Chiến đoàn A TQLC và Tết Mậu Thân 1968

Trả lời
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Chiến đoàn A TQLC và Tết Mậu Thân 1968

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  • Chiến đoàn A TQLC
    __________và Tết Mậu Thân 1968

    __________________________________
    MX Hoàng Tích Thông








    I. Tình hình chiến trận trong năm 1967.

    Chiến trường Nam Việt Nam vẫn tiếp tục sôi động trong năm 1967 với những cuộc hành quân quy mô được diễn ra bởi Quân lực Việt Nam Cộng Hòa và Quân đội Hoa Kỳ và Đồng Minh. Đặc biệt tại 3 vùng Chiến thuật 2, 3 và 4 trong kế hoạch “lùng và diệt địch” của Tướng Westmoreland, Tư lệnh Quân đội Hoa Kỳ tại miền Nam Việt Nam. Trước sự tham chiến của Mỹ và Đồng Minh (Úc, Đại Hàn, Thái Lan, Phi Luật Tân), Việt cộng tức Mặt trận Giải phóng miền Nam lúc đầu đã tỏ ra lo ngại và né tránh đụng độ. Nhưng sau đó chúng dùng đường mòn Hồ Chí Minh đưa quân Cộng sản Bắc Việt vào trợ lực cho Lực lượng địa phương ở miền Nam khỏi bị tiêu diệt. Trước kia Cộng sản Bắc Việt còn e dè trước dư luận quốc tế về sự tiếp tay của chúng cho cái gọi là Mặt trận Giải phóng miền Nam, nhưng sau khi Mỹ đổ quân vào thì Cộng sản Bắc Việt gần như công khai tham dự vào chiến trường miền Nam với khẩu hiệu “Đánh Mỹ cứu nước” làm bình phong che đậy cho âm mưu xâm lăng Nam Việt Nam, vi phạm trầm trọng Hiệp định Geneve đã được ký kết vào năm 1954.

    Do đó chiến trận ngày càng tăng cường độ. Đã có những trận đánh lớn giữa quân đội Hoa Kỳ và Cộng sản Bắc Việt, kết quả thắng lợi vẫn nghiêng về phía Hoa Kỳ, vì chúng không thể chịu nổi hỏa lực hùng hậu của Bộ binh và Không quân Hoa Kỳ. Cộng sản chuyển mục tiêu qua lối đánh tiêu hao dần, làm sao gây thiệt hại cho quân đội Hoa Kỳ càng nhiều càng tốt với những cuộc đột kích, phục kích, pháo kích và đặc công. Vì vậy quân đội Hoa Kỳ ngày càng tổn thất về vật chất cũng như nhân mạng, mà không sao tiêu diệt hẵn được chủ lực địch. Không quân chiến thuật, Không quân chiến lược B.52 ngày đêm dội bom xuống đường mòn Hồ Chí Minh, nhưng địch vẫn cứ liều mạng, liên tục đưa quân vào miền Nam. Tin tức tình báo cũng như của tù binh và hồi chánh cho biết gần như 5O% lực lượng xâm nhập đã chết trước khi vượt qua biên giới Lào Việt để vào miền Nam.




    Về phía Hoa Kỳ, sự thiệt hại về người và của ngày càng tăng, quân số tham chiến cũng tăng theo. Có lúc đã lên tới nửa triệu người mà chiến trận vẫn không kết thúc được. Dư luận Hoa Kỳ đã bắt đầu tỏ ra chán nản và không còn ủng hộ nữa. Để đạt tới thỏa hiệp với Cộng sản Việt Nam, Hoa Kỳ đã ngày đêm liên tiếp đánh phá miền Bắc Việt Nam bằng không quân. Lúc lên thang, lúc xuống thang tùy theo phản ứng của Cộng sản Bắc Việt. Các cuộc không tập này cũng đã gây tổn thất nặng nề cho Bắc Việt. Đổi lại không quân Hoa Kỳ cũng bị thiệt hại không ít, nhiều máy bay, kể cả B.52 đã bị hỏa tiễn phòng không (Liên Sô trợ giúp) bắn rớt. Phi công bị cầm tù mà Cộng sản Bắc Việt vẫn không chịu vào bàn hội nghị.

    Trong thời gian chiến trường sôi động và mở rộng, Quân lực Việt Nam Cộng Hòa nói chung và binh chủng Thủy Quân Lục Chiến nói riêng đã sát cánh với Quân đội Hoa Kỳ và Đồng Minh, tham dự nhiều cuộc hành quân do ta mở ra cũng như Hoa Kỳ tổ chức. Riêng Chiến Đoàn A Thủy Quân Lục Chiến cũng đã tham dự cuộc hành quân mang danh “Junction City” của Sư đoàn 25 Hoa Kỳ chỉ huy bởi Thiếu tướng Weyand (Tư lệnh Quân đội Hoa Kỳ sau cùng tại Việt Nam). Cuộc hành quân này được coi như lớn nhất trong năm 1967, quân số tham chiến lên tới 1O ngàn người. Khai diễn gần biên giới Việt Miên trong tỉnh Tây Ninh. Kết quả thâu lượm không bao nhiêu so với quy mô trận đánh vì quân Cộng sản rút chạy qua Miên. Sau cuộc hành quân, Tướng Weyand có tặng Chiến đoàn một khẩu súng trường mới xử dụng mang tên AR.15, sau biến cải thành M.16 được Hoa Kỳ trang bị cho Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, thay thế cho loại súng Garant M1, vừa nặng vừa bắn chậm và nạp ít đạn. Trong khi đó Cộng sản đã được trang bị AK trội hơn hẳn M1 của ta.






