Xuân .. Xuân .. Xuân .. Giáp Thìn ...

Trả lời
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Xuân .. Xuân .. Xuân .. Giáp Thìn ...

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          

          
          


          

          


... Mời các bạn góp bài, cùng vui đón ...
... Xuân Giáp Thìn ...



          
          

          
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Xuân .. Xuân .. Xuân .. Giáp Thìn ...

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           






    Mùa xuân
    tưởng niệm
    một vầng hào quang rạng rỡ

    ____________________
    31/01/2024 _ Chúc Thanh




              

    Hoàng đế Quang Trung.

              



              
    Thôi thôi, thôi việc đã rồi,
    Trăm ngàn hãy cứ trách bồi vào ta.
    Nay mai dọn lại nước nhà,
    Bia nghè lại dựng trên tòa muôn dân.

    (Thơ của vua Quang Trung,
    theo sử liệu của tác giả Hoa Bằng Hoàng Thúc Trâm)

              
    Kể từ năm 1558, con ông Nguyễn Kim là chúa Nguyễn Hoàng vào cai trị Thuận Hóa, gọi là Đàng Trong. Đàng Ngoài là ngoài Bắc vẫn thuộc quyền của chúa Trịnh. Họ chia đôi đất nước, lấy sông Gianh làm giới tuyến. Rồi Trịnh Nguyễn đánh nhau suốt 200 năm vẫn không phân thắng bại, con sông Gianh oan nghiệt là đề tài cho bao nhiêu đau thương, bao nhiêu than vãn:
              
    … Đây sông Gianh, đây biên cương thống khổ,
    Đây sa trường, đây nấm mộ trời Nam
    Đây dòng sông, dòng máu Việt còn loang
    Máu nhơ bẩn, muôn đời không rửa sạch…

              
    Hận thù Nam Bắc và thù nghịch của hai chúa hai miền kéo dài. Cho đến khi Nguyễn Huệ dấy binh, ông là người xóa bỏ được cái giới tuyến đau thương ấy.

    Tháng 5 năm 1786 Nguyễn Huệ vẫn đóng quân ở Phú Xuân cuối tháng 6 năm 1786 ông ra Bắc dẹp họ Trịnh vì họ Trịnh chuyên quyền áp chế vua Lê. Mùa thu cùng năm ông trở về Phú Xuân để Nguyễn Hữu Chỉnh ở lại Bắc Hà.

    Sau này Nguyễn Hữu Chỉnh cũng chuyên quyền và muốn lập lại căn cứ sông Gianh, để chia vùng với Nguyễn Huệ. Nguyễn Huệ liền cử tướng Vũ Văn Nhậm ra phế bỏ Nguyễn Hữu Chỉnh. Trừ xong giặc thì Vũ Văn Nhậm lại chuyên quyền. Tháng 4 năm 1788 chính Nguyễn Huệ tự thân ra Bắc Hà lần nữa, để trả thù Vũ Văn Nhậm là trả lại quyển uy cho vua Lê Hiển Tông.

    Xin đi lùi lại 2 năm trước, là năm 1786, lần đầu Nguyễn Huệ ra Bắc phò Lê diệt Trịnh, ông đã đẹp duyên cùng công chúa Ngọc Hân, con gái thứ 9 của vua Lê, tuổi vừa đôi tám, tính nết đoan trang đẹp người, lại văn hay chữ tốt. Tiệc cưới của hai người rất long trọng, cả hai đều thông minh và hòa hợp. Ngay sau ngày tân hôn, Ngọc Hân về sống với Nguyễn Huệ ở bên phủ chúa, tạm thời là dinh cơ của Nguyễn Huệ. Nguyễn Huệ có hỏi thăm Ngọc Hân về tính nết của các hoàng thân. Ngọc Hân sợ cháu là Lê Duy Kỳ (tức vua Chiêu Thống) dành mất ngôi của anh ruột là Sùng Nhượng Công nên Ngọc Hân nói với Nguyễn Huệ là « nhân phẩm của Hoàng Tự Tôn Lê Duy Kỳ cũng tầm thường ». Sau đó, chẳng may vua Lê hấp hối, triều đình bèn lập Hoàng Tự Tôn lên ngôi, và sai người sang trình ý kiến với Nguyễn Huệ nhưng ông không tán thành. Rồi không hiểu sao mà đình thần biết ý kiến của Nguyễn Huệ là do công chúa Ngọc Hân mách bảo, cả triều thần liền triệu Ngọc Hân về áp đảo và mắng mỏ, đe dọa khai trừ, Ngọc Hân về năn nỉ khóc lóc, Nguyễn Huệ cực chẳng đã vì vợ mà chấp nhận việc Hoàng Tự Tôn Lê Chiêu Thống lên ngôi.

    Sau này, hai năm sau khi Ngọc Hân và Nguyễn Huệ đã an ổn sum họp ở Phú Xuân, thì cuối năm 1788, theo lời cầu viện cầu cứu của vua Lê Chiêu Thống, quân Tàu Mãn Thanh do Tôn Sĩ Nghị chỉ huy tiến đánh Bắc Hà, giặc tràn qua biên giới phía Bắc, tràn xuống chiếm kinh đô Thăng Long. Các tùy tướng của Nguyễn Huệ còn ở lại Bắc Hà chống trả giặc phương Bắc không nổi. Phải lui dần về Tam Điệp, Thanh Hóa.

    Trong một ngày cuối năm Mậu Thân 1788, Nguyễn Huệ đang ở Phú Xuân, nhận được tin cấp báo và cầu cứu của Ngô Văn Sở. Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế, để danh chính ngôn thuận, lấy hiệu là Quang Trung, ngài chính danh cầm quân đi dẹp loạn (theo Lê Quí Kỷ Sự).

    Lên ngôi vua xong, Nguyễn Huệ tập hợp quân lính và truyền lệnh tiến ra Bắc Hà. Vừa đi ngài vừa dừng quân ở dọc đường (Nghệ An) để chiêu mộ thêm binh lính. Lòng dân tiếp ứng ồ ạt, nhưng quân số ngài tuyển dụng vội vàng cũng chỉ có 8 vạn người trong khi quân Thanh ào ạt tràn sang xâm chiếm nước ta có tới 20 vạn dưới sự thống lĩnh của Tôn Sĩ Nghị. Với khí thế anh hùng, có tiến quân vội vàng, nhưng ngày 20-12-1788 nhà vua cho dừng quân lại ăn tết trước, ngài họp bàn chiến sự chiến lược với Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân. Nguyễn Huệ cho quân ăn tết trước, ăn tết nguyên đán ở chân núi Tam Điệp. Trước giờ ra quân, ngài hẹn với quân sĩ, trễ lắm là ngày mùng 7 tết thầy trò sẽ vào thành Thăng Long ăn tết lớn. Ngài nói với binh lính dưới trướng rằng:
              
    « … Thề, mặc chiến bào ra trận dẹp loạn phải mang chiến thắng về cho đất nước, cho toàn dân ».
    (Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập).

              
    • Đúng ngày 30 cuối năm Mậu Thân 1788, ngài ra lệnh xuất quân với kế hoạch hành quân chia làm ba đạo:
      • Toán quân 1, do Ngô Văn Sở điều khiển, đi đường biển đổ bộ vào Hải Dương.
      • Toán quân 2, cũng đi đường biển, do Phan Văn lân chỉ huy, tiến về vùng Lạng Giang Yên Thế để chặn đường rút lui của giặc.
      • Đạo quân thứ ba là đạo quân chánh, do Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ điều khiển, đi đường bộ tiến thẳng về giải cứu kinh đô Thăng Long.
      Cuộc hành quân của vua Quang Trung Nguyễn Huệ mau chóng, cực kỳ thần tốc, tất cả các đồn ải quân Thanh đã chiếm dọc đường đều bị đánh tan tành. SÁT. Không có một quân thù nào chạy thoát. Cho nên khi binh đoàn Tây Sơn tiến SÁT, gần sát thành Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị và bầu đoàn lính giặc Thanh vẫn không hay biết, vẫn ung dung chè chén yến tiệc. Chúng còn hẹn nhau ăn tết Kỷ Tỵ xong, nay mai, sẽ kéo toàn lực vô Đàng Trong tiêu diệt quân Tây Sơn.
                
    • Đêm mùng ba tết, quân Tây Sơn vây đánh đồn Hà Hồi. Quân Tàu trong đồn kháng cự không nổi phải đầu hàng. Sau khi thắng Hà Hồi, Nguyễn Huệ kéo quân sang tiêu diệt Ngọc Hồi với khí thế bừng bừng dũng mãnh. SÁT. Nơi này cách Thăng Long không xa. Trận đánh này, quân Tây Sơn tấn công chớp nhoáng. Quân địch trở tay không kịp, các tướng Tàu như Hứa Thế Hanh, Trương Sĩ Long, Thượng Duy Thăng và hầu hết các tướng Thanh cầm quân ở Ngọc Hồi đều tử trận. SÁT. Cùng lúc đánh Ngọc Hồi, các toán khác của Nguyễn Huệ tiến đánh quân Thanh ở Nhân Mục, Đại Áng và Khương Thượng. Mọi kháng cự của giặc vừa mất tinh thần, yếu ớt và bị dẹp tan không lâu. Tại đồn Khương Thượng, tướng Tàu Sầm Nghi Đống đành thắt cổ tự vận.
                
    • Ngày mùng 5 tết, Tôn Sĩ Nghị mới tập họp quân lính, nhưng chưa tiến quân ra khỏi kinh đô Thăng Long thì đã gặp thế lực Tây Sơn ào ào tràn vào như thác lũ. Ngày còn nhỏ, chúng ta học sử ký tới đây, thì không thể nào quên được câu « Tôn Sĩ Nghị bỏ cả ấn tín chạy về Tàu. » Đúng vậy, Tôn Sĩ Nghị lúc đó bỏ cả quân lính, bỏ cả ấn tín, vượt phao qua sông Hồng, chạy trốn về Tàu, Lê Chiêu Thống chạy theo luôn.
                
    • Chiều mồng sáu tết, Nguyễn Huệ với áo bào sạm màu khói súng, trên lưng chiến tượng, cùng đại binh vào thành Thăng Long giữa tiếng hoan hô vang dậy của quân dân. Ông cho người chặt ngay một cành đào Nhật Tân sắc màu rực rỡ chiến thắng gởi vội về kinh đô Phú Xuân, báo tin đại phá quân Thanh cùng Bắc Cung Hoàng hậu, và cả triều thần phương Nam. Kể từ ngày xuất quân ở núi Tam Điệp 30 tết đến lúc vào thành Thăng Long ca khúc khải hoàn, cuộc hành quân thần tốc của vua Quang Trung kéo dài có 6 ngày đêm, nhanh hơn cả dự tính.

    Trong lịch sử chống ngoại xâm của nước Việt Nam ta, chưa có cuộc hành quân kháng chiến, thần tốc, bách chiến bách thắng nào rực rỡ hơn cuộc đánh dẹp giặc Mãn Thanh của vua Quang Trung Nguyễn Huệ vào mùa xuân năm Kỷ Dậu 1789 (theo tác giả Nguyên Đán). Sách Lê Sử Toàn Yếu chép rằng:
              
    « Khi ngài còn sống, đại quân của ngài kéo tới đâu, quân địch đều trông gió mà chạy trốn, không hề một địch quân nào dám đương đầu chống trả. »

              
    Chiến thắng mùa xuân năm Kỷ Dậu 1789, mùa xuân đại phá quân Thanh của vua Quang Trung Nguyễn Huệ là một kỳ tích vẻ vang trong lịch sử chống ngoại xâm. Ngài là một vầng hào quang rạng rỡ sáng lòa trong lịch sử, cũng là niềm tự hào bất diệt của dân tộc Việt Nam.





    -- Chúc Thanh

    https://vietbao.com/a318106/mua-xuan-tu ... ng-rang-ro
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5468
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: Xuân .. Xuân .. Xuân .. Giáp Thìn ...

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           


    « Ly rượu mừng » : Vẫn bất tử mỗi độ Xuân về



    Giống như khi chào cờ thì phải hát quốc ca, mỗi khi đến độ Xuân về, trong các cuộc họp mặt đầu năm, văn nghệ ngày Tết, Ly rượu mừng vẫn là ca khúc không thể thiếu được. Mỗi người trong chúng ta, nhất là thế hệ 40 tuổi trở lên, có lẽ ai cũng thuộc lời bài hát nổi tiếng này của cố nhạc sĩ Phạm Đình Chương, ít ra thì cũng được vài câu đầu : « Ngày xuân nâng chén ta chúc nơi nơi /Mừng anh nông phu vui lúa thơm hơi /Người thương gia lợi tức / Người công nhân ấm no/ Thoát ly đời gian lao nghèo khó….. »



    Bìa nhạc "Ly rượu mừng" của nhạc sĩ Phạm Đình Chương.


    Trước khi nói tiếp về ca khúc Ly rượu mừng, chúng tôi xin được nói qua về tác giả của bài hát này. Sinh năm 1929 ở Hà Nội, Phạm Đình Chương xuất thân từ một gia đình truyền thống âm nhạc. Bắt đầu sáng tác từ năm 1947, có thể nói ông là nhạc sĩ tiêu biểu cho dòng nhạc tiền chiến và nói chung là một trong những tên tuổi lớn của nền tân nhạc Việt Nam. Ông cũng là một ca sĩ với nghệ danh Hoài Bắc, nhưng về giọng hát thì trong gia đình Phạm Đình Chương, nổi tiếng hơn vẫn là cô em Thái Thanh và người chị Thái Hằng, vợ nhạc sĩ Phạm Duy.

    Sau khi vào trong Nam vào năm 1951, ông và người anh cùng cha khác mẹ là Hoài Trung cùng với Thái Thanh, Thái Hằng tái lập ban hợp ca Thăng Long danh tiếng. Thời kỳ này các sáng tác của ông thường mang âm hưởng của miền Bắc như thể là ông muốn nói lên tâm trạng hoài hương của mình: Khúc giao duyên, Thằng Cuội, Được mùa, Tiếng dân chài... Thời gian sau đó, ông viết nhiều bản nhạc nổi tiếng và vui tươi hơn: Xóm đêm, Đợi chờ, Đón xuân… Ca khúc Ly rượu mừng cũng ra đời vào thời kỳ này.

    Sau khi hôn nhân với ca sĩ Khánh Ngọc tan vỡ, ông bắt đầu sáng tác những khúc tình ca, đưa tâm trạng đau thương của ông vào những bản tình ca nổi tiếng: Đêm cuối cùng, Thuở ban đầu, Người đi qua đời tôi, Nửa hồn thương đau.

    Có thể nói Phạm Đình Chương là một trong những nhạc sĩ phổ thơ hay nhất. Nhiều bản nhạc phổ thơ của ông đã trở thành những ca khúc bất hủ, như: Đôi mắt người Sơn Tây (thơ Quang Dũng), Mộng dưới hoa (thơ Đinh Hùng), Nửa hồn thương đau (thơ Thanh Tâm Tuyền), Đêm nhớ trăng Sài Gòn (thơ Du Tử Lê)...

    Sau 1975, nhạc sĩ Phạm Đình Chương định cư tại bang California, Hoa Kỳ và mất tại đây năm 1991, theo tài liệu của Wikipedia. Theo một số tài liệu khác thì ông mất năm 1993.

    Ngoài Ly rượu mừng, có một ca khúc khác về mùa Xuân của Phạm Đình Chương cũng rất được thường được trình diễn vào những dịp Tết, đó là bài Đón Xuân.

    Trở lại nói về Ly rượu mừng. Ca khúc này có thể được dùng thay cho lời chúc Tết đến mọi giới : công nhân, nông gia, thương gia…, hay lời chúc dành cho người mẹ già mong tin con, cho đôi uyên ương vừa xây tổ ấm.... Không chỉ là bài hát về mùa xuân, Ly rượu mừng còn là một ca khúc nói lên những ước mơ của người dân Việt Nam vào thời thập niên 1950 về một nền hòa bình, về một cuộc sống ấm no, hạnh phúc : “Bạn hỡi, vang lên, lời ước thiêng liêng. Chúc non sông hòa bình, hòa bình. Ngày máu xương thôi tuôn rơi. Ngày ấy quê hương yên vui, đợi anh về trong chén tình đầy vơi...”.

    Chính ban hợp ca Thăng Long đã trình bày ca khúc Ly rượu mừng lần đầu tiên ở Sài Gòn. Bài hát được ghi âm lúc đó bắt đầu với lời chúc Tết của ban hợp ca Thăng Long, tiếp đến là những âm thanh được mô tả gồm « tiếng pháo nổ tại phòng trà Đêm Mầu Hồng; tiếng trống của đội lân Nhân Nghĩa Đường Chợ Lớn; tiếng Đại Hồng Chung của Viện Hóa Đạo; tiếng chuông Nhà Thờ Đức Bà... », trước khi ban hợp ca bắt đầu cất giọng hát.

    Ly rượu mừng đã ra đời vào lúc nào ? Có tài liệu thì nói là bài hát đã được nhạc sĩ Phạm Đình Chương sáng tác vào năm 1952, nhưng có tài liệu thì ghi là ca khúc này đã được ông Phạm Đình Chương viết tại Sài Gòn vào năm 1955 và cho đăng trên số Tết báo Đời Mới. Bản in đầu tiên của ca khúc này thì được xuất bản vào năm 1966. Một điều chắc chắn là Ly rượu mừng đã ra đời vào thời điểm mà đất nước Việt Nam của chúng ta còn trong vòng khói lửa, cho nên tác giả mới gởi gắm vào đó khát vọng hòa bình cho dân tộc.

    Cho dù là ra đời từ năm nào thì Ly rượu mừng ngay sau khi được phổ biến đã được công chúng đón nhận nồng nhiệt. Cho đến năm 1975 và cho tới nay ở hải ngoại, ai cũng xem nó như nhạc hiệu của ngày Tết.

    Cho dù khá nhiều nhạc phẩm của nhạc sĩ Phạm Đình Chương đã được trình diễn ở Việt Nam, nhưng trong hơn 40 năm Ly rượu mừng vẫn bị cấm đoán, có lẽ vì bài hát có thoáng nhắc đến người lính Việt Nam Cộng hoà ( « Chúc người binh sĩ lên đàng Chiến đấu công thành, sáng cuộc đời lành/ Mừng người vì nước quên thân mình » ).

    Mãi đến tháng Giêng vừa qua, ca khúc Ly rượu mừng mới được Bộ Văn hóa Việt Nam cấp giấy phép phổ biến toàn quốc, tức là được hát công khai. Hãng Phương Nam Phim đã được phép lưu hành ca khúc Ly rượu mừng nằm trong CD Xuân 2016. Bài hát này do hai ca sĩ Quang Dũng, Phạm Thu Hà thể hiện.

    Sau nhiều năm bị cấm đoán, nay được hát công khai ở Việt Nam, Ly rượu mừng chắc chắn sẽ tiếp tục chinh phục hàng triệu con tim trong giới trẻ bây giờ. Hơn 60 năm sau kể từ khi ra đời, Ly rượu mừng vẫn bất tử. Âm điệu vừa du dương, vừa rộn ràng của ca khúc này sẽ vẫn thôi thúc mọi người hãy tin tưởng vào một ngày mai tươi sáng, cho dù đó là một viễn cảnh còn xa vời.

      • Ly rượu mừng

        Ngày xuân nâng chén ta chúc nơi nơi /Mừng anh nông phu vui lúa thơm hơi
        Người thương gia lợi tức / Người công nhân ấm no
        Thoát ly đời gian lao nghèo khó
        á a a a /Nhấp chén đầy vơi
        Chúc người người vui
        á a a a /Muôn lòng xao xuyến duyên đời
        Rót thêm tràn đầy chén quan san/Chúc người binh sĩ lên đàng
        Chiến đấu công thành /Sáng cuộc đời lành
        Mừng người vì Nước quên thân mình
        Kìa nơi xa xa có bà mẹ già
        Từ lâu mong con mắt vương lệ nhòa
        Chúc bà một sớm quê hương
        Bước con về hòa nỗi yêu thương
        á a a a /Hát khúc hoan ca thắm tươi đời lính
        á a a a /Chúc mẹ hiền dứt u tình
        Rượu hân hoan mừng đôi uyên ương/ Xây tổ ấm trên cành yêu đương
        Nào cạn ly, mừng người nghệ sĩ
        Tiếng thi ca nét chấm phá tô thêm đời mới
        Bạn hỡi, vang lên/ Lời ước thiêng liêng
        Chúc non sông hoà bình, hoà bình
        Ngày máu xương thôi tuôn rơi
        Ngày ấy quê hương yên vui
        đợi anh về trong chén tình đầy vơi
        Nhấc cao ly này /Hãy chúc ngày mai sáng trời tự do
        Nước non thanh bình /Muôn người hạnh phúc chan hoà
        Ước mơ hạnh phúc nơi nơi
        Hương thanh bình dâng phơi phới


    Thanh Phương

    https://www.rfi.fr/vi/viet-nam


              
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5468
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: Xuân .. Xuân .. Xuân .. Giáp Thìn ...

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           

    Giọt Lệ Đêm Giao Thừa



    1.
    Bảo trả tiền bác xe ôm. Cậu móc túi lấy tờ giấy ghi địa chỉ, theo cầu thang chung cư Nguyễn Kim lên lầu 1. Dân trong chung cư, người lau chùi lư hương, kẻ quét dọn nhà cửa chuẩn bị đón Tết.

    Thoáng trông những khuôn mặt hân hoan chờ đón ngày thiêng liêng nhất trong năm của các ông già bà lão đến lũ trẻ em, Bảo nghĩ có lẽ tại chính quê nhà mới có hiện tượng và bầu không khí đặc biệt này. Bảo hòa mình với niềm vui nhộn chưa bao giờ xảy ra với cậu. Những cái Tết tại Mỹ, nơi cậu ở, là những ngày tẻ nhạt với thời tiết rét buốt âm 0 độ C, tuyết ngập phố phường…

    Nhìn vào căn phòng tối om om, Bảo đưa tay gõ nhẹ lên cánh cửa sắt. Một cô gái ngoài hai mươi tuổi bước ra cúi đầu chào.

    Bảo hỏi:
    – Xin lỗi, có phải đây là nhà chú Tường, lúc trước làm ở Liên Ðoàn 83 Quân Cụ không?

    Cô gái nhìn Bảo một lúc. Cô hỏi:
    – Có chuyện chi không anh?

    – Ba tôi là người quen với chú Tường, có quà biếu chú nhân dịp Tết Nguyên Ðán.

    Ngần ngừ một chút, cô gái mời khách ngồi trên tấm phản gỗ. Cô vào buồng trong. Lát sau, cô dìu một ông già ngoài sáu mươi, thân hình tiều tụy, mặt mày hốc hác, chầm chậm bước ra. Cô đỡ ông ngồi trên ghế nhựa ọp ẹp.

    Bảo đứng dậy cúi đầu chào. Cậu chậm rãi nói:

    – Thưa chú, ba cháu tên Nguyễn Văn X.Y., làm ở xưởng Vũ Khí Tiểu Ðoàn 230, đường Trần Quốc Toản Sài-gòn. Sau khi LÐ 83 YTQC dời về Long Bình, ba cháu thuyên chuyển đến đơn vị khác.

    Mặt chú Tường lộ vẻ vui vui:

    – Ờ… ờ… Sao chú quên ba cháu được. Hồi đó ba cháu là sếp của chú mà… Sau năm 1975, chú có dò hỏi bạn bè nhưng không ai biết ba cháu và gia đình ở đâu.

    Chú Tường ngừng nói, ngồi thở. Cô gái vuốt ngực ông…
    Bảo trả lời:
    – Khi ra tù năm 1979, ba cháu và gia đình hồi hương về quê ngoại ở Vĩnh Long. Năm 1980, lúc đó cháu mới 1 tuổi, gia đình vượt biên và được định cư tại Mỹ.
    Nhìn cô gái, Bảo hỏi:
    – Chú bị bịnh sao vậy cô?
    Cô gái cúi xuống nhìn cha, không trả lời. Nét mặt thoáng buồn.

    Chú Tường chầm chậm kể:
    – Cách nay hơn năm năm, má sắp nhỏ bị tai nạn giao thông mất. Chú phải làm việc quá nhiều để nuôi bốn anh chị em tụi nó. Năm ngoái, đang chạy xe ba gác ngoài chợ Nguyễn Tri Phương, chú bị xỉu. Bạn hàng ngoài chợ xúm nhau giúp chuyển chú vào bệnh viện Bình Dân cấp cứu. Hai con trai lớn của chú đã lập gia đình và sống dưới miền Tây. Ở nhà chỉ còn con Loan đây và em trai nó thay phiên túc trực chăm sóc chú trong nhà thương. Con Loan làm ca ba tại một xí nghiệp giày da Ðài Loan ở Gò Vấp, vừa lo cơm nước cho thằng Mạnh học ôn thi vào Ðại Học Sư Phạm nên nó cũng khá cực nhọc. Sau ngày xuất viện, chú muốn đi làm cũng không đủ sức, càng ngày càng yếu, thêm gánh nặng cho hai chị em nó…

    Bảo lặng lẽ nhìn quanh nhà. Loan rót nước mời khách.

    Hai tay cầm phong bì, Bảo đưa chú Tường và nói quà của ba cậu biếu. Chú Tường từ chối mãi không được, sau vài lời cám ơn, chú đưa phong bì cho Loan cất. Chú Tường mời Bảo chiều mốt – chiều Ba Mươi Tết – chú cúng ông bà, Bảo ghé nhà dùng bữa cơm gia đình. Bảo nhận lời.

    2.
    Tối 28 Tết, Bảo rời khách sạn, lân la đến các phòng trà ca nhạc để tìm sinh khí sinh hoạt đêm của Saigon, thủ đô cũ miền Nam Việt Nam. Qua báo chí hải ngoại, cậu biết tuổi trẻ Việt Nam bây giờ – nhất là ở các thành phố lớn như Hà Nội, Ðà Nẵng, Hải Phòng, Cần Thơ và Saigon – tiêu tiền như nước.

    Dĩ nhiên giữa những tầng lớp có tiền và kẻ có nhu cầu cần tiền nẩy sinh biết bao hoàn cảnh oái oăm. Tình cảm con người với con người biến dạng từ từ. Tình yêu trong sáng của thế kỷ trước – như ba Bảo thường nói – nhường chỗ cho yêu cuồng, sống thử trước hôn nhân.

    Bảo có dịp đọc bài báo của một phóng viên trong nước đăng trên tuần báo ở Mỹ, viết về việc phá thai của giới nữ. Càng ngày, người đến bệnh viện càng nhỏ tuổi dần chứng tỏ nhà trường, cha mẹ và xã hội đã không quan tâm đến con cái để cho giới trẻ tự do luyến ái, tự do sống buông thả. Trong giới lao động, cha mẹ đầu tắt mặt tối kiếm sống không kịp thở để lo cái ăn, cái mặc, tiền sách vở, tiền trường cho con cái. Trong thành phần giàu có, cha mẹ chạy theo vật chất để hưởng thụ cho bõ thuở hàn vi, con cái cũng “ăn theo” sa đọa, xài tiền không tiếc…

    Saigon dường như không ngủ hoặc ngủ rất ít. Chỉ nhìn dòng lưu thông cuồn cuộn theo đuôi nhau, xe gắn máy nối tiếp xe hơi, Bảo cảm tưởng như say sóng. Muốn băng qua đường – đối với Bảo – không phải là chuyện dễ dàng vì không còn quãng hở nào trên đường để cậu bước đi. Xe cộ không biết từ đâu cứ nườm nượp, nườm nượp từ nửa đêm hôm trước đến nửa đêm hôm sau trên các trục lộ chính…

    Bảo tạt vào một quán trên đường Phạm Hồng Thái, quận 1. Hai người bảo vệ nhìn Bảo thoáng qua, đoạn mở cánh cửa nặng trình trịch để cậu bước vào. Bên trong, các cô tiếp viên, lờ mờ dưới ánh đèn màu, dắt Bảo đến một ghế trống cạnh sàn nhảy. Từ ngoài sáng lần mò giữa vùng âm u, phải vài phút sau cậu mới nhận định cảnh vật bên trong, dù tai cậu muốn vỡ tung với âm thanh xập xình của điệu Lambada sóng nhồi hết lượt này đến lượt khác. Thanh niên nam nữ ôm eo ếch nhau, lắc lư theo nhịp điệu dồn dập, thỉnh thoảng rú lên như bị ma ám quỉ đuổi.

    Bàn bên cạnh, ba cặp lim dim khóe mắt khi phê vài hơi thuốc trắng. Những chai rượu nặng ngoại quốc đắt tiền cạn nhẵn, nằm lăn lóc bên cạnh những đĩa thức ăn nguội ngắt, có đĩa còn nguyên vẹn chưa đụng đũa. Liếc thoáng, Bảo biết chúng là con các đại gia hoặc con giới có quyền có chức, ăn chơi sa đọa, bất cần đời.

    Một đứa trong bọn khoác tay, tất cả lảo đảo đứng dậy. Ðứa con gái tóc nhuộm vàng khè, móc bóp trải ra bàn năm tờ giấy xanh xanh loại một trăm đô-la. Cô hầu bàn từ góc khuất vội vàng chạy ra, gom tiền. Trước khi rời quán, chúng dúi vào tay cô hầu bàn tờ giấy mười đô.

    Bảo gọi một chai Heineken. Cô chiêu đãi đem bia ra và sà xuống ngồi bên cạnh Bảo. Cô cất giọng õng ẹo:
    – Anh cần mồi gì, em gọi.
    Bảo cười ỡm ờ:
    – Chút nữa, em. Anh chưa nóng máy mà…
    – Anh cho em một chai há?

    Không đợi Bảo trả lời, tự động cô vào quầy đem ra một chai và mở nắp nghe một tiếng “bộp.” Cô cụng vào chai của Bảo, cười ỏn ẻn, tu một hơi cạn tận đáy. Tự nhiên Bảo chợt nghĩ đến Loan, đến xóm chung cư nghèo hôm nay cậu ghé thăm. Hình ảnh người con gái gầy gò, ăn uống thiếu thốn, lo chăm sóc cha già đau yếu, người em học thi vào đại học, bất giác anh thở dài. Hai cảnh đời xã hội: một ăn chơi phè phỡn, vung tiền như nước – một còng lưng vất vả suốt ngày vẫn không đủ sống. Bất công nơi nào cũng có nhưng trước mắt Bảo, ngay tại quê hương mình, giai cấp giàu nghèo chênh lệch quá xa…
    Bảo kêu cô gái tính tiền. Cô gái ngạc nhiên nhìn ông khách khác thường này, lẩm bẩm:

    – Lại thêm một thằng khùng. Cứ tưởng vớ được khách bở mời đi “vui vẻ”, ai dè…

    Sau khi lấy tiền hai chai bia, cô gái xòe tay xin “bo.” Bảo dúi vào tay cô tờ giấy bạc hai mươi ngàn Việt Nam và lặng lẽ rút lui. Trong tiếng nhạc đinh tai, Bảo nghe cô gái vói theo:

    – Ðúng là “Hai Lúa” mới lên thành phố.

    3.
    Hai Mươi Chín Tết, Bảo thuê xe ôm lên đường Thích Quảng Ðức gần ngã ba Nguyễn Kiệm Phú Nhuận, trao tiền cho một viện mồ côi mà ba cậu cùng bạn bè ông quyên tặng. Viện do một Việt kiều ở Cali bảo trợ, gồm ba dãy nhà tạo hình chữ U, một trệt một lầu. Bảo vào viện, gặp người đại diện, ông Dương, là người bà con bên ngoại Bảo, trông nom khoảng 20 trẻ mồ côi. Ngoài bảy mươi nhưng ông Dương còn rất khỏe. Sau khi đọc thơ và nhận tiền của ba Bảo, ông dẫn Bảo thăm các nơi.
    Ông nói:

    – Hầu hết các cháu này, dượng xin ở bệnh viện Từ Dũ. Từ Dũ cũng có viện mồ côi gọi là Làng Hòa Bình. Làng dành cho các cháu tàn tật từ lúc chào đời, đứa mất tay, đứa sứt môi, đứa không thấy đường… Mấy cháu vô phước đó cần ở trong bệnh viện để tiện chăm sóc hàng ngày. Ở đó không đủ chỗ nuôi dưỡng nên dượng đón các cháu khỏe mạnh về đây như san sẻ phần nào sự mất mát tình thương của trẻ thơ vô tội. Khoảng sáu, bảy tuổi, ban tổ chức sẽ chuyển các cháu đến viện khác đủ tiện nghi và phương tiện hơn để các cháu học văn hóa tại nhà trường. Theo dượng biết, các cô gái trẻ người non dạ, sau khi sanh, bỏ con chạy lấy người, trốn tránh trách nhiệm và tội lỗi. Cũng may, mẹ các cháu bé ít có đứa bị vướng bệnh Sida, nếu không may bị bệnh chết người này, tội nghiệp cho một kiếp sanh linh nhỏ bé. Cũng có một số bà mẹ quá nghèo, đông con nhưng lỡ có bầu, khi sanh xong cũng bỏ con lại…

    Ði ngang nhà bếp, đến một sân rộng, Bảo thấy hai cô gái đang giặt giũ quần áo cho các cháu. Ông Dương dừng lại giới thiệu hai cô tình nguyện mỗi ngày vài giờ, giúp viện điều hành một cách suôn sẻ. Bảo trố mắt nhìn cô gái đứng e thẹn, hai tay đầy xà-bong xoa xoa vào nhau:
    – Loan…

    Ông Dương hỏi:

    – Ủa, cháu quen Loan à?

    – Dà… Ba cháu với ba Loan cùng chung đơn vị trước năm 75. Hôm qua ghé thăm gia đình Loan nên cháu mới biết Loan.
    Bảo chào hai cô gái, tiếp tục lên lầu. Ông Dương cho biết Loan làm ca đêm, sáng nào cũng ghé viện giặt giũ quần áo, mền mùng cho các trẻ, sau đó mới về nhà. Hôm nay là ngày cuối năm, Loan cố gắng giặt xong tất cả quần áo dơ và chăn màn của các cháu. Biết Loan có lòng nhân ái, thương xót trẻ em mồ côi mà không nghĩ đến sức khỏe của mình, Bảo thấy lòng se lại. Bảo không thể so sánh tấm lòng bác ái của Loan với các cô gái ích kỷ khác. So sánh như vậy vô tình hạ thấp phẩm giá cao thượng của một người biết hy sinh thời gian, sức khỏe cho xã hội, mặc dù sự hy sinh chưa phải là vĩ đại. Tuy nhiên, tấm lòng này không ít thì nhiều cũng gây cho Bảo một ấn tượng sâu đậm mà càng nghĩ, Bảo càng thấy tôn trọng người con gái mới biết mặt.

    Trong một căn phòng lớn, hai người đàn bà đứng tuổi đang chăm sóc các cháu mồ côi. Tiếng cười, tiếng khóc trẻ em vang từng chặp. Ðến dãy nôi giữa phòng, những đôi mắt tròn xoe ngây thơ nhìn ông Dương và Bảo. Một cháu buột miệng “Ba… ba…” khi Bảo cúi xuống ẵm cháu. Bảo lấy tay vỗ nhè nhẹ vào chiếc lưng nhỏ xíu, tự dưng niềm đau xót tràn ngập tâm hồn.
    Ông Dương nói với Bảo:

    – Có nhiều khách đến viếng, họ thường xưng là ba má hoặc ông bà khi nựng nịu các cháu. Có lẽ cách xưng hô này ăn sâu vào tâm hồn thiếu thốn, thèm khát tình thương của những trẻ bất hạnh theo thời gian. Vì vậy, cháu đây gọi cháu là ba cũng không lấy gì làm lạ.

    Bảo siết chặt cháu bé, tự nhủ không biết phải làm gì để bù đắp tình thương mất mát của những trẻ không may này. Những tâm hồn thơ dại, những tấm thân bé nhỏ rất cần sự che chở, bảo bọc của ông bà cha mẹ như bóng cây che mát cuộc sống non nớt mới hiện diện trên thế gian. Vậy mà cha mẹ chúng lại nhẫn tâm thả trôi các thân xác sơ sinh cho dòng đời đầy bụi bặm…

    Trên đường về khách sạn, Bảo ghé chợ Phú Nhuận mua những thứ cậu cần phải mua.

    4.
    Trời càng về chiều, dường như mọi người càng thêm hấp tấp. Xe hơi, xe gắn máy, người đi bộ, người dân sinh hoạt nhanh nhẹn hơn, vội vàng hơn. Ai cũng muốn trở về nhà sớm để bày biện thêm nhánh mai mua rẻ, cặp dưa hấu bán hạ giá hoặc những chậu bông nở tòe loe. Ai cũng nấu nướng, dù nhà nghèo, vài món ăn đơn giản cúng ông bà và đón giao thừa, khi con cháu từ xa về, sum họp bên gia đình đón Xuân. Không khí này khiến Bảo liên tưởng đến những người không nhà, sống đầu đường xó chợ, những trẻ em bị bỏ rơi không nơi nương tựa, những ông già bà lão bệnh tật không có con cháu phụng dưỡng. Bảo xóa bỏ bi quan khi đến nhà chú Tường. Ít ra trong lúc này, Bảo cũng có một nơi để chia sẻ bầu không khí thiêng liêng khi xa gia đình. Thực tế tại Mỹ, Tết Nguyên Ðán chỉ nhộn nhịp và ra vẻ ngày Tết ở những nơi có đông người Việt như Cali, Texas, Atlanta Georgia hoặc khu Eden, miền Ðông Hoa Kỳ…

    Chú Tường hôm nay trông khỏe hơn. Khi Bảo đến nhà, mâm cơm trên bàn thờ đã cúng xong, Loan và em trai chuyển xuống bàn ăn. Mùi nhang thoang thoảng trong căn phòng được dọn dẹp tươm tất.

    Bảo trao cho Loan cây mai đầy búp để cắm vào bình hoa bên cạnh bàn thờ. Cậu mở hộp giấy, trịnh trọng tặng chú Tường bộ âu phục mua trong tiệm An Phú tại ngã sáu Saigon, tặng Mạnh chiếc cà vạt màu rượu chát, tặng Loan mấy xấp vải may áo dài và chiếc điện thoại di động đời mới nhất.

    Bảo nói:

    – Loan à. Ði làm ca ba, Loan rất cần điện thoại này để phòng thân. Việc chi phí sử dụng, anh đã trả tiền cho dịch vụ trọn một năm rồi.

    Quay qua chú Tường, cậu cười:

    – Ở Mỹ ba con sẽ dễ dàng liên lạc với chú. Chú và các em đừng gọi qua Mỹ vì mắc tiền lắm, cứ để ba con gọi về. Thỉnh thoảng chú cho phép con hỏi thăm chú và các em.

    Bảo trải lòng mình, mong mỏi giúp gia đình bạn của ba Bảo những phút giây vui vẻ và thoải mái trong ngày cận Tết, dù các món quà không nói lên được hết chân tình của Bảo với những người mới biết mặt. Chú Tường thay mặt gia đình cám ơn Bảo. Chú nói Bảo và hai con ngồi vào bàn. Ðã lâu Bảo mới thấy tô canh măng hầm giò heo, khổ qua nhồi thịt băm với nấm mèo và đĩa giò thủ cắt chéo cạnh. Bảo lấy chai rượu chát từ trong bọc to đặt góc nhà mà cậu khệ nệ vác khi tới lúc nãy. Mạnh vào bếp lấy ba cái ly “xây chừng”, loại ly uống cà phê ngoài các tiệm ăn Tàu.

    Bảo cười:

    – Em lấy thêm một ly nữa cho chị Loan. Thời buổi bây giờ nam nữ bình đẳng mà em.

    Loan xua tay từ chối. Mạnh nhìn ba. Chú Tường gật đầu.

    Bảo mở chai rượu rót ra bốn ly. Cậu vừa nói vừa chỉ cái bọc to:

    – Thưa chú, cháu rất cảm động được hưởng một cái Tết ấm cúng tại quê nhà với gia đình chú. Sáng nay cháu có ghé viện mồ côi, cháu cũng đã mua hai mươi bộ quần áo trẻ con để tặng các em trong đó. Sáng mai mồng một, xin chú, Loan và Mạnh đến thăm viện và trao quà cho các trẻ. Quà này là của gia đình chú tặng cho viện.

    Chú Tường từ chối:

    – Ðâu có được, cháu.

    – Dà, cháu đã đại diện ba cháu và bạn bè bên Mỹ có tặng quà cho viện rồi. Phần này của chú và hai em. Sáng mai gia đình chú và cháu sẽ đi taxi đến đó. Có hai em và cháu, chú yên tâm xuất hành đầu Xuân…

    Tiếng chuông reo. Bảo móc túi lấy máy di động ra nghe. Ðầu bên kia văng vẳng giọng nói đàn ông. Nghe nửa chừng, mặt Bảo bừng bừng dù chưa hớp ngụm rượu nào. Bảo trả lời đứt quãng:

    – Dạ chưa lập gia đình… Dạ đang ngồi trước mặt con… Dạ tùy ba và chú Tường quyết định… Con… Con…

    Bảo đưa điện thoại cho chú Tường:

    – Thưa chú, ba cháu muốn nói chuyện với chú…

    Chú Tường vui vẻ chào hỏi người quen thân cũ. Sau khi nghe câu chuyện, chú Tường nói:

    – Cám ơn ông thầy nghĩ tới đàn em và có nhã ý với cháu Loan. Chuyện đó… chắc tùy cháu Bảo và Loan quyết định…

    Bảo đưa mắt nhìn Loan. Loan cúi gằm, im lặng. Loan thừa thông minh biết hai ông già đang đề cập đến chuyện gì. Cả nhà vui vẻ bên mâm cơm cuối năm.

    Bảo nói với chú Tường:

    – “Con” mong một ngày rất gần, Loan không còn chịu cực nhọc nữa. Tuy con mới về Việt Nam lần đầu nhưng con cũng nhận định được toàn cảnh xã hội ngày nay. Cái quý nhất của con người là lòng bác ái, tính chân thật và biết an phận. Tâm hồn cao thượng, sự giúp đỡ xã hội của Loan ở viện mồ côi khiến con rất cảm kích. Con rất vui mừng được ngồi ăn uống đêm nay với chú và hai em. Mấy bạn về Việt Nam chung với con, giờ này chắc đã chui vào các quán bia ôm hoặc vũ trường rồi…
    Nghe Bảo xưng “con” với ba mình, Loan len lén nhìn Bảo nhưng cô vội quay mặt đi để che giấu hai giọt lệ lăn dài trên đôi gò má xanh xao. Chính Loan cũng không hiểu tại sao mình lại khóc. Giọt lệ bắt nguồn từ niềm buồn tủi cho thân phận nghèo nàn hay vui mừng vì một căn nguyên nào khác, cô bối rối không kịp phân tách được tâm trạng mình.


    Nguyễn Thanh Dũng

    https://www.facebook.com

              
Hình đại diện
Vi
Bài viết: 780
Ngày tham gia: Thứ năm 16/03/17 23:48

Re: Xuân .. Xuân .. Xuân .. Giáp Thìn ...

Bài viết bởi Vi »

Hai Buổi Tối Mùng Một Tết
Thanh Thương Hoàng


Hình ảnh


Giọng đọc: Thanh Phương
Last edited by Vi on Thứ ba 06/02/24 20:19, edited 3 time in total.
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Xuân .. Xuân .. Xuân .. Giáp Thìn ...

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          




Cuối năm cảm cảnh




Xuân mới, người người náo nức vui
Xuân nào ta cũng vậy mà thôi.
Nâng ly độc ẩm lòng hồi hộp:
Nghe tiếng Hông Đa tưởng nợ đòi!






Kha Tiệm Ly
05/02/2024

          
https://www.facebook.com/khatiemly1252/ ... 8p81A9Fypl
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Xuân .. Xuân .. Xuân .. Giáp Thìn ...

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          




Đón tết




Chẳng hẹn mà mi lại tới rồi
Hè nhau nhằm tớ lấy đùa chơi?
Ngoài sân chủ nợ la khàn tiếng
Dưới bếp thằng cu vét lủng nồi!
Nhuận bút leo heo chờ mỏi cổ
Cháo hoa lõng bõng húp cầm hơi
Người vui, ta cũng vui ra phết
Kéo xệch hai môi, Đọ! Cũng cười .






Kha Tiệm Ly
04/02/2024

          
https://www.facebook.com/khatiemly1252/ ... sqTupuWKHl
Hình đại diện
Vi
Bài viết: 780
Ngày tham gia: Thứ năm 16/03/17 23:48

Re: Xuân .. Xuân .. Xuân .. Giáp Thìn ...

Bài viết bởi Vi »

Bánh Trôi Nước

Hình ảnh


Giọng đọc: Huyền Thoại


Đoàn tuế cống sứ ấy từ Yên Kinh về đến Thăng Long vào buổi đầu xuân năm Giáp Tuất Giáp Tuất, năm 1814 . Mấy tháng liền vất vả đường trường, họ nghỉ ít hôm cho lại sức để còn đi tiếp vào Phú Xuân phục chỉ. Vả chăng cũng cần có thì giờ để dinh trấn Bắc Thành kịp phi báo cho các trạm dọc đường thiên lý sửa soạn cáng, ngựa đổi nhau và những đồ nhu dụng cung đốn. Ra giêng trời lại mưa phùn, cũng phải nán lại qua cữ mưa này. Trong nhà công quán vắng ngắt, đầu năm mới ít ai có việc trên trấn thành. Sứ bộ cứ ăn xong lại ngồi suông nhìn mưa mãi cũng buồn. Suốt ngày khói thuốc lá tambacô (xưa phiên âm chữ tobacco, một loại thuốc lá nước ngoài) mù mịt trong phòng, tiếng quân cờ xương chí chát, tiếng gảy tiền phán thán xủng xoảng, họ cần bày trò chơi cho khuây khỏa nỗi nhớ nhà. Phần lớn họ là người Đàng trong, không quen thuộc mấy ở Thăng Long, nên cũng chẳng muốn đi đâu. Dù mười hai năm đã qua từ khi Gia Long lấy được đất Bắc, họ vẫn dè dặt khi tiếp xúc với dân “nước” Bắc Hà, vì e nhân tâm còn chưa phục. Khi cần mua bán, họ chỉ cần rảo qua phố rồi sấp mải về ngay.

Nhưng quan Chánh sứ Nguyễn Du thì lại khác. Ông tuy người Nghệ An (thời Nguyễn Du, huyện Nghi Xuân thuộc tỉnh Nghệ An nhưng đã ở Thăng Long suốt một thời trai trẻ). Thật là dịp may thăm lại người xưa cảnh cũ. Lần trước ở Kinh ra, vì nhật kỳ đã gấp nên ông không nán lại được lâu.

Sáng nay ông đã tính đi chơi, nhưng vì trời mưa nên phải ở nhà. Ông liền mang quyển truyện ngẫu nhiên mua được ở một cửa hàng sách bến Hàng Châu ra đọc thử. Sách đã mất bìa, trang đầu, giữa là mấy chữ Phong tình lục, trên, dưới hai hàng chữ nhỏ Thanh Tâm Tài Nhân Biên Thứ và Ngũ Vân Lâu Tàng Bản, mỗi bề hơn kém một gang tay, in thạch bản dòng mười, mỗi dòng hăm nhăm chữ.

Đọc một hồi, thì ra truyện Vương Thúy Kiều này, ông đã thấy trong Kỷ tiễu trừ Từ Hải bản mạt của Mao Khôn, một mặc khách trong dinh Hồ Tôn Hiến. Thì ra Thúy Kiều là một người có thực, nhưng theo sự ghi chép của Mao Khôn, thoạt vào đầu Thúy Kiều đã là con hát, sau lấy Từ Hải, được Hồ Tôn Hiến dụ hàng, đến khi nàng nhảy xuống sông Tiền Đường là hết chuyện. Thanh Tâm tài nhân thì tả Thúy Kiều từ khi còn phong gấm rủ là, đi thăm mộ Đạm Tiên, gặp Kim Trọng, bán mình chuộc cha, lọt vào tay Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh, Hoạn Thư, Lão Bà, Bạc Hạnh... rồi mới gặp Từ Hải. Sau khi nhảy xuống sông Tiền Đường, lại còn thêm một đoạn tái hồi Kim Trọng. Phải nhận rằng Thanh Tâm tài nhân đã thêm vào nhiều sự việc có từng lớp hẳn hoi lại ly kỳ lắt léo. Văn chương thì tầm thường thôi nhưng không hiểu sao ông cảm thấy day dứt trước cảnh ngộ trớ trêu của Thúy Kiều đến thế. Bỗng ông nảy ra ý định trong những ngày nhàn rỗi ở công quán, sẽ diễn truyện này ra Nôm cho đỡ sốt ruột chờ đợi buổi lên đường.

Nguyễn Du nhìn ra phía ngoài. Mưa đã tạnh, rặng liễu trước chùa Quán Sứ khô hết nước đang bay phất phới trước gió xuân như ganh với cành phan ở cổng chùa. Có tiếng người cười nói. Thiện nam tín nữ tấp nập đi lễ Thượng nguyên. Những cô gái nón quai thao tua cũng bay như lá liễu; tay giữ quai nón, tay kia vung vẩy, văn hài rón rén trên lối cỏ xanh. Thấy có chàng trai đi tới, cô yểu điệu nấp sau bà mẹ mặc áo ngoài lam giang trong lót nền hồ thủy, vừa đi vừa lẩm nhẩm nam mô, tay lần tràng hạt trước ngực. Tiếng xà tích bạc lách cách như tiếng nhạc ngựa... Cây đại trước chùa nở hoa trắng, mùi hương man mác quyện vào tà áo các cô gái đang bay lên như những câu thơ... Bỏ qua đoạn lung khởi, ông viết ngay vào đoạn ông cảm hứng nhất, từ mùa xuân tình ái đầu tiên trong đời Kiều:

Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.


Ông dừng bút đắn đo. Nguyên văn tả Kim Trọng từ trước đã chờ chực lúc Thúy Kiều ra vào để được gặp nàng, như thế mất cả ý vị. Phải để Thúy Kiều đến mộ Đạm Tiên đã rồi hãy gặp Kim Trọng, sau khi nhìn cái gương bạc mệnh sờ sờ trước mắt, nàng lo lắng cho thân mình về sau, nên lúc thấy bóng dáng của tình yêu, của hạnh phúc, nàng muốn nắm bắt lấy ngay, như thế vừa đúng tâm lý mà văn chương cũng có chỗ khởi, phục, đóng, mở, thu hút được người đọc. Ông đọc lại thấy nguyên văn tả cái buổi ban đầu lưu luyến thô kệch vụng về quá; lại để chị em Thúy Kiều về nhà trêu đùa gán ghép cho nhau đến là dơ dáng dại hình.

Bỗng mắt ông sáng lên. Ngọn bút lại tung hoành trên mặt giấy như vó ngựa dập dồn. Những nét chữ xương kính hiện ra như dấu ngựa in trên đường. Bút dần dần đi chậm lại kiểu lỏng buông tay khấu bước lần dậm băng. Màu trắng của ngựa, màu xanh của áo nổi bật trên nền trời buổi hội ngộ đầu tiên để lại một dấu vết suốt đời không phai nhòa được.

Đọc lại, ông sửng sốt thấy không phải là Kim Trọng mà là chính ông đang dạo bước qua đền Bích Câu. Chiếc lá đỏ trôi theo ngòi biếc, như một bài thơ hẹn ỡm ờ. Mái đền rêu mốc cong cong như nghiêng xuống, dáng Tú Uyên chờ đợi một Giáng Kiều nào. Trong đền nghi ngút khói hương mường tượng xiêm áo của nàng. Một đám mây là là xuống thấp, có phải Giáng Kiều xòa tóc xuống để ông bíu theo mà bay lên trời?

Hay đó là hồn thơ nâng ông bay lên cao:
Dưới cầu nước chảy trong veo
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha
Kiều từ trở gót trướng hoa
Mặt trời gác núi, chiêng đà thu không
Gương nga chênh chếch dòm song
Vàng gieo ngấn nước, cây lồng bóng sân
Hải đường lả ngọn đông lân
Giọt sương gieo nặng cành xuân la đà


Ngọn bút ông căng như một cành cây trĩu nhựa. Bóng hoa ngoài cửa sổ chập chờn trên mặt giấy ngà hoa mộc, hay là những chữ nở hoa dưới nét bút đẫm mực gieo xuống giấy như những giọt sương. Không biết là giòng thơ hay chính mùa xuân đã làm cho ông ngây ngất.

Đến đoạn sau, đọc lại nguyên bản thì thấy viết:

“... Kim Sinh thấy cô trốn nấp, nhân nói nhử cô rằng:
- Đã là của tiểu thư thời tôi dám đâu không trả. Song tiểu thư cần xem cho kỹ thì mới khỏi lầm.

Cô kia ở bên tường lại nói:
- Thoa của cháu là thoa kim phụng, trên có ba viên bảo thạch chín hột trân châu, không cần xem nữa, chính của cháu rồi.
- Cô nói thế quả không sai, lẽ ra tôi phải đưa trả. Nhưng cũng phải trao tay cho cô thì mới ổn chứ!

Người con gái ấy nghe nói đến đó, đứng nghĩ một hồi, không biết làm sao, đành phải đứng lộ ra nửa mình, và ra mặt mà nhận. Kim Sinh thấy chính là Thúy Kiều, lòng mừng hí hởn, bèn nói:
- Thoa này thế ra là của Vương tiểu thư đánh mất, mà tôi lại may mắn bắt được! Khiến tôi lại nhờ nó mà thấy được phương dung, thật là hạnh phúc quá!

Thúy Kiều cũng biết đấy là Kim Trọng, bèn mừng thầm mà nói:
- Chàng Kim ơi, sao lại nói như vậy? Đó là may mắn cho em mà thoa ấy lại là chính anh bắt được chứ...”

Nguyễn Du bực mình gấp mạnh quyển sách. Ai lại để cho Thúy Kiều lẳng lơ dạn dĩ thế này, còn gì là đoan trang e ấp nữa. Anh chàng Thanh Tâm tài nhân mang tên tài nhân nhưng về chuyện yêu đương thì anh ta chẳng tài chút nào. Ai lại trai gái gặp nhau độc lý sự vụn, đã thế Thúy Kiều lại đầy vẻ dạy đời. Nguyễn Du nhớ lại hồi trẻ đi hát phường vải ở làng Trường Lưu, gặp một cô gái tên là Cúc, người đẹp giọng hay, tài bẻ chuyện, nhưng chỉ phải một nỗi sắp quá thì, ông đã bẻ một câu xiết bao tình tứ:

Trăm hoa đua nở tiết xuân
Cớ sao Cúc lại muộn mằn về thu


Cô Cúc đáp lại bằng một câu cũng thật là ý nhị:
Vì chưng ham chút nhị vàng
Cho nên Cúc phải muộn màng về thu...


Nhớ lại chuyện cũ, trước mắt ông như hiện ra cảnh các cô gái ngồi dựa cột nhà, mỗi người một cái xa, một chân đạp lên thoen xa, một chân co lại, tay phải quay quàng xa, tay trái cầm sợi vải đưa lên đưa xuống uyển chuyển nhịp nhàng như điệu múa. Tiếng xa vè vè với tiếng quay ro ro êm ái tạo nên một điệu nhạc trầm trầm đệm cho câu hát du dương. Bấy giờ đêm đã khuya, không gian tứ bề im lặng. Tiếng hát mảnh như tơ giăng dài trong không gian ràng buộc hồn người. Tiếng hát “giọng cao đón gió, giọng trầm lắng sương” làm hơi thở như ngừng lại, nhịp tim đập chậm hơn, lắng sâu vào tận đáy lòng. Trai gái đắm chìm trong tiếng hát, trong nguồn yêu thương dào dạt, tưởng như chỉ có mình họ giữa trời đất mênh mông. Hồi ấy Nguyễn Du thường sang Trường Lưu chơi với Nguyễn Huy Quýnh, chú Nguyễn Huy Tự (Nguyễn Huy Tự, gọi Nguyễn Du bằng chú vợ, tác giả truyện Hoa tiên.) thường được ông Quýnh dẫn đi hát phường vải. Sau buổi tối đầu tiên, từ đấy đêm nào Nguyễn Du cũng quen lệ tìm sang. Có lần nhỡ hẹn không sang, thế là lần sau đến, trước khi ra về, các cô gái còn bắt ông gửi khăn áo lại làm tin. Rồi dần dần, sau các cuộc hát đối, hai cô gái Trường Lưu tên là Uy và Sạ, cùng đem lòng yêu ông, bỏ cả nghề canh cửi. Nguyễn Huy Quýnh biết chuyện bèn viết thư hộ để kể lể sự tình:

Trời làm chi cực bấy trời
Cơi trầu này để còn mời mọc ai
Tím gan đổ hắt ra ngoài
Trông theo truông Hống đò Cài thấy đâu
Khi lên đổ rối cho nhau
Khi về trút một gánh sầu về ngay...


Nguyễn Du cũng viết bài Thác Lời Trai Phường Nón để đáp lại:

Giữa thềm tàn đuốc còn tươi
Bã trầu chưa quét nào người tình chung
Hồng Sơn cao ngất mấy trùng
Đò Cài mấy trượng thì lòng bấy nhiêu
Làm chi cắc cớ đến điều
Mới đêm hôm trước lại chiều hôm nay...


Lúc Nguyễn Du đang viết đây, dư âm tiếng hát xưa như còn văng vẳng bên tai:
Tai nghe câu ví như ru
Đêm thu để khiến nét thu ngại ngùng...


Nhớ lại sau những đêm hát đối với cô gái phường vải, Nguyễn Du đã viết những lời thơ da diết:

Tiếc thay duyên Tấn phận Tần,
Chưa quen đã lạ, chưa gần đã xa.
Chưa chi đông đã rạng ra,
Đến giờ hãy giận con gà chết toi.
Tức gan cho cái sao mai,
Thảo nào vác búa đánh trời cũng nên...


Thế mà chỉ mấy tháng sau, cô Uy cô Sạ cũng bỏ ông mà đi lấy chồng. Thì ra ở đời cái gì đẹp cũng thường mau tàn, lúc này ông bâng khuâng nhớ tiếc thời trai trẻ. Nhưng bóng dáng của cậu chiêu Bảy hào hoa phong nhã nổi tiếng kinh kỳ đã bị đẩy lùi vào dĩ vãng rồi. Bữa vừa tới Thăng Long ông đã đi thăm lại nhà cũ ở xóm Bích Câu, trước có dinh thự của thân phụ ông, quan Tham tụng Nguyễn Nghiễm, ngoài cổng có đắp ba chữ lớn “Ô Y Hạng” (Ngõ áo đen, lấy điển cái ngõ xóm nhà họ Tạ, có nhiều người làm quan đời Tấn Trung Quốc). Giờ cỏ non mùa xuân đã lấp hết dấu vết lâu đài. Nguyễn Du nhớ lại cảnh kiêu binh đến phá phủ đệ để trả thù việc Nguyễn Khản, anh ruột ông, chủ mưu bắt chém bảy tên kiêu binh, chặn trước mưu mô chúng tôn phù vua Lê lấn át chúa Trịnh. Lúc này Nguyễn Du như còn nghe thấy tiếng hò hét man rợ, tiếng chân bước thình thịch, tiếng gạch đá rào rào, bức tường lảo đảo rồi nặng nề vật mình xuống, bụi cát mù mịt... Tấm biển vàng “Kim Âu Đình” - ngự bút của Trịnh Sâm, bị kéo sập, đè lên những bể cạn, những núi non bộ, những đôn chậu... tiếng sứ vỡ lạo xạo chói tai... Chiếc sập gỗ trắc chân quỳ Nguyễn Khản từng ngồi cầm chầu điểm hát trước mặt Trịnh Sâm và Đặng Thị Huệ, gãy răng rắc như tiếng sắt nghiến xương. Và nhất là hình ảnh người khách phương Bắc trấn cửa dinh, một mình chọi nhau với lũ kiêu binh, cuối cùng bị chúng vằm nát như bùn...

Một con cào cào từ đâu bay đến đậu vào tay ông, càng cứa vào da nghe rờn rợn. Cây lau gió thổi ngả nghiêng như trêu cợt. Nhớ lại câu thơ Đường:

Khả liên Vương Tạ đình tiền yến,
Phi nhập tầm thường bách tính gia

(Én xưa thềm cũ Tạ Vương,
Bay về đậu chốn tầm thường dân gia.).
Nhưng ở đây én cũng không bay về, vì biết trước không còn chốn đậu...

Trên đường về, ông vòng lên phố Hàng Hòm định hỏi mua một cái tráp sơn then. Trước cửa lùa tầng dưới một ngôi nhà kiểu chồng hộp diêm, có một người đàn bà ngoài ba mươi, ẵm đứa con nhỏ. Khăn xô, tóc bù rối nhưng lại mặc áo hồng của con hát nhà quan, cũ bạc có vết xoạc rách. Người ấy nhìn ông trừng trừng rồi buột tiếng kêu:
- Ối kìa! Ông lớn Bảy! Sao tóc ông bạc nhiều thế này, suýt nữa thì con...

Người đàn bà đặt vội đứa trẻ xuống, toan sụp lạy. Nguyễn Du xua tay bảo đừng. Nhận ra là một người con hát cũ trong dinh của Nguyễn Ức, em ông, ông hỏi:
- Chị Hương đấy hả? Khăn ai thế?

- Bẩm ông lớn, khăn chồng con ạ.

- Rồi không đợi hỏi tiếp, chị ta kể lể một thôi

- Bẩm từ ngày ở cửa ông Tám con ra, con đã có người thương đến, nhờ giời cũng được ba mụn con. Nhưng mẹ chồng con không bằng lòng cho con là nhà trò con hát, bắt chồng con phải rẫy. Chồng con không vâng lời thế là cụ từ, không thèm nhìn mặt. Hai vợ chồng đành phải đi làm thợ sơn nuôi thân, nuôi cháu. Mới đây, anh ấy chẳng may bị bạo bệnh mà chết, con vẫn thủ tiết thờ chồng nuôi con. Chả là nhà con thường có bạn buôn đến giao hàng nhận hàng, người anh chồng con vin vào đó vu cho con là trong khi tang chồng mà chứa giai trong nhà, cáo lên cửa quan. Chung quy chỉ muốn đuổi mẹ con con ra khỏi nhà này chiếm lấy mặt cửa hàng và để hưởng hết gia tài của mẹ chồng con sau này. Chẳng biết lễ lạt thế nào mà quan huyện Thọ Xương cho lính đến nhà, bắt con giải lên huyện về tội thất tiết làm bại hoại phong hóa. Con hỏi bọn lính có bắt được quả tang không mà lại trăng trói người ta. Chúng quát: Bất biết, lệnh quan đòi thì cứ phải lên hầu đã, rồi cứ sấn vào trói. Con liều đẩy chúng ra, hô hoán lên. Bà con phường bạn đến đánh tháo, chúng đành phải lui, trước khi về còn đe rồi sẽ biết tay. Con biết thế nào chúng cũng còn đến hành hung mà con thì thân cô thế cô chống làm sao được với lũ hùm sói ấy. Bóp đầu bóp trán nghĩ mãi con mới sực nhớ ông Tám con có thể che chở cho con, nên vội bế cháu lội tắt đồng sang tận bên Kẻ Gióng. Sang đến nơi thì bà con dạy là ông con đã vào Kinh rồi...

Đứa bé được thả xuống từ nãy đã lấy que chọc sơn son, sơn đen quệt nhoe nhoét lên mặt. Nó còn bôi tay đầy sơn vào những khay, tráp, quả đang làm dở. Nguyễn Du vội bảo chị Hương cứ bế lấy con đừng sợ thất lễ. Chị ta vừa ôm con, vừa nói tiếp:
- Thấy thế con đã ngã lòng nghĩ phen này thật hết đường trông cậy. Ai ngờ phúc nhà con còn vượng, lại gặp ông lớn đây. Ông lớn quen biết các quan trong trấn thành, một lời ông lớn nói giúp bằng trăm ngàn lời của chúng con.

- Giá có chú Tám ở đây với các quan là chỗ thân, nói cũng mạnh hơn, còn ta chỉ là khách - Nguyễn Du ngần ngừ.

- Con cắn rơm cắn cỏ lạy ông lớn, ông lớn nghĩ tình tôi tớ trong nhà mà cứu giúp cho. Con tin rằng được lời ông lớn thì các quan cũng nể gia thế nhà ta mà không nỡ xử ức con.

Nguyễn Du im lặng nhìn ra đường. Tính ông vốn không thích xin xỏ cầu cạnh. Cơ lao bất tác cầu nhân thái, bụng đói không giở thói cầu xin người, ông đã nói ý ấy trong bài thơ Thành Hạ Khí Mã. Biết mình nói có đắt lời không hay lại hại thêm cho người ta. Nhà Nguyễn hay nghi kỵ con em những cựu thần nhà Lê, anh ông là Nguyễn Nễ đã từng giúp việc cho tổng trấn Bắc thành mà về quê còn bị tên tri phủ Nguyễn Văn Chiêm truy bức, tức mà chết. Cả anh rể ông là Vũ Trinh, cũng vừa bị cái án trảm giam hậu đấy thôi. Nhưng nhìn cảnh chị Hương, một đàn con thơ nheo nhóc, đứa lôi đằng trước, đứa kéo đằng sau, ông không thể cầm lòng được, đành phải nhận lời vào dinh tổng trấn. Vả chăng khi mình đi sứ, ông tổng trấn đã đặt tiệc tiễn hành, nay mình về, cũng nên vào chào cho phải phép.

Nhớ đến lời hứa với chị Hương, Nguyễn Du xếp sách vở lại, lên đường vào dinh trấn. Tới gần cửa Đông Nam, lính ở trong thấy người, thả điếu kiều cho ông qua hào. Cửa thành, hai tên lính áo vải đen trong lót vải vàng, tay chẽn, khố lục thắt ngang lưng, xét hỏi người ra vào. Thấy Nguyễn Du mặc thường phục áo lương khăn lượt, chúng cầm giáo ngáng lại. Nhưng khi ông xưng chức tước là Cần chánh điện học sĩ, Du đức hầu, chánh sứ đoàn tuế cống sang Bắc quốc về thì chúng mặt tái như chàm đổ, một tên vội chạy vào báo. Lát sau tên đó đã chạy như bay ra, chắp tay cung kính:

- Quan tổng trấn rước cụ lớn vào.

Nguyễn Du theo đường cửa vòm xuyên qua tường thành. Khỏi cột cờ ông qua dũng đạo thẳng tới trước điện Kính Thiên. Nhìn đằng sau thấy dấu vết một hai cung điện cũ của vua Lê nay đã đổ nát, bỗng ông cảm thấy bùi ngùi trước cuộc tang thương. Mải nghĩ, ông không biết mình đã tới trước dinh tổng trấn. Một giọng nói ồm ồm cất lên:

- Ô kìa, quan Chánh sứ, bữa ngài hồi quốc tôi bận việc quan nên không thân ra cửa ô nghênh tiếp được, xin ngài tha cho cái tội thất lễ.

Nguyễn Huỳnh Đức đã ra trước cửa đón. Y đã sáu mươi tuổi, tướng võ biền, trán thấp, mi mắt sùm sụp, lông mày chổi xể, đôi mắt thỉnh thoảng ánh lên những tia dữ tợn nhưng lại vụt tắt ngay. Nguyễn Du đáp lễ:
- Bẩm quan huynh, đệ mới về còn tẩy trần cho hết cát bụi đường trường mới dám vào hầu.

Nguyễn Huỳnh Đức mời Nguyễn Du vào trung đường, pha trà khoản đãi. Viên đội nhà chè bê lên một bộ ấm chén Khang Hy. Nguyễn Huỳnh Đức thân rót ra hai chén, đẩy đĩa chén về phía Nguyễn Du, mời. Nguyễn Du nhấp một ngụm, bỗng nhăn mặt. Thứ trà này đúng là pha bằng siêu đồng, kim khí bị hòa khí nó hấp hơi, có mùi tanh đồng. Nguyễn Du khi uống trà tất phải tự tay pha lấy bằng siêu đất nung, có như vậy mới giữ được hương vị.

Nguyễn Huỳnh Đức đưa đà câu chuyện:
- Ngài sang Bắc quốc có kiếm được bộ ấm chén nào cổ không? Mấy năm nay tôi cũng để ý lùng một chiếc ấm Dương Tiễn mà mãi chưa được.

- Tính tôi ưa xuề xòa nên chỉ kiếm một bộ đĩa chén sứ mộc và sách thôi.

- À sách, sách cũng hay! Trẻ nhỏ nhà tôi đang cần cái món ấy để tập làm văn bài. Nhưng phải cái loại tứ thư ngũ kinh có nhiều thể chú và chú thích của tiên nho ấy. Làm kinh nghĩa mà dẫn được điển tích nhiều thì mới dễ đỗ.

- Lần này, đệ bận sứ sự nên cũng không có thì giờ săn tìm sách cổ. Một hôm, ngẫu nhiên đi qua một cửa hàng sách ở Hàng Châu, đệ mới mua được một quyển Kim Vân Kiều truyện.

- Kim Vân Kiều truyện? Có phải tiểu thuyết không? Nói quan huynh bỏ lỗi cho, chứ tiểu thuyết toàn là loại sách nhảm cả, người quân tử há nên để mắt tới.

- Ấy, tôi cũng chỉ định mua về cho trẻ trong nhà nó xem thôi.

Nguyễn Huỳnh Đức trợn tròn mắt:
- Ấy chớ chớ! Tôi can ngài đừng rước cái của nợ ấy về kẻo hư con em trong nhà. Có sách gì mà làm đôn nhân luân, chính tâm thuật, giới dâm thắc, thận pháp thủ (làm luân thường ngay ngắn, tâm thuật chính đính, răn cấm chuyện dâm ô, khuyên cẩn thận giữ phép tắc) thì hãy cho chúng nó đọc chứ còn cái thứ dâm thư thì đừng.

- Không những thế mà tôi lại còn định diễn ra quốc âm nữa.

- Ngài có diễn nôm gì thì diễn nhưng cứ theo ngu ý, ngài nên diễn nôm cái sách gì khuyên dân không nên làm giặc cỏ ấy thì hay. Độ này giặc cứ như ong cả. Quan tổng trấn Nguyễn Văn Thành trước đã nhờ người làm khúc Điểm mê khuyên dân không nên nghe giặc nó dụ dỗ, lừa phỉnh, thì chúng lại làm khúc Tố khuất trả lời lại. Từ bấy đến nay, trấn quan chúng tôi cũng cạn lý đấu nhau với chúng. À hay ngài diễn nôm quách cái bộ Đãng Khấu Chí của cái nhà ông gì... môn khách quan Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị ngày trước, kể chuyện dẹp bọn giặc Lương Sơn Bạc mà lại hay. Ngài mà diễn nôm xong thì tôi xin cho khắc ván in ngay và xin biếu ngài năm mươi lạng vàng làm nhuận bút.

Nguyễn Du lảng sang chuyện khác:
- Thưa quan huynh, lần này đệ đến trước để chào quan huynh rồi về Kinh, sau có chút việc riêng nhờ cậy.

- Việc gì ngài cứ cho biết, nếu giúp được ngài, tôi đâu dám từ nan.

Nguyễn Du kể lại tình đầu nỗi oan của chị Hương. Nguyễn Huỳnh Đức vuốt vuốt mấy sợi râu bạc lơ thơ:
- Việc này hơi khó đấy. Nó thuộc về huyện Thọ, huyện Thọ xử thế nào còn tư lên phủ Hoài. Phủ Hoài không xét được thì mới bẩm lên đây. Cắt tiết gà ai lại dùng dao mổ trâu. Mình chưa đợi dưới bẩm lên mà cứ từ trên giội xuống, e có điều bất tiện. Ngài cũng đã làm quan cai trị, ngài còn lạ gì, tình thầy trò cũng phải để cho thuộc quan dưới họ làm ăn chứ. Ấy, tôi võ biền, nghĩ sao nói vậy, ngài đừng chấp nha!

Nguyễn Du cảm thấy hơi bực mình nhưng đành phải nín lặng. Nguyễn Huỳnh Đức vỗ đùi như chợt nghĩ ra:
- Ngài vừa nói mụ đó trước là con hát phải không?
- Vâng.
- Chừng bao nhiêu tuổi.
- Độ hăm hai.
- Hơi nhiều tuổi chút. Nhưng không sao. Nhan sắc có khá không?
- Cũng tạm coi được.
- Còn cái khoản hát thì không cần phải bàn. Đã là ca nữ nhà họ Nguyễn Tiên Điền thì có thể tin được. Lịnh Huynh ngày trước là người sành âm luật lắm kia mà, bài hát nào ngài viết ra cũng được ngoài giáo phường tranh nhau truyền tụng, thì con hát nhà ngài dĩ nhiên là phải giỏi rồi. Nói thiệt với ngài, tôi cũng tính lập một đội nữ nhạc trong trấn dinh, chỗ tôi chẳng yến tiệc nhiều mà không cứ các quan Khâm mạng trong Kinh ra còn cả khách Tây dương nữa. Năm trước, đón được con Cầm về phủ, nhưng nó già xấu quá rồi, chẳng lẽ mỗi khi ra hát lại phải lấy khăn lụa che mặt. Mà các quan bây giờ thì thanh không đủ, còn phải sắc nữa kia. Cái con Cầm ấy lại trái tính trái nết không pha trò có duyên như ngày xưa, lại cáu kỉnh gắt gỏng không biết chiều khách, làm phật lòng các quan, tôi cũng đang tính đuổi đi... À hình như nó đã hầu rượu trong bữa tiệc tiễn ngài đi năm ngoái thì phải...

Nhớ trong bữa tiệc hôm ấy, Nguyễn Du đã thấy một người đàn bà gầy gò, tóc hoa râm, sắc mặt đen sạm võ vàng, áo quần vải thô bạc phếch vá nhiều mụn trắng, ngồi im lặng ở cuối chiếu chẳng hề nói cười, hình dáng thật khó coi. Nhưng đến khi tiếng đàn nguyệt trong trẻo cất lên thì mọi vật hình như thay đổi cả. Cảnh trước mắt nhòa đi, ông chỉ thấy bát trăng trên hồ Giám, một ca nữ trẻ tuổi, mặt tươi như hoa đào, mày thanh má phấn, áo hồng, quần lụa cánh trả đang gảy một khúc đàn, tiếng thánh thoát tiêu tao khác hẳn mọi khúc trên đời thường nghe. Tiếng khoan như gió thoảng qua rừng thông, tiếng trong như đôi chim hạc trên trời xa thẳm. Tiếng mạnh như sét đánh tan tấm bia đá, tiếng buồn như lời rên của người mang bệnh nhớ nước... Khi nàng gảy xong một khúc thì tiền và lụa thưởng ném rào rào chồng đầy cả mặt đất. Hồi ấy, ra thăm anh là Nguyễn Nễ làm quan nhà Tây Sơn, Nguyễn Du đã từng gặp nàng trong bữa tiệc vui. Sau ông dời nhà về Nam, mãi năm ngoái mới gặp lại nàng trong bữa tiệc ở dinh tổng trấn.

Nguyễn Huỳnh Đức vít cong cái cần xe điếu bằng trúc ngà hóa long thở một hơi khói rồi nói tiếp:
- Hay là thế này. Ngài bảo chị ta cứ tạm lánh vào dinh tôi, rồi tôi cho người bắn tin là nàng đã sung vào đội nữ nhạc trong dinh tổng trấn, thì bố bảo Huyện Thọ cũng không dám giở dói chuyện gì nữa. Công tư vẹn cả hai bề, vừa giúp được ngài mà tôi cũng không mang tiếng là xọc vào chuyện của hàng liêu thuộc bên dưới, chẳng hay tôn ý thế nào?

Nguyễn Du ngần ngừ. Người đàn bà kia sở dĩ muốn sống là để nuôi con nhỏ, nay vào dinh, hầu môn nhất nhập thâm như hải, cửa hầu sâu như rốn bể, thế tất phải bỏ các con lại, nàng chẳng héo hon mà chết hay sao. Ông đành tìm kế hoãn binh:
- Nhưng mà chị ta đang còn tang trở...

- Ồ! Tang thì có quản ngại gì! Lịnh huynh ngày trước gặp khi con hát có tang cũng cứ cho tiền bắt hát, có quản ngại gì đâu! Hề hề!

Nguyễn Du còn định nói nữa nhưng thấy Nguyễn Huỳnh Đức đã cúi xuống, lấy móng tay cạo cạo quân mạt chược bằng ngà voi, coi như công việc thế là đã xong, biết có nói cũng không thể nào lay chuyển được nên đứng dậy cáo từ.

Ra khỏi Cửa Bắc, Nguyễn Du định lên chơi hồ Tây để ngắm cảnh, vừa mát con mắt vừa dịu tâm hồn sau những giờ khắc ngột ngạt khó thở trong dinh tổng trấn. Mưa vừa tạnh, mặt hồ Tây sáng như một tấm gương phẳng lặng. Qua phường Khán Xuân, Nguyễn Du nhớ đây là chỗ ở của Hồ Xuân Hương, người tình cũ. Giữa vùng nổi lên một ngọn núi đất gọi là núi Sưa, trên có nhiều cây sưa trổ những cành mềm như lạt, lá non tơ như lụa xanh rất mỏng, xen những chùm hoa trắng. Dưới chân núi có một ngôi nhà ba gian lợp lá, phía trước có treo tấm biển đề ba chữ Cổ Nguyệt Đường (chữ Cổ và chữ Nguyệt ghép thành chữ Hồ, họ của Xuân Hương), nét chữ đá thảo phóng túng.

Hồi đang sống ở Thăng Long, Nguyễn Du đã được bạn rủ đến đây chơi. Sau khi xướng họa văn thơ, phần trọng vì tài, phần yêu vì nết, Nguyễn Du đã đem lòng quyến luyến người con gái thơ hay xuất chúng này. Mối tình của hai người kéo dài được ba năm thì Nguyễn Du phải chia tay nàng vào Nam, sau đó ra làm quan cho nhà Nguyễn, hết Quảng Bình lại đến Huế nên không có dịp gặp mặt.

Bữa sứ bộ vừa về tới Thăng Long, Nguyễn Du đang ngồi trong công quán thì lính hầu đem vào trình một phong thư nói có người đưa đến. Giở ra xem thì thấy trên tờ giấy hoa tiên có một bài thơ thất ngôn bát cú dưới ký tên Hồ Xuân Hương. Thơ rằng:

Gửi Cần chánh học sĩ Nguyễn hầu,
Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung,
Có ai tới đấy gửi cho cùng
Mối tình chốc đã ba năm vẹn
Giấc mộng rồi ra nửa khắc không
Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập
Phấn son càng tủi phận long đong
Bụi còn đôi chút sương đeo mái
Lầu nguyệt năm canh chiếc bóng chong


Đọc bài thơ, ông biết người tình cũ có ý thầm trách mình làm quan to nên quên cả bạn bè, mình phải gặp nàng để thanh minh mới được.

Vừa nhìn thấy Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương đã reo lên:
- Ối giời! Đúng là rồng đến nhà tôm!

Nguyễn Du cười:
- Hôm nay là tôm đến nhà tôm chứ không phải rồng đâu. Gớm, làm gì mà trong bài thơ cô trách tôi quá vậy. Tôi có phải là loại người bội bạc với bạn bè như ông Chiêu Hổ đâu.

- Vâng, tôi cũng biết ông anh không phải là người xanh như lá, bạc như vôi không nhớ màu thắm vị cay của miếng trầu tôi mời ông anh lần đầu gặp mặt. Nhưng chẳng gì bây giờ ông anh cũng đường đường phương diện quốc gia, lúc nhìn thấy ông anh xe ngựa về tới đầu ô, tôi đâu dám đường đột đến chào để làm nhục thể quan Chánh Sứ Cần Chánh Điện Học Sĩ Du Đức Hầu.

- Thôi, cô đừng có nhắc tới chức tước làm gì cho tôi thêm hổ thẹn, phận hàng thần lơ láo nào có ra chi. Mũ áo của tôi chẳng qua cũng chỉ như mũ áo phường tuồng đóng trò giữa thế gian mà thôi. Cũng vì vậy, hôm nay tôi mặc thường phục đi bộ tới đây thăm cố nhân để chúng ta lại đàm đạo thơ văn với nhau như ngày nào. Bấy nay bận bịu trong chốn quan trường không được hưởng cái thú thanh nhã ấy, tôi cứ nhơ nhớ làm sao ấy.

- Ông anh chỉ nhớ cái thú bình thơ chứ không nhớ... hay sao?

- Tất nhiên là tôi nhớ cả cảnh, nhớ cả người cũng như câu thơ Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung của cô ấy.

- Nói vậy thôi chứ tôi thừa biết ông anh là người đa tình rồi.

- Hồ Xuân Hương liếc đôi mắt sắc như dao cau nhìn bạn, giọng ỡm ờ.

Nguyễn Du cũng trả miếng:
- Đa tình sao bằng nhà thơ đầm đìa lá liễu hạt sương gieo. Gần đây cô có làm được bài thơ nào không?

- Vừa rồi tôi mới làm bài thơ Chơi đài Khán xuân, xin đọc ông anh nghe và phủ chính cho. - Rồi Xuân Hương cất giọng đọc:

Êm ái chiều xuân tới Khán đài
Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai
Ba hồi chiêu mộ chuông gầm sóng
Một vũng tang thương nước lộn trời
Bể ái nghìn trùng khôn tát cạn
Nguồn ân trăm trượng dễ khơi vơi
Nào nào cực lạc là đâu tá
Cực lạc là đây chín rõ mười.


Vừa nghe thơ, Nguyễn Du vừa nhìn về phía núi Khán, nơi có Khán đài mà Lê Thánh Tông dựng để quan sát quân sĩ tập luyện ngày xưa, giờ chỉ còn trơ lại một gò đất cỏ mọc um tùm, sắc núi xanh như tấm bình phong chắn ngang che cho tòa thành cổ kính. Phía trước là hồ Tây rộng mênh mông, sóng gợn lăn tăn ánh bạc, xa xa thấp thoáng một cánh buồm trắng nổi bật lên nền xanh trời nước. Nguyễn Du trầm ngâm:

- Tôi nhớ ở Dâm Đàm (Hồ Sương Mù, tên cũ của Hồ Tây) này đã bao đời vua chúa ngự chơi hành lạc trên mồ hôi nước mắt và xương máu trăm họ, cũng đã có không biết bao nhiêu nhà thơ mềm môi uốn lưỡi làm thơ ca tụng triều đình để được hưởng chút cân đai áo mão. Vậy mà bây giờ hành cung Trấn bắc còn đâu nữa, chỉ còn ngôi chùa Trấn Quốc ba hồi chiêu mộ chuông gần sóng than thở cho bao lớp phế hưng. Hồ Tây trải qua bao triều đại đổi thay, cung điện lâu đài đều mất hết dấu vết, chỉ còn lại một vũng tang thương nước lộn trời. Bao nhiêu bài thơ thù phụng của bọn văn nô biến thành hư không, cái còn lại vẫn là tình người và những vần thơ xuất từ cái tâm người, những cái đó cũng như “bể ái nguồn ân” không bao giờ vơi cạn. Những chữ gầm, chữ lộn ở đây đều sống động, cựa quậy như nét bút điểm nhãn rồng thiêng cất mình khỏi vách mà bay thẳng lên mây. Còn thu cả đất trời thế sự vào trong một vũng thì quả là khẩu khí của một người muốn “giơ tay với thử trời cao thấp, xoạc cẳng đo xem đất ngắn dài”. Bài thơ của cô quả là ngữ ngữ kinh nhân (chữ chữ làm kinh người), cô xứng đáng là một bậc nữ kiệt trong làng thơ.

- Ông anh cứ quá khen chứ tôi làm gì mà dám bạo gan lộng thiên hí địa (đùa trời giỡn đất) như vậy. Còn câu thơ mà ông anh vừa nhắc đến đó chẳng qua là vì tôi lỡ ngã nên đọc đùa để chữa thẹn đó thôi.

- Cô đừng nên khách khí như vậy. Khi đọc câu thơ của cô. Ví đây đổi phận làm trai được, thì sự anh hùng há bấy nhiêu, tôi đã ứa nước mắt tủi thẹn vì mình là trai mà tấm thân bảy thước lại chịu khom lưng trước sân người. Tôi có muốn chi cảnh vào luồn ra cúi nhưng vẫn phải nhẫn nhục ra làm quan để cầu chút bổng lộc về nuôi mười miệng trẻ thơ.

Hồ Xuân Hương nhìn mái tóc bạc sớm của Nguyễn Du, ngậm ngùi. Nàng lảng sang chuyện khác cho bạn đỡ cơn phiền muộn:

- Giờ đến lượt ông anh đọc thơ cho tôi nghe để tôi được hân hạnh lắng nghe lời châu ngọc của danh sĩ Tố Như.

Nguyễn Du khiêm tốn:
- Lâu nay tôi biếng làm thơ, nhân vừa rồi đi sứ dọc đường xúc cảnh sinh tình có làm một số bài thơ ghi lại những điều mắt thấy tai nghe dọc đường, xin đọc bài thơ Sở Kiến Hành để bạn nghe và chờ lĩnh giáo.

Nghe xong bài thơ, Hồ Xuân Hương nói:
- Bài thơ này ghi lại cảnh khổ của con người mà ông anh chứng kiến trên đường đi sứ, quả là xúc động lòng người, chỉ nguyên một câu Lân cẩu yếm cao lương (chó hàng xóm chán cao lương) cũng có thể sánh với câu Chu môn tửu nhục xú, Lộ thượng đống tử cốt (Cửa son rượu thịt ôi, ngoài đường xương chết rét.) của Đỗ Phủ. Đến như câu Thiên nhật giai vị hoàng (Trời, mặt trời cũng vì Người mà vàng úa.) thì đáng nối gót Ly Tao của Khuất Nguyên. Ông anh hẳn nhớ câu thơ Lý Bạch Khuất Bình Từ phú huyền nhật nguyệt, Sở vương đài tạ không sơn khấu (Từ phú Khuất Nguyên treo cùng mặt trời mặt trăng, đài tạ vua Sở biến mất chỉ còn lại gò núi.). Quyền thế nhất thời rồi sẽ qua đi, nhưng văn chương sẽ còn mãi mãi với nước non, như Hồ Tây, như Núi Khán. Nhưng tôi trộm nghĩ văn chương thiên cổ sự (văn chương là chuyện nghìn đời.) mà thơ của ông anh từ trước đến nay hầu hết đều làm bằng chữ Hán. Ông anh cũng thừa biết chữ Hán là ta vay mượn của Tàu, sau này đến một lúc nào quốc ngữ thông dụng mà người biết chữ Hán ngày một ít đi thì làm sao có thể lưu truyền cho những đời con cháu sau này. Ấy là chưa nói làm thơ quốc âm, người không biết chữ cũng có thể học theo lối truyền khẩu rồi truyền lại cho người khác. Theo ngu ý, ông anh nên dùng thơ nôm để soạn một áng văn tuyệt tác ghi lại những nỗi đau khổ của con người, vừa giãi bày tình thương xót đối với những kẻ khốn cùng, tố cáo cảnh bất công áp bức, vừa để lại một gia tài gom góp bằng tâm huyết làm hương hỏa cho muôn đời con cháu nhớ đến ông cha, nòi giống, giữ cho hồn nước dẫu bao thăng trầm cũng không thể nào tiêu diệt được.

Nguyễn Du sửng sốt, vỗ đùi tấm tắc khen:
- Cô nói chí lý. Khi đi sứ, tôi đã làm những bài thơ chữ Hán ghi lại cảnh khổ của người Tàu, nhưng khi về tới đây, tôi lại phải chứng kiến bao cảnh khổ của người trong nước, không những thế lại là người trong nhà tôi.

Rồi Nguyễn Du kể lại cảnh khổ của chị Hương cho bạn nghe. Nghe xong, Hồ Xuân Hương nói:
- Tôi rất hiểu nỗi khổ tâm của ông anh. Mình đã bất lực không cứu nổi họ, chỉ còn một cách giúp họ giãi tỏ nỗi bất bình gửi gắm niềm thông cảm vào trong văn chương, cũng an ủi được người ta phần nào, hơn nữa, còn an ủi được bao nhiêu kiếp người bạc mệnh từ ngàn xưa đến ngàn sau. Áng văn của ông anh phải là tiếng kêu đứt ruột của những kẻ tài tình bị đọa đày vùi dập, làm sáng lên chữ tâm giữa đêm trường dạ của đời.

Những lời của Xuân Hương, một tia chớp chợt lóe lên trong óc Nguyễn Du. Vừa rồi ông đã toan bỏ ý định diễn nôm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm tài nhân vì thấy nguyên bản tầm thường quá. Giờ đây bị kích thích bởi niềm thương xót những con người đau khổ như cô Cầm, chị Hương,niềm căm ghét những kẻ độc ác tham tàn, cộng với bao nhiêu điều tai nghe mắt thấy từ trước đến nay, ông thấy mình đủ sức thoát thai đổi cốt cho lũ hình nhân lạnh lẽo trong nguyên bản, đắp điếm xương thịt cho chúng, thổi hồn sống vào đó. Từ hình ảnh, tâm tư của những con người có thực trong cuộc đời. Với ngọn lửa tâm làm đuốc, ông sẽ lần từng bước xuống địa ngục của kiếp người, vớt lên từng vong hồn cho chúng đầu thai vào cõi văn chương để làm nhân chứng muôn đời cho Thiện và Ác. Lúc này ông dọc ngang nào biết trên đầu có ai, chỉ sợ trước trách nhiệm của mình đối với người đọc, đối với hậu thế. Mai sau dù có bao giờ đọc lại những dòng thơ đẫm nước mắt thương đời, biết đâu người ta chẳng hiểu được tâm sự của ông hôm nay.

Thấy Nguyễn Du đang nhìn về phía xa xăm như đắm hồn trong cõi mộng, Hồ Xuân Hương trêu đùa:
- Dù cái tâm có sáng đến mấy đi nữa thì vẫn cứ phải điểm tâm, từ nãy đến giờ tôi đã thấy kiến bò trong bụng rồi đây. Bữa nay tôi mới làm được ít bánh trôi nước, để tôi dọn lên đây chúng ta cùng thưởng thức.

Nguyễn Du nhìn chiếc bánh trôi nước trắng tròn, bập bềnh trong bát nước đường màu ngà, bỗng nhớ lại bài thơ mà Hồ Xuân Hương đã đọc cho ông nghe ngày trước.

Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,
Riêng em vẫn giữ tấm lòng son.


Lời thơ quyện vào cái chất dẻo của bánh, vị ngọt của đường thấm sâu mãi vào lòng để lại hương vị khó quên trên đầu lưỡi. Bỗng ông ngước lên nhìn người bạn thơ không chớp. Qua đôi mắt hư ảo của ông, khuôn mặt Xuân Hương như đã biến thành chiếc bánh trôi nước bệp bềnh trên mặt nước Hồ Tây với nền trời xanh da bát ngát.




Hoài Anh
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Xuân .. Xuân .. Xuân .. Giáp Thìn ...

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          

          
:flwrhrts:

          
Hình đại diện
Vi
Bài viết: 780
Ngày tham gia: Thứ năm 16/03/17 23:48

Re: Xuân .. Xuân .. Xuân .. Giáp Thìn ...

Bài viết bởi Vi »


Ảnh Biểu Diễn Lái Honda của Lính Chà Dzà

Mời Quý khách Nhà Nam ngày Tết rảnh rỗi ngồi cắn hạt dưa dzà ... đếm chơi ... :giggles:

Hình ảnh

Hình ảnh

Hình ảnh
Cảnh sát nữ quá hào hùng luôn

Hình ảnh

Hình ảnh
khi xe ôm rỗi việc

Hình ảnh

Hình ảnh

Hình ảnh
xin đừng đếm lộn... hơn 3 tá đó nha :giggles:

Hình ảnh
Phái hồng đào cũng đáng mặt anh hùng chớ bộ

Hình ảnh

Hình ảnh

Hình ảnh

Hình ảnh
Từ biên giới Tây Tạng cũng ... xuống núi thi đấu

Hình ảnh

Hình ảnh

Hình ảnh

Hình ảnh

Hình ảnh
Lên được mà xuống hổng được :giggles:
Trả lời

Quay về “Chuyên đề”