- 30/04/2022 - tưởng niệm 47 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Trả lời
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Biểu Tình 30/4 - Berlin - Đức

Bài viết bởi Hoàng Vân »






Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Biểu Tình 30/4 - Paris - Pháp

Bài viết bởi Hoàng Vân »






Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Ấy dòng sông Trẹm tôi quen

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           




              



              
    Ấy dòng sông Trẹm
    tôi quen

    _________________________







    Ấy dòng sông Trẹm tôi quen
    Nắng cao để lắng vị phèn đỏ hoe
    Người đi đâu biết sang hè
    Chỉ nghe quanh quẩn tiếng ve gọi sầu
    Em khăn tắm quấn ngang đầu
    Nhìn tôi con mắt bạn thù ai hay?

    Ấy dòng sông Trẹm xưa nay
    Còn thương cây mắm rễ cài trên không
    Lênh đênh em một chiếc xuồng
    Ðời tôi lính trận cỏ bồng chân mây
    Xa nhà mượn chén rượu cay
    Khóc khi mai biết tuổi đầy buồn lên

    Ấy dòng sông Trẹm tôi quen
    Nhà ai đã vội đốt đèn đêm nay
    Dầu mù u ngọn lắt lay
    Em nơi âm phủ khói bay tìm về
    Hận người con muỗi vo ve
    Nằm trong cuộc chiến bạn bè giết nhau

    Ấy dòng sông Trẹm trôi mau
    Nước đi nhắc lại cái màu thời gian
    Nhớ hồi ở miệt Năm Căn
    Rải quân mấy cụm đóng đồn giữ dân
    Mùa khô con cá thưa dần
    Tôi xui xẻo biết em làm giao liên
    Ấy dòng sông Trẹm tôi điên
    Thề không trở lại đi thuyền năm xưa.





    Lâm Hảo Dũng

              



              

              



Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

AN LỘC chiến trường đi không hẹn

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           




              
    AN LỘC
    chiến trường đi không hẹn

    ________________________
    Phạm Châu Tài


    Viết cho những chiến hữu của tôi đã một thời
    vào sanh ra tử trên khắp chiến trường sôi bỏng để bảo vệ đất nước.




              

    Mùa hè năm 1972 đi qua như cơn ác mộng mà khi tỉnh dậy người ta vẫn còn bàng hoàng như đang mê sảng.

    Mùa hè đến với những cơn lốc bạo tàn, với những trận cuồng phong kinh hãi, sẵn sàng huỷ hoại tất cả những gì gọi là sự sống của con người, mà những tiếng kêu thương, bi ai thống khổ nhất vẫn còn âm vang cho đến ngàn sau.

    Mùa hè đến với bão lửa ngụt trời, bão lửa cuồn cuộn vút lên như hoả diệm sơn bao trùm khắp bầu trời Miền Nam Việt Nam, bão lửa hừng hực thiêu đốt muôn vạn sinh linh đang sống an lành, tự do phía Nam vĩ tuyến 17.

    Ðau đớn thay, ác mộng kinh hoàng ấy, cuồng phong và bão lửa ấy lại do chính con người gây nên, con người mang nhãn hiệu Cộng Sản, lãnh đạo bởi một lũ người cuồng tín đã bán linh hồn cho quỷ đỏ đang ngự trị tại Hà Nội.

    Người ta được biết, sau khi tiếp nhận sự chi viện khổng lồ không giới hạn về các loại vũ khí và phương tiện chiến tranh tối tân nhất từ phía Cộng Sản Nga – Tàu, Hà Nội điên cuồng tung vào Miền Nam ba cuộc tấn công vũ bão vào Tỉnh Quảng Trị của vùng giới tuyến, vào Tỉnh Kontum của Tây Nguyên và vào Tỉnh Bình Long thuộc miền Ðông Nam Phần.

    Cuộc chiến bùng nổ khốc liệt chưa từng xẩy ra từ ngày Cộng Sản phát động cuộc chiến tranh gọi là giải phóng vào thập niên 60. Lửa, máu, nước mắt hoà với bom đạn đã cầy xới và tràn lan khắp quê hương Miền Nam tự do, tuy nhiên Cộng Sản miền Bắc phải trả một giá rất đắt về hành động điên cuồng, dã man của chúng để nhận sự thất bại đắng cay: Quảng Trị vẫn đứng vững, Kontum vẫn kiêu hùng quật khởi và Bình Long vẫn anh dũng hiên ngang phất cao ngọn cờ chính nghĩa.

    Trong chiến tranh, tấn công xâm chiếm mà không lấy được mục tiêu, bị thiệt hại nặng nề là thất bại hoàn toàn. Trái lại, phòng thủ quyết tâm chống trả, dù phải chấp nhận ít nhiều tổn thất hy sinh mà vẫn giữ vững phần đất quê hương thì được gọi là chiến thắng.

    Với lý lẽ căn bản nêu trên, ba cuộc tấn công của Cộng Sản Bắc Việt vào mùa hè năm 1972 trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà thì Cộng Sản Việt Nam là kẻ chiến bại, và Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà là người chiến thắng.

    Phát động tấn công xâm chiếm vào đầu tháng 04 năm 1972, tính đến tháng 09 năm 1972, thiệt hại nhân mạng của Cộng Sản Bắc Việt được ước lượng khoảng 100 ngàn người!

    100 ngàn vong linh của những người “sinh Bắc tử Nam” trở thành lũ âm binh lạc loài, vất vưởng tha hương mà gia đình họ không bao giờ biết được.

    Giành lấy chiến thắng một cách kinh hoàng và oai hùng nhất trong ba cuộc tấn công của Cộng Sản Bắc Việt vào lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà có thể nói là chiến thắng Bình Long mà trận chiến vô cùng khốc liệt đã bùng nổ tại Thị Xã An Lộc. Một tài liệu chính thức của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hoà được ấn hành sau mùa hè năm 1972 đã công bố: “Tại mặt trận An Lộc cuộc tấn công đầu tiên của quân Cộng Sản khởi đầu vào ngày 13-04-1972 bằng toàn bộ của các Sư Ðoàn 5, 7, 9 và Sư Ðoàn Bình Long với tổng số vào khoảng 50 ngàn người”. Cộng Sản ước tính sẽ đánh chiếm An Lộc từ 5 đến 10 ngày và dự trù ngày 20-04-1972 sẽ ra mắt chính phủ “Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam” tại thành phố An Lộc.

    Thật vậy, lực lượng Cộng Sản Bắc Việt tại Bình Long, ngoài 4 Sư Ðoàn với quân số mỗi Sư Ðoàn là 10,400 người, còn có một Trung Ðoàn Ðặc Công, 2 Trung Ðoàn Pháo Binh và Phòng Không và hai Trung Ðoàn xe tăng. Hơn nữa, sự bổ sung quân số dễ dàng từ Mimot, Snoul bên kia biên giới Miên là nguồn nhân lực chính mà người ta khó ước tính được con sồ chính xác.

              

    81 Biệt Kích Dù
              
              
    NHẬN DIỆN CHIẾN TRƯỜNG

              
    An Lộc là quận châu thành Tỉnh Bình Long, cách thủ đô Sài Gòn khoảng 100 cây số về hướng Tây Bắc, với diện tích bề dài 1,800 thước và bề ngang đo được 900 thước, một Thị Xã nhỏ bé đìu hiu, chung quanh là rừng cao su ngút ngàn đến tận biên giới. Bình Long có ba quận hành chánh, cực Nam là quận Chơn Thành và cực Bắc là quận Lộc Ninh.

    Quốc lộ 13, con đường huyết mạch nối liền từ Lai Khê của Tỉnh Bình Dương đi qua các quận lỵ, xã ấp của Tỉnh Bình Long. Cách An Lộc 18 cây số về hướng Bắc là Lộc Ninh và cách An Lộc 30 cây số về hướng Nam là Chơn Thành.

    Từ Chơn Thành xuôi quốc lộ 13 về hướng Nam khoảng 30 cây số là Lai Khê, nơi đặt bản doanh của Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà.

    Cơ sở hành chánh và quân sự Tỉnh Bình Long đặt ngay trong quận châu thành An Lộc dưới sự điều hành của viên Tỉnh Trưởng là Ðại Tá Trần Văn Nhựt.

    Trước khi trận chiến bùng nổ, quận Lộc Ninh được tăng cường với Trung Ðoàn 9 thuộc Sư Ðoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà, một khẩu đội pháo binh đặt tại căn cứ yểm trợ hoả lực Alpha cách Lộc Ninh khoảng 8 cây số về hướng Bắc và một Chi Ðoàn Thiết Giáp thuộc Thiết Ðoàn 5 Kỵ Binh Việt Nam Cộng Hoà. Tại An Lộc, ngoài một số Ðịa Phươhg Quân, Cảnh Sát, và các cơ sở hành chánh Tỉnh mà nhân số không quá 200 tay súng, còn có pháo đội 105 ly, Chi Ðoàn Thiết Giáp, Trung Ðoàn 7 thuộc Sư Ðoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà, và Liên Ðoàn 3 Biệt Ðộng Quân. Ðể đánh chiếm Bình Long, Cộng quân cắt đứt quốc lộ 13 từ Lai Khê đi Lộc Ninh, đồng thời phong toả bầu trời Bình Long bằng một hệ thống phòng không để ngăn chặn sự can thiệp của Không Quân Việt Nam Cộng Hoà.


              
    TRẬN CHIẾN BÙNG NỔ


              
    Ba giờ sáng ngày 05 tháng 04 năm 1972 Trung Ðoàn Pháo có bí danh E.6 bắn phủ đầu vào các cứ điểm phòng ngự của Trung Ðoàn 9 Bộ Binh do Ðại Tá Trần Công Vĩnh chỉ huy bằng hàng ngàn quả đạn pháo đủ loại, sau đó Cộng quân tung Sư Ðoàn 5 Cộng Sản Bắc Việt có xe tăng yểm trợ bắt đầu tấn công. Mặt khác, Cộng quân sử dụng Trung Ðoàn 272 thuộc Sư Ðoàn 9 Cộng Sản Bắc Việt phục kích quốc lộ 13 từ An Lộc đi Lộc Ninh để tiêu diệt đường rút lui của quân trú phòng.

    Mặc dù có sự can thiệp hữu hiệu của Không Quân, căn cứ yểm trợ hoả lực Alpha, phi trường Lộc Ninh và cứ điểm quân sự của Trung Ðoàn 9 Bộ Binh bị tràn ngập sau hơn hai ngày chống trả mãnh liệt. Lộc Ninh được ghi nhận hoàn toàn mất liên lạc lúc 19 gìờ ngày 07-04-1972.

    Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh kịp thời nhảy vào An Lộc với hai Tiểu Ðoàn của Trung Ðoàn 8, tăng cường cho mặt phòng thủ phía Bắc Thị Xã ngày 06-04-1972 và tuyên bố tử thủ An Lộc.

    Hai tiếng tử thủ lần đầu tiên được nhắc nhở nhiều lần trong chiến tranh Việt Nam qua lời tuyên bố của vị Tướng Tư Lệnh chiến trường, biểu lộ ý chí sắt đá của người chiến binh Việt Nam Cộng Hoà, quyết tâm chiến đấu để bảo vệ, gìn giữ mảnh đất quê hương.

    Hai tiếng tử thủ như lời thề cùng sông núi, lời hứa hẹn với tiền nhân đã ra công dựng nước và giữ nước.

    Hai tiếng tử thủ đã làm rung động con tim nhân dân miền Nam và cả nước hướng về An Lộc !

              

    Tử Thủ

              

    Chiếm xong Lộc Ninh, Cộng quân tiến về phía Nam và bắt đầu tấn kích An Lộc rạng sáng ngày 13-04-1972. Thực ra kể từ ngày 08-04-1972, Cộng Sản Bắc Việt đã dùng pháo binh rót vào An Lộc, Chơn Thành và Lai Khê để cầm chân sự tiếp viện của Việt Nam Cộng Hoà.


              
    LỰC LƯỢNG TĂNG VIỆN CỦA QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HOÀ

              
    Lực lương đầu tiên được tăng viện đến Lai Khê ngày 05-04-1972 là Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù do Ðại Tá Lê Quang Lưỡng chỉ huy gồm ba Tiểu Ðoàn và Pháo Đội Nhảy Dù.

    Lực lượng tăng viện thứ hai là Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù do Trung Tá Phan Văn Huấn chỉ huy gồm 4 Ðại Ðội xung kích và 4 toán thám sát.

    Ngoài ra, Bộ Tổng Tham Mưu Việt Nam Cộng Hoà quyết định sử dụng toàn bộ Sư Ðoàn 21 Bộ Binh từ vùng đồng bằng sông Cửu Long tăng cường cho mặt trận Bình Long, giải toả quốc lộ 13.

    Ngoài quân bộ chiến nêu trên, Sư Ðoàn 5 Không Quân Việt Nam Cộng Hoà đã yểm trợ cho chiến trường từ những ngày đầu chiến sự bùng nổ tại Lộc Ninh với những phi vụ tấn công và yểm trợ xuất phát từ căn cứ không quân Biên Hoà và Tân Sơn Nhất. Hai đơn vị Không Quân của Không Lực Hoa Kỳ có mặt tại Quân Khu III Việt Nam Cộng Hoà là Lữ Ðoàn 7 Kỵ Binh Không Vận và Lữ Ðoàn 1 Không Vận cũng góp phần vào việc yểm trợ cho chiến trường Bình Long một cách đắc lực và hữu hiệu.

    Với nhiệm vụ cắt đứt quốc lộ 13 ngăn cản sự tiếp viện của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà từ Lai Khê, Sư Ðoàn 7 Cộng Sản Bắc Việt được tăng cường pháo binh và phòng không tổ chức chằng chịt các vị trí phục kích, chốt chặn, chốt kiềng, giật sập cầu, phá đường mong biến quốc lộ 13 thành một sạn đạo, có đi mà không đường trở lại.

    Ngày 12-04-1972, Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù mới đặt chân đến quận Chơn Thành sau 7 ngày chạm trán với Cộng quân để giải toả một khoảng đường không quá 30 cây số.


              
    MỞ MÀN TRẬN CHIẾN TẠI AN LỘC

              
    “Tiền pháo hậu xung” là một chiến pháp dùng để tấn kích một căn cứ quân sự, một đồn binh hay một trại lính có pháo đài, có công sự chiến đấu, có nhiều lớp rào kẽm gai làm chướng ngại vật và hệ thống mìn bẫy giăng mắc chung quanh.

    An Lộc không phải là một căn cứ quân sự. An Lộc chỉ đơn thuần là một Thị Xã nhỏ bé, có nhà, trường học, bệnh viện và đường phố tấp nập người đi. An Lộc là một phố thị mà dân cư nhiều hơn lính chiến.

    Áp dụng chiến thuật “tiền pháo hậu xung” để đánh chiếm An Lộc, Cộng Sản Bắc Việt đã hiện nguyên hình là loài quỷ đỏ điên cuồng bắn hàng ngàn quả đạn pháo 130 ly, 155 ly, súng cối 120 và hoả tiễn 122 ly vào phố thị đông người để sát hại dân lành vô tội.

    Pháo! Loại đạn vòng cầu có tầm phá hủy kinh khủng nhất đã rót liên tục vào Thị Xã, ngày cũng như đêm, pháo từng hồi, từng phút, từng giờ biến An Lộc bỗng chốc trở thành hoả ngục. Nhả cửa, nhà thờ, chùa chiền, cao ốc, bệnh viện tất cả đều thay hình đổi dạng, sụp đổ hoang tàn.

    Trú ẩn trong nhà cũng bị thương vong, chạy ra đường cũng chết. Sự chết đau thương và đến bất chợt theo tiếng ầm vang của pháo, theo tiếng gió rít của tầm đạn đi. Sự chết hãi hùng, chết không kịp nhắm mắt, chết không toàn thây, chết vô thừa nhận đầy dẫy khắp nơi trên đường phố. Ngay khi mưa pháo thưa dần và chấm dứt, Cộng quân tung vào trận địa Sư Ðoàn 9 và Sư Ðoàn Bình Long với sự yểm trợ của chiến xa T54.

    Tuyến phòng thủ phía Tây Thị Xã do Trung Ðoàn 7 Bộ Binh đảm nhiệm và phía Ðông do Liên Ðoàn 3 Biệt Ðộng Quân án ngữ, chống trả mãnh liệt, khi thì dãn ra, lúc co cụm lại, nhưng vẫn đứng vững, trong khi tuyến phòng thủ phía Bắc do hai Tiểu Ðoàn thuộc Trung Ðoàn 8 vừa đến tăng cường đã bị chọc thủng. Ðặc công, xe tăng và quân bộ chiến Cộng Sản Bắc Việt tuôn vào thành phố như nước vỡ bờ. Ác chiến diễn ra trên thành phố, đạn bay súng nổ, thây người gục ngã, dân lành bồng bế, dìu dắt nhau bỏ chạy, chạy đi đâu để tránh thương vong… Nỗi khổ, nỗi lo và niềm hy vọng mong manh để được sống đã đến với người dân An Lộc sao quá bi thương, sao lắm đọa đầy!

    Xe tăng Cộng quân rú gầm nhiều nơi trong thành phố, chạy ngang chạy dọc, tiếng xích sắt ken két nghiến trên đường tráng nhựa hoà lẫn với tiếng nổ ì ầm bắn ra từ đại bác 100 ly trên pháo tháp nhắm vào các cao ốc, và những bức tường nhà hiển hiện trên hướng tiến của chúng.

    Trên bầu trời Thị Xã, Không Quân, bất chấp hiểm nguy, nhào lộn và len lỏi qua mạng lưới phòng không, tung ra những tràng đại liên và những quả bom chính xác vào vị trí giặc thù. Bom nổ làm rung chuyển thành phố như cơn địa chấn, từng cột khói đen bốc lên cao cuồn cuộn.

    Giây phút nao núng ban đầu khi thấy xe tăng Cộng Sản xuất hiện tan biến nhanh chóng trong lòng những người lính tử thủ. Bây giờ đã đến lúc vùng lên bắn hạ những con quái vật đó, phải biến chúng thành những khối sắt bất động, không còn tác yêu tác quái nữa. Một đoàn 4 chiếc tăng T54 từ hướng Bắc theo đường Nguyễn Trung Trực nối đuôi nhau tiến vào phía sau khu Chợ Mới. Một anh lao công đào binh tạo được công đầu bằng một quả lựu đạn tung vào thùng xăng phụ đèo sau đuôi xe tăng T54. Lựu đạn nổ, xe tăng bốc cháy! Việt Cộng từ trong xe tăng mở nắp pháo tháp chạy thoát ra ngoài bị thanh toán ngay tại chỗ, thây nằm vất vưởng bên thành xe. Chiếc thứ hai xuất hiện sát Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 5. Ðại Tá Lê Nguyên Vỹ Tư Lệnh Phó liền bắn một quả M.72 vào chiến xa T54. Vì bắn quá sát nên đạn M.72 không nổ, chiếc T54 bỏ chạy liền bị một chiếc trực thăng Cobra từ trời cao lao mình xuống phóng liền hai trái hoả tiễn trúng chiêc tăng đi đầu nổ tung. Ba chiếc tăng còn lại lúng túng, rú gầm trên khoảng đường bề ngang quá hẹp không xoay sở được, dễ dàng biến thành mục tiêu của hoả tiễn cầm tay M.72 được phóng ra từ quân trú phòng. Bây giờ người ta mới biết sức công phá mãnh liệt của loại hoả tiễn cầm tay M.72, một loại vũ khí chống tăng lợi hại mà bấy lâu nay bị người ta coi thường. Những chiếc tăng T54 đầu tiên bị bắn hạ tạo nên sự phấn khởi dây chuyền trong hàng ngũ quân trú phòng, họ xông vào xe tăng địch như một đợt thi đua lập chiến công. Hai khẩu pháo 105 ly của Thị Xã đặt tại sân vận động cạnh đại lộ Trần Hưng Ðạo hạ nòng bắn trực xạ vào xe tăng Cộng Sản, bắn lật tung pháo tháp xuống đất, bắn đứt xích, gẫy nòng và biến chúng thành những con cua rang muối, hừng hực đỏ lửa. Ðây là hai khẩu pháo cuối cùng của An Lộc đã bắn hết đạn trước khi tắt thở. Và bắt đầu từ đó, sự yểm trợ của hoả lực cơ hữu vào Thị Xã hoàn toàn bất khiển dụng.

    Trận đánh khởi đầu từ mờ sáng đến xế chiều dưới ánh nắng chói chan của mùa hè vùng nhiệt đới, dưới sức tàn phá kinh hoàng của đạn bom, mà mỗi giờ mỗi phút đi qua đều mang theo hình ảnh của sự huỷ diệt.

    Sự can thiệp của Không Quân gây ít nhiều thiệt hại cho Cộng quân, nhiều chiếc xe tăng T54 bốc cháy ven rừng trước khi vào thành phố.

    Ngoài ra, sự xuất hiện của pháo đài bay B.52 được coi như khắc tinh của chiến thuật biển người, đã gây nhiều nỗi khiếp đảm và làm tổn thất nặng nề cho 4 Sư Ðoàn Cộng quân đang bủa vây An Lộc.

