sách.Với tuổi của tôi, tôi chỉ nhớ là rất nhiều sách: Sách tiếng Pháp, Tự Điển, Sách học đủ các môn và Tiểu Thuyết của người lớn tuổi. Ít ra thì các anh chị Trung Học mới được chạm tay vào. Nơi này một tấm bạt, nơi kia một cái chiếu bày la liệt từ sáng đến tối. Người bán cũng hấp tấp, người mua cũng vội vàng.

    Có người không buôn bán gì, nhưng tính ở lại, nên cũng ra đó xem có cái gì hay, cái gì rẻ thì mua về. Độ năm, ba ngày sau, nghe ai thúc giục, rủ đi Nam, lại mang những thứ vừa mua được cộng thêm những thứ ở nhà mình, xếp cả ra chợ trời.

    Mẹ tôi mua về nhà những cái thùng gỗ, hồi đó là thùng sữa “Con Chim” đóng hành lý của cả nhà, vào trong đó, mỗi người một cái. Chỉ mang quần áo và một ít phụ tùng cần thiết như đồ nấu bếp, thuốc men thôi. Còn tất cả, cái thì bán, cái cho họ hàng ở lại.

    Mẹ con chúng tôi lên máy bay vào Nam trước. Ba tôi đi sau, vì phải ở lại đến phút chót bàn giao Sở cho chính phủ mới.

    Gia đình chúng tôi tới Tân Sơn Nhất vào một buổi chiều (trong ký ức của tôi) cuối tháng 8 năm 1954. Phi cảng Tân Sơn Nhứt đông nghẹt; tính trung bình mỗi 6 phút một là một máy bay hạ cánh và mỗi ngày có từ 2000 đến 4200 người di cư tới. Tổng kết là 4280 lượt hạ cánh, đưa vào 213.635 người.(Wikepidia)

    Thử tưởng tượng ngần ấy con người với hành lý trút xuống sân bay, sau đó được phân tán, trú ngụ tạm mấy ngày trong những lều vải, trước khi tìm được nơi chốn cư trú lâu dài.

    Cha mẹ, vợ chồng, con cái chen chúc trong đám đông đó. Thất lạc nhưng rồi cũng tìm ra nhau.

    Hành lý cá nhân mới là một chuyện khó lòng kiểm soát. Có người di tản với gánh nặng ngàn cân trong lòng nhưng hành trang nhẹ hẫng, chỉ là một cái túi vải trên vai. Có người đem theo tối đa những gì họ có thể đem được. Trên một khoảng đất rộng mấy trăm thước vuông: va-li, thùng giấy, thùng gỗ, bao tải, túi vải, đủ các cỡ lớn, nhỏ, vuông, tròn, dài, ngắn, được tháo đổ xuống. Mọi người tự tìm hành lý của mình. Tôi và em tôi còn nhỏ, mọi việc đều do mẹ tôi và anh chị lớn hơn lo.

    Mẹ tôi tìm mãi vẫn thấy thiếu bốn cái thùng sữa đựng quần áo của chúng tôi. Đi tới đi lui cả ngày xem ai có lấy nhầm sẽ đem trả. Đến tối cả nhà lại kéo nhau ra bãi thả đồ đạc để tìm mấy cái thùng sữa của nhà mình. Vẫn chẳng thấy cái nào cả chỉ có mấy cái bao vải bố, loại bao đựng 1 tạ gạo nằm chơ vơ còn lại. Mẹ tôi bảo:

    – Thử xem trong này có gì mà người ta không lấy, lại lấy cái thùng của mình.

    Cả nhà xúm lại, mở ra, bên trong toàn là sách cũ. Cả ba cái bao to tướng chất đầy sách. Cái bao đầu tiên mẹ tôi lôi ra được cuốn Tam Quốc Chí, mẹ nói:

    – Mang về lều đọc, họ lấy quần áo của mình, vứt lại ba cái bao này, không ai nhận thì mình nhận vậy.

    Thế là ba bao sách to bằng ba bao gạo được cả nhà hì hục kéo về lều. Sáng hôm sau mẹ tôi lên Phòng Điều Hành báo cáo về bốn thùng quần áo thất lạc và ba bao sách kéo về lều. Cho đến khi gia đình chúng tôi xuất trại, bốn thùng quần áo vẫn ở trong tình trạng mất luôn và ba bao tải sách vẫn vô thừa nhận.

    Từ đó ba bao tải sách di tản cùng chúng tôi qua những ngôi nhà: ở tạm, ở nhờ, ở thuê. Từ trung tâm thành phố đến ngoại ô. Ba bao sách đương nhiên được coi như hành lý cần thiết được mang vác theo. Hữu ích lắm, cả năm sau, người lớn, trẻ con trong nhà cho đến cả chị giúp việc, cũng thấy được hưởng những cuốn sách đó. Có cuốn còn rất mới, nhưng có cuốn rất cũ, giấy ố vàng, mỏng mảnh, dễ rách. Như cha mẹ tôi thì tối tối đọc lại Tam Quốc Chí, Thủy Hử, Đông Chu Liệt Quốc, Kiều, Chinh Phụ Ngâm, Gia Huấn Ca (Các cụ chắc biết mấy truyện này lâu rồi) Tôi thì sáng trưa chiều gì cũng có một cuốn cầm tay, quên cả ăn. Giữa những năm ở tuổi tóc chưa dài tới lưng, tôi đã đọc không biết bao nhiêu cuốn sách: Sách của Tự Lực Văn Đoàn, của Vũ Bằng, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, Tô Hoài, Vũ Trọng Phụng; Sách dịch như: Tâm Hồn Cao Thượng, Những Kẻ Khốn Cùng,v.v.

    Thơ Nguyễn Bính thì tôi thuộc nằm lòng không thiếu bài nào. Tôi thuộc cả tập Đồi Thông Hai Mộ nữa. (Một số sách vẫn được giữ lại cả mấy năm sau)

    Cả ngày cứ ê a đọc: Anh Đinh Lăng giờ đây đâu nhỉ/Anh của em yêu quý nhất đời. Rồi: Nhà nàng ở cạnh nhà tôi/Cách nhau cái giậu mồng tơi xanh rờn.

    Trong nhà có ai cần hỏi câu gì về chữ nghĩa thơ văn là có tôi “hướng dẫn” ngay.

    Chị giúp việc nhà tôi thì mỗi lần nhóm bếp là xé ngay một quyển sách, không cần biết sách mới hay cũ, Tây,Tàu hay Việt gì cả. Có lần tôi xuống bếp gặp chị đang xé tập truyện ngắn mỏng của Thạch Lam, tôi hốt hoảng giật ra khỏi tay chị thì cuốn sách đã bị thần hỏa thiêu hết một nửa rồi, đành ngậm ngùi đưa trả lại chị, vì giữ cũng chẳng làm gì được nữa.

    Mấy anh chị em tôi, chỉ có tôi là người mê sách, thích chạm tay vào chữ từ hồi còn rất bé, nên tôi được hưởng hết những lợi lộc từ ba cái bao gạo đựng sách di tản vào nhà tôi, Các anh chị, chỉ cầm lên, bỏ xuống, hoặc họa hoằn lắm mới đọc một nửa quyển. Người thứ hai được lợi là chị giúp việc nhà, cứ vớ đại quyển nào mong mỏng dễ xé giấy làm mồi nhóm bếp là chị xé. Chị còn kéo hẳn một bao vào trong bếp cho tiện tay.

    Nhờ có ba bao tải sách đó mà tôi đã được thấm vào tâm hồn tuổi thơ của mình những tinh túy của văn chương sách vở. Nó thấm một cách tự nhiên, như mưa rơi xuống mặt đất và lúc đó bé quá tôi nào có biết mình được lợi lộc như vậy.

    Những tinh tế trong văn chương của Nhất Linh, lãng mạn dịu dàng của Thạch Lam đến nổi loạn của Vũ Trọng Phụng. Những cuốn sách mà những đứa trẻ ở tuổi tôi lúc đó không có cơ hội được đọc.

    Tôi học được sự giáo dục về lòng nhân ái, tấm lòng cao cả của người nghèo và đạo đức trong Tâm Hồn Cao Thượng, do Hà Mai Anh dịch; chuyện người đàn ông ăn cắp một mẩu bánh mì cho cháu bị 19 năm tù, rồi bị theo dõi suốt một đời cho đến chết trong Những Kẻ Khốn Cùng, do Nguyễn Văn Vĩnh dịch.

    Bâng khuâng, thương xót hay cảm động, hồi hộp, phân biệt giữa xấu và tốt, tôi cũng điều được hưởng từ tuổi thơ qua văn chương.

    Tất cả lần lượt chất vào tâm hồn tôi như người ta xếp những món nữ trang quý giá vào một cái hộp bí mật, rồi cất đi. Tôi không hề biết tâm hồn tôi chính là cái hộp quý đó cho đến khi trưởng thành, được học, được thầy giáo dạy văn chương. Tôi mới biết là mình may mắn được đọc những áng văn chương đó trước tuổi.

    Càng lớn tuổi tôi càng hiểu: văn chương là một phần đời sống của mình, không tách rời ra được.

    Sáu mươi năm rồi, mỗi lần nhớ lại những ngày đầu tản cư. Mỗi buổi trưa, đi học về, lục một cuốn sách trong cái bao tải đó, kiếm một chỗ vắng người ngồi đọc. Chao ôi là thích!

    Những thế giới kỳ bí mở tung từng cánh cửa bằng giấy cho một cô bé lên 10.

    Tôi cám ơn biết bao, người nào đó đã để lại ba cái bao tải sách đó trên bãi hành lý của cả mấy trăm gia đình, mà chỉ có nhà tôi kéo về.

    Mưa đã thấm xuống đất, đất mềm mại, đất hiền hòa và đất cho những hạt giống nẩy mầm, sinh hoa kết trái.

    Trần Mộng Tú

    1954-2014


    Nguồn:https://www.diendantheky.net



              
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5388
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: Trần mộng Tú

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           


    Một Mảnh Đời Hồ Dzếnh



    Hình gia đình Hồ Dzếnh và một người bạn


    Vào năm 1954, gia đình tôi mới di cư vào Nam thì nhận được một lá thư của Hồ Dzếnh (thời gian đầu của năm 1954-1955 Bắc-Nam còn nhận được thư).Lúc đó tôi còn bé chưa biết ông là một thi sĩ, Ba tôi nói: Có người đàn ông Trung Hoa muốn lấy thím Phương. Thím Phương của chúng tôi là vợ góa của chú Trần Trung Phương, người có tập Thơ cho học trò Mấy Vần Tươi Sáng, mà từ nhỏ anh chị em chúng tôi đã thuộc lòng nhiều bài trong đó. Khi học ở Tiểu Học được học lại ở trong lớp như những bài Học Thuộc Lòng.

    • Chiều qua trăng ngã xuống hồ
      Bầy sao nghịch ngợm đổ xô xuống tìm
      Trên không có mấy con chim
      Vội vàng đâm bổ đi tìm bóng trăng. (Vội Vàng- TTP)

    Lá thư của chú Dzếnh, tôi không được đọc, chỉ nghe Ba nói là một lá thư với lời lẽ hết sức lễ phép, xin phép anh chị cho em được thay anh Phương vào làm em anh chị trong gia đình. Ba tôi vốn sẵn hiền lành, nên đọc thư cảm động đến ngồi ngây người ra, không biết trả lời sao cho xứng với lá thư đó.

    Chú Trần Trung Phương của tôi khi còn sống viết văn, làm báo cho thiếu nhi, hoạt động chống Pháp, bị bắt, tra tấn trong tù. Khi được thả ra thì ho lao chết ngày 24/7/1945. Lúc đó con trai mới 6 tháng tuổi. Thím Hồng Nhật, một người đàn bà có học, có nhan sắc, yêu văn chương, được tất cả các bạn văn của chồng kính nể. Mỗi năm làm giỗ chồng, thím mặc khăn áo đại tang làm giỗ, mời các bạn Văn/ Họa Sĩ của chồng như: Mạnh Quỳnh, Hữu Thanh, Tống Ngọc, Tam Lang, Khái Hưng v.v… đến dự. Ai cũng kính phục.

    Thím ở vậy nuôi con, cho tới khi gặp Hồ Dzếnh. Cũng nên nhắc lại, thím Hồng Nhật cũng viết văn, làm thơ, lúc trẻ Hồng Nhật có gửi bài cho Phong Hóa và Ngày Nay là thời điểm Trần Trung Phương đang phụ trách trang Thiếu Nhi của hai tờ báo này. Duyên văn nghệ đưa đến cuộc hôn nhân đẹp nhưng quá ngắn (Không đầy 2 năm).

    Khi chú mất, tôi cũng chỉ hơn em Cường một tuổi nên không biết gì cả.

    Lớn lên mới biết thím là một phụ nữ đảm đang, qua bao nghịch cảnh, góa chồng, ly loạn vẫn gây dựng lại được những gì đã mất. Hiệu Sách Bình Minh 200 A, Phố Huế, nức tiếng ở Hà Nội một thời.
    Vào năm 1951 thím Hồng Nhật muốn tái bản tập thơ Mấy Vần Tươi Sáng, nên có vào Nam nhờ Hồ Dzếnh đỡ đầu. Hồ Dzếnh cũng đang trong cảnh gà trống nuôi con rất vất vả. Hai người cảm thông nhau cùng hoàn cảnh góa bụa, cùng có hai đứa con trai nhỏ, cùng yêu văn chương nên nhanh chóng yêu nhau. Đầu năm 1954 Hồ Dzếnh trở về Hà Nội, cuối năm đó lập lại gia đình với thím Hồng Nhật.

    Giai Thoại kể lại: Hôm đám cưới, các bạn văn cũ của chú Phương đến dự đông đủ, có một người ra câu đối: Vợ góa nhà văn lấy nhà văn góa vợ. Không ai đối được.

    Cũng có thêm giai thoại nữa về cái tên Hồ Dzếnh, bạn hữu hay gọi đùa là Hồ Dính và có ra câu đối: Hồ Dính, dính hồ, hồ chẳng dính, có người đối là Ngọc Giao, giao ngọc, ngọc không giao.

    Sau năm 1975 chú Dzếnh và Thím Hồng Nhật có vào Nam tìm gia đình anh chị, thì cha mẹ và chúng tôi đã sang Mỹ. Khi tôi liên lạc được với chú thím bằng thư thì cha mẹ tôi đã qua đời. Lá thư cuối tôi nhận được, chú nhờ tôi lấy tiền nhuận bút của những nhà sách bên Mỹ đã tái bản và phát hành những tác phẩm cùa chú nhưng không nhà xuất bản nào trả một đồng (Các nhà xuất bản hồi đó điều nghĩ việc họ tái xuất bản sách Việt ở hải ngoại là một đặc ân họ ban phát cho tác giả.)

    Năm 1998 lần đầu tiên tôi về Việt Nam thì chú Dzếnh đã mất được 7 năm (1991). Buổi tối, nằm ngủ chung với thím trên chiếc giường của hai người, nghe thím kể lại: lúc biết mình sắp mất, chú đòi về nhà, mất trên cái giường của vợ chồng. Câu cuối cùng của chú là lời gọi: Mình ơi! trước khi nhắm mắt.

    • Mình vừa là chị là em
      Tấm lòng người mẹ, trái tim bạn đời
      Mai này tới phút chia đôi
      Hai ta ai sẽ là người tiễn nhau?
      Xót mình đã lắm thương đau
      Tôi xin làm kẻ đi sau đỡ mình
      Cuộc đời đâu phải phù sinh
      Nước non chan chứa nghĩa tình, mình ơi! (Bài Thơ Tặng Vợ - Hồ Dzếnh)


    Chú Dzếnh muốn đi sau để tránh cảnh thương đau cho thím, nhưng chú lại là người đi trước. Trên chiếc giường gỗ ở ngôi nhà 80 phố Hòa Mã, Hà Nội, trong bóng tối mờ mờ của ngọn đèn đêm ngoài phố hắt vào, tôi nằm cạnh thím, nắm chặt bàn tay già nua của thím, nhìn lên đình màn, hình dung ra khuôn mặt thanh nhã với nụ cười hiền lành ở bức ảnh trên bàn thờ của một thi sĩ Trung Hoa mang trái tim Việt Nam trong lồng ngực, tôi nói thầm trong lòng: Cám ơn thi sĩ đã vào trong gia đình họ Trần Trung.



    Thủ bút của Hồ Dếnh


    Tuổi thơ tôi lớn lên bằng những bài Thơ học trò ngây thơ trong Mấy Vần Tươi Sáng của thi sĩ Trần Trung Phương và tôi nghĩ đó chính là những hạt giống văn chương đã gieo vào mảnh đất hồn tôi để sau này mọc lên hoa trái. Rồi tiếp theo đó là Thơ và Văn Chương trong sáng, giản dị của Hồ Dzếnh ảnh hưởng tới văn chương và cách viết của tôi.

    Tôi cám ơn Thượng Đế đã cho tôi cả hai ông chú tuyệt vời.


    Trần Mộng Tú

    Tháng 7/25/2017

    Nguồn:https://tranmongtu.blogspot.com



              
Trả lời

Quay về “Thời luận - Xã luận - Phiếm luận - Tạp ghi”