    II. Hoạt động của Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam


    1. Tết Mậu Thân

    Cuối năm 1967, Chiến đoàn A Thủy Quân Lục Chiến tăng phái cho Sư đoàn 22 Bộ binh của tướng Hiếu đóng tại núi Bà Di (Qui Nhơn). Sau đó thì toàn bộ Chiến đoàn được điều động về phía Nam quận lỵ Bồng Sơn, với sự yểm trợ về phương tiện trực thăng của Lữ đoàn Không kỵ Hoa Kỳ đóng ở đèo Nhông, cách Bộ chỉ huy Chiến đoàn A khoảng 5 cây số. Khu vực hoạt động của Chiến đoàn A, chủ đích là về hướng Đông (hướng ra biển) và hướng Tây giáp ranh với quận lỵ Hoài Ân. Tình hình lúc đó tương đối nhẹ, chỉ có những hoạt động của các đơn vị địa phương và du kích, nên Chiến đoàn A cũng được thảnh thơi đôi chút, và chuẩn bị ăn Tết âm lịch (Mậu Thân) vào tháng 2/68. Đối với các đơn vị tác chiến của Thủy Quân Lục Chiến thì có thể nói là ít khi được hưởng Tết với gia đình. Và mỗi năm là mỗi địa điểm khác nhau, từ vùng 1 cho đến vùng 4 chiến thuật.

    Theo như thông lệ hàng năm, dù chiến trường có sôi động đến đâu, hai bên Việt Nam Cộng Hòa và Mặt trận Giải phóng miền Nam cũng thỏa thuận ngưng chiến 3 ngày để toàn dân ăn Tết. Tuy nhiên với các đơn vị ở ngoài trận địa thì chỉ ngừng hoạt động, vẫn đóng quân tại chỗ và sẵn sàng ứng chiến nếu Cộng sản vi phạm.

    Và Cộng sản đã vi phạm thật. Đúng sáng mùng một Tết, khi trời vừa sáng rõ, tôi thấy quang cảnh trong vùng thật vắng lặng, khác hẵn với ngày thường. Các trực thăng của Lữ đoàn Không kỵ gần đó không thấy hoạt động, cố vấn Hoa Kỳ bên cạnh Chiến đoàn cũng không biết gì hơn. Vừa lúc đó thì Chiến đoàn A nhận được lệnh của Sư đoàn 22 cấp tốc di chuyển về Quy Nhơn vì Cộng quân đã đột nhập vào thành phố, đánh chiếm đài phát thanh và khu lân cận. Khi Chiến đoàn về tới gần Bộ tư lệnh Sư đoàn thì được lệnh ngừng lại vì Sư đoàn đã được một đơn vị Đại hàn (Sư đoàn Mãnh Hổ hoạt động tại vùng Phù Cát) tới can thiệp và giải tỏa một cách nhanh chóng. Tiêu diệt và bắt làm tù binh gần như trọn vẹn số Cộng quân chiếm giữ ở đó.

    Chiến đoàn đóng quân tại chỗ để đợi lệnh. Vào buổi trưa cùng ngày thì được lệnh di chuyển về sân bay Qui Nhơn để sẵn sàng không vận theo lệnh của Bộ Tư lệnh Thủy Quân Lục Chiến và Bộ Tổng tham mưu. Trước hết Chiến đoàn phải gửi một Tiểu đoàn lên Đà Lạt, còn Bộ tham mưu và Tiểu đoàn còn lại nằm tại sân bay đợi lệnh tiếp. Tiểu đoàn 6 Thủy Quân Lục Chiến được máy bay C.13O chở đi Đà Lạt, nghe tin thì Cộng quân đã chiếm một vài khu vực trong thị xã. Khi máy bay tới nơi thì bị phòng không ngăn trở nên không đáp được phải bay về Tuy Hòa. Tại đây Tiểu đoàn 6 lại được lệnh quay về Sài Gòn và đáp xuống sân bay Tân Sơn Nhất. Tình hình trong thành phố lúc đó đã tạm an ninh, sau khi được Chiến đoàn B Thủy Quân Lục Chiến của Trung tá Soạn đang hoạt động ở Mỹ Tho về giải tỏa khu vực kế cận Bộ Tổng tham mưu và khu vực Hàng Xanh, ngã ba Cây Thị thuộc tỉnh Gia Định. Bộ tư lệnh Thủy Quân Lục Chiến điều động Tiểu đoàn 6 lên giải tỏa quận Thủ Đức và khu vực Trung tâm Huấn luyện Thủy Quân Lục Chiến ở gần quận Dĩ An.




    Một ngày sau, Bộ chỉ huy Chiến đoàn và Tiểu đoàn còn lại được không vận về Sài Gòn. Tình hình an ninh trong thành phố và các quận lỵ chung quanh đã được bảo đảm. Cộng quân hầu như bị quét sạch, một số chạy thoát ra bưng.

    Hai ngày sau khi về lại Sài Gòn, Chiến đoàn A được lệnh tăng phái cho Quân đoàn 1, Sư đoàn 1 Bộ binh, đóng tại đồn Mang Cá trong thành nội Huế. Với sự yểm trợ không vận của Không quân Hoa Kỳ, toàn bộ Chiến đoàn A Thủy Quân Lục Chiến đã được không tải bằng C.13O ra sân bay Phú Bài (Huế). Chiến đoàn A khi đó gồm có 3 Tiểu đoàn tác chiến, một pháo đội 1O5 ly (sẽ được tăng cường hỏa lực của pháo binh Sư đoàn 1 Bộ binh) và các thành phần yểm trợ như Truyền tin, Công binh, Tiếp vận. Quân số tham dự khoảng gần 3OOO người. Các Tiểu đoàn gồm có: Tiểu đoàn 1 của Thiếu tá Phan Văn Thắng, Tiểu đoàn 4 Thiếu tá Vượng, và Tiểu đoàn 5 Thiếu tá Phạm Nhã.

    Ở Phú Bài, Chiến đoàn A tạm thời đóng quân ở gần khu vực Trung tâm Huấn luyện Đống Đa. Trong khi chờ đợi Chiến đoàn chỉ thị cho các Tiểu đoàn thực tập tác xạ (tại sân bắn của trung tâm) hai loại súng mới được cấp phát là súng cá nhân M.16 và đại liên M.6O . Tôi có cảm nghĩ như mài gươm trước khi ra trận. Khí hậu và thời tiết tại Huế lúc đó khá lạnh và thường có mưa phùn, bầu trời luôn u ám. Tại đây tôi được các sĩ quan của trung tâm cho biết là tình hình tại thành phố Huế không sáng sủa lắm. Cộng quân vẫn chiếm giữ từ tòa Đại biểu chính phủ tới Phú Cam, còn bên kia sông Hương cũng như thành nội Huế vẫn nằm trong tay Cộng sản. Chỉ còn lại đồn Mang Cá ra tới Hồ Tịnh Tâm ở phía Nam và sân bay thành nội ở phía Tây là thuộc các đơn vị của Sư đoàn 1 Bộ binh và một Tiểu đoàn Dù trấn giữ. Tôi cũng đã tiếp xúc với đồng bào từ Phú Cam chạy lánh nạn. Họ cho biết bọn Cộng sản khi vào chiếm thành phố đã thủ tiêu rất nhiều người mà chúng nghi ngờ là làm việc cho “ngụy quyền”. Có một số thanh niên tình nguyện tháp tùng theo để cùng đánh Cộng sản. Tất cả đều vui mừng và phấn khởi khi thấy Thủy Quân Lục Chiến ra tiếp tay, chứ không còn thái độ bất hợp tác như ngày chúng tôi ra Huế để dẹp phong trào chống đối của Phật giáo miền Trung.

    Trước tình hình đó, tôi thấy nhiệm vụ giao phó trong tương lai không phải là dễ dàng. Vì địa thế khu vực thành nội và ngoại thành rất khó tấn công. Địch sẽ lợi dụng các đường thành để cố thủ. Thời tiết lại rất xấu, không thuận lợi cho không quân hoạt động. Bắn phá cũng phải hạn chế vì là một di tích văn hóa lâu đời của Việt Nam. Dù vậy, với bất cứ giá nào cũng phải cố gắng làm tròn nhiệm vụ giao phó.




    Hai ngày sau tôi được trực thăng Chinook của Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ chở vào đồn Mang Cá để gặp Chuẩn tướng Trưởng, Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh. Chiếc Chinook đã phải bay vòng ra biển rồi mới hướng vào Bao Vinh để đáp xuống bãi trực thăng ở góc Bắc thành Mang Cá dưới làn đạn phòng không của địch, không mạnh lắm nên máy bay không hề hấn gì. Vừa xuống trực thăng tôi thấy một chiếc khác đang nằm ụ vì trúng phòng không địch. Gần đó là một số binh sĩ Dù bị thương đang chờ sẵn để tải ra Phú Bài, thấy tôi tới họ có reo mừng. Sau đó chiếc Chinook đã chở họ ra khỏi thành để ra sân bay về Sài Gòn. Một chiếc xe Jeep chờ sẵn để chở tôi đến Bộ tư lệnh Sư đoàn. Vừa bước vào căn nhà lầu 2 tầng được xây từ thời Pháp thuộc, tôi gặp ngay Đại tá Phạm Văn Phú, Tư lệnh phó Sư đoàn 1. Vì chỗ quen biết đã lâu nên ông vui mừng ôm lấy tôi và nói:

    • – Có cậu ra đây, tớ yên trí.

    Chưa nói hết chuyện thì có vài trái hỏa tiễn 122 ly của địch nổ ầm ầm ngoài sân, cách xa độ 1OO thước. Phải chăng đó là loạt đạn đầu tiên chào mừng mà cũng là dằn mặt Thủy Quân Lục Chiến ? Tôi lên lầu trình diện Tướng Trưởng, thấy tôi ông cũng mừng nhưng không lộ ra mặt (tính ông trầm lặng, ít nói, không phải là không có tình cảm, khô khan như nhìn bên ngoài). Ông và tôi không lạ gì nhau, vì hai binh chủng Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến thường luôn gặp nhau, khi họ lên máy bay thì Thủy Quân Lục Chiến xuống. Hơn nữa khi ông làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù thì tôi chỉ huy Tiểu đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến, hai người thường gặp nhau để bàn giao nhiệm vụ. Ngoài ra chúng tôi còn là đồng khóa (khóa 4 Thủ Đức).

    Sau khi hỏi han tình hình đơn vị, ông cho biết qua tình hình địch và giao nhiệm vụ cho Chiến đoàn A giải tỏa khu vực Tây Nam nội thành từ Tây Lộc tới cửa chính địên, nơi có trụ cờ. Sau đó tôi tạt qua Bộ Tham mưu Sư đoàn lấy thêm một số tin tức cần thiết rồi dùng trực thăng bay về Phú Bài. Về tới trung tâm Đống Đa, tôi cho các Tiểu đoàn trưởng biết qua về tình hình và chuẩn bị để ngày hôm sau di chuyển tới gần tòa Khâm cũ, xuống tàu đổ bộ để vào bến Bao Vinh ở phía Đông Bắc của đồn Mang Cá.




    Ngày hôm sau, Chiến đoàn được quân xa chở tới gần nơi xuống tàu. Địch từ bên kia sông Hương (chợ Đông Ba) không thấy phản ứng bằng pháo kích. Đoàn tàu chạy ra phía biển rồi tiến vào bến Bao Vinh (khu vực này ta vẫn kiểm soát). Từ đó Chiến đoàn tiến quân theo phía Bắc tường thành để vào cổng phía Tây Bắc của đồn Mang Cá (kế cận bệnh viện Nguyễn Tri Phương. Như lệnh hành quân đã phổ biến, Chiến đoàn ra khỏi cổng chính (khi đó đơn vị Dù đã rút khỏi), Tiểu đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến rẽ phải tiến về hướng Tây Bắc thành nội, gần cửa Tây Lộc. Bộ chỉ huy Chiến đoàn và 2 Tiểu đoàn 1 và 3 di chuyển qua hồ Tịnh Tâm để rẽ phải hướng tới trại Quân cụ nằm ở phía Tây Nam sân bay thành nội. Khi tiến quân tới cửa Nam cấm thành (nơi vua ở), tôi đã có ý định xử dụng pháo binh bắn sập cửa thành (bị đóng kín) để cho một đơn vị tiến vào. Nhưng sau thấy khu vực đó rất khó tiến quân vì có nhiều tường cao, xây ngăn cách ra từng ô rất thuận lợi cho địch cố thủ nên bỏ qua. Chúng tôi tiến tới trại Quân cụ không gặp phản ứng địch, Bộ chỉ huy Chiến đoàn đóng tại trại Quân cụ. Tiểu đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến (-) đánh dọc theo bờ tường cấm thành để tiến tới mục tiêu (cửa chính diện), Tiểu đoàn 5 Thủy Quân Lục Chiến tiến đánh theo tường thành nội để chiếm mục tiêu (cửa nhà Đồ và góc thành phía Nam) nhìn ra ngã ba Kim Long đi An Lỗ và Văn Thánh.

    Khí hậu, thời tiết vẫn xấu, u ám, lạnh giá, đôi lúc có mưa phùn khiến cuộc hành quân thêm khó khăn. Khi các đơn vị tiến gần bờ thành thì địch bắt đầu nổ súng. Đồng thời bài hỏa tiễn 122 ly của địch đặt tại Phú Cam bắn vào khu vực Bộ chỉ huy Chiến đoàn. Ta phản pháo nhưng hạn chế vì sợ làm hư hại đến tài sản của dân. Các đơn vị tiến rất chậm, vì có nhiều nơi rất trống trải, chúng tôi phải băng qua hàng rào, vườn tược nhà dân chúng. Địch ẩn nấp trong các hầm đào sâu vào chân tường cũng như trên tường thành. Súng cá nhân không gây hề hấn gì cho chúng nên chỉ xữ dụng lựu đạn, súng phóng lựu M.72 hoặc không giật 57 ly. Pháo binh cũng không kết quả nên ít xử dụng. Đụng độ một thời gian ngắn thì Tiểu đoàn 5 Thủy Quân Lục Chiến đã bám được lên tường thành. Kết quả trong những giờ đầu, ta đã tịch thu được một số vũ khí, súng cối và đại liên. Trận chiến kéo dài ngày này sang ngày khác, các đơn vị của Chiến đoàn tiến khá chậm vì phản ứng địch rất mạnh. Tiểu đoàn 5 có lúc bị đánh sụt xuống tường thành, rồi sau đó tìm cách lên lại. Pháo 122 ly của địch ở Phú Cam lâu lâu lại bắn tới theo lời yêu cầu của địch bố trí trong thành nội. Sự liên lạc vô tuyến của địch với bên ngoài bị Bộ chỉ huy Chiến đoàn theo dõi nên biết rất rõ. Mỗi lần chúng chuẩn bị xử dụng pháo yểm trợ là Chiến đoàn báo ngay cho các đơn vị đề phòng. Để làm tê liệt các ổ súng nặng của địch bố trí ở chân thành, Thủy Quân Lục Chiến Hoa kỳ cũng đã đến tăng cường trong khu vực cửa Thượng Tứ và Đông Ba. Họ đã gửi một chiếc xe “ONTOS” trang bị 6 nòng 75 ly để yểm trợ cho Chiến đoàn A Thủy Quân Lục Chiến bắn phá các ổ súng kiên cố. Kết quả tương đối chính xác, phần nào hạn chế bớt hỏa lực địch. Việc xử dụng trực thăng võ trang can thiệp không thực hiện được vì thời tiết quá xấu và hỏa lực phòng không địch cản trở. Như trên đã đề cập, vấn đề xử dụng pháo binh yểm trợ không hữu hiệu vì địch ẩn núp trong các hầm hố vững chải, chỉ tổn hại nhà dân vô ích. Đôi khi cố vấn Mỹ có đề nghị xử dụng pháo binh của Hoa Kỳ ở An Lỗ bắn yểm trợ, nhưng được đôi lần rồi phải ngưng vì thiếu chính xác, và tầm bắn quá xa có lúc gây thiệt hại cho binh sĩ ta.

    Trong khi đó tại cửa Tây Lộc, có Trung đoàn 3 Bộ binh của Trung tá Phan Bá Hòa, và Tiểu đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến ở phía Tây Bắc cũng ở trong tình trạng tương tự. Trận đánh cứ dằng co giữa hai bên, thương binh ngày càng tăng, chứa đầy bệnh viện Mang Cá. Binh sĩ tử thương cũng không di tản được, phải bọc poncho đem chôn cất ở nghĩa địa ngoài thành.

    Tại cửa Thượng Tứ và Đông Ba, Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ với hỏa lực hùng hậu đã làm cho các cổng thành sụp đổ một phần rồi dần dần đẩy lùi chúng về hướng cửa chính điện. Có thể địch đã được lệnh rút về hướng Tây để tránh bị cô lập nếu cửa Nhà Đồ bị đánh chiếm. Bên cạnh Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ có Đại đội Hắc Báo của Sư đoàn 1 Bộ binh cùng sát cánh đánh về hướng trụ cờ.




    Được hơn một tuần lễ thì một hôm địch ở cửa Tây Lộc phản công mãnh liệt và đẩy lui đơn vị Trung đoàn 3 Bộ binh về gần sân bay thành nội. Nhưng sau đó, đơn vị này đã hợp lực với đơn vị trừ bị của Tiểu đoàn 5 Thủy Quân Lục Chiến phản công lại và dồn chúng về vị trí cũ. Sau đó thì áp lực của Tiểu đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến và Trung đoàn 3 Bộ binh ngày càng mạnh, khiến chúng phải dần dần thoát ra khỏi thành để lui về Kim Long. Dưới sự yểm trợ hỏa lực mạnh mẽ của mọi loại vũ khí, kể cả súng không giật hạng nặng của Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ tăng cường, hai Tiểu đoàn 1 và 5 Thủy Quân Lục Chiến ngày càng siết chặt vòng vây, tiến trên mặt thành từ hố này qua hố khác, len lỏi qua nhà cửa vườn tược để nhắm vào vị trí cuối cùng của địch là cửa Nhà Đồ. Nếu chiếm được mặt trận này thì sẽ khóa chặt lối thoát của lực lượng địch còn lại ở phía Đông. Trong cấm thành cũng bị Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đánh tới , cuối cùng địch đã dồn về khu vực cửa Nhà Đồ để tránh bị tiêu diệt toàn bộ. Do đó trong đêm cuối cùng, lúc gần sáng, địch đã xử dụng hỏa lực rất mạnh như có ý định phản công để đánh lừa quân ta . Hiểu rõ ý đồ đó, tôi ra lệnh các đơn vị tấn công khi trời vừa rạng sáng. Kết cục là địch đã thoát ra được ngoài thành một phần lớn theo cửa Nhà Đồ. Số còn lại cản hậu bị quân ta bắn hạ và bắt làm tù binh, nhiều vũ khí nặng và cá nhân bị tịch thu.

    Khi Tiểu đoàn 5 Thủy Quân Lục Chiến tràn lên cửa Nhà Đồ thì thấy nhiều xác Cộng quân nằm chết, có tên tay còn ôm lấy khẩu đại liên đầy đạn chưa bắn hết. Trong khi đó thì Đại đội Hắc Báo của Sư đoàn 1 Bộ binh cùng với Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ vẫn đánh.

    Cuối cùng lá cờ Việt Nam Cộng Hòa đã được kéo lên thay thế lá cờ đỏ máu của Cộng sản đã treo trên một tháng trời. Trận đánh giải tỏa thành nội Huế coi như chấm dứt. Địch quân ước lượng một Trung đoàn trong khu vực hành quân đã tẩu thoát về hướng Văn Thánh. Số tử thương mà chúng để lại trận địa khoảng 1OO tên, bị cầm tù 15 tên. Tổng kết lại, riêng Chiến đoàn A Thủy Quân Lục Chiến sau gần nửa tháng chiến đấu, số thiệt hại về nhân mạng trên 1OO binh sĩ bị thương và tử thương.

    Sau đó, Bộ chỉ huy Chiến đoàn A Thủy Quân Lục Chiến di chuyển về trú đóng tại trường học trong khu Quốc Tử Giám. Tại đây Chiến đoàn đã được Đại tướng Cao Văn Viên ra thăm với sự tháp tùng của Trung tướng Lãm, Chuẩn tướng Trưởng. Nhân dịp này tôi đưa ra vấn đề thăng cấp tại mặt trận để thượng cấp giải quyết. Sở dĩ phải đưa ra là vì lâu nay sự việc quân sĩ được đề nghị thăng cấp đã không được thi hành một cách nhanh chóng. Có khi phải mất đến 5, 6 tháng quyết nghị mới về tới đơn vị, và đã có người đã tử trận ở các trận chiến kế tiếp ! Thủ tục hành chánh này cần phải được sửa đổi, có như vậy mới làm tăng tinh thần chiến đấu của các cấp. Đại tướng Viên ghi nhận đề nghị của tôi.

    Xét cho cùng thì gần như hầu hết các Bộ Tham Mưu, phòng sở tại hậu cứ làm việc rất quan liêu trong khi đất nước đang ở trong tình trạng chiến tranh. Vấn đề phe nhóm trong quân đội là điều không thể chối cãi, đã có nhiều người được thăng cấp nhanh chóng, giữ các nhiệm vụ quan trọng, bất kể đến khả năng, tác phong và kinh nghiệm chiến đấu, chỉ vì có họ hoặc cùng phe nhóm với cấp trên. Hiện tượng này dẫn đến sự bất mãn và làm suy yếu phần nào quân đội.


    Nghỉ ngơi được vài ngày thì Chiến đoàn được lệnh di chuyển tới lục soát khu vực phía Bắc sân bay Phú Bài. Sau khi thành nội Huế được giải tỏa, địch đã phân tán mỏng rút về hướng Tây Phú Bài, vùng chúng tôi lục soát phần lớn là bọn địa phương nên không gặp sự kháng cự nào hết. Dân chúng đã trở về làm ăn bình thường, họ cũng đã khám phá được vài hố chôn tập thể những người bị Việt cộng giết. Đây chỉ là một trong nhiều địa điểm mà Việt cộng đã thực hiện khi chiếm đóng thành phố Huế. Chẳng hạn như gần trường học bên Đông Ba, Gia Hội, trên đường từ đền Văn Thánh vào AShau – ALưới…Tài sản của đồng bào trên đường Trần Hưng Đạo và Gia Long là bị thiệt hại nhiều hơn cả. Vài ngày sau Chiến đoàn lại di chuyển đến Văn Thánh để tảo thanh nhưng địch đã rút hết về vùng rừng núi khu vực Ashau-ALưới. Khoảng một tuần lễ sau thì chúng tôi được lệnh trở về hậu cứ Sài Gòn.




    2. Đợt Hai, tháng 5 năm 1968

    Trong cuộc tấn công Tết Mậu Thân (đợt 1), mặc dù bị thiệt hại rất nặng về nhân mạng lẫn vũ khí, vào tháng 5/68 Việt cộng với sự trợ lực của Cộng sản Bắc Việt vẫn cố gắng tung ra cuộc tấn công thứ hai vào vài tỉnh, thành phố. Đặc biệt là Sài Gòn – Chợ Lớn. Mục tiêu của Cộng sản là dù thắng hay thua, thiệt hại nhiều hay ít chúng cũng không quan tâm, mà chỉ cố tạo một tiếng vang trong dư luận quốc tế là Cộng sản vẫn mạnh và đang làm chủ chiến trường. Trái ngược hẳn với nhận định của quân đội Hoa Kỳ là ta đang đạt thắng lợi, Cộng sản không còn đủ sức để phát động chiến tranh ở miền Nam nữa.




    Trước ngày Cộng sản tung ra cuộc tấn công đợt 2, các cơ quan tình báo của ta đã không ghi nhận được một tin tức nào, như hồi Tết Mậu Thân, kể cả phía quân đội Hoa Kỳ. Phương cách tổ chức, làm việc kém hiệu năng, lại thêm yếu tố chủ quan khinh địch đã giúp chúng đột nhập vào thành phố Sài Gòn một cách dễ dàng. Đáng lẽ ta phải khám phá ra sớm để ngõ hầu bẻ gãy âm mưu của chúng từ lúc xuất phát. ở đây cần phải nên lên vấn đề trách nhiệm. Từ cuộc tấn công đợt 1 đến đợt 2, những người lo về an ninh, tình báo từ cấp cao đến cấp thấp, đã không làm tròn nhiệm vụ giao phó. Lẽ ra phải có biện pháp trừng phạt để duy trì kỹ cương quân đội, nhưng kết cuộc vẫn “hòa cả làng”, không một ai bị ra trước vành móng ngựa hay bị khiển trách “nội bộ”. Đôi khi lại còn được thăng thưởng thật vô lý. Cuối cùng chỉ người dân vô tội là hứng đủ và binh sĩ phải hy sinh xương máu !

    Cuộc tấn công đợt 2 của địch được thực hiện bằng 2 mũi:
    • Một xuất phát từ khu Tam giác sắt, tiến qua khu vực Lái Thiêu (tỉnh Bình Dương) rồi vượt sông Sài Gòn (ở khu vực cầu Bình Lợi) để đột nhập vào khu vực kế cận Tiểu khu Gia Định và Đồng Ông Cộ.
    • Mũi thứ hai từ khu Rừng Thơm (quận Đức Huệ) để tiến vào Chợ Lớn.
    Lợi dụng đêm tối cùng sự sơ hở của các đơn vị phòng ngự ngoại vi thành phố, một cánh quân Cộng sản đã tiến khá sâu vào khu Chợ Lớn. Còn ở Gia Định, cánh kia đã gần tới ngã ba Cây Thị.

    Sáng sớm ngày hôm sau thì Chiến đoàn A Thủy Quân Lục Chiến được gửi tới để thanh toán địch. Trước đó Chiến đoàn A đang trong thời gian nghỉ dưỡng quân sau khi hành quân ở Cần Thơ (vùng 4) trở về. Bộ chỉ huy Chiến đoàn đặt tại tòa nhà 2 tầng bỏ trống cạnh cây xăng ngã ba Cây Thị. Trực thăng có thể đáp xuống trên sân thượng của nhà này. Tiểu đoàn 1 đánh dọc theo đường phố xuống gần tới khu Sân vận động Gia Định mà địch đã chiếm giữ. Dân chúng hầu như đã chạy lánh nạn hết từ đêm qua. Tiểu đoàn 6 hoạt động tại Đồng Ông Cộ và khu cầu Băng Ky. Để tránh thiệt hại đến tài sản và sinh mạng của dân chúng còn kẹt lại trong vùng hành quân, các đơn vị đã phải dành giật từng căn phố với hoàn toàn vũ khí cơ hữu, không có sự yểm trợ của Pháo binh, Không quân hay Thiết giáp. Ngoài sự tham dự của Chiến đoàn A còn có đơn vị Biệt kích Dù hoạt động ở vùng kế cận. Cuộc hành quân này hoàn toàn khác biệt với những cuộc hành quân khác, có lẽ ít khi xảy ra trong chiến tranh Việt Nam. Nó đòi hỏi từ cấp chỉ huy đến binh sĩ, phải thông suốt chiến thuật tác chiến trong thành phố. Với các sĩ quan Thủy Quân Lục Chiến thì đa số đã được theo học lớp căn bản Thủy Quân Lục Chiến ở Hoa Kỳ nên đã khắc phục được dễ dàng. Do đó chẳng mấy lúc đã đẩy dần Việt cộng ra ngoại vi thành phố mà không gặp khó khăn mấy. Trái lại địch vừa thiếu kinh nghiệm và không thuộc đường xá, và một đêm có mấy tên Việt cộng lù lù tiến thẳng tới Bộ chỉ huy Chiến đoàn A, còn đang lớ ngớ thì chúng đã bị các binh sĩ bảo vệ bắn hạ tại chỗ. Các tên này không trang bị gì hết, ngoài khẩu AK và một giây đạn quấn quanh mình, mặc quần xà lỏn, vai đeo chiếc ruột xe đạp. Có lẽ chúng bị lạc và đang đi tìm lối ra.




    Tại Đồng Ông Cộ, địa thế trống trải và ít nhà hơn nên đôi khi xữ dụng được Không quân và trực thăng võ trang để đánh vào các ổ kháng cự kiên cố nằm sâu trong lòng đất. Dù vậy, mấy ngày sau Tiểu đoàn 6 Thủy Quân Lục Chiến cũng đã làm chủ được khu vực này khiến địch phải rút dần vào một xóm làng kế cận cầu Băng Ky. Biết rõ ý định muốn chạy thoát về cầu Bình Lợi nên Chiến đoàn đã chỉ thị cho Tiểu đoàn 6 chận đường về của chúng và Tiểu đoàn 1 đánh vòng qua khép chặt vòng vây. Bộ Chỉ huy Chiến đoàn đã xử dụng loa phát thanh kêu gọi địch đang trú ẩn trong làng ra đầu hàng. Một hồi sau, chắc thấy không còn hy vọng gì thoát thân nên chúng đã bảo nhau ra trình diện từng đợt với vũ khí. Có một chuyện vui là khi thấy một tên Việt cộng nhỏ tuổi chạy ra không có vũ khí, tôi kêu hắn hỏi vũ khí đâu thì hắn thưa:“Dạ, để em vào trong kia lấy ra”. Nói xong hắn chạy đi và trong chốc lát mang ra cây AK đưa cho binh sĩ ta. Tôi thấy cũng đáng thương, phần lớn bọn chúng còn trẻ vào bộ đội vì nghĩa vụ quân sự và mới từ ngoài Bắc vào lớ ngớ như Mán trong rừng ra tỉnh, nên khi bị vây đánh không biết tiến thoái làm sao. Điều tra thêm thì chúng nói cấp trên bảo dân miền Nam đã nổi dậy chiếm chính quyền rồi, chúng chỉ vào tiếp thu thôi. Sau khi Việt cộng đã ra trình diện hết, tổng cộng khoảng 15O tên, có một số bị thương, tôi cho chuyển về Bộ chỉ huy Chiến đoàn để săn sóc . ở đây chúng được đối xử rất thân thiện, cho ăn uống, hút thuốc lá thoải mái. Trước khi chuyển giao cho Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô, tôi đã cho chúng ngồi trên quân xa chạy vòng vòng vài đường phố, dưới sự hướng dẫn và bảo vệ của Quân cảnh Thủy Quân Lục Chiến.




    Trong khi đó thì tại khu vực Chợ Lớn, lực lượng Biệt Động Quân và một Tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến cũng đã đẩy lui địch ra khỏi Phú Lâm và có một sự việc đáng tiếc đã xảy ra:
    • Trực thăng võ trang Hoa Kỳ tác xạ lầm vào một tòa nhà có Bộ tham mưu của Biệt Khu Thủ Đô đang họp khiến vài sĩ quan cao cấp của ta bị tử thương .
    Hôm đó Chiến đoàn được phái đoàn của Tổng cục Chiến tranh Chính trị đến thăm, với sự hiện diện của Trung tướng Lê Nguyên Khang, (lúc đó vừa giữ chức Tư lệnh Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến, vừa Tư lệnh Biệt Khu Thủ Đô, Tổng trấn Sài Gòn – Gia Định và Tư lệnh vùng 3 chiến thuật), Trung tá Đào Bá Phước, Liên đoàn trưởng Biệt Động Quân cùng một số sĩ quan đơn vị bạn. Khi phái đoàn ra về, Tướng Khang hỏi tôi có muốn vào Chợ Lớn họp thì đi theo, nhưng vì bận nhiều việc nên tôi không đi. Sau đó thì tai nạn xảy ra và Trung tá Phước bị tử thương.




    Sự đầu hàng của Việt cộng ở cầu Băng Ky là giai đoạn chót của trận chiến tại Tiểu Khu Gia Định và vùng Chợ Lớn, đồng thời cũng là cuộc tổng tấn công đợt 2 của Cộng sản vào Thủ đô Sài Gòn. Hơn một tuần lễ giao tranh, sự thiệt hại của Chiến đoàn A Thủy Quân Lục Chiến được coi như là nhẹ. Sau trận tấn công đó, Cộng sản gần như không đủ sức để tiếp tục nữa, cuộc chiến dần dần bớt sôi động và quân ta hoàn toàn làm chủ chiến trường.





    MX Hoàng Tích Thông
    ( Tân Sơn Hòa )
    nguồn: buonvuidoilinh.wordpress.com
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Chiến đoàn A TQLC và Tết Mậu Thân 1968

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  • Các nhân vật:
    ____________




    Trung tá Hoàng Tích Thông
    Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn A TQLC
    [Sinh 1928 tại Hà nội; Khóa 4 trừ bị Thủ Đức (1953)
    13 năm tù CS - HO7 - cư ngụ Santa Ana]





    Đại tá Phạm Văn Phú
    Tư lệnh phó Sư đoàn 1
    [1928 Hà Đông -Tuẩn tiết 1975 Sài Gòn; Võ Bị Đà lạt 1953]





    Chuẩn tướng Ngô Quang Trưởng
    Tư lệnh Sư đoàn 1
    [1929 Thạnh Phong, Bến Tre - 2007 Virginia]





    Trung tá Đào Bá Phước
    Liên đoàn trưởng Biệt Động Quân
    [mất 1968 Chợ Lớn - Trực thăng tác xạ lầm]
Trả lời

Quay về “Vào cuộc chiến”