    Pháo đài bay B.52, một vũ khí chiến lược của Không Lực Hoa Kỳ phát xuất từ Thái Lan và đảo Guam đã can thiệp vào chiến trường Bình Long theo yêu cầu của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hoà thực hiện 17 phi vụ đánh bom, mỗi phi vụ gồm 3 phi cơ bay trên thượng tầng khí quyển mà mắt thường ít khi nhìn thấy, chỉ nghe tiếng ù ù xa xăm của động cơ mà không biết bom sẽ nổ nơi nào. Mỗi phi vụ mang 42 quả bom nặng 500 ký và 24 quả bom nặng 250 ký đồng loạt rơi xuống chính xác mục tiêu đã ấn định. Vài giây đồng hồ trước khi bom nổ, người ta phát hiện tiếng gió rít ghê rợn của hàng loạt bom đang rơi, tiếng rít gió ào ào như trận cuồng phong, như tiếng kêu của tử thần. Bom chạm mục tiêu, nổ hàng loạt, nổ từng chuỗi dài, tiếng nổ làm rung chuyển mặt đất, lửa và khói đen bốc cao, từng luồng khí nóng hừng hực toả ra với vận tốc cực nhanh, 500 thuớc bề ngang và 1,000 thước bề dài trong tầm sát hại của bom rơi, tất cả đều biến thành bình địa.

    Trong trận chiến An Lộc, B.52 đã đánh bom, có khi chỉ cách tuyến phòng thủ 900 thước, theo tin tức tình báo được kiểm nhận, có cả một Trung Ðoàn Cộng quân bị biến mất trong lúc bao vây thành phố.

    Sau ba ngày đêm chống trả dữ dội, khu vực phía Bắc thành phố, kể cả đồi Ðồng Long, một cao điểm chiến thuật quan trọng đã lọt vào tay giặc. Từ đồi Ðồng Long, Cộng quân quan sát và nhìn rõ mọi hoạt động trong thành phố, hơn nữa nơi dây là cao điểm lý tưởng để tổ chức các vị trí súng phòng không 12 ly 8, đại bác 23, 37 ly và hoả tiễn địa không SA-7 đã khống chế và làm giới hạn sự can thiệp của Không Quân. Tuyến phòng thủ An Lộc càng lúc càng thu hẹp dưới sức ép của pháo binh và tấn công liên tục của Cộng Sản.

    Quốc lộ 13 chưa được giải toả, do đó sự tiếp viện bằng đường bộ hoàn toàn bị tê liệt. Sự yểm trợ bằng Không Quân cũng gặp khó khăn. Hơn 80% đồ tiếp liệu như đạn dược, thuốc men và thực phẩm được thực hiện bằng phương tiện thả dù đã rơi vào vùng địch kiểm soát. Những đơn vị cơ giới và pháo binh của An Lộc hoàn toàn bất khiển dụng, phân nửa lực lượng phòng thủ bị loại ra khỏi vòng chiến.

    An Lộc đang hấp hối, nhưng chưa tắt thở. Trong tình trạng chiến đấu tử thủ hôn mê đó, An Lộc vẫn củng cố niềm tin vào kế hoạch giải vây sẽ được bùng nổ vào giờ thứ 25. Không, An Lộc không thể chết tức tưởi như Lộc Ninh. An Lộc cần phải được mở một nút thoát hơi để thở. Các nhà lãnh đạo quân sự Việt Nam Cộng Hoà đã khẳng định điều đó và đã dự trù một kế hoạch để đối phó trong tình huống xấu nhất xảy ra để cứu nguy An Lộc!


              
    THEO CHÂN ÐOÀN QUÂN MA


              

    Theo kế hoạch giải vây, hai đơn vị thiện chiến được sử dụng đến là Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù và Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù.

    Cả hai đơn vị này đều nhảy thẳng vào An Lộc với hai nhiệm vụ khác nhau, một phía trong và một phía ngoài Thị Xã.

    Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù sẽ quét sạch hành lang vây khốn bên ngoài chu vi phòng thủ và Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù mở đường máu đánh thẳng vào An Lộc tiếp tay với quân trú phòng bên trong, chiếm lại phân nửa thành phố đã mất.
    Người ta nghĩ kế hoạch này là một ván cờ liều, một kế hoạch đánh xã láng, “thí chốt để tiến xe” và những đơn vị thi hành sẽ là những con thiêu thân bay vào ánh lửa.

    Ðúng vậy, họ là những con chốt của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, những con chốt đã sang sông và đã nhập cung, trở thành một pháo đài sừng sững trước mặt quân thù.

    Ngày 14-04-1972, từ Chơn Thành, Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù và một pháo đội được trực thăng vận vào một địa điểm cách An Lộc bốn cây số về hướng Ðông Nam.

    Từ ấp Shrok Ton Cui, Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù chiếm lĩnh cao điểm 176 còn được gọi là Ðồi Gió, đặt 6 khẩu 105 ly dễ yểm trợ cho Bộ Chỉ Huy Lữ Ðoàn cùng Tiểu Ðoàn 5 và 8 Nhảy Dù tiến về hướng An Lộc.

    Linh động và bất ngờ là hai yếu tố quan trọng trong binh pháp được Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù khai thắc triệt để trong cuộc hành quân này.

    Cộng quân đang bao vây An Lộc bị cú bất ngờ khi thấy lính Nhảy Dù xuất hiện phía sau. Yếu tố bất ngờ đã làm địch quân hốt hoảng, trận đánh đấm máu nổ ra và Nhảy Dù đã chiếm ưu thế, mở được một khoảng trống trong vòng vây kín mít từ phía Ðông Nam hướng về An Lộc.

    Cùng ngày 14-04-1972, trong khi Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù được trực thăng vận vào An Lộc thì từ những khu rừng già vùng Tây Nam Xa Mát dọc theo biên giớì Miên Việt, Liên Ðoàn 81 đang hành quân được triệt xuất để trở về Trảng Lớn thuộc Tỉnh Tây Ninh.

    Sáng ngày 16-04-1972, Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù được vận chuyển qua Lai Khê bằng trực thăng Chinook CH-46, 12 giờ trưa cùng ngày, khi kho đạn Lai Khê bị đặc công Cộng Sản phá hoại nổ tung là lúc toàn bộ 550 quân cảm tử của Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù sẵn sàng tại phi trường để được trực thăng vận vào An Lộc.

    Nắng hè chói chan oi bức, ánh nắng lung linh theo cánh quạt của trực thăng tiễn đưa đoàn quân ma đi vào vùng đất cấm. Ðịa điểm đổ quân là những đám ruộng khô cằn nứt nẻ phía Tây Tỉnh lộ 245, chung quanh là những cánh rừng thưa trải dài theo hướng Tây Bắc, khoảng cách một cây số để đi đến Ðồi Gió.

    Phải cần một hợp đoàn 45 chiếc trực thăng đa dụng HU1D với hai đợt đổ quân mới thực hiện xong cuộc chuyển quân, và Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù đã vào vùng hành quân lúc 4 giờ chiều ngày 16-04-1972.

    Mở tần số liên lạc với Tướng Lê Văn Hưng trong An Lộc, liên lạc với Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù để biết vị trí quân bạn và nhanh chóng khai triển đội hình chiến đấu, di chuyển về hướng Tây, len lỏi theo đường thông thuỷ giữa hai ngọn đồi Gió và đồi 169. Âm thầm và ngậm tăm mà đi.

    Một sự kiện bất ngờ không may xảy đến khi đoàn quân đang di chuyển: một quả bom của Không Quân đánh vào vị trí của Cộng quân lại rơi ngay vào đội hình di chuyển của Biệt Cách Dù, gây thương vong cho một vài binh sĩ, trong đó có Thiếu Uý Lê Ðình Chiếu Thiện. Lập tức trái khói vàng được bốc cao giữa đoàn quân để phi công nhận diện phìa dưới là quân bạn.

    Phải mất một thời gian ngắn cho việc tản thương. Hai cố vấn Mỹ, Ðại Úy Huggins và Thượng Sĩ Yearta nhanh chóng liên lạc với Lữ Ðoàn 17 Kỵ Binh Không Vận Hoa Kỳ yêu cầu trực thăng cấp cứu và được thoả mãn. Ðây là hai cố vấn thuộc Lực Lượng Ðặc Biệt Hoa Kỳ vẫn còn chiến đấu bên cạnh Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù khi quân bộ chiến Mỹ đã rút lui khỏi chiến trướng Việt Nam theo kế hoạch “Việt Nam hoá chiến tranh” được thi hành vào năm 1970.

    Sự kiện thứ hai xãy đến là sự xuất hiện của 47 quân nhân thuộc Liên Ðoàn 3 Biệt Ðộng Quân từ đồi 169 chạy tuôn xuống, mặt mày hốc hác vì mệt mỏi và thiếu ăn, bị thất lạc và phải trốn trong rừng. Họ đi theo Biệt Cách Dù để trở lại đơn vị gốc trong An Lộc.

    Vài tràng súng AK ròn rã nổ ở hướng Ðông, có lẽ địch bắn báo động. Tiếp tục di chuyển, rẽ về hướng Tây Bắc để vào rừng cao su Phú Hoà. Tiếng súng nổ liên hồi, đứt khoảng phía trước. Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù đang chạm địch. Gặp Tiểu Ðoàn Trưởng Nhảy Dù, Trung Tá Hiếu cười méo miệng, nói như phân trần: “Tụi nó đông như kiến và bám sát tụi “moi” như bày đỉa đói”.

    “Tụi nó đông như kiến” đã nói lên thực trạng chênh lệch lực lượng quân sự đôi bên mà phần ưu thế về phía Việt Cộng! Nhưng đã là Nhảy Dù thì phải “cố gắng”, cố gắng cho đến lúc tàn hơi. Ðã là Biêt Cách Dù thì phải chấp nhận mọi gian khổ, hy sinh cho màu cờ sắc áo của đơn vị.

    Hoàng hôn phủ xuống thật nhanh, bóng tối lần lần bao trùm cảnh vật chung quanh. Súng vẫn nổ rải rác từng đợt, từng hồi trong rừng thẳm. Biệt Cách Dù tiến chiếm ấp Sóc Gòn trong im lặng và an toàn vì địch vừa rút ra khỏi đây. Lục soát, bố trí và dừng quân chung quanh ấp trong những công sự chiến đấu đã có sẵn của Việt Cộng. Bóng đêm dày đặc, im vắng.xa xa về hướng An Lộc, đạn pháo ì ầm nổ như tiếng trống cầm canh.

    Sự đổ quân ồ ạt của Việt Nam Cộng Hoà về phía Ðông Nam cách An Lộc 4 cây số đồng nhịp với các phi vụ đánh bom B.52 tàn khốc về phía Tây Nam của thành phố đã làm cho Cộng quân hoang mang, hốt hoảng. Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù là lực đối kháng vòng ngoài để thu hút địch quân, đồng thời tạo một lỗ hổng để Biệt Cách Dù xâm nhập vào thành phố sáng ngày 17-04-1972, cùng một thời điểm của Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù tiếp cận ngoại vi tuyến phòng thủ của Thị Xã về phía Nam cạnh quốc lộ 13.

              

              

    Cộng quân không ngờ Biệt Cách Dù đã lọt vào Thị Xã tiếp hơi cho quân tử thủ và mở cuộc tấn kích ngay đêm đó vào các khu phố mặt Bắc. Với kỹ thuật đánh đêm điêu luyện, thần tốc, khi phân tán, khi hội tụ, Biệt Cách Dù đã giáng lên đầu Cộng quân những đòn sấm sét, đánh không có sự yểm trợ của pháo binh hay bất cứ một loại vũ khí vòng cầu nào, đánh bằng súng cá nhân, bằng lựu đạn, đánh cận chiến bằng lưỡi lê. Ðánh nhau từng căn nhà, từng cao ốc đổ vỡ, chiếm lại từng con đường, từng khu phố trong đêm dài dường như bất tận.

    Sáng ngày 18-04-1972, Biệt Cách Dù đã có mặt hầu hết trong các khu phố phìa Bắc Thị Xã và giải thoát gần 100 gia đình cư dân còn kẹt lại trong vùng kiểm soát của Cộng Sản.

    Từ các căn nhà xụp đổ bên vệ đường, từng toán Việt Cộng tuôn ra tháo chạy thục mạng về hướng Bắc, vì chúng bị đánh phủ đầu ban đêm, sáng ra nhìn chung quanh nơi nào cũng thấy “lính rằn ri”, loại lính đã hơn một lần chặn đánh chúng trên đường Trường Sơn heo hút mưa bay.

    Mặc dù đã chiếm lại toàn bộ khu vực phía Bắc, nhưng vẫn còn một ổ kháng cự mà Cộng quân vẫn cố thủ bên trong, đó là đồn Cảnh Sát Dã Chiến. Biệt Cách Dù tấn công nhiều đợt nhưng vẫn chưa vào được. Hơn nữa, từ đồi Ðồng Long, Việt Cộng dùng đại bác 57 ly, sơn pháo 75 ly và súng không giật 82 ly bắn trực xạ vào Biệt Cách Dù để yêm trợ cho bọn chúng cố thủ bên trong đồn. Cố vấn Huggins của Biệt Cách Dù vào ngay tần số của Lữ Ðoàn 1 Không Quân Hoa Kỳ xin yểm trợ hoả lực. Hai chiếc phi cơ AC.130 Spector bay lượn trên vùng trời An Lộc với cao độ ngoài tầm sát hại của cao xạ và hoả tiễn địa không SA7, bắn từng quả đạn 105 ly hoặc từng loạt 3 quả đạn 40 ly vào mục tiêu yêu cầu được điều chỉnh từ dưới dất. Cuối cùng đồn Cảnh Sát lọt vào tay Biệt Cách Dù vào lúc 4 giờ chiều. Phần nửa thành phố phía Bắc được chiếm lại sau gần 24 tiếng đồng hồ chiến đấu liên tục. Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù yêu cầu Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh điều động quân bạn hai bên cạnh sườn cùng tiến lên ngang hàng với quân Biệt Cách Dù. Sự yêu cầu không được đáp ứng, vì quân số của quân trú phòng đã hao hụt và bất khiển dụng quá nhiều, do đó cạnh sườn của Biệt Cách Dù bị bỏ trống. Lợi dụng sơ hở này, Cộng quân phản công mãnh liệt bằng hai mũi tấn công, mũi thứ nhất đánh trực diện từ hướng đồi Ðồng Long có sự yểm trợ của cối 61 ly, cối 82 ly và sơn pháo 75 ly, mũi thứ hai từ phía Tây đánh thốc vào ngang sườn với quân số khá đông. Trước tình huống phải đối đầu phía trước mặt và phía ngang hông, Biệt Cách Dù phải rút quân về phía khu chợ Mới, tuy nhiên vẫn còn để lại một Ðại Ðội cố thủ trong đồn cảnh sát.

    Ðồn cảnh sát đương nhiên trở thành một tiền đồn án ngữ lẻ loi phía Bắc Thị Xã, một tiền đồn bất đắc dĩ mà không thể nào bỏ trống được, và nơi đây là một cái gai mà Cộng quân bằng mọi cách phải nhổ đi, do đó muốn duy trì vị trí chiến thuật quan trọng đó, phải đổ máu rất nhiều. Biệt Cách Dù chấp nhận sự lựa chọn này để giữ vững tiền đồn suốt một thời gian dài.

    Sự tham chiến của Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù đã làm cho An Lộc hồi sinh sau cơn mê dài hấp hối, và sự có mặt của Biệt Cách Dù đã mở màn cho những trận đánh ác liệt xảy ra trong lòng Thị Xã.

    Ðêm 19-04-1972 Cộng quân sử dụng Trung Ðoàn 141 và Trung Ðoàn 275 có xe tăng yểm trợ tấn công Ðồi Gió sau khi rót vào vị trí này hàng ngàn quả đạn pháo, tiêu diệt 6 khẩu pháo 105 duy nhất của pháo đội Nhảy Dù và tràn ngập Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù của Trung Tá Ðĩnh đang án ngữ tại đây, đồng thời pháo kích dữ dội vào An Lộc để chuẩn bị cho hai mũi tấn công từ hướng Tây và hướng Bắc thành phố. Trận đánh kéo dài suốt đêm, tuyến phòng thủ vẫn đứng vững trước chiến thuật biển người của Cộng Sản. Riêng khu Bắc Thị Xã, Biệt Cách Dù và Cộng quân giao tranh ác liệt, có khi chỉ cách nhau một con đường bề ngang 4 thước trong tầm ném tay của lựu đạn.

    Mất đồi Gió, một cao điểm quan trọng nằm bên ngoài phạm vi phòng thủ với 6 khẩu pháo 105 ly còn lại duy nhất để yểm trợ, An Lộc càng lúc càng thấy cô đơn trong mênh mông bão lửa. Môt số quân của Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù do Trung Tá Ðĩnh chỉ huy chạy thoát về sông Bé hướng Ðông, vả được trực thăng cứu cấp bốc về Lai Khê tái huấn luyện và bồ sung quân số chờ ngày phục hận.

    Cuộc chiến giảm dần cường độ vì sự thiệt hại của hai bên công – thủ.

    Bên ngoài phạm vi phòng thủ, Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù đã là một thành đồng vững chắc án ngữ mặt Ðông Nam, bên trong thành phố, Biệt Cách Dù mở cuộc tấn công đêm liên tục, đánh phá những vị trí Cộng quân chiếm giữ, làm cho chúng ăn không ngon, ngủ không yên. Ngoài ra sự oanh tạc của B.52 gần An Lộc đã gây tổn thất rất nhiều cho địch quân, tuy nhiên mức độ pháo kích của Cộng quân vẫn đều đặn rót vào An Lộc khoảng 2,000 quả đạn mỗi ngày.

    Bên phố chợ, người dân ngậm ngùi nhìn thấy những nấm mồ của tử sĩ Biệt Cách Dù mỗi ngày một nhiều hơn. Họ đánh nhau hằng đêm và hì hục chôn xác bạn bè hằng đêm trong mưa pháo tuôn rơi, khi mặt trời chưa thức giấc. Sống, chiến đấu bên nhau trong cuộc hành trình gian khổ để tiêu diệt quân thù trên khắp nẻo đường đất nước, lòng thuỷ chung và tinh chiến hữu keo sơn chan hoà thắm thiết khi có người nằm xuống, vĩnh viễn ra đi. Hình ảnh nghĩa trang Biệt Cách Dù đã nói lên điều đó.


              
    AN LỘC, CHIẾN TRƯỜNG ÐI KHÔNG HẸN


              
    Theo lời cung khai và thú nhận của tù hàng binh Cộng Sản mà Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà bắt được, có ba thứ mà cán binh Cộng Sản lo sợ khi vượt Trường Sơn để xâm nhập vào lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà. Thứ nhất là B.52, thứ nhì là Biệt Kích số 81, và thứ ba là chạm súng với quân Nhảy Dù. Cả ba thứ đó đều hiện hữu và có mặt tại chiến trường An Lộc.

    Liên Ðoàn Biệt Cách Nhảy Dù, dân Miền Nam thường gọi tắt là Biệt Cách Dù, Việt Cộng gọi là Biệt Kích số 81, thực ra là đơn vị Tổng Trừ Bị của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, với quân số khiêm nhường trên bảng cấp số là 916 người, được đào tạo và huấn luyện thuần thục về chiến thuật phản du kích trong chiến tranh ngoại lệ, nhảy toán, thám sát, đột kích, bắt cóc tù binh, đánh phá vào các cơ sở hậu cần của địch. Nhảy vào lòng đất địch để chiến dấu bằng phương tiện nhảy dù, nhưng phần lớn bằng trực thăng vận, âm thầm hoạt động trong vùng khu chiến, cách biệt xa tầm yểm trợ của pháo binh. Bước chân của người chiến binh Biệt Cách Dù đã lần lượt đi qua các chiến trường sôi động một thời vang danh quân sử.

    Từ Làng Vei, A Sao, A Lưới, Tà Bạt, Khe Sanh, Lao Bảo quanh năm sương mờ bao phủ của vùng biên giới Việt Lào, vượt lên phương Bắc hoả tuyến với Mai Lộc, Cam Lộ, Ðông Hà, Quảng Trị và xuôi về vùng núi rừng cận duyên của Tam Quan, Bình Ðịnh, Bồng Sơn, An Lão. Ði miệt mài, hành quân không ngơi nghỉ để về Tây Nguyên với Boloven hùng vĩ, đổ xuống Tam Biên, đi Tân Cảnh, Diên Bình và tạm dừng chân, nâng chén quan hà bên bờ sông Dakbla nước chảy ngược dòng của chiến trường Kontum mịt mờ bụi đỏ. Tây Ninh nắng cháy nung người không làm nao lòng chiến sĩ, Bình Giả, Ðồng Xoài nặc nồng mùi tử khí. Khi chiến trường im tiếng xung phong thì bước chân của người chiến binh Biệt Cách Dù vẫn còn dong ruổi trong cuộc hành trình vô định.

    Vào An Lộc, chiến trường nặng độ với trung bình mỗi ngày hơn hai ngàn đạn pháo, chiến trường cô đơn khi tổn thất của quân tử thủ mỗi lúc một gia tăng, đánh đêm đánh ngày, dằng dai khi công, khi thủ ròng rã kéo dài suốt tháng.

    Cứ mỗi lần Cộng quân gia tăng cường độ pháo kích vào thành phố lả để chuẩn bị cho cuộc tấn công bằng bộ binh ngay sau đó.

    Ðêm 04-05-1972, Cộng quân ồ ạt tấn công vào phòng tuyến phía của Biệt Cách Dù.

    Ở thế công thì dù sao cũng có ít nhiều sơ hở nhưng khi Biệt Cách Dù ở vào thế thủ thì một con kiến cũng khó lọt qua. Lựu đạn, mìn thi nhau nổ, AK, súng máy rít vang trời. Trận đánh kéo dài đến sáng tỏ trời. Xác địch nằm la liệt, ngổn ngang bên ngoài phòng tuyến. Lần đầu tiên trong trận địa chiến, Biệt Cách Dù tịch thu được 2 khẩu súng phun lửa do Trung Cộng sàn xuất. Trong túi áo của mỗi xác chết đề có mang theo một mảnh giấy nhỏ bề ngang 5 phân, bề dài 20 phân với câu viết ngắn gọn :”Quyết tâm bắt sống Sư Trưởng Sư Ðoàn 5, dựng cờ chiến thắng”. Thì ra bọn này có học tập trước khi lao mình vào tử địa.

    Ngày 10-05-1972, Cộng quân bắt đầu pháo kích dữ dội từ 5 giờ sáng, pháo liên tục dòng rã suốt ngày. Người ta đếm có hơn 8,000 quả đạn pháo rơi xuống thành phố. Nhà cửa đã hoang tàn lại thêm hoang tàn. Người ta tiên liệu một cuộc tấn công lớn của Cộng quân sắp xãy ra và trận đánh lớn nổ tung lúc 5 giờ sáng ngày 11-05-1972 với toàn bộ lực lượng còn lại của 4 Sư Ðoàn đang vây hãm An Lộc.

    Ðịch ồ ạt tiến vào thành phố từ nhiều phía. Tuyến phòng thủ phía Ðông Bắc của Biệt Ðộng Quân bị thủng, một số Cộng quân lọt vào Ty Chiêu Hồi. Xe tăng T54 xuất hiện nhiều nơi trong thành phố, có chiếc tiến lại gần bản doanh tử thủ của Tướng Lê Văn Hưng và bị bắn cháy. Xe tăng và quân bộ chiến của Cộng Quân bị chặn đứng tại phòng tuyến của Biệt Cách Dù. Trời sáng tỏ và trận đánh trở nên ác liệt. Phòng tuyến phía Tây của Trung Ðoàn 7 Bộ Binh bị thủng và co cụm lại thành từng ổ kháng cự chung quanh Tiểu Khu. Không Quân can thiệp kịp thời, dội bom bên ngoài, bắn phá bên trong thành phố. Xe tăng của Cộng Sản và bộ đội không phối hợp chặt chẽ với nhau khi tấn công vào thành phố, do đó nhiều chiếc xe tăng chạy lạc đường, bị lẻ loi, dễ bị tiêu diệt. Quân trú phòng nhảy ra khỏi vị trí chiến đấu để săn đuổi xe tăng như thợ săn đang săn đuổi con mồi. Ðây là lần thứ hai xe tăng địch đã vào thành phố để biến thành những khối sắt bất động. Ðơn vị nào cũng bắn cháy được xe tăng, kể cả một số ít Ðịa Phương Quân còn lại cũng hăm hở diệt tăng với khẩu M.72 lần đầu tiên được sử dụng. Trận đánh tàn dần lúc 3 giờ chiều với sự thiệt hại nặng nề của Cộng quân. Người ta đếm được 40 xác chiếc xe tăng rải rác đó đây trong thành phố và ngoài tuyến phòng thủ, không kể đến hàng loạt thi thể không toàn vẹn của những người lính đến từ phương Bắc xa xôi. Tuy nhiên An Lộc vẫn còn nằm trong khả năng pháo kích ngày đêm của Cộng Sản, An Lộc vẫn còn chịu ảnh hưởng nặng nề của lực lượng bao vây khi quốc lộ 13 chưa được giải toả.

    Sư Ðoàn 21 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà với nhiệm vụ giải toả quốc lộ 13, mặc dù tiến quân chậm và vững chắc cũng bị thiệt hại nhiều.

              

              

    Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù đã lấy lại sinh lực sau lần thất bại tại Ðồi Gió đã trở lại tham chiến và là đơn vị đầu tiên của lực lượng giải toả tiến về An Lộc sau bao trận đánh phục thù ven quốc lộ 13.

    Ngày 08 tháng 06 năm 1972 lúc 5 giờ chiều, Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù đến Xa Cam bắt tay vói Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù do Trung Tá Ðào Thiện Tuyển đang án ngữ tại đây. Xa Cam, cửa ải địa đầu cực Nam An Lộc, khoảng 2 cây số nằm ven quốc lộ 13, một đồn điền với rừng cao su ngang dọc thẳng tắp đã trở thành chiến địa mà Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù “nhất kiếm trấn ải” tung hoành trong suốt thời gian gần hai tháng để chiến đấu sống còn với lực lượng địch quân có quân số và hoả lực đông và mạnh gấp nhiều lần.

    Cái bắt tay của Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù với Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù như một tiếng sấm vang trời trong cơn mưa tầm tã báo hiệu trời quang mây tạnh sẽ đến. Những người lính Nhảy Dù truyền hơi ấm cho nhau, mỉm cười với ánh mắt long lanh tin tưởng vào ngày tàn của Cộng quân trong chiến trường An Lộc.

    Ngày 10 tháng 06 năm 1972, Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù tung toàn bộ lực lượng quét sạch tất cả các ở kháng cự của Cộng quân trong các khu phố phía Bắc Thị Xã, bắt được một tù binh đang thúc thủ dưới hầm sâu. Ðây là một tên bộ đội thuộc Sư Ðoàn 5 Cộng Sản Bắc Việt, sau hơn 6 tháng vượt Trường Sơn để bổ sung cho chiến trường với nhiệm vụ “anh nuôi”. Anh nuôi là tiếng của Việt Cộng dùng để chỉ những tên lính chuyên lo việc bếp núc, nấu ăn cho đơn vị. Gương mặt hốc hác vì hoảng sợ, nước da xanh như tầu lá vì thiếu ánh nắng mặt trời và tay chân hơi run rẩy vì thiếu ăn, Tên bộ đội lắp bắp khai: “Ðơn vị hết người chiến đấu vì bị chết quá nhiều, cho nên Thủ Trưởng bắt buộc em cầm súng ra trận. Em chưa bắn một phát nào, đến đây đã được ba ngày cứ lo đào hầm để tránh bom”. Lời cung khai của tên bộ đội khoảng 18 tuổi với gương mặt non choẹt còn phơn phớt nét thơ ngây của tuổi học trò đã nói lên tình trạng tổn thất bi đát của lực lượng Cộng quân sau gần 2 tháng bao vây và tấn công mà không chiếm nổi An Lộc.

    Ngày 12 tháng 06 năm 1972, Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù tái chiếm đồi Ðồng Long, một cao điểm quan trọng nằm sừng sững phía Bắc, cách An Lộc khoảng 500 thước.

    Lực lượng tấn công tái chiếm đồi Ðồng Long gồm Ðại Ðội 2 Xung Kích do Ðại Úy Nguyễn Sơn chỉ huy, Ðại Ðội 3 Xung Kích do Ðại Úy Phạm Châu Tài chỉ huy, và 4 toán Thám Sát do Trung Úy Lê Văn Lợi chỉ huy. Biệt Cách Dù chia làm 3 mũi, bọc trái, bọc phải và chính diện hưóng về mục tiêu trước mặt có cao độ 128 thước. Họ xuất quân và đến lưng chừng đồi lúc nửa đêm, đồng loạt xung phong khi hừng đông vừa ló dạng chân trời. Bị đánh bất ngờ và vô cùng táo bạo, lựu đạn tung vào hầm trú ẩn, đạn bắn xối xả vào công sự chiến đấu, những tiếng hét xung phong vang dội một góc trời. Ðịch quân chủ quan và còn mê mệt trong tình trạng ngái ngủ, trở tay không kịp, khoảng hốt bỏ chạy không có thì giờ xỏ chân vào đôi dép râu, nói chi cầm đến khẩu súng để chống trả.

    Một số chạy thoát vào rừng để lại sau lưng chiến địa còn nặng mùi khói súng với nhiều xác chết vương vãi đó đây.

    Ðột kích là phương pháp tấn công vô cùng táo bạo, đánh nhanh, đánh mạnh với hoả lực tập trung tối đa được Biệt Cách Dù áp dụng trong thời điểm bất ngờ nhất làm cho địch không có thì giờ xoay trở.

    Trung Úy Lê Văn Lợi hãnh diện cắm lá Quốc Kỳ Việt Nam Cộng Hoà trên đỉnh đồi Ðồng Long.

    Quốc Kỳ rực rỡ căng gió phất phới bay trên nền trời xanh biếc của mùa hè vùng bão lửa. Ðám mây mờ bao phủ vùng trời An Lộc bấy lâu nay lần lần tan biến. Trung Tá Phan Văn Huấn, con chim đầu đàn của Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù, vào tần số liên lạc với các cánh quân Biệt Cách Dù đang có mặt trên đỉnh đồi Ðồng Long, giọng cảm động, ông nói : ”Chúng ta đã chu toàn nhiệm vụ cao cả nhất mà quân đội đã giao phó, nhiệm vụ phải trả bằng xương máu của các anh em, của các tử sĩ Biệt Cách Dù đã nằm xuống. Tôi thành thật ca ngợi lòng dũng cảm của anh em trong chiến tích hôm nay”.

    Chiếm xong đồi Ðồng Long, Biệt Cách Dù truy kích, lục xoát xung quanh, và phát hiện một căn hầm sâu ven rừng, có tiếng động khả nghi bên trong. Tất cả họng súng đen ngòm hướng vào miệng hầm chờ đợi như con hổ rình mồi. Có tiếng hét lớn từ trong đám lính:

    – Chui ra ngay, đầu hàng ngay, tao tung lựu đạn vào chết cả đám bây giờ!

    – Khoan, dừng tay, coi chừng bắn lầm vào dân! Tiếng nói khẩn cấp của người chỉ huy từ xa vọng lại. Tất cả đều chờ đợi. Bước lại gần miệng hầm, người chỉ huy nói to:

    – Chúng tôi là lính Việt Nam Cộng Hoà. Ai trốn trong hầm thì chui ra mau.

    Câu nói được lập lại lần thứ hai. Có tiếng thút thít bên trong hầm vọng ra.

    – Ra di, chui ra đi, không sao đâu!

    Tiếng người lính thúc dục. Tiếng động bên trong rõ dần. Những ánh mắt long lanh của những chiến binh Biệt Cách Dù chùng xuống khi thấy hai em bé gái 9, 10 tuổi lê lết tấm thân tàn, chậm rãi bò ra khỏi căn hầm trú ẩn.

    – Trời ơi! Hai đứa bé gái! Ba má các em đâu, sao lại như thế này? Còn ai trong đó không?

    Người chỉ huy nắc nghẹn giọng nói. Hai em bé mặt mũi lem luốc, mắt mờ đẵm lệ, thân mình khô đét như hai bộ xương biết cử động, chỉ lắc đầu sau những câu hỏi dịu dàng của người chỉ huy Biệt Cách Dù. Hai em bé đã tránh bom đạn trong căn hầm này bao lâu rồi, một tháng, hai tháng, lấy gì ăn để sống đến nỗi thân thể phải xác xơ như thế này!

    Ôi chiến tranh! Chiến tranh tàn khốc mà người Cộng Sản đã mang đến cho dân tộc mình như thế đó.


              
    AN LỘC ÐỊA SỬ LƯU CHIẾN TÍCH


    An Lộc địa sử ghi chiến tích, Biệt Cách Dù vị quốc vong thân

              
    Kể từ ngày cắm lá Quốc Kỳ trên đỉnh Ðồng Long, Biệt Cách Dù bung ra khỏi thành phố và án ngữ trong các khu rừng phía Bắc An Lộc. Thành phố tuy sạch bóng quân thù, nhưng mức độ pháo kích vẫn còn rời rạc, vô chừng.

    An Lộc đã được giải toả trong điêu tàn và đổ vỡ! An Lộc sụp đổ hoang tàn trong cái hình hài đấy vết đạn bom, nhưng An Lộc đã đi vào huyền thoại của những người tử thủ.
              
    “An Lộc địa sử ghi chiến tích,
    Biệt Cách Dù vị quốc vong thân”

              
    Trong hoang tàn và đổ vỡ của một thành phố đã chịu đựng sức tàn phá hãi hùng của đạn bom, hai câu thơ của cô giáo Pha được Biệt Cách Dù cứu thoát khi bị thương, được khắc trên đài tưởng niệm trước nghĩa trang bên phố chợ đìu hiu, mà trong đó 68 nấm mồ của tử sĩ Biệt Cách Dù được chôn vội vã từng đêm khi chiến trận tàn khốc xảy ra đã làm mủi lòng dân cả nước với lòng ngưỡng mộ và niềm xúc cảm vô biên.

    Sau khi đồi Ðồng Long được tái chiếm, thành phố An Lộc xem như được giải toả, Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Quân Ðoàn 3 lần đầu tiên đến thăm An Lộc và Trung Tá Phan Văn Huấn, Chỉ Huy Trưởng Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù, là người đầu tiên được vinh thăng Ðại Tá tại mặt trận. Tác giả Sao Bắc Ðẩu, trong cuốn “Một ngày trong An Lộc”, trang 296 và 297 đã ghi lại việc thăng cấp như sau:

    “Một ông Ðại Tá mặt trận”

    Trung Tướng Minh cẩn thận giải thích rằng không phải chỉ riêng Trung Tá Huấn, Chỉ Huy Trưởng Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù là có công, là xứng đáng được tặng thưởng. Sở dĩ ông cẩn thận như vậy là ngại có người sẽ hỏi: “Tại sao chỉ một mình Trung Tá Huấn được thăng cấp tại mặt trận?”. Tướng Minh cẩn thận như vậy cũng phải, nhưng trên thực tế, không ai có ý phân bì với tân Ðại Tá Huấn cả. Những người lính Biệt Cách của ông đã chiến đấu hơn một người lính và đã giúp đỡ dân chúng hơn một cán bộ Chiến Tranh Chính Trị.

    Chính một binh sĩ của Tiểu Ðoàn 2 Nhảy Dù đã xác nhận với chúng tôi rằng đó là “những người lính tuyệt”. Một người khác kể lại rằng nếu không gặp lính Biệt Cách thì hai đứa trẻ nằm trong hầm 70 ngày đã chết vì lựu đạn. Anh này khẳng định:

    – Miệng hầm trông khả nghi lắm. Lại nghe văng vẳng có tiếng động. Gặp người nhát là phải tung lựu đạn trước khi xuống.

    Nhưng những anh Biệt Cách của Ðại Tá Huấn đã không tung lựu đạn xuống. Họ kiên nhẫn nằm trên miệng hố rình rập vì họ nghĩ rằng dù có lính Bắc Việt phía dưới thì những người này cũng đói lả không còn sức kháng cự nữa. Cuối cùng họ đã cứu sống được hai em nhỏ, nạn nhân chiến cuộc.

    Tôi hỏi vị Ðại Tá tân thăng:

    – Người ta nóí với chúng tôi rằng dân chúng An Lộc lập một nghĩa trang riêng để chôn những tử sĩ của Ðại Tá. Xin Ðại Tá cho chúng tôi hiểu rõ vì lý do nào, ngưòi lính Biệt Cách lại có một tác phong đặc biệt đối với dân chúng như vậy?

    – Tôi thiết tưởng điều này cũng dễ hiểu. Anh nghĩ coi, từ trước đến nay, lính Biệt Cách chúng tôi chỉ nhảy từng toán 5 người vào tác chiến sau lưng địch. Nói một cách khác, chúng tôi đã quen sống với thái độ thù địch của dân chúng trong vùng chiến dấu. Ðây là lần đầu tiên chúng tôi là bạn chứ không phải là thù, dân chúng giúp đỡ chứ không chống lại chúng tôi”.


    Biệt Cách Dù nhảy vào An Lộc ngày 16-04-1972 và rời khỏi An Lộc ngày 24-06-1972. tính ra đúng 68 ngày tham chiến.

    • 68 ngày tử chiến
      với 68 Biệt Cách Dù hy sinh
      trên 300 bị thương,
      trong mưa pháo kinh hoàng, ngày cũng như đêm không tròn giấc ngủ, đục tường, khoét vách, đào hầm để giành lại từng tấc dất trong tay quân thù.
    Chiến đấu trong từng căn nhà, từng khu phố, từng đoạn đường lỗ chỗ hố bom, vùng lên diệt xe tăng cũng như đồng loạt truy kích khi địch đã tàn hơi, và cuối cùng cắm lá Quốc Kỳ trên đỉnh Ðồng Long tượng trưng cho sự chiến thắng, hình ảnh người chiến binh Biệt Cách Dù mãi mãi sống trong tâm hồn người dân An Lộc, hình ảnh dũng cảm, can trường biểu tượng cho sự chịu đựng bền bỉ, sức chiến đấu hào hùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà.

              

              

    48 giờ sau khi rời khỏi chíến trường An Lộc, ngày 26-06-1972, Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù đã có mặt tại miền hoả tuyến để tham gia chiến dịch “ba tháng vùng lên tái chiếm Quảng Trị”. Còn giặc thù, còn chiến trường, người chiến binh Biệt Cách Dù vẫn còn xông pha tiến bước, dù một lần sảy chân nằm yên trong nghĩa trang hiu quạnh thì đó cũng là một điều vinh quang cho người chiến sĩ để báo đền ơn Tổ Quốc.



    Phạm Châu Tài


    https://ongvove.wordpress.com/2012/03/0 ... E1%BA%B9n/
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

An Lộc Địa sử ghi chiến tích Biệt Cách Dù Vị Quốc Vong Thân

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           




              



              
    An Lộc Địa sử ghi chiến tích
    Biệt Cách Dù Vị Quốc Vong Thân

    _________________________


    Ngoài câu thơ bất hủ :

    "An Lộc Địa sử ghi chiến tích
    Biệt Cách Dù Vị Quốc Vong Thân"


    mà cô giáo Pha để lại trên tấm bia trước nghĩa trang Biệt Cách 81 Dù tại An Lộc còn có một bài thơ khác của Cô viết tặng cho binh chủng kiêu hùng này của QLVNCH


    Anh Biệt Kích hề ngàn xưa bất hứa
    Em thục nữ hề trong trắng ngoài xinh
    Ta quen nhau hề Lý Bạch lưu linh
    Khi chợt tỉnh hề khối tình trong mộng
    Em chỉ muốn hề thương chàng qua bóng
    Để rồi mơ hề rồi mộng rồi mơ
    Biệt Kích ơi hề tâm ý thành thơ
    Xin gửi đó hề chừ thương nhớ mãi".



    _________________






    Gửi Em Cô Gái Bình Long
    _________________________

    Bài thơ dưới đây của một người lính Biệt Kích vô danh. Anh là một hạ sĩ trẻ của biệt-đội I. Tháng 1/75 nhảy vào Phước Long. Bị thương và bị bắt. Trong giờ phút cuối cùng của đời người, anh đã cố viết được một bài thơ rất cảm động với mong muốn gửi tặng cô giáo Pha. Anh ấy đã chết sau đó 8 ngày và bài thơ đã được giao lại cho một người bạn đồng cảnh ngộ. Và anh bạn ấy đã học thuộc lòng mang tới vùng đất Tự Do từ lao tù Cộng Sản.
    Tựa bài thơ đó là "Gửi Em Cô Gái Bình Long"
    Thơ rằng :


    Nhớ theo Hổ Xám vào An Lộc
    Đội pháo trên đầu như đội mưa
    Múa kiếm đứng ngăn thù cửa Bắc
    Mà tưởng mình là Nguyễn Huệ xưa.
    Trong tiếng đạn reo mù khói trận
    Bỗng gặp em, cô giáo như mơ
    Em ngồi rũ tóc trong hầm tối
    Đọc tiếng kinh cầu, như đọc thơ.

    "Lạy Chúa con là người ngoại đạo
    Nhưng tin có Chúa ngự trên trời"
    Chúa ơi, Biệt Kích là thi sĩ
    Thi sĩ cầm gươm như đi chơi.

    "An Lộc địa sử lưu chiến tích
    Biệt Cách Dù vị quốc vong thân"
    Lời thơ hôm ấy sao hay quá
    Nghĩa trang buồn như tiếng lá rơi.

    Pha hỡi, bây chừ em đâu nhỉ ?
    Cô giáo hôm xưa đã lấy chồng ?
    Chúc em hạnh phúc răng long bạc
    Còn anh hôm nay vào Phước Long.

    Anh theo quân vào nơi hiểm địa
    Hét tiếng xung phong đến vỡ trời
    Bắn cháy xe tăng như uống rượu
    Mà tưởng em đang rót chén mời.

    Bóng địch chập chùng nơi cửa ngõ
    Ba trăm quân đánh một sư đoàn
    Mãnh hổ nan địch quần hồ bại
    Anh thối binh về mà thấy oan.

    Nửa chừng lại gặp cơn bão lửa
    Toán Delta bị kích giữa đàng
    Ôi lại Phước Long lưu chiến tích
    Anh bị trúng đạn giữa rừng hoang.

    Và chừ giờ đang ngồi bó gối
    Tay xích chân xiềng trong trại giam
    Máu bụng vẫn tuôn ra như suối
    Anh biết mình thôi thế là tan.

    Nhưng giây phút cuối anh vẫn nhớ
    Màu áo hoa dù nón mũ xanh
    Nhớ dáng em xưa cô giáo nhỏ
    Họa bút thành thơ như tiếng oanh.

    "Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
    Cổ lại chinh chiến kỷ nhân hồi"
    Xá gì một cõi đi về đất
    Biệt Cách lưu danh, Biệt Kích đời.




    một người lính Biệt Kích vô danh

              



              

              
Thiên Hùng
Bài viết: 314
Ngày tham gia: Thứ tư 04/08/21 06:15

Tôi Vẫn Còn Đây

Bài viết bởi Thiên Hùng »






          



  • Nói lối :
    Tôi vẫn nhớ ngày tháng tư năm ấy
    Giữa Saigon uất nghẹn niềm đau
    Từng đoàn quân lặng lẽ cúi đầu
    Trên đôi mắt lệ sầu còn ngưng đọng...

    1- Khi chúng tôi bị bắt buộc buông rơi tay súng để chấp nhận kiếp sống nổi trôi bên cạnh cuộc...... đời. Trời ôi, cảnh biển dâu vật đổi sao dời. Không phải mơ đâu mà đã là sự thật khi từng đoàn khách không mời hiện diện nơi nơi. Ngôn từ nào chết lịm bờ môi trên từng bước chân hụt hẫng rã rời... Cả Saigon trời phủ mây tang nhìn lũ vượn người mang danh giải phóng.

    2- Tôi đứng lặng yên trước sân Tòa Đô Chánh bên thảm cỏ xanh đã héo rũ khô cằn. Tôi nhìn lại tôi sao quá ngỡ ngàng... Vì hôm nay tôi không còn là tôi nữa, thôi hết rồi lịch sử đã sang trang. Người Saigon vẫn xuôi ngược dọc ngang bên thành phố đang gục đầu nức nỡ... Hãy sống đi chuỗi ngày tạm bợ, xa lắm rồi thời dĩ vãng mộng mơ.

    Tôi tự tay viết cho mình bản án
    Thầm mong một tháng sẽ qua mau
    Nhưng không ngờ bao cánh cửa nhà lao
    Đang rộng mở chờ đón những con người ngờ nghệch ...

    5- Đâu lý tưởng chọn cho mình cái chết, tôi phải sống để nhận diện Tự Do trong những gian nhà lao hiu hắt lạnh...... lùng. Cũng để biết nơi đâu là quyền sống con người... Mà bạn bè tôi đã đổ bao xương máu giữ nụ cười thắm mãi trên môi. Sao anh lại vô tình để mất anh ơi, tìm lại chăng có còn đâu nữa, người hy sinh đã trở thành vô nghĩa, người sống thêm chua xót ngậm ngùi.

    6- Tôi muốn thét to lên cho đất trời sụp đổ, cho căm hờn sôi sụt cả buồng tim... Hởi các người, đừng hèn nhát hãy đứng lên... đừng phụ công những người đi trước. Hùng khí Tiên Long không bao giờ khuất phục, hãy đem máu hồng đổi lấy Tự Do... thì dẫu còn một nắm xương khô, ta cũng quyết xông lên đạp đổ bạo quyền.
    Các người ơi, thức dậy đi, đừng ở đó chờ ăn bánh vẽ... để xứng danh cháu Lạc con Hồng, kíp lên đường cứu lấy quê hương.



    :hndshk: :wipetear:

              
Mây thiếu gió, mây buồn rơi xuống thấp
Gió thiếu cây, há được gọi cuồng phong
Cây thiếu hoa, sao tránh khỏi thẹn lòng
Hoa thiếu bướm, hoa thẫn thờ rũ cánh
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Tử Thủ An Lộc Mùa Hè Năm 1972

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           




    Tử Thủ An Lộc
    Mùa Hè Năm 1972

    __________________________
    Lâm Vĩnh Thế






    Mùa Hè 1972 chứng kiến một cuộc Tổng Tấn Công dữ dội của các lực lượng Cộng sản (CS) tại Miền Nam với 3 mặt trận:
    1) Quảng Trị ở ngay phía Nam Khu Phi Quân Sự tại Vùng I;
    2) Kontum trên Cao Nguyên Trung Phần thuộc Vùng II; và,
    3) Bình Long thuộc Vùng III. Bài viết này chỉ trình bày cuộc tử thủ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH) tại An Lộc, tỉnh lỵ của tỉnh Bình Long.



    Các đơn vị tham chiến của hai bên

    Về phía CS, có sự tham dự của các đơn vị sau đây:
    3 Công Trường (tức là sư đoàn) 5, 7 và 9; mỗi công trường gồm có 3 trung đoàn: Công Trường 5 với 3 Trung Đoàn E6, 174 và 275; Công Trường 7 với 3 Trung Đoàn 141, 165, và 209; Công Trường 9 với 3 Trung Đoàn 271, 272, và 95C
    2 Trung Đoàn độc lập 101 và 205
    Sư Đoàn pháo binh 69 gồm 2 trung đoàn 42 và 208
    Trung Đoàn phòng không 271
    Trung Đoàn thiết giáp 203
    Trung Đoàn vũ khí đặc biệt 202
    Toán đặc công 429

    Về phía QLVNCH, có sự tham dự của các đơn vị sau đây:
    Sư đoàn 5 Bộ Binh (sau đây sẽ viết tắt Bộ Binh = BB) gồm 2 Trung Đoàn 7, 8 (Trung Đoàn 9 đã bị xóa sổ sau trận Lộc Ninh)
    Trung Đoàn 52 của Sư Đoàn 18 BB
    Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân, gồm 3 Tiểu Đoàn 31, 36, và 52
    Các đơn vị Địa Phương Quân và Nghĩa Quân của Tiểu Khu Bình Long
    Về sau có thêm sự tăng viện của: Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù (gồm 3 Tiểu Đoàn 5, 6, và 8), Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, toàn bộ Sư Đoàn 21 BB, và Trung Đoàn 15 của Sư Đoàn 9 BB



    Sơ lược về Vùng III, Tỉnh Bình Long và Thị Trấn An Lộc

    Vùng III Chiến Thuật có lãnh thổ bao gồm 11 tỉnh của Miền Đông Nam Phần thuộc trách nhiệm phòng thủ của Quân Đoàn III với 3 Sư Đoàn BB được phân bố như sau:
    Sư Đoàn 5 BB: với Bộ Tư Lệnh đặt tại Lai Khê, chịu trách nhiệm 3 tỉnh Bình Dương, Bình Long và Phước Long
    Sư Đoàn 18 BB: với Bộ Tư Lệnh đặt tại Xuân Lộc, chịu trách nhiệm 5 tỉnh Biên Hòa, Bình Tuy, Gia Định, Long Khánh, Phước Tuy, và Đặc Khu Vũng Tàu
    Sư Đoàn 25 BB với Bộ Tư Lệnh đặt tại Đồng Dù (Củ Chi), chịu trách nhiệm 3 tỉnh Hậu Nghĩa, Long An, và Tây Ninh

    Tại thời điểm tháng 4-1972, Tư Lệnh Quân Đoàn III là Trung Tướng Nguyễn Văn Minh.1 Tướng Minh được bổ nhiệm vào chức vụ này trước đó hơn 1 năm vào ngày 23-2-1971 sau khi Trung Tướng (truy thăng Đại Tướng) Đỗ Cao Trí bị tử nạn trực thăng.
              

    Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Quân Đoàn III

              
    Sư Đoàn 5 BB, chịu trách nhiệm tỉnh Bình Long, dưới quyền Tư Lệnh của Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng,2 với Tư Lệnh Phó là Đại Tá Lê Nguyên Vỹ,3 gồm có 3 Trung Đoàn là:
    Trung Đoàn 7, với Trung Đoàn Trưởng là Trung Tá Lý Đức Quân, có Bộ Chỉ Huy đóng tại Phú Giáo
    Trung Đoàn 8, với Trung Đoàn Trưởng là Đại Tá Mạch Văn Trường,4 có Bộ Chỉ Huy đóng tại Dầu Tiếng
    Trung Đoàn 9, với Trung Đoàn Trưởng là Đại Tá Nguyễn Công Vĩnh, có Bộ Chỉ Huy đóng tại Lộc Ninh

              

    Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Sư Đoàn 5 BB



    Bản đồ Tỉnh Bình Long



    Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, Tư Lệnh Sư Đoàn 5 BB
    – Trong thời gian Trận An Lộc, ông là Đại Tá Tư Lệnh Phó, Sư Đoàn 5 BB

              

    Tỉnh Bình Long là một tỉnh nằm về góc Tây Bắc của Vùng III Chiến Thuật, với dân số khoảng 60.000, phía Bắc và Tây Bắc giáp với Campuchia, phía Đông giáp với Tỉnh Phước Long, phía Nam giáp với Tỉnh Bình Dương, và phía Tậy Nam giáp với Tỉnh Tây Ninh. Bình Long gồm có 3 quận: phía Bắc là quận Lộc Ninh, ở giữa là quận An Lộc, và phía Nam là quận Chơn Thành. Thị trấn An Lộc, nằm trong quận An Lộc, là tỉnh lỵ của Tỉnh Bình Long, với dân số vào khoảng 15.000, cách Sài Gòn ở phía Nam vào khoảng 100 KM. Trục giao thông chính của Bình Long là Quốc Lộ 13, chạy theo hướng Bắc Nam, từ biên giới Campuchia, xuyên qua các thị trấn Lộc Ninh, An Lộc, Tân Khai, Cầu Tàu Ô, Chơn Thành, và Lai Khê (thuôc tỉnh Bình Dương) để về Sài Gòn. Chung quanh thị trấn An Lộc phần lớn là các đồn điền cao su chiếm một tổng diện tích khoảng 75.000 mẫu. Tình Trưởng Bình Long vào thời gian trận An Lộc là Đại Tá Trần Văn Nhựt,5 một sĩ quan gốc Thủy Quân Lục Chiến, với nhiều kinh nghiệm chiến trường. Về sau, Đại Tá Nhựt vinh thăng Chuẩn Tướng, và được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Sư Đoàn 2 BB.
              

    Chuẩn Tướng Trần Văn Nhựt, Tư Lệnh Sư Đoàn 2 BB
    – Trong thời gian Trận An Lộc, ông là Đại Tá, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Bình Long

              
    Sau khi được tin tình báo về các hoạt động mới nhứt của các sư đoàn 5, 7, và 9 của CS cho thấy phe CS có ý đồ mở một cuộc tấn công với quy mô lớn vào tỉnh Bình Long, Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng (vừa được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu thăng cấp từ Đại Tá lên Chuẩn Tướng vào ngày 9-3-1972), Tư Lệnh Sư Đoàn 5 BB của QLVNCH đã quyết định di chuyển bản doanh của Sư Đoàn 5 BB từ Phú Lợi lên Lai Khê ở phía Bắc tỉnh Bình Dương gần ranh giới phía Nam của tỉnh Bình Long, đồng thời cho đặt Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của Sư Đoàn 5 BB ngay tại An Lộc dưới quyền chỉ huy của Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 5 BB là Đại Tá Lê Nguyên Vỹ.

    Các đơn vị chính và tăng phái của Sư Đoàn 5 BB được bố trí như sau:
    “- Trung Đoàn 7 Bộ Binh tại Phú Giáo do Trung Tá Lý Đức Quân chỉ huy, hoạt động dọc theo hành lang sông Bé ngăn chặn đường xâm nhập của Cộng Sản Bắc Việt vào chiến khu D.
    – Trung Ðoàn 8 Bộ Binh tại Dầu Tiếng (Quận Trị Tâm) do Ðại Tá Mạch Văn Trường chỉ huy hoạt động ngăn chặn các đoàn xâm nhập Cộng Sản Bắc Việt từ biên giới Việt Miên theo hành lang sông Sài Gòn tiến vào Bình Dương.
    – Trung Ðoàn 9 Bộ Binh (trừ 1 Tiểu Ðoàn) do Ðại Tá Nguyễn Công Vĩnh chỉ huy, được tăng phái Thiết Ðoàn 1 Kỵ Binh (trừ 1 Chi Ðoàn) do Trung Tá Kỵ Binh Nguyễn Đức Dương chỉ huy, và Tiểu Ðoàn 74 Biệt Ðộng Quân Biên Phòng, hợp thành Chiến Ðoàn 9 Bộ Binh, trú đóng tại Quận Lộc Ninh tổ chức phòng thủ ngăn chặn địch từ Snoul (đất Miên) tiến đánh Việt Nam theo đường tiến sát Quốc Lộ 13.
    – Trung Đoàn 52 Bộ Binh (trừ 1: gồm Tiểu Ðoàn 2/52 và Tiểu Ðoàn 1/48) do Sư Ðoàn 18 Bộ Binh tăng phái và 1 Pháo Ðội hỗn hợp (105 ly và 155 ly) do Trung Tá Nguyễn Bá Thịnh chỉ huy thiết lập căn cứ hoả lực tại Cầu Cần Lê (cách An Lộc 15 cây số, trên Quốc Lộ 13) để yểm trợ hoả lực cho An Lộc, Lộc Ninh và Căn Cứ Tống Lê Chân.
    – Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh đóng tại Lai Khê. Bộ Chỉ Huy Tiền Phương Sư Ðoàn 5 Hành Quân đặt tại Tỉnh Lỵ Bình Long do Ðại Tá Tư Lệnh Phó Lê Nguyên Vỹ chỉ huy.”
              

    Chuẩn Tướng Mạch Văn Trường, Tư Lệnh Sư Đoàn 21 BB
    – Trong thời gian Trận An Lộc, ông là Đại Tá, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 8, Sư Đoàn 5 BB

              



    Lý do An Lộc được chọn làm mục tiêu của trận đánh

    Câu hỏi được đặt ra là: Tại sao An Lộc, tỉnh lỵ của Tỉnh Bình Long, một tỉnh nhỏ, dân số ít và không có tiềm năng lớn về kinh tế lại dã được phe CS chọn làm một trong 3 mục tiêu chính cho cuộc Tổng Tấn Công mùa Hè 1972. Câu trả lời là: Hòa Đàm Paris, bắt đầu họp từ năm 1968 giữa các phe liên hệ sắp đi đến giai đoạn phải kết thức. Phe CS đã thành lập Chánh Phủ Cách Mạng Lậm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam (CPCMLTCHMNVN) để đại diện cho Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam tại bàn hội nghị. Chánh Phủ này cần phải có một thủ đô, và họ đã chọn An Lộc làm thủ đô, đồng thời từ đó có thể dễ dàng tiến đánh vào Sài Gòn.7 Do đó phe CS đã huy động một lực lượng rất lớn, quyết chiếm cho được An Lộc. Và cũng vì vậy, QLVNCH, bằng mọi giá, phải giữ cho được An Lộc.

    Sau đây là Bảng ước tính quân số của các đơn vị phe CS đã tham chiến trong thời gian trận tấn công vào An Lộc, tổng cộng vào khoảng trên 35.000 quân:
              

    Nguồn: The Battle of An Loc / James H. Willbanks, tr. 33

              



    Các trận đánh mở màn

    Thật ra, trước khi Trận An Lộc bắt đầu vào đầu tháng 4-1972, tin tình báo được cung cấp cho MACV của Hoa Kỳ (MACV = Military Assistance Command – Vietnam = Bộ Tư Lênh Viện Trợ Quân Sư – Việt Nam) và Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH cũng như Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III (và từ đó chuyển đến Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 5 BB) đều cho rằng Tỉnh Tây Ninh sẽ là nơi mà phe CS muốn chiếm làm thủ đô cho CPCMLTCHMNVN.

    Ớ cấp vùng chiến thuật, Thiếu Tướng James F. Hollingsworth, Cố Vấn Trưởng Hoa Kỳ tại Vùng III, chỉ huy TRAC (Third Regional Assistance Command = Bộ Tư Lệnh Viện Trợ Quân Sự của Vùng III), trực tiếp cố vấn cho Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Vùng III. Đại Tá William H. Miller là Cố Vần Trưởng Hoa Kỳ bên cạnh Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Sư Đoàn 5 BB. Vào đầu tháng 2-1972, tình báo Hoa Kỳ nói chung và TRAC nói riêng đều nghĩ và tin rằng Tây Ninh sẽ là mục tiêu của một cuộc tấn công lớn của phe CS tại Vùng III.8

    Vì thế, trước khi mở màn trận An Lộc, “ngày 02 tháng 04 năm 1972, hai Trung Ðoàn Cộng Sản có chiến xa và trọng pháo yểm trợ từ phần đất Miên xâm nhập đánh phá liên tục vào các căn cứ Lạc Long (cách Tây Ninh 35 cây số về phía Tây Bắc) và căn cứ Thiện Ngôn khiến quân trú phòng thuộc Sư Ðoàn 25 Bộ Binh phải lui quân. Họ tung tin sẽ đánh chiếm Tây Ninh làm thủ phủ cho Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, khiến Quân Khu III phải điều toàn bộ Sư Ðoàn 25 Bộ Binh phòng thủ giữ Tây Ninh và Sư Ðoàn này mặc nhiên bị cầm chân tại đây.” 9

    Chỉ sau khi phe CS mở cuộc tân công Lộc Ninh với quy mô lớn thì các cấp chỉ huy của QLVNCH và MACV, TRAC mới thay đổi cách nhận định về ý đồ của Cộng quân là quyết chiếm cho được An Lộc.

    Sáng sớm ngày 5-4-1972, các đơn vị pháo của Công Trường 5 CS đồng loạt pháo kích dữ dội các vị trí phòng thủ của Trung Đoàn 9 thuộc Sư Đoàn 5 BB của QLVNCH cũng như trụ sở quận lỵ của quận Lộc Ninh. Tiếp theo trận pháo mở màn, 2 Trung Đoàn 174 và 275 của Công Trường 5 cùng với 25 chiến xa tiến vào Lộc Ninh từ phía Tây, tập trung tấn công vào bộ chỉ huy của Trung Đoàn 9 BB tại đầu phía nam của phi trường. Các lực lượng của Trung Đoàn 9 BB đã chống trả mãnh liệt các đợt tấn công của CS, bắn cháy được 1 chiến xa địch; có lúc các pháo thủ của lực lượng phòng thủ Lộc Ninh đã hạ nóng súng của các khẩu pháo 105 ly và trực xạ vào các lực lượng bộ binh của địch xông ra từ các vườn cao su.

    Trong lúc trận chiến đang xảy ra ác liệt tại Lộc Ninh thì tại Bộ Tư Lệnh Vùng III tại Biên Hòa, cả 2 tướng Minh và Hollingsworth đều đã thấy rõ là mục tiêu của cuộc tổng tấn công này là Bình Long rồi, hoàn toàn không còn nghĩ và tin rằng Tây Ninh là mục tiêu nữa. Lập tức, việc yểm trợ bằng không quân được thực hiện ngay. Các phi cơ của Hoa Kỳ, gồm các phản lực cơ A-37 của Phi Đoàn Đặc Vụ 8 (8th Special Operations Squadron) từ Biên Hòa, các phi cơ khu trục phản lực của Hải Quân Hoa Kỳ từ Hàng Không Mẫu Hạm Constellation, các phản lực cơ F-4 và oanh kích AC-130 từ Thái Lan, cũng như các phi cơ khu trục A-1 và phản lực F5 của Không Quân VNCH được điều động đến yểm trợ liên tục cho các đơn vị QLVNCH đang chống trả cuộc tấn công dữ dội của các đơn vị CS tại mặt trận Lộc Ninh. Việc yểm trợ mặt trận Lộc Ninh còn được thực hiện bằng các phi vụ trực thăng Cobra của Trung Đoàn 9 thuộc Sư Đoàn 1 Kỵ Binh Không Vận (9th Cavalry, 1st Cavalry Division – CSBV gọi là Sư Đoàn Anh Cả Đỏ).10

    Chuẩn Tướng Hưng và Đại Tá Cố Vấn Miller cũng lập tức lên trực thăng rời Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 5 BB tại Lai Khê bay lên phía Bắc. Khi đến gần Chơn Thành thì họ đã liên lạc được với các cố vấn Hoa Kỳ tại mặt trận Lộc Ninh. Các vị cố vấn này báo cáo là các đơn vị của Chiến Đoàn 9 tại Lộc Ninh, mặc dù đã được các phi tuần khu trục và trực thăng của không quân Hoa Kỳ và VNCH tích cực yễm trợ, đã bị thương vong rất nhiều do pháo binh và chiến xa của Cộng quân, và tình hình rất là nghiêm trọng. Đơn vị thiết giáp phòng thủ ở phía Bắc Lộc Ninh đã hàng địch, các đơn vị Biệt Động Quân và Tiểu Đoàn 2 của Trung Đoàn 9 đã mở đường máu rút về Lộc Ninh. Trong thời gian này, các đơn vị thuộc Chiến Đoàn 9 phòng thủ Lộc Ninh, với sự yểm trợ tối đa của không quân Mỹ-Việt, đã chống trả mãnh liệt các đợt tấn công của các đơn vị bộ binh của Công Trường 5 CS.

    Tướng Hưng ra lệnh cho Trung Tá Nguyễn Bá Thịnh điều động Trung Đoàn 52 (do Sư Đoàn 18 tăng phái, đóng tại cầu Cần Lê ở phía Bắc An Lộc) lên cứu viện cho Lộc Ninh. Trung Tá truyền lệnh ngay cho Tiểu Đoàn 2, là đơn vị đang đóng quân ở pía Bắc, tiến lên tiếp viện cho Lộc Ninh, nhưng đơn vị này bị địch phục kích tại một địa điểm gần giao lộ giữa Liên Tỉnh Lộ 17 và Quốc Lộ 13. Vì lúc đó tất cả các hoạt động không yểm đều tập trung tại Lộc Ninh, Tiểu Đoàn 2 đã không được không yểm và sau cùng phải rút về địa điểm xuất phát. Ngày hôm sau, 6-4-972, Bộ Chỉ Huy của Trung Đoàn 52 cũng bị địch tấn công, pháo kích, và bao vây. Để bảo toàn đơn vị này cần thiết cho việc phòng thủ An Lộc trong những ngày sắp tới, Tướng Hưng ra lệnh cho Trung Tá Thịnh rút bỏ căn cứ hỏa lực tại cầu Cần Lê, đưa Trung Đoàn 52 về An Lộc. Tất cả các đơn vị nặng, cơ giới và pháo binh bỏ lại hết, chỉ có bộ binh mở đường máu, băng rừng; khi về đến An Lộc chỉ còn lại khoảng 600 quân nhân trên tổng số hơn 1000 của Trung Đoàn.11, 12

    Sau nhiều đợt tấn công, và mặc dù bị thiệt hại rất nặng nề do sự chống trả rất mãnh liệt của các đơn vị phòng thủ Lộc Ninh cũng như do các phi vụ yểm trợ của Không Quân Mỹ-Việt, kể cả các phi vụ của phi cơ cường kích Mỹ AC-130, và sức tàn phá khủng khiếp của bom CBU-55 (CBU = Cluster Bomb Unit = Bom chùm), sau cùng, các lưc lượng của Công Trường 5 CS cũng phá được các tuyến phòng thủ của Trung Đoàn 9 BB và tràn ngập Lộc Ninh. Đại Tá Nguyễn Công Vĩnh, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 9 BB, và Trung Tá Nguyễn Đức Dương, Thiết Đoàn Trưởng Thiết Đoàn 1 Kỵ Binh bị địch bắt làm tù binh.13 Tất cả 7 cố vấn Mỹ được ghi nhận là mất tích (MIA = Missing In Action); thật ra, trừ Trung Tá Richard S. Schott bị thương nặng đã hy sinh bằng cách tự sát để cho các thuộc hạ dễ dàng đào thoát, trước sau, tất cả đều bị bắt làm tù binh, gồm có Thiếu Tá Albert E. Carlson, Thiếu Tá Thomas Davidson, Đại Úy Mark A. Smith, Đại Úy George Wanat, Trung Sĩ Howard B. Lull, và Trung Sĩ Kenneth Wallingford. Về phía QLVNCH, hơn một ngàn quân nhân cũng đã bị bắt làm tù binh tại Lộc Ninh; chỉ có khoảng độ 50 quân nhân vượt thoát được về đến An Lộc.14 Trung Đoàn 9 của Sư Đoàn 5 BB coi như đã bị xóa sổ.



    Các trận tấn công của Cộng quân tại An Lộc
    Các chuẩn bị của QLVNCH để phòng thủ An Lộc


    Như đã trình bày bên trên, khi trận Lộc Ninh nổ ra, Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Vùng III, đã thấy ngay ý đồ thật của phe CS tại Vùng III là đánh chiếm Bình Long, chứ không phải là đánh chiếm Tây Ninh. Ông lập tức ra lệnh cho trực thăng vận lên An Lộc ngay đơn vị trừ bị cuối cùng còn lại của Quân Đoàn III là Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân (BĐQ) 15 vào ngày 5-4-1972. Ngày hôm sau, 6-4-1972, trong khi trận Lộc Ninh còn đang diễn ra ác liệt, Tướng Minh đã về Sài Gòn dự một phiên họp quan trọng tại Dinh Độc Lập. Hiện diện tại phiên họp này gồm có: Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng, Trung Tướng Đặng Văn Quang, Cố Vấn An Ninh của Tổng Thống Thiệu, và tất cả 4 tướng Tư Lệnh Vùng. Tướng Minh đã trình bày quan điểm của ông về tình hình nghiêm trọng tại Vùng III, nếu An Lộc bị địch chiếm làm thủ đô cho CPCMLTCHMNVN thì ảnh hưởng chính trị vô cùng bất lợi cho VNCH, do đó cần phải giữ An Lộc bằng mọi giá, và, vì quân trừ bị của Vùng III không còn nữa, ông đề nghị tìm mọi cách tăng viện cho Vùng III. Tổng Thống Thiệu và Trung Tướng Quang đều ủng hộ quan điểm này. Vì các đơn vị tổng trừ bị quan trọng là Sư Đoàn Dù và Sư Đoàn TQLC đã được tăng viện cho Vùng I và Vùng II hết rồi, sau cùng phiên họp quyết định tăng phái cho Vùng III Lữ Đoàn 1 Dù đang phụ trách phòng thủ Sài Gòn, Liên Đoàn 81 Biệt Kích Dù, và 1 sư đoàn của Vùng IV. Khi được hỏi ý kiến, Trung Tướng Trưởng đề nghị sử dụng Sư Đoàn 21 vì 2 lý do: 1) Sư Đoàn 21 có nhiều kinh nghiệm về tác chiến cơ động; 2) Sư Đoàn 21 vốn trước đây đã từng do Tướng Minh chỉ huy. Sau khi thảo luận, các tướng đồng ý với đề nghị của Tướng Trưởng.16 Sau đó, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã gửi điện văn ra lệnh cho các sĩ quan cao cấp của QLVNCH tại An Lộc là phải giữ An Lộc “bằng mọi giá.”

    Về phía Sư Đoàn 5 BB, Tướng Hưng ra lệnh cho Trung Tá Lý Đức Quân lập tức rút Trung Đoàn 7 BB đang đóng quân tại Phú Giáo để bảo vệ hành lang sông Bé về phòng thủ An Lộc. Ông cũng quyết định chuyển Bộ Tư Lệnh của Sư Đoàn, đã di chuyển từ Phú Lợi lên Lai Khê, nay chuyển lên đặt ngay tại An Lộc. Ngày 7-4-1972, trước khi bay vào An Lộc, ông đáp xuống Dầu Tiếng, họp với Đại Tá Mạch Văn Trường, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 8, và thông báo cho Đại Tá Trường về tình hình nghiêm trọng cần phải chống giữ An Lộc bằng mọi giá, về quyết định của ông đưa Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 5 lên An Lộc, và cho biết Sư Đoàn 5 không còn khả năng yểm trợ Trung Đoàn 8 nữa, nhưng yêu cầu Đại Tá Trường cố gắng giữ vững vị trí đang đóng quân để tiếp tục án ngữ hành lang sông Sài Gòn. Ông cũng cho Đại Tá Trường biết là kể từ giờ phút đó, Trung Đoàn 8 BB của Đại Tá Trường sẽ thực thuộc Quân Đoàn III. Sau khi tiển Tướng Hưng lên trực thăng để bay vào An Lộc, Đại Tá Trường lập tức họp các đơn vị trưởng của Trung Đoàn 8 BB để thông báo các quyết định quan trọng của Tướng Hưng và ra lệnh cho các đơn vị kiểm tra lại ngay quân số và trang bị, đặc biệt chú trọng đến các súng cộng đồng như đại bác 57 không giật và súng cối 81 ly. Trong một cuộc tuần tiểu, lục soát một căn cứ cũ của Sư Đoàn I BB của Hoa Kỳ (đã được rút về Mỹ), Tiểu Đoàn I của Trung Đoàn 8 BB may mắn tìm được một hầm đạn đủ loại và 2000 súng M-72 LAW (Light Antitank Weapon = Vũ khí nhẹ chống chiến xa) còn nguyên vẹn trong bao giấy dầu. Số súng chống chiến xa này lập tức được phân phối cho tất cả các đơn vị của toàn Trung Đoàn. Ba ngày sau, 10-4-1972, Tướng Minh, Tư Lệnh Quân Đoàn III, gọi Đại Tá Trường về Trung Tâm Hành Quân Quân Đoàn III tại Biên Hòa và, sau khi thông báo cho Đại Tá Trường về tình hình nghiêm trọng tại An Lộc, cho biết quyết định của ông là giao trả Trung Đoàn 8 lại cho Sư Đoàn 5 BB, và sẽ cho trực thăng vận Trung Đoàn 8 từ Dầu tiếng về An Lộc ngay ngày hôm sau, 11-4-1972.17

    Như vậy, trước khi cuộc tấn công vào An Lộc lần đầu tiên nổ ra vào ngày 14-4-1972, lực lượng phòng thủ An Lộc gồm có các đơn vị được bố trí như sau:
    Trung Đoàn 8 BB giữ phía Bắc
    Liên Đoàn 3 BĐQ giữ phía Đông
    Trung Đoàn 7 BB giữ phía Tây
    Trung Đoàn 52 BB và các đơn vị địa phương của Tiểu Khu Bình Long giữ phía Nam

    Lúc đó, các lực lượng mà phiên họp ngày 6-4-1972 tại Dinh Độc Lập đã quyết định tăng viện cho An Lộc, gồm Lữ Đoàn 1 Dù, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, và Sư Đoàn 21 BB, vẫn chưa đến được An Lộc.



    Các chuẩn bị của Cộng quân để tấn công An Lộc

    Về phía các đơn vị CS, sau khi chiếm xong Lộc Ninh, mục tiêu của họ bây giờ là tiến đánh An Lộc, thị trấn tỉnh lỵ của Tỉnh Bình Long. Để chuẩn bị cho trận tấn công sắp tới vào An Lộc họ phải thực hiện 2 chuyện: 1) bao vây An Lộc; và 2) cắt các đường tiếp tế và tiếp viện cho An Lộc.

    Các đơn vị của Công Trường 5 CS được lệnh tiến về phía Nam để bao vây mặt Bắc của An Lộc. Phi trường của tỉnh Binh Long ở phía Bắc An Lộc và phi trường tại Quản Lợi (cách An Lộc 5 km về phía Đông Bắc), hai đường hàng không cần thiết cho việc liên lạc và tiếp tế cho An Lộc, bị pháo kích liên tục. Trung Đoàn 7 BB, từ Phú Giáo rút về, đã giao cho một tiểu đoàn nhiệm vụ phòng thủ phi trường Quản Lợi. Đêm 8-4-1972, một số đơn vị của Công Trường Bình Long CS đã tấn công và tràn ngập phi trường này. Tiểu đoàn của Trung Đoàn 7 bị thiệt hại rất nặng đã phải rút lui về An Lộc. Sau khi chiếm được Quản Lợi, các đơn vị pháo của Cộng quân đã chiếm gữ được những cao điểm thuận lợi cho việc điều chỉnh tọa độ pháo kích vào các mục tiêu trong thị trấn An Lộc trong thời gian sắp tới.

    Về phía Nam, các đơn vị của Công Trường 7 CS đã cắt đứt hoàn toàn Quốc Lộ 13 từ Chơn Thành lên. Ngày 7-4-1972, Lữ Đoàn 1 Dù được lệnh di chuyển từ Lai Khê lên Chơn Thành, với nhiệm vụ giải tỏa Quốc Lộ 13. Khi qua khỏi Chơn Thành độ 6 km, còn cách An Lộc độ 15 km, Lữ Đoàn 1 Dù đã bị các chốt của một trung đoàn thuộc Sư Đoàn 7 CS chận đứng lại tại một địa điểm gần cầu Tàu Ô, không cách nào tiến lên được nữa.

    An Lộc đã hoàn toàn bị bao vây, tất cả các đường bộ và hàng không dùng để liên lạc và tiếp tế, tiếp viện cho An Lộc đã hoàn toàn bị địch cắt đứt hết. Từ sau ngày 7-4 cho đến ngày 12-4, mọi tiếp tế và tản thương cho An Lộc đều phải thực hiện bằng các phi vụ trực thăng và phi cơ C-123 của Không Quân VNCH. Trận tấn công của Cộng quân vào An Lộc nhất định sẽ xảy ra trong một thời gian ngắn sắp tới.



    Đợt tấn công đầu tiên: 13-15/4/1972

              

    Bản đồ phòng thủ của QLVNCH tại An Lộc

              
    Nguồn: Tài liệu trực tuyến Trận đánh An Lộc, Bình Long, ngày 13 tháng 4, 1972, … tại địa chỉ INTERNET sau đây: https://kientruc5sj.wordpress.com/2014/ ... uongtiden/

    Đêm 12-4, để chuẩn bị cho cuộc tấn công của bộ binh và chiến xa vào sáng ngày hôm sau, Cộng quân đã pháo kích khoảng 6000 quả đủ loại vào các vị trí phòng thủ trong thị trấn An Lộc. Đúng 6 giờ sáng ngày Thứ Năm 13-4-1972, các đơn vị bộ binh và chiến xa của Cộng quân bắt đầu tiến vào thị trấn. Đây là một trận đánh lớn đầu tiên mà phía Cộng quân đã sử dụng một số lượng lớn chiến xa. Chính vì vậy, cả 2 phe đều chưa có kinh nghiệm nhiều về đối phó và sử dụng chiến xa. Về phía QLVNCH, binh sĩ phòng thủ An Lộc, lúc đầu, rất hoảng sợ khi thấy chiến xa xuất hiện vì vũ khí cá nhân và cộng đồng của họ hoàn toàn vô dụng. Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau khi một binh sĩ địa phương quân dùng súng M-72 bắn cháy được chiếc xe tăng T-54 đầu tiên, và tin nầy nhanh chóng loan truyền đi trong hàng ngũ quân phòng thủ An Lộc, thì tất cả mọi người không còn sợ xe tăng của địch nữa. Về phía Cộng quân, vì chưa có kinh nghiệm hợp đồng tác chiến giữa bộ binh và chiến xa, chiến xa thường tiến quá nhanh nên rơi vào thế không còn bộ binh tùng thiết để được che chở nữa, và trở thành những miếng mồi ngon cho quân phòng thủ An Lộc. Do đó, nội trong ngày đầu tiên của trận tấn công vào An Lộc, Cộng Quân đã bị thiệt hai nặng với 15 xe tăng T-54 bị bắn cháy trong các đường phố của An Lộ, trong số này 12 chiếc là do các binh sĩ của Trung Đoàn 8 BB dung súng M-72 bắn cháy và 3 chiếc là do thực thăng Cobra của Hoa Kỳ tiêu diệt. Sau đó, Tướng Hưng đã ra lệnh cho tất cả các đơn vị tại An Lộc phải thành lập các “Tổ diệt tăng” trang bị M-72 chọn trong số các binh sĩ lanh lẹ và biết rõ địa thế trong khu vực phòng thủ của mình.

    Trận đánh sáng ngày 13-4 với mũi tấn công chính diễn ra ở phía Bắc An Lộc. Một đoàn chiến xa T-54 mấy chục chiếc sắp hàng một tiến từ phía Bắc xuống phía Nam trên Quốc Lộ 13, hai bên đường là các toán bộ binh của Sư Đoàn 5 CS dàn hàng ngang, với khí thế cực kỳ đe dọa, coi như họ đã hoàn toàn làm chủ tình hình, đã chiếm được thượng phong. Họ không bao giờ ngờ họ đang đi vào chổ chết.

    Những người lính Địa Phương Quân của Tiểu Khu Bình Long cũng như các binh sĩ của các tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 8 BB đang phòng thủ ở phía Bắc An Lộc đã chuẩn bị từ mấy ngày qua để chống trả cuộc tấn công mà họ đã biết chắc sẽ xảy ra. Các cổ đại bác 105 ly của Tiểu Đoàn 52 Pháo Binh (Tiểu Đoàn Trưởng là Thiếu Tá Hoàng Trung Liêm) thuộc Trung Đoàn 8 BB đã thiếp lập xong các tọa độ hỏa tập cho các điểm dọc theo Quốc Lộ 13 đi vào An Lộc. Bích kích pháo 81 ly của các đơn vị của Trung Đoàn cũng đã được chuẩn bị với các tọa độ đó.

    Khi bộ binh và chiến xa của địch đã tiến vào đúng các vị trí tọa độ đó, các đại bác 105 ly và bích kích pháo 81 ly của các đơn vị phòng thủ phía Bắc An Lộc đã đồng loạt khai hỏa dữ dội. Binh sĩ bộ binh địch hoảng sợ, bỏ chạy lán loạn, một xe tăng T-54 trúng pháo nổ tung, quay ngang làm cản đường khiến các chiến xa ở phía sau phải trở lui. Khoảng 15 chiếc ở phía trước không thể trở lui được đành phải liều tiếp tục tiến vào trong thị xã An Lộc, và lần lược trước sau đều bị các chiến sĩ phòng thủ An Lộc bắn cháy hết bằng súng M-72, như trong tấm ảnh bên dưới đây:

              

    Xe tăng T-54 bị bắn cháy trong Thị Xã An Lộc
    Nguồn: Sách America’s Last Vietnam Battle, tr. 392.

              

    Sau khi chỉnh đốn lại hàng ngũ, vào khoảng 10 giờ sáng, Cộng quân mở đợt tấn công thứ nhì cũng vẫn bằng chiến xa và bộ binh vào An Lộc từ hướng Tây Bắc. Lần này, mặc dù cũng có bị mất 1 xe tăng T-54 bị bắn cháy, Cộng quân đã đạt được một kết quả khả quan hơn, và vào lúc 11:30 họ đã chiếm được phi trường Bình Long và một phần phía Bắc của An Lộc. Vào khoảng giữa trưa, An Lộc đã bi chia cắt làm đôi: phía Bắc đã lọt vào tay Cộng quân, phía Nam vẫn còn nằm trong tay các đơn vị phòng thủ, và, dĩ nhiên, phần giữa của thị trấn tiếp tục là địa bàn giao tranh ác liệt giữa hai phe, giành nhau từng ngôi nhà, từng khu phố.18

    Suốt ngày 13-4 và cả 2 ngày sau, cuộc giao tranh gần như liên tục giữa hai phe tấn công và phòng thủ. Phe tấn công, tuy quân số đông hơn rất nhiều, đã không thể làm chủ được trận địa vì 2 lý do chính sau đây:

    Sự chống trả mãnh liệt và rất hiệu quả của tất cả các đơn vị phòng thủ trong thị trấn, từ các binh sĩ Nghĩa Quân và Địa Phương Quân của Tiểu Khu Bình Long cho đến các binh sĩ thuộc 2 Trung Đoàn 7 và 8 của Sư Đoàn 5 BB, Trung Đoàn 52 của Sư Đoàn 18 BB và các binh sĩ thiện chiến của Liên Đoàn 3 BĐQ, nhứt là sau khi Chuần Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Sư Đoàn 5 và cũng là Tư Lệnh Mặt Trận, tuyên bố “ ÔNG NHẤT QUYẾT TỬ THỦ AN LỘC VÀ SẼ NHẤT ĐỊNH CHẾT Ở ĐÓ NẾU THÀNH PHỐ NẦY BỊ CỘNG SẢN CHIẾM’’ 19

    Sự yểm trợ phi pháo vô cùng hữu hiệu của Không Quân Hoa Kỳ và VNCH. Về phía Không Quân VNCH, các phi đoàn 221, 223, và 231 sử dụng trực thăng Huey UH-1, Phi Đoàn 237 sử dụng trực thăng Chinook CH-47, và Phi Đội tải thương 259E của Không Đoàn 43, đã tích cực tham gia vào việc đổ quân, chuyển vận, tiếp tế và tải thương hàng ngày cho mặt trận An Lộc. Về mặt yểm trợ chiến thuật cho các đơn vị bộ binh đang giao tranh với địch, các Phi Đoàn quan sát 112 và 124, các Phi Đoàn khu trục A-1 Skyraider 514 và 518 của Không Đoàn 23, và Phi Đoàn 522 phản lực F-5 Freedom Fighter của Không Đoàn 63 (tất cả đều thuộc Sư Đoàn 3 Không Quân tại Biên Hòa), đã thực hiện các phi vụ oanh kích các đơn vị địch ngay trong lúc giao tranh tại mặt trận An Lộc. Tất cả các phi vụ yểm trợ cho mặt trận An Lộc này đều đã được thực hiện trong điều kiện vô cùng nguy hiểm vì hệ thống pháo phòng không dày đặc của địch. Một số trực thăng Chinook CH-47 đã bị thiệt hại tại mặt trận An Lộc, như lời tường thuật sau đây của một phi công thuộc Phi Đoàn 237:

    “Tình hình chiến sự mỗi lúc một gia tăng và mãnh liệt nhất là trận An Lộc, mùa Hè 72. Mỗi sáng, chúng tôi tất cả các trực thăng thuộc KÐ43CT đều sang standby tại Lai Khê chờ lệnh, UH-1 vào trước với các binh sĩ tinh nhuệ Nhảy Dù, Chinook vào sau với các khẩu trọng pháo 105 ly ờ Ðồi Gió, Tàu Ô, Tân Khai, bay cao, bay thấp đều bị bắn bằng đủ loại đạn, nhưng chúng tôi vẫn thi hành các phi vụ được giao phó. Hai Chinook đã tổn thất tại Tân Khai và Tàu Ô là PHÐ của Th/Tá Nguyễn Hữu Nhàn + Th/Úy Ðặng Thiên Hiền, cơ phi Ch/Úy Kim, áp tải, xạ thủ đều hy sinh, Ð/Úy Trọng + Th/Úy Thanh bị bắt và được trao trả năm 73 nhưng cơ phi, xạ thủ và áp tải hy sinh.

    Một Chinook của Tr/Úy Lê Quang Tiên và Ðặng Ðức Cường bị bắn cháy trên không, phải đáp khẩn cấp xuống phi trường An Lộc và được gunship bốc cứu. Phi cơ của Tr/Úy Son và tôi bị trúng một viên 12,7ly thủng bình xăng trái nhưng vô sự vì không phải đạn lửa và nhiều phi cơ khác bị đạn nhưng không đáng kể.” 20

    Về phía Không Quân Hoa Kỳ, sự yểm trợ cho mặt trận An Lộc có thể nói là chưa từng có và với hiệu quả rất cao bằng đủ loại phi cơ và với số lượng phi vụ rất lớn. Oanh tạc cơ chiến lược B-52, xuất phát từ các căn cứ Không Quân Mỹ U Tapao (52 chiếc) tại Thái Lan và Andersen (31 chiếc) trên đảo Guam, hàng ngày thực hiện các phi vụ “trải thảm” trên các khu vực tập trung quân của địch chung quanh An Lộc. Mỗi phi vụ B-52 luôn luôn gồm 3 chiếc, mỗi chiếc có thể mang một số lượng bom lên đến 70.000 cân Anh (pound), tổng cộng vào khoảng 100 tấn bom. Khi một phi tuần gồm 3 chiếc B-52 “trải thảm” thì một khu vực có chiều ngang nữa dặm Anh (mile) và chiều dài 2 dặm Anh sẽ bị hoàn toàn hủy diệt.21 Một điều cần được ghi nhận thêm là tính cách bất ngờ và kinh hoàng của việc B-52 “trải thảm” vì B-52 bay rất cao (30.000 feet = 10.000 m = 10 km) nên địch quân hoàn toàn không nghe, không thấy; khi đã nghe bom nổ thì không còn đường nào chạy thoát được nữa hết, chỉ có nằm chịu trận, phó mặc cho số mạng mà thôi. Phía Cộng sản cũng công nhận mức độ tàn phá của phi cơ B-52 như sau:

    “Không quân Hoa Kỳ đã dùng B-52 để ném bom rải thảm dọn đường, ném bom tạo bãi đáp đổ quân cho các cuộc hành quân của kỵ binh bay, đánh vào các khu nghi ngờ tập trung quân và vào các khu hậu cần kho tàng của Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam và đã gây ra các huỷ diệt rất lớn, gây cảm giác rất ghê sợ, hãi hùng trong hàng ngũ đối phương và những người đã từng trải qua các trận bom B-52.” 22

    Ngoài phi cơ B-52, Không Lực Hoa Kỳ cũng sử dụng nhiều loại phi cơ khác để yểm trợ cho mặt trận An Lộc như sau:
    • Phi cơ phản lực khu trục A-37 Dragonfly,
      Phi cơ yểm trợ hỏa lực (gunship) AC-119 Stinger
      Phi cơ yểm trợ hỏa lực (gunship) AC-130 Spectre
      Phi cơ trực thăng tấn công Cobra

    Các loại phi cơ này đã đóng một vai trò yểm trợ chiến thuật vô cùng hiệu quả cho mặt trận An Lộc. Chính các trực thăng Cobra, trong ngày đầu tiên của đợt tấn công này, đã bắn cháy 3 chiếc tăng T-54 bằng hỏa tiển HEAT (High-Exlosie Antitank).

    Sang ngày 15-4, Cộng quân cố gắng tái diễn một cuộc tấn công “tiền pháo hậu xung” với bộ binh và chiến xa vào An Lộc một lần nữa nhưng kết quả cũng như trong hai ngày trước, đã bị chặn đứng bởi sức chống trả mãnh liệt của quân phòng thủ với sự yểm trợ áp đảo của không quân Việt-Mỹ. Mức độ giao tranh trong thị trấn giảm dần và đến tối thì ngưng hẳn, kết thúc đợt tấn công đầu tiên giữa tháng 4-1972. Cộng quân đã chiếm được phần phía Bắc của thị trấn An Lộc, và QLVNCH vẫn còn giữ được phần phía Nam của thị trấn.

    Để đạt được thế trận tạm thời nầy, Cộng quân đã bị thiệt hại rất nặng về quân số và vũ khí. Riêng về lực lượng chiến xa, quân phòng thủ An Lộc đã bắn cháy được tất cả là 23 xe tăng, phần lớn là T-54 của Liên Xô. Về phía QLVNCH, toàn bộ đại pháo 105 ly trong thị trấn đã bị phá hủy.



    Tăng viện cho An Lộc trong vòng vây

    Con đường Nguyễn Trung Trực, một trong các con đường chính ở phía Bắc của thị trấn An Lộc, chạy từ Đông sang Tây, là ranh giới giữa 2 lực lượng tấn công và phòng thủ. Từ các vị trí đóng quân ở hai phía Bắc Nam con đường đó, binh sĩ hai bên có thể nhìn thấy và theo dõi hoạt động của đối phương trong một tình thế hết sức căng thăng. Quân phòng thủ biết chắc chắn đối phương sẽ lại tấn công, chỉ không biết chắc ngày giờ nào mà thôi. Phần cấp chỉ huy của hai phe thì đây là thời gian để chuẩn bị cho cuộc giao tranh kế tiếp.

    Về phía Cộng quân, họ phê bình kiểm điểm diễn tiến và thành quả của cuộc tấn công 3 ngày vừa qua. Họ ghi nhận tác động với hiệu quả cao của việc không quân Việt-Mỹ yểm trợ chiến trường An Lộc, nhất là việc oanh kích vào các địa điểm tập trung quân trước cuộc tấn công. Họ cũng thấy rõ khuyết điểm lớn trong kế hoạch tấn công đợt một này là việc thiếu phối hợp chặt chẽ giữa bộ binh và thiết giáp. Và trên hết, họ tập hợp lại lực lượng cho đợt tấn công kế tiếp.23

    Về phía QLVNCH, đây cũng là thời gian chấn chỉnh lại đội hình, sửa sang lại các công sự phòng thủ, và, dĩ nhiên, mang viện quân vào An Lộc để tăng cường lực lượng phòng thủ.

    Ngay từ đầu tháng 4-1972, khi trận Lộc Ninh nổ ra, Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Vùng III, sau phiên họp khẩn tại Dinh Độc Lập, đã ra lệnh cho Lữ Đoàn 1 Dù, đang phụ trách bảo vệ thủ đô Sài Gòn, với Lữ Đoàn Trưởng là Đại Tá Lê Quang Lưỡng24 (về sau thăng lên Chuẩn Tướng và là Tư Lệnh cuối cùng của Sư Đoàn Dù), gồm 3 Tiểu Đoàn 5, 6, và 8, lập tức di chuyển lên Lai Khê. Ngày 7-4-1972, Lữ Đoàn 1 Dù bắt đầu cuộc hành quân từ Lai Khê lên Chơn Thành, dọc theo Quốc Lộ 13, với mục tiêu là nhổ các chốt của Công Trường 7 CS từ Chơn Thành lên An Lộc. Khi qua khỏi Chơn Thành độ 6 km về hướng Bắc, còn cách An Lộc khoảng 15 km, thì lực lượng Dù bị chặn đứng lại tại Suối Tàu Ô bởi cả một trung đoàn của Công Trường 7 với công sự hầm hố phòng thủ kiên cố đã được chuẩn bị sẳn.
              

    Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng, Tư Lệnh Sư Đoàn Dù
    – Trong thời gian Trận An Lộc, ông là Đại Tá, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 1 Dù

              
    Ngày 14-4-1972, Trung Tướng Minh, sau cuộc họp tại Lai Khê với Trung Tướng Dư Quôc Đống, Tư Lệnh Sư Đoàn Dù, và Đại Tá Lưỡng, quyết định cho Lữ Đoàn 1 Dù vào tăng viện cho An Lộc. Đại Tá Lưỡng bay lên An Lộc ngay để họp bàn với Tướng Hưng về phương án đưa Lữ Đoàn 1 Dù vào An Lộc. Phương án của ông đề nghị được Tướng Hưng chấp thuận và cho thi hành ngay. Sau đó, Đại Tá Lưỡng đã bàn chi tiết kế hoạch đổ quân này với Thiếu Tá Nguyễn Văn Ức, Phi Đoàn Trưởng Phi Đoàn 221 trực thăng, của Không Đoàn 43 Chiến Thuật, thuộc Sư Đoàn 3 Không Quân.25, 26 Cuộc đổ quân toàn bộ Lữ Đoàn 1 Dù hoàn thành tốt đẹp trong 2 ngày 14 và 15-4 như tường thuật sau đây:

    “Sau cuộc họp, Ðại Tá Lưỡng bay quan sát vị trí trận địa để chọn bãi đổ quân. Sau năm vòng bay, vị sĩ quan Lữ Đoàn Trưởng quyết định đổ quân xuống ấp Srok Ton Cui, cách An Lộc 4 cây số về phía Ðông. Theo kế hoạch, Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù sẽ xuống trước để khai quang bãi đáp. Rồi ngày hôm sau, 15 tháng 04/1972, hai Tiểu Ðoàn 5 và 8 cùng Bộ Chỉ Huy Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù sẽ được trực thăng vận xuống khu vực này. Sau khi đã hoàn tất cuộc đổ quân, hai Tiểu Ðoàn 5 và 8 sẽ chia làm hai cánh tiến quân vào An Lộc.” 27

    Sau khi Lữ Đoàn 1 Dù đã vào được An Lộc xong thì đến phiên Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, với Liên Đoàn Trưởng là Trung Tá Phan Văn Huấn (về sau thăng cấp Đại Tá), cũng được Tướng Minh cho trực thăng vận vào tăng Viện cho mặt trận An Lộc. Cuộc hành quân trực thăng vận này diễn ra ngày 16-4-1972, cũng do Phi Đoàn 221 trực thăng thực hiện, với diễn tiến như sau:

    “Đến ngày 16 tháng 04 năm 1972, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, được tăng viện cho An Lộc, và khởi phát cuộc phản công tái chiếm lại ½ lãnh thổ phía Bắc An Lộc.

    Từng đoàn trực thăng HU1D cất cánh từ căn cứ Lai Khê vào trưa ngày 16 tháng 04 năm 1972 đưa 550 Biệt Cách Nhảy Dù đến chiến trường An Lộc một cách an toàn.

    Bãi đổ quân được chọn trên một khoảng ruộng trống, về phía Tây, Tỉnh lộ 245, cách Đồi Gíó 1 cây số về phía Đông Bắc.

    Hợp đoàn trực thăng từng đợt 30 chiếc HU1D cho mỗi đợt đổ quân, có 4 trực thăng võ trang hộ tống bao vùng. Đợt đầu thả Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn, do Trung Tá Phan Văn Huấn chỉ huy và 4 toán trinh sát của Liên Đoàn 81 Biệt Cách, do Trung Úy Lê Văn Lợi chỉ huy, cùng Đại Đội 1 do Đại Úy Nguyễn Ích Đoàn chỉ huy và Đại Đội 2 do Đại Úy Nguyễn Sơn chỉ huy; Chuyến thứ nhì gồm có Liên Đoàn Phó, Thiếu Tá Nguyễn văn Lân, cùng Đại Đội 3 do Đại Úy Phạm Châu Tài (có biệt danh là Hổ Xám) chỉ huy, và Đại Đội 4 do Đại Úy Đào Minh Hùng chỉ huy.

    Sau khi được an toàn nhảy xuống trận địa, kiểm điểm quân đầy đủ, Trung Tá Huấn liền cho lệnh các đơn vị di chuyển đến chiếm cứ Ấp Srok Gòn, cận kề bên bãi đổ quân, bố trí xong xuôi, Trung Tá Huấn mở tần số truyến tin, liên lạc được với Tướng Hưng (Bộ Chỉ Huy Mặt Trận) và Đại Tá Lưỡng (Lực Lượng Dù) ở phía Nam để được hướng dẫn lộ trình an toàn cũng như tránh ngộ nhận giữa quân bạn trước khi tiến quân vào thành phố.” 28
              

              
    Với các tăng viện này, quân số phòng thủ An Lộc tăng lên thêm được gần 3.000 quân, và quan trọng nhứt là giúp cho lực lượng phòng thủ tại đây lên tinh thần rất nhiều vì cả 2 đơn vị vừa được tăng viện đều là những đơn vị thiện chiến nhứt của QLVNCH. Ngoài ra, Lữ Đoàn 1 Dù còn tạo ra được 2 điều rất quan trọng cho An Lộc: 1) Thiết lập được một bải đổ quân (LZ = Landing Zone) an toàn không những giúp cho việc tải thương mà còn tạo điều kiện tốt cho việc tiếp tế lương thực, đạn dược, và đổ quân tiếp viện; và, 2) Mang được vào cho mặt trận An Lộc 6 khẩu đại pháo 105 rất cần thiết để yểm trợ cho các đơn vị phòng thủ vì vào thời điểm đó tất cả các khầu pháo của quân phòng thủ An Lộc đã bị thiêu hủy hết rồi. Các đơn vị của QLVNCH đã sẳn sàng chờ đợi đợt tấn công mới của Cộng quân. Họ không phải chờ lâu.



    Đợt tấn công thứ nhì: 19-22/4/1972

    Cũng giống như tất cả moi cuộc tấn công của Cộng quân từ trước, luôn luôn áp dụng chiến thuật “tiền pháo hậu xung,” đêm 18-4 rạng sáng 19-4, các đơn vị pháo của Công Trường 9 đã rót hàng ngàn quả đại pháo và hỏa tiển vào các vị trí của quân phòng thủ An Lộc, và cuộc tấn công bằng chiến xa và bộ binh bắt đầu ngay vào sáng sớm ngày 19-4.

    Có mấy điều cần ghi nhận về đợt tấn công này. Điều thứ nhứt là, vì đã chiếm được nữa phía Bắc của thị trấn trong đợt một, phe Cộng sản nghĩ và tin chắc là với đợt tấn công lần thứ nhì nầy họ sẽ nuốt trọn An Lộc. Vì vậy, đài phát thanh Hà Nội đã công bố là An Lộc đã được hoàn toàn “giải phóng” và Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam (CPCMLTCHMNVN) sẽ chính thức ra mắt tại An Lộc vào ngày 20-4-1972.29 Điều thứ nhì là đợt tấn công này, tuy cũng xảy ra tại nhiều địa điểm trong thị trấn An Lộc, nhưng rõ ràng là tập trung vào các địa điểm đóng quân của lực lượng mới tăng viện cho An Lộc là Lữ Đoàn 1 Dù, với mục tiêu là diệt cho được đơn vị thiện chiến này để làm mất tinh thần của quân phòng thủ An Lộc.

    Trung Đoàn 275 của Công Trường 5 và Trung Đoàn 141 của Công Trường 7, với sự hỗ trợ của 6 chiến xa, đã đồng loạt tấn công vào các vị trí đóng quân của Lữ Đoàn 1 Dù tại Đồi Gió, Đồi 169 và ấp Srok Ton Cui. Đơn vị chịu áp lực nặng nề nhứt của Lữ Đoàn 1 Dù là Tiểu Đoàn 6 tại Đồi Gió với Tiểu Đoàn Trưởng là Trung Tá Nguyễn Văn Đĩnh. Đồi Gió cũng chính là căn cứ hỏa lực với 6 khẩu đại bác 105 ly của Lữ Đoàn 1 Dù.

    “Trước áp lực quá nặng của địch quân, Ðại Tá Lưỡng cho phép Trung Tá Nguyễn Văn Ðĩnh, Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 6 Nhày Dù, được toàn quyền quyết định về kế hoạch triệt thoái.

    Trung Tá Ðĩnh cùng với hai Ðại Ðội 60 và 62 di chuyển theo ngọn đồi xuống ấp Srok Ton Cui, nơi đóng quân của Ðại Ðội 61. Trong khi đó, hai Ðại Ðội 63 và 64 còn lại do Thiếu Tá Phạm Kim Bằng chỉ huy vẫn tiếp tục án ngữ cao địa. Cánh quân do Trung Tá Ðĩnh chỉ huy bị Cộng quân chặn đánh. Những binh sĩ Nhảy Dù này đổi hướng và triệt thoái về hướng Nam. Sau đó, họ được trực thăng của Không Quân Việt Nam bốc về Lai Khê. Cánh quân còn lại của Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù và Bộ Chỉ Huy Lữ Ðoàn rút vào An Lộc. Riêng pháo đội đại bác 105 ly với 6 khẩu được lệnh phá huỷ tất cả súng trước khi rút lui.” 30

    Mặc dù đạt được một phần mục tiêu là triệt tiêu được căn cứ hỏa lực của Lữ Đoàn 1 Dù với 6 khẩu 105 ly và buộc Tiểu Đoàn 6 phải rút khỏi Đồi Gió, nhưng Cộng quân đã không tiêu diệt được Lữ Đoàn 1 Dù. Lữ Đoàn 1 Dù đã bảo toàn được lực lương và di chuyển an toàn vào bên trong An Lộc. Ngoài ra, trong cuộc giao tranh tại khu vực này, toàn bộ 6 chiến xa của Cộng quân đã bị lực lượng Dù bắn cháy hết.

    Trong thời gian này, các cuộc tấn công của các đơn vị của Công Trường 9, tại các địa điểm khác bên trong An Lộc, đều bị các lực lượng phòng thủ đẩy lui. Phần phía Nam của thị trấn An Lộc vẫn hoàn toàn nằm trong sự kiểm soát của các đơn vị phòng thủ. Ngày 20-4 qua đi. Mục tiêu của đợt tấn công lần thứ nhì này của Cộng Quân, chiếm An Lộc để làm thủ đô cho CPCMLTCHMNVN, đã thất bại. Ngày 21-4, Cộng quân còn cố gắng tấn công một lần nữa từ phía Nam nhưng cũng hoàn toàn thất bại do sự chống trả mãnh liệt của 2 Tiểu Đoàn 5 và 8 của Lữ Đoàn 1 Dù. Đợt tấn công An Lộc lần thứ nhì này kết thúc vào tối ngày 22-4-1972.



    Địa ngục trần gian tại An Lộc

    An Lộc, trong suốt thời gian bị Cộng quân bao vây, đã được một ký giả Mỹ mô tả như là một địa ngục trần gian trong bài báo của tờ báo quân dội, Pacific Stars and Stripes, số ra ngày 1-5-1972, với tựa đề như sau: “An Lộc: a battlefield in Hell.” 31 An Lộc, với một diện tích khoảng 4 km vuông, đã phải gánh chịu mỗi ngày trên một ngàn quả đạn dủ loại, từ dại bác 105 ly, 155 ly, bích kích pháo, và hỏa tiển 122 ly. Đó là không kể có những ngày, luôn luôn xảy ra trước những đợt tấn công dữ dội của chiến xa và bộ binh, mức độ pháo kích lên đến 5 hay 6 ngàn quả, và đặc biệt, vào ngày 11-5-1972, An Lộc phải chịu một trận mưa pháo trên 8.000 quả,32 được các phóng viên chiến trường quốc tế mô tả là khốc liệt nhứt trong toàn bộ cuộc chiến tranh Đông Dương.

    Với mức độ pháo kích như vậy, cộng thêm vào các trận đánh ác liệt ngay trong thị trấn, có chiến xa tham dự bên phe tấn công và có đủ loại phi cơ yểm trợ bên phe phòng thủ, gần như không có một ngôi nhà nào còn nguyên vẹn, nếu không bị sụp đổ tan nát thì cũng bị thiệt hại rất nặng nề, như trong bức ảnh bên dưới đây:
              

    Trung tâm thị trấn An Lộc sau đợt tấn công đầu tiên

              
    Vì họ đã chiếm được những vị trí cao điểm chung quang thị trấn, như phi trường Quản Lợi, đồi Đồng Long ở phía Bắc, Đồi Gió và Đồi 169 ở phía Đông Nam, pháo binh của Cộng Quân đã pháo vào thị trấn rất chính xác. Một sĩ quan cố vấn Hoa Kỳ có mặt tại An Lộc đã cho rằng khả năng sống sót nếu ở ngoài trời trong vòng 5 phút là vào khoảng 50%.33 Trong điều kiện chiến trường như vậy, tất cả mọi người trong thị trấn An Lộc, cả quân lẩn dân, đều phải sống trong hầm, đủ loại hầm, từ các hầm thật kiên cố như hầm của các bộ chỉ huy trung đoàn, lữ đoàn, sư đoàn, cho đến các hầm thật sơ sài của thường dân. Mặc dù vậy, số thương vong của thường dân và binh sĩ do pháo kích cũng không phải là nhỏ. Xác chết, kể cả xác súc vật, ngỗn ngang khắp nơi, tay chân bị đứt lìa do các mãnh pháo chặt đứt văng tứ tung, một số nằm vương vải ngay cả trên các cành cây còn chưa bị gảy đổ trong thị trấn. Một phần khá lớn những xác chết này không được chôn cất nên, sau một thời gian, đã xình thúi, gây ô nhiểm không khí rất khủng khiếp.

    Trước khi xảy ra trận đánh, An Lộc có một dân số khoảng 15.000. Sau khi Lộc Ninh thất thủ, với cư dân của Lộc Ninh thoát chạy được về phía Nam, người ta ước lượng dân số của An Lộc, trong thời gian bị bao vây, có thể lên gần 20.000. Dĩ nhiên, người dân cũng biết rằng An Lộc sẽ là mục tiêu tấn công kế tiếp của Cộng quân, nhưng họ không thể thoát ra khỏi An Lộc được vì Quốc Lộ 13 đã bị cắt đứt rồi. Trong thời gian hai bên giao tranh, các vị lãnh đạo Công Giáo và Phật Giáo đã có mấy lần tìm cách đưa giáo dân rời khỏi An Lộc nhưng lần nào cũng vậy, Cộng quân đều pháo kích vào đoàn người di tản, gây thương vong rất lớn. Ta hảy nghe một sĩ quan của Liên Đoàn 3 BĐQ tả lại cảnh tượng kinh hoàng này:

    “Có một ngày vào buổi sáng, khi ngớt pháo, tôi vừa chui lên nóc trung tâm hành quân để quan sát chung quanh thì thình lình… tôi nghe tiếng loa phóng thanh phát lên yêu cầu hai bên ngưng chiến. Loa phóng thanh được phát ra từ một đoàn người rất đông và rất dài, dẫn đầu bởi các nhà sư và các cha Công Giáo với cờ trắng trên tay phất qua phất lại. Lúc đó, Thiếu Tá Lạc, tiểu đoàn trưởng 36 BÐQ vừa gặp Trung Tá LÐT xong, nghe la hét cũng đến gần tôi trên nấp hầm trung tâm hành quân để quan sát.

    Ðoàn người đi trên con đường trước mặt và hướng đông BCH/LÐ tiến về hướng Nam định rẽ qua QL.13 để di tản về hướng Nam. Khi đoàn người đi về hướng gần phòng tuyến tiểu khu thì bổng nghe tiếng pháo nổ ầm ầm hướng đó. Quan sát kỹ thì tôi thấy đích thị địch đã không ngưng pháo, mà còn cố tình pháo thẳng vào đoàn người di tản trên. Ðoàn người trúng đạn pháo kêu la thảm thiết, tiếng khóc của trẻ con vang dội đến khu tôi đang đứng.

    Thiếu Tá Lạc thấy cảnh tượng kinh hoàng vì Việt Cộng quá dã man đối với người dân. Ông nói cả Cha, Thầy, lẫn đàn bà con nít bọn chúng vẫn không tha thì quả thật là man rợi. Lần pháo này dường như chúng có điềm chỉ nên đạn pháo rót chính xác vào đoàn ngươi làm thân xác họ văng tung tóe, tay chân văng máng trên các cành cây ven đường bởi dân chúng trên đường không có gì tránh né. Một số họ chỉ chạy nằm sát gần những gốc cây lớn mà thôi. Sau đợt pháo đó, dân chúng và cả Cha lẫn Thầy đều tan hàng trở về chốn cũ của mình.” 34

    Người dân An Lộc cũng như người tỵ nạn từ Lộc Ninh chạy về không còn cách nào khác, đành phải tìm mọi cách sống còn cùng với các binh sĩ phòng thủ trong địa ngục trần gian này.

    Vì đường giao thông và tiếp tế chính cho An Lộc là Quốc Lộ 13 đã bị cắt đứt ở phía Nam, và các phi trường cũng đã lọt vào tay địch, An Lộc chỉ còn được tiếp tế bằng cách thả dù. Tuy nhiên, vì hệ thống phóng không dày đặc của địch, việc tiếp tế bằng cách thả dù do các phi cơ vận tải đã gặp rất nhiều khó khăn, phải thả các kiện hàng tiếp tế từ cao độ 5.000 bộ hay có khi còn cao hơn nữa. Trong đợt tấn công đầu tiên, sau khi thực hiện tất cả 27 phi vụ trong vòng 48 giờ, chỉ có 34 trong số 135 tấn tiếp tế lọt được vào tay quân phòng thủ mà thôi.35 Tình trạng thiếu thốn lương thực và mọi thứ là một thực trạng kéo dài suốt thời gian mấy tháng của trận đánh. Dân và quân An Lộc cùng sống chung với nhau trong hầm và cùng chia xẻ với nhau từng miếng ăn thức uống. Chưa bao giờ, trong suốt thời gian 20 năm của cuộc chiến, tình quân dân cá nước thắm thiết như vậy. Việc chửa trị thương tích cho thường dân và chiến sĩ mỗi ngày mỗi thêm khó khăn vì không những bệnh viện của Tiểu Khu Bình Long đã bị pháo kích phá hủy hoàn toàn mà ngay cả thuốc men, vật dụng, y cụ cũng đều khan hiếm. Các bác sĩ phải sử dụng đến cả các sợi nylon rút ra từ bao cát, sau đó cho đun nước sôi khử trùng, để làm chỉ khâu may các vết thương sau khi giải phẩu. Lâu lâu, lợi dụng lúc địch quân ngưng pháo kích, quân phòng thủ phải sử dụng các bulldozer để đào các hố to để chôn tập thể (từ 300 đến 500 xác) các xác chết của cả binh sĩ và thường dân.

    “Kiểm tra tình trạng quân số và thương binh thì từ ngày 13-04-72 bắt đầu cuộc chiến đến nay, tổn thất thương vong các tiểu đoàn gần phần nửa. Số người tử thương thì đã giải quyết chôn tại chỗ. Số bị thương thì tồn đọng rất nhiều vì ngày nào cũng có nhiều thương binh nhưng không tản thương được. Vì thế, quân y tạm thời giải quyết như sau: số người bị thương nhẹ còn đi đứng được thì sau khi băng bó xong cho trở về đơn vị, địch vào cầm súng bắn nữa. Do đó có người bị thương 2 hoặc 3 lần hoặc nhiều lần. Có người lần trước bị thương nhẹ, lần sau bị thương nặng. Cũng có những thương binh nhẹ sau đó lại tử thương! Còn những thương binh nặng để nằm đó chờ tản thương sống thoi thóp rồi có người mòn mỏi chềt dần. Ðại Ðội 52 Quân Y báo cáo khu vực Trung Ðoàn 8 có cả ngàn quân nhân và thường dân bị thương nặng chờ tản thương nằm chật cả một dẫy phố Ðại Lộ Hoàng Hôn. Những người còn lành mạnh thì rất mệt mỏi và gầy ốm vì phải chiến đấu hết ngày này sang ngày khác, không thì giờ nghỉ ngơi, thiếu ngủ, thiếu ăn, tinh thần lúc nào cũng căng thẳng, sinh mạng không biết sẽ chết lúc nào. Lại nữa mùi hôi thối từ xác chết rất khó thở, ruồi lằn sinh sản nhanh kinh khủng! Nước không đủ uống, lấy đâu mà tắm giặt, dơ bẩn, khó chịu, nhưng họ cũng phải ráng chịu, phấn đấu sống để mà chiến đấu, để bảo vệ quê hương và dân tộc không lọt vào tay Cộng Sản.” 36



    Đợt tấn công lần thứ ba: 11-15/5/1972

    Sau khoảng hơn 2 tuần lễ chấn chỉnh hàng ngũ, bổ sung quân số, và tái trang bị, tiếp tế, Cộng quân lại tung ra một đợt tấn công nữa vào sáng ngày 11-5-1972. Một ngày trước đó, về phía cố vấn Mỹ có một thay đổi quan trọng: Đại Tá Miller, Cố Vấn Trưởng bên cạnh Tướng Hưng, hết nhiệm kỳ phục vụ tại Việt Nam và được thay thế bởi Đại Tá Walter Ulmer, một sĩ quan tốt nghiệp Trường Võ Bị West Point nổi tiếng, có kinh nghiệm và đã từng phục vụ 2 nhiệm kỳ một năm tại Việt Nam. Việc thay đổi này có ảnh hưởng tốt cho mối quan hệ với Tướng Hưng vì, khác với Đại Tá Miller, Đại Tá Ulmer là một người bình tỉnh hơn, tế nhị hơn, và thông cảm hơn.

    Đúng 4:30 sáng ngày 11-5-1972, trận pháo kích dữ dội vào An Lộc suốt từ 1 giờ sáng đột ngột chấm dứt: quân phòng thủ biết ngay là cuộc tấn công bằng bộ binh sắp sửa bắt đầu. Và đúng như vậy, các đơn vị bộ binh của Công Trường 5 khởi sự tấn công từ phía Bắc, trong khi bộ binh của Công Trường 9 tấn công từ phía Tây, với sự yểm trợ của 40 chiến xa.37 Cuộc giao tranh lại tái diễn với hình thức và cường độ như hai lần trước. Một chuyện mới trong đợt tấn công này là Cộng quân bắt đầu sử dụng hỏa tiển tầm nhiêt địa không SA-7 Strela do Liên Xô chế tạo để chống lại các phi cơ yểm trợ chiến thuật của Không Quân Việt-Mỹ, đặc biệt là nhắm bắn hạ các trực thăng gunship Cobra.

    Ở phía Bắc, Trung Đoàn 8 BB và Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù bị áp lực rất nặng từ các đơn vị của Công Trường 5, nhưng họ vẫn bám trận địa, chống trả dữ dội. Về phía Tây, Trung Đoàn 7 BB cũng bị các đơn vị của Trung Đoàn 272 của Công Trường 9 tấn công dữ dội. Lực lượng phòng thủ bắn cháy được 2 chiến xa, nhưng bộ binh địch vẫn tràn tới, tiến gần đến Bộ Chỉ Huy của Sư Đoàn 5 BB của Tướng Hưng Tiểu Đoàn 3 của Trung Đoàn 7 BB phải rút lui để bảo toàn lực lượng. Tình hình An Lộc lúc đó thật là nguy ngập. Tướng Hưng ra lệnh cho Tiểu Đoàn 5 Dù từ phía Nam tiến lên để giải vây cho Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn 5. Trong cuộc điện đàm ngay lúc đó với Đại Tá Trường, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 8 BB ở phía Bắc, Tướng Hưng đã nói như sau:

    “Nếu địch tràn ngập Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 trước khi tiểu đoàn Dù tới thì tôi sẽ tự sát chớ không để cho địch bắt. Vậy khi tôi chết rồi thì anh dắt Trung Ðoàn 8 đi theo Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù rút về Chơn Thành.” 38

    Thật vô cùng may mắn, ngay lúc đó, lực lượng tấn công đã phạm một sai lầm lớn. Các đơn vị của Trung Đoàn 272, Công Trường 9, thay vì tràn xuống phía Đông Nam, họ lại đã tiến lên phía Đông Bắc, tấn công, tràn ngập, và chiếm được trụ sở của Ty Công Chánh tỉnh Bình Long.39 Sau đó, nhờ Tiểu Đoàn 5 Dù từ phía Nam lên, một tiểu đoàn BĐQ từ phía Đông sang, và Đại Đội 8 Trinh Sát của Trung Đoàn 8 BB từ phía Bắc xuống, Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn 5 đã được an toàn.

    Trong thời gian này, dưới sự điều động của tân Cố Vấn Trưởng Đại Tá Ulmer, các phi vụ yểm trợ chiến thuật cho An Lộc đã được gia tăng lên rất nhiều. Nội trong ngày 11-5, đã có tất cả 297 phi vụ yểm trợ chiến thuật được thực hiện trên không phận An Lộc. Sau đó, trong 4 ngày kế tiếp, mỗi ngày đều có khoảng 260 phi vụ yểm trợ cho An Lộc. Về máy bay chiến lược B-52, nội trong 24 giờ của ngày 11-5 đã có tất cả 30 phi vụ, trong đó bao gồm cả 5 phi vụ B-52 mà Tướng Hollingsworth đã “vay mượn” từ Vùng II. Lần này, các phi vụ B-52 đã “trải thảm” một cách chính xác ngoài sức tưởng tượng, có khi chỉ cách các lực lượng phòng thủ chừng vài trăm mét mà thôi. Một trong các phi vụ B-52 này đã kịp thời giải nguy cho Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù ờ phía Đông Bắc khi Liên Đoàn sắp bị một trung đoàn của Công Trường 5 tràn ngập: B-52 đả “trải thảm” lên trung đoàn này chỉ cách vị trí của Liên Đoàn 81 có khoảng 500 m (600 yards). Trung đoàn này của Công Trường 5 CS coi như đã bị xóa sổ.40

    Đến chiều ngày 11-5 thì có thể xem như đợt tấn công vào An Lộc lần thứ ba này của Cộng Quân đã hoàn toàn thất bại: họ đã không thể chiếm được An Lộc. Phần lớn số 40 chiến xa của họ đã bị tiêu hủy bên trong thị trấn, với một số vẫn còn nguyên, nhưng các binh sĩ thiết giáp đã bỏ chạy thoát thân. Các đơn vị bộ binh đã bị các đơn vị phòng thủ và các phi vụ yểm trợ chiến thuật đánh tan tác. Số tàn binh hoảng sợ cực điểm trước các trận bom của không quân Việt-Mỹ đã hoàn toàn mất tinh thần, bỏ hàng ngũ, chạy tán loạn vào các khu rừng cao su chung quanh thành phố, và một số lại làm mồi cho các phi vụ “trải thảm” của máy bay B-52. Những ngày sau đó, Cộng quân vẫn còn tiếp tục mở những cuộc tấn công vào An Lộc nữa nhưng họ đã hoàn toàn mất đà rồi. Tối ngày 15-5, toàn bộ các lực lượng tấn công còn lại của Cộng quân rút hết ra khỏi An Lộc.

    Đợt tấn công lần thứ ba này đã hoàn toàn bị bẻ gảy, nhưng trận chiến vẫn chưa tàn vì Cộng quân vẫn còn bám trụ tại những phần đất họ đã chiếm được chung quanh thị trấn An Lộc.



    QLVNCH phản công và phá vòng vây An Lộc

    Về phía Bắc, ngày 10-6, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, mặc dù có tỷ lệ thương vong khá cao, đã tiến hành việc lục soát và tiêu diệt tất cả các ổ kháng cự của Cộng quân trong các khu phố đã bị họ chiếm giữ trước đây. Hai ngày sau, khi đã kiểm soát xong và làm chủ được tình hình tại đây, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù bắt đầu thực hiện việc tái chiếm đồi Đồng Long, cách An Lộc khoảng nửa cây số về phía Bắc, mà Cộng quân đã chiếm giữ từ hai tháng nay. Ta hảy nghe một người trong cuộc, Đại Úy Lê Đắc Lực của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, kể lại như sau:

    “Đích thân Trung Tá Chỉ Huy Trưởng Phan Văn Huấn đã điều động Đại Đội 2 và Đại Đội 3 chia làm hai cánh, Đại Đội 3 do Đại Úy Phạm Châu Tài chỉ huy, sẽ tiến quân từ hướng Đông và Đại Đội 2 do Đại Úy Nguyễn Sơn chỉ huy, phối hợp cùng hai Toán Thám Sát do Thiếu Úy Lê Văn Lợi chỉ huy, sẽ tiến quân từ hướng Nam, tất cả lợi dụng vào nửa đêm trời tối, âm thầm, kín đáo bò sát lên đỉnh đồi, nằm ém quân tại chỗ, đợi cho đến khi trời vừa hừng sáng, sau khẩu lệnh xung phong của Đại Úy Sơn, tất cả đã đồng loạt nổ súng xối xả, tấn công vào các pháo tháp, hầm trú ẩn của địch quân, bọn địch dù đông, công sự phòng thủ vững chắc, nhưng quá bất ngờ, không kịp trở tay trước lối đánh thần tốc, táo bạo của Biệt Cách Dù, nên một số đã bị sát hại, số còn lại vừa định thần đã phản ứng chống trả, nhưng không ngăn cản được quyết tâm tái chiếm đồi Đồng Long của các Chiến sĩ Biệt Cách Dù, cuối cùng chúng cũng đã bị tiêu diệt, hay đã phải buông súng đầu hàng.

    Hai Toán Thám Sát đã không chậm trễ, khai triển đội hình công hãm và thanh toán cứ điểm cuối cùng của địch trên chóp đỉnh, bốn tên địch quân ngoan cố cầm cự trong tuyệt vọng, để rồi phải phơi thây thảm khốc. Thiếu Úy Lợi và các Toán viên đã mừng rơi nước mắt, cùng cầm Quốc Kỳ Việt Nam Cọng Hòa cắm xuống ngay trên đỉnh Đồi Đồng Long.” 41

    Với việc tái chiếm đồi Đồng Long, thị trấn An Lộc có thể xem như đã được giải tỏa. Ngày 16-6-1972, Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Quân Đoàn III, đã bay lên An Lộc và thăng cấp Đại Tá tại mặt trận cho Trung Tá Phan Văn Huấn, Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù.42

              

    Nghĩa trang tạm do chính các chiến sĩ Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù đích thân thực hiện
    cho các đồng đội đã ngả xuống trong thời gian trận đánh còn đang diễn ra ác liệt.
    (Nguồn: Tàn cơn binh lửa (10): An Lộc Địa của Lê Đắc Lực)

              

              

    Nghĩa trang xây lại sau trận đánh cho các tử sĩ của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù tại An Lộc
    (Nguồn: cùng một nguồn với ảnh trên)

              

    Chính tại đây, trên bia chung của nghĩa trang, đã ghi lại hai câu thơ của cô giáo Nguyễn Thị Pha của Thị trấn An Lộc đã đi vào lịch sử của Miền Nam:
              
    An Lộc địa sử ghi chiến tích
    Biệt Cách Dủ vị quốc vong thân

              
    Về phía Nam, việc giải tỏa Quốc Lộ 13 từ Chơn Thành lên An Lộc gặp khó khăn hơn rất nhiều vì các chốt chặn của Công Trường 7 cắt đứt nhiều đoạn giữa Lai Khê – Chơn Thành, và giữa Chơn Thành – Tân Khai, như có thể thấy trong tấm ảnh bên dưới đây:
              

    Bản đồ Quốc Lộ 13 với các “chốt” của Công Trường 7 giữa Lai Khê và Tân Khai

              
    Sau buổi họp ngày 6-4-1972 tại Dinh Độc Lập, Sư Đoàn 21 BB, với Tư Lệnh là Thiếu Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, 43 được lệnh di chuyển ngay từ Vùng IV lên tăng viện cho Vùng III. Toàn bộ Sư Đoàn đã có mặt tại Lai Khê từ ngày 12-4 và phân ra đóng quân như sau:
    • 1) Trung Đoàn 31 ở khu vực Ấp Suối Tre;
      2) Trung Đoàn 32 ở phía Nam Chơn Thành;
      3) Trung Đoàn 33 ở phía Bắc Lai Khê;
      và 4) Thiết Đoàn 9 Kỵ Binh ngay tại Lai Khê.

    Với quyết tâm khóa chặt Quốc Lộ 13 từ Lai Khê lên An Lộc, ngăn chận không cho Sư Đoàn 21 BB tiến lên tăng viện và giải vây cho An Lộc, các đơn vị của 2 Trung Đoàn 165 và 209, thuộc Công Trường 7 (từ giữa tháng 5-1972 có thêm một số đơn vị của Công Trường 9 tăng viện) đã đặt rất nhiều chốt chặn khiến cho Sư Đoàn 21 BB đã gặp rất nhiều khó khăn, phải đánh nhiều trận lớn dọc theo Quốc Lộ 13 trong 3 tháng 4-5-6/1972 (xem bản đồ bên trên). Cả 2 bên đều bị thiệt hại nặng với số thương vong rất cao: 1) về phía Sư Đoàn 21 BB, tính đến ngày 26-5-1972, trên quân số 12.000, số thương vong đã đạt đến khoảng 50%, trong đó có 1 sĩ quan cao cấp là Đại Tá Trương Hữu Đức (truy thăng Chuẩn Tướng), Chiến Đoàn Trưởng, Chiến Đoàn Đặc Nhiệm 52, tử trận tại Chơn Thành vì trúng đạn của Cộng quân khi đang bay trực thăng chỉ huy ; 2) về phía Cộng quân, nhiều đại đội (quân số thường khoảng 150-200) của Trung Đoàn 209 chỉ còn 10 người.44 Từ giữa tháng 5-1972, với tình hình Sư Đoàn 21 gặp khó khăn lớn trên Quốc Lộ 13, Trung Đoàn 15, thuộc Sư Đoàn 9 BB (Trung Đoàn Trưởng là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn 45), được lệnh di chuyển từ Vùng IV lên tăng viện cho Sư Đoàn 21.

    Tân Khai là một xã cách An Lộc về phía Đông Nam độ 9 km với địa thế trống trải không thuận lợi cho việc đặt các chốt chặn nên Cộng quân không đóng quân ở đó. Nhận ra lợi điểm này, ngày 15-5, Trung Tướng Minh cho thành lập một Chiến Đoàn Đặc Nhiệm (Task Force) dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Cẩn, gồm Thiết Đoàn 9 Kỵ Binh, 1 tiểu đoàn bộ binh lấy từ Trung Đoàn 15 của Sư Đoàn 9 BB, và Pháo Đội C gồm 3 khẩu 105 ly lấy từ Tiểu Đoàn 93 Pháo Binh. Chiến Đoàn này đi vòng, bỏ qua chốt chặn của Cộng quân tại Suối Tàu Ô, tiến lên chiếm Tân Khai. Cùng lúc một tiểu đoàn thứ hai, cũng của Trung Đoàn 15, Sư Đoàn 9, được trực thăng vận lên một địa điểm cách Tân Khai khoảng 1,5 km về phía Đông, lục soát, bảo vệ an ninh để chuẩn bị cho các đợt chuyển quân kế tiếp lên Tân Khai. Các ngày kế tiếp, các đơn vị còn lại của Trung Đoàn 15 được trực thăng vận lên Tân Khai, cùng lúc với các trực thăng Chinook của Không Quân VNCH và trực thăng Sikorsky của Hoa Kỳ mang các cổ đại bác 105 ly và 155 ly để thiết lập căn cứ hỏa lực Long Phi tại Tân Khai với nhiệm vụ yểm trợ cho An Lộc. Đến ngày 18-5, Trung Đoàn 15 đã hoàn toàn kiểm soát được khu vực chung quanh căn cứ hỏa lực Long Phi tại Tân Khai

    Nhận ra sơ hở để mất Tân Khai, Cộng quân lập tức phản công. Sáng ngày 20-5, Trung Đoàn 141 của Công Trường 7, có chiến xa yểm trợ, lập tức tấn công căn cứ hỏa lực Tân Khai. Cuộc giao tranh tại Tân Khai kéo dài cả mấy tuần lễ và mang lại thương vong rất cao cho cả 2 phe.

    Sáng ngày 4-6-1972, Tiểu Đoàn 6 Dù, sau khi đã bổ sung quân số và tái trang bị, được trực thăng vận lên Tân Khai, cùng với các tiểu đoàn của Trung Đoàn 15, chia làm 2 cánh, hành quân giải tỏa Quốc Lộ 13 từ Tân Khai lên An Lộc. Sau 4 ngày chiến đấu ác liệt, Tiểu Đoàn 6 Dù đã nhổ xong được hết tất cả các chốt của Công Trường 7, và:

    “đúng 17 giờ 15 ngày 8 tháng 6, Đại Úy Ngô Xuân Vinh, Đại Đội Trưởng Đại Đội 62, đứng lên mặt đường nhựa, ngã ba vào xã Thanh Bình (đồn điển Xa Cam), bắt tay với Đại Úy Trương Ngọc Ni, Đại Đội Trưởng 81 Nhảy Dù, đơn vị cực Nam của An Lộc, để đánh dấu một chiến thắng quan trọng ngày giải tỏa AN LỘC.” 46

    Việc liên kết được giữa hai tiểu đoàn Dù, cũng như giữa các đơn vị của Trung Đoàn 15 với các đơn vị phòng thủ phía Nam của An Lộc, khởi đầu cho việc giải tỏa hoàn toàn An Lộc. Vòng đai phòng thủ An Lộc được mở rộng, các phi vụ trực thăng đã có thể đáp an toàn để thực hiên các công tác tải thương, tiếp tế, thay quân cho An Lộc. Ngày 13-6, Trung Đoàn 48 thuộc Sư Đoàn 18 BB được trực thăng vận từ Lai Khê lên An Lộc để bắt đầu thay thế cho các đơn vị đã bị thiệt hại quá nặng và quá mệt mõi, gần như kiệt sức, của Sư Đoàn 5 BB. Ngày 17-6, các đơn vị của Trung Đoàn 48 đã hành quân, tiến chiếm các ngọn đồi ở phía Nam An Lộc và, từ các vị trí cao điểm thuận lợi này, đã hướng dẫn cho các phị tuần không quân Mỹ-Việt oanh kích các vị trí còn sót lại của Cộng quân ở phía Bắc và phía Tây của thị trấn. Nhờ vậy Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù và Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân đã chiếm lại được toàn bộ phía Bắc của An Lộc, và Trung Đoàn 7 của Sư Đoàn 5 cũng đã chiếm lại được phần phía Tây của An Lộc mà Cộng quân đã chiếm giữ từ ngày 11-5.47 Mặc dù vẫn còn những vụ pháo kích lẻ tẻ của Cộng quân vào thị trấn, với An Lộc đã trở thành bình địa, nhưng toàn bộ thị trấn đã hoàn toàn nằm trong sự kiểm soát của các đơn vị QLVNCH.
              

    Không ảnh cho thấy Thị trấn An Lộc đã trở thành bình địa

              
    Ngày 18-6, Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Quân Đoàn III, sau khi cùng với Cố Vấn Trưởng là Thiếu Tướng Hollingsworth bay lên An Lộc trước đó 2 ngày, đã tuyên bố là cuộc bao vây An Lộc của Cộng quân đã bị bẻ gảy hoàn toàn. Ngày 24-6, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù và Lữ Đoàn 1 Dù được lệnh rời khỏi An Lộc để ra Vùng I tăng viện cho mặt trận Quảng Trị.

    Ngày 7-7-1972, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã đích thân bay vào An Lộc, thăm viếng, ủy lạo, gắn huy chương và thăng cấp tại mặt trận cho một số các vị chỉ huy lực lượng phòng thủ An Lộc. Đồng thời, ông cũng ra quyết định, lần đầu tiên trong lịch sử của QLVNCH, thăng lên một cấp cho tất cả mọi quân nhân đã có mặt tại đây trong thời gian cuộc tử thủ diễn ra.
              

    Ảnh chụp ngày 7-7-1972 khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đến thăm An Lộc. Từ trái qua phải:
    Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Quân Đoàn III,
    Đại Tá Bùi Đức Điềm, Phụ Tá Hành Quân Sư Đoàn 5 BB,
    Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH,
    Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Sư Đoàn 5 BB,
    Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu,
    và Đại Tá Trần Văn Nhựt, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Bình Long.

              



    Thay Lời Kết

    Trận An Lộc, diễn ra trong 3 tháng 4-5-6 năm /1972 với cường độ ác liệt chưa từng có trước đó, đã kết thúc với chiến thắng anh dũng, oai hùng, và rất đáng được ca ngợi của các đơn vị của QLVNCH đã tử thủ tại đó. Cả 2 phe lâm chiến đều phải trả một giá rất đắt với tỷ lệ thương vong rất cao và thiệt hại về chiến cụ rất lớn. Điều đau thương nhứt của trận đánh này là thiệt hại về nhân mạng và tài sản vô cùng lớn lao của người dân địa phương bị kẹt lại tại An Lộc trong suốt thời gian của trận chiến, thể hiện qua câu chuyện nhỏ rất thương tâm và kinh hoàng sau đây của hai bé gái đã sống sót qua suốt thời gian của trận đánh:

    “Để chuẩn bị cho cuộc tấn công tái chiếm Đồi Đồng Long, trong lúc khai triển đội hình khi đến gần chân đồi với đầy dẫy cây rừng hoang dại, các Chiến Sĩ Đại Đội 2 Biệt Cách Dù đã phát hiện một căn hầm, nằm khuất lấp dưới những tấm ván gỗ và những cỏ cây xác xơ vì bom đạn. Các Binh sĩ áp sát đến miệng hầm, họ nghe vài ba tiếng động sột soạt nhỏ phát ra từ bên trong. Rất thận trọng, họ chưa vội nổ súng hay tung lựu đạn mà chỉ phát lời kêu gọi đầu hàng, đồng thời cấp báo ngay về Bộ Chỉ Huy Hành Quân, Trung Tá Chỉ Huy Trưởng Phan Văn Huấn ra lệnh Đại Úy Sơn cho Binh sĩ quan sát kỹ càng, có thể là địch quân mà cũng có thể là đồng bào, nhưng bất kể họ là ai, với hơn hai tháng chiến trận xảy ra nơi đây, không lương thực, nước uống, thì đâu còn sức đề kháng để chống cự, phải tìm mọi cách đưa họ ra khỏi căn hầm đó. Và thật không thể tưởng tượng được, chỉ vài ba phút sau đó, có hai em bé gái khoảng chừng 6, 7 tuổi bò ra, trên người chỉ còn những mảnh vải rách nát, tả tơi che thân, đất bùn, ghét bẩn bám đen xì trên thân thể khô cằn, còm cỏi, chỉ còn da bọc xương, hai mắt sâu hoắm trên một khuôn mặt hốc hác, ngây dại, thờ thẩn, giọng nói khàn đục, thiểu não, nhìn hai bé chẳng khác gì hai bộ xương biết đi, thật quá đổi thương tâm, đau lòng, không ai có thể cầm được nước mắt.

    Trung Tá Chỉ Huy Trưởng đã mang hai bé về Bộ Chỉ Huy Hành Quân và giao cho Ban Quân Y của Bác Sĩ Nguyễn Thành Châu khám nghiệm, chữa trị, chăm sóc cho đến khi hai bé tạm bình phục và hai bé đã kể lại mọi sự việc như sau: “Hai cháu tên là Hà Thị Loan và Hà Thị Nở, con của Trung Sĩ Hà Văn Hiến, phục vụ tại Tiểu Khu. Khi Việt cọng tấn công, pháo kích vào An Lộc, Mẹ cỏng em trai 4 tuổi và đắt hai cháu chạy giặc, thì bất ngờ Mẹ bị trúng đạn pháo chết ngay tại chổ, em trai bị thương nặng ở chân. Chúng cháu liền cỏng em trai chạy xuống ẩn trú trong một cái hầm kế cận chân đồi Đồng Long, trong đêm hôm đó em trai cháu chết, qúa khó khăn để chôn cất, nên chúng cháu để xác em trai nằm bên cạnh cho đến thối rửa chỉ còn bộ xương. Chúng cháu trốn ở đó suốt hơn hai tháng, lúc đầu may nhờ có một số cơm gạo sấy của ai bỏ lại đã ăn dần, về sau ăn sống luôn mấy con gà con lạc mẹ đang trốn chung trong hầm. Cạn kiệt lương thực, đói qúa ban đêm khi không còn nghe tiếng đạn pháo kích, thì mò ra khỏi hầm kiếm rau cỏ mà ăn. May nhờ đến ngày hôm nay được các bác tìm thấy mà cứu sống các cháu.” 48



    Ghi Chú:

    1. Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy. Lược sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. San Jose, Calif.: Hương Quê, 2011. 175-176. Trung Tướng Nguyển Văn Minh, sinh tháng 2-1929 tại Sài Gòn, tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu Úy Khóa 4 Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt vào ngày 1-12-1951. Ông có biệt danh là “Minh đờn” vì lúc chưa nhập ngữ ông thường đi đờn cho các vũ trường ở Sài Gòn. (QLVNCH có tất cả 4 vị Tướng mang tên Minh với biệt danh như sau: 1) Đại Tướng Dương Văn Minh là Minh Cồ vì to con; 2) Trung Tướng Trần Văn Minh là Minh Nhỏ; 3) Trung Tướng Trần Văn Minh, Tư Lệnh Không Quân, là Minh Đù, vì hay chưởi thề; và 4) Trung Tướng Nguyễn Văn Minh là Minh Đờn). Trong thời gian Đệ Nhứt Cộng Hòa, ông thường đãm nhận các chức vụ hành chánh như Quận Trưởng Đức Hòa (1956?-1958), Tỉnh Tưởng An Giang (1959-1963). Ngày 21-3-1965, đang mang cấp bậc Đại Tá, ông được bổ nhiệm Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh; ngày 1-11 cùng năm ông vinh thăng Chuẩn Tướng. Năm 1968, lúc đang mang cấp bậc Thiếu Tướng, ông được bổ nhiệm Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô. Ngày 23-2-1971, ông được bổ nhiệm Tư Lệnh Vùng III, thay Tướng Đỗ Cao Trí tử nạn trực thăng. Nói chung, các chức vụ ông được bổ nhiệm phần lớn là vì chính trị. Ông không phải là một tướng có nhiều kinh nghiệm chiến trường.
                
    2. Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy. sđd, tr. 384-388. Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng sinh ngày 27-3-1933 tại Hóc Môn, tỉnh Gia Định, tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu Úy, Khóa 5 Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức vào ngày 1-2-1955. Khác với Tướng Nguyễn Văn Minh, ông là một sĩ quan tác chiến, từng nắm giữ các chức vụ Trung Đội Trưởng, Đại Đội Trưởng, Tiểu Đoàn Trường, Trung Đoàn Trưởng, và nhiều lần thăng cấp đặc cách tại mặt trận. Ngày 14-6-1971, đang mang cấp bậc Đại Tá, ông được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Sư Đoàn 5 BB. Và ngày 9-3-1972, nhân dịp lễ kỷ niệm thứ 17 ngày thành lập Sư Đoàn 5 BB, ông được vinh thăng Chuẩn Tướng do chính Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu (cũng là một cựu Tư Lệnh của Sư Đoàn 5 BB) đích thân gắn cấp bậc Chuẩn Tướng cho ông. Ngày 30-4-1975, với cương vị Tư Lệnh Phó Quân Đoàn IV, ông tuẩn tiết bằng súng lục vào lúc 20 giờ 45 tại tư dinh ở Cần Thơ.
                
    3. Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy. sđd, tr. 463-465. Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, sinh ngày 22-8-1933 tại Sơn Tây, tốt nghiệp với cấp bậc Chuẩn Úy, Khóa 2 Lê Lợi, Trường Võ Bị Địa Phương Huế ngày 1-10-1951. Khởi nghiệp từ Binh chũng Nhảy Dù, sau chuyển sang Bộ Binh và lần lượt giữ các chức vụ Tiểu Đoàn Trưởng, rồi Trung Đoàn Trưởng của Trung Đoàn 8 thuộc Sư Đoàn 5 BB. Từ giữa năm 1971, ông là Đại Tá Tư Lệnh Phó của Sư Đoàn 5 BB. Ngày 7-11-1973, ông được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Sư Đoàn 5 BB. Ngày 1-11-1974, ông vinh thăng Chuẩn Tướng. Trưa ngày 30-4-1975, ông dùng súng lục tuẩn tiết tại Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 5 BB.
                
    4. Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy, sđd, tr. 454-456. Chuẩn Tướng Mạch Văn Trường, sinh tháng 3-1936 tại Bạc Liêu, tốt nghiệp Khóa 12 Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt với cấp bậc Thiếu Úy ngày 2-12-1956. Ngày 1-3-1972, với chức vụ Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 8, Sư Đoàn 5 BB, ông vinh thăng Đại Tá. Tháng 11-1974, ông được bổ nhiệm Tư Lệnh Sư Đoàn 21 BB. Ngày 26-4-1975, ông vinh thăng Chuẩn Tướng. Sau 1975, ông bị học tập cải tạo 17 năm ở Miền Bắc. Hiện dịnh cư tại thành phố Houston, tiểu bang Texas, Hoa Kỳ.
                
    5. Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy, sđd, 417-419. Chuẩn Tướng Trần Văn Nhựt, sinh ngày 17-12-1935 tại Sài Gòn, tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu Úy, Khóa 10 Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt ngày 1-6-1954. Ông đã từng giữ chức vụ Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến (TQLC), Tư Lệnh Phó kiêm Tham Mưu Trưởng Lữ Đoàn TQLC, và Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 48, Sư Đoàn 18 BB trước khi được bổ nhiệm làm Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Bình Long vào tháng 1-1970. Ngày 7-7-1972, sau chiến thắng An Lộc, ông thăng Đại Tá thực thụ. Ngày 27-8-1972, ông đươc cử làm Tư Lệnh Sư Đoàn 2 BB, và ngày 1-11-1972 ông vinh thăng cấp Chuẩn Tướng. Sau năm 1975, ông định cư tại thành phố Houston, tiểu bang Texas, Hoa Kỳ.
                
    6. Trận An Lộc 93 ngày đêm tử chiến. Phần 3: hồi ký của Chuẩn Tướng Mạch Văn Trường. Tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://www.saigonhdradio.com/index.php? ... Itemid=118
                
    7. Willbanks, James H. The Battle of An Loc. Bloomington: Indiana University Press, 2005. 17. Tác giả ghi như sau: “A subset of Giap’s strategy called for a Communist Provisional Revolutionary Government to be established in An Loc as a precursor for the assault on Saigon.” (Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Một phần của chiến lược của ông Giáp là kêu gọi thành lập một Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Sản tại An Lộc như một bước đầu đề tiến đánh Sài Gòn.”)
                
    8. Andradé, Dale. America’s last Vietnam battle: halting Hanoi’s 1972 Easter Offensive. Lawrence: University Press of Kansas, 2001. 344, tác giả viết như sau: “Beginning in February 1972, U.S. intelligence stressed that Tay Ninh was the most likely target of a North Vietnamese offensive on the region.” Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Vào đầu tháng 2-1972, tình báo Hoa Kỳ nhấn mạnh là Tây Ninh sẽ là mục tiêu của một cuộc tấn của quân Bắc Việt trong vùng.”)
                
    9. Trận An Lộc 93 ngày đêm tử chiến, Phần 3: hồi ký của Chuẩn Tướng Mạch Văn Trường, tài liệu trực tuyến đã dẫn bên trên.
                
    10. Willbanks, James H., sđd, tr. 44-45.
                
    11. Willbanks, James H., sđd, tr. 55-61.
                
    12. Trận An Lộc 93 ngày đêm tử chiến, Phần 3: hồi ký của Chuẩn Tướng Mạch Văn Trường, tài liệu trực tuyến đã dẫn bên trên.
                
    13. Trận An Lộc 93 ngày đêm tử chiến. Phần 3: hồi ký của Chuẩn Tướng Mạch Văn Trường, tài liệu trực tuyến đã dẫn bên trên. Sách của hai tác giả Mỹ đã trích dẫn đều ghi rằng Đại Tá Nguyễn Công Vĩnh đã ra hàng địch. Điều này chắc chắn đã dựa vào lời kể lại của các cố vấn Mỹ sống sót sau trận Lộc Ninh (họ đã bị bắt làm tù binh và được trao trả lại cho Hoa Kỳ sau khi Hiệp Định Paris được ký kết vào ngày 27-1-1973). Nhưng điều này khó tin vì các lý do sau đây: 1) Đại Tá Vĩnh cũng đã được trao trả cho VNCH sau Hiệp Định Paris; 2) Sau khi An Ninh Quân Đội của QLVNCH điều tra rõ sự việc, ông đã được phục hồi cấp bậc cũ và được bổ nhiệm làm Quân Vụ Trưởng Quân Vụ Thị Trấn tại Sài Gòn cho đến ngày 30-4-1975: 3) Sau năm 1975, ông bị đi cải tạo cho đến năm 1988 mới được thả về; 4) Ông sang Hoa Kỳ theo diện HO năm 1993, sống tại Nam California cho đến khi qua đời vào ngày 23-2-2017, hưởng thọ 90 tuổi. Xin xem thêm hai tài liệu trực tuyến sau đây: http://nguyentin.tripod.com/dt_nguyencongvinh.htmhttps://www.nguoi-viet.com/tuong-nho/tu ... cong-vinh/
                
    14. Willbanks, James H., sđd, tr. 54.
                
    15. Nguyễn Quốc Khuê. Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân với trận chiến An Lộc – Bình Long, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://www.nguoi-viet.com/cuu-chien-bi ... binh-long/ Liên Đoàn 3 BĐQ do Trung Tá Nguyễn Văn Biết làm Liên Đoàn Trưởng, gồm có 3 tiểu đoàn: 1) Tiểu Đoàn 31 do Thiếu Tá Trương Khánh làm Tiểu Đoàn Trưởng; 2) Tiểu Đoàn 36 do Thiếu Tá Tống Viết Lạc làm Tiểu Đoàn Trưởng; và 3) Tiểu Đoàn 52 do Thiếu Tá Lê Quý Dậu làm Tiểu Đoàn Trưởng.
                
    16. Ngô Quang Trưởng. The Easter Offensive of 1972. Washington, D.C.: US Army Center of Military History, 1980. 116-117.
                
    17. Trận An Lộc 93 ngày đêm tử chiến, Phần 3: hồi ký của Chuẩn Tướng Mạch Văn Trường, tài liệu trực tuyến đã dẫn bên trên.
                
    18. Willbanks, sđd, tr. 79.
                
    19. Nguyễn Văn Dưỡng. Tướng Lê Văn Hưng tuyên bố “tử thủ An Lộc,” tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://dongsongcu.wordpress.com/2017/0 ... hủ-an-lọc/
                
    20. Vũ Văn Bảo. QLVNCH: Phi Đoàn 237 CH-47A Chinook,” tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://chauxuannguyen.org/2016/03/18/ql ... u-van-bao/
                
    21. Nguyễn Văn Dưỡng. Inside An Lộc: the battle to save Saigon, April – May 1972 / Van Nguyen Duong with Nghia M. Vo. Jefferson, N.C.: McFarland, 2016. 98-99. Trong thời gian trận An Lộc, tác giả là Thiếu Tá, Trưởng Ban 2 (Tình báo) của Sư Đoàn 5 BB. Ông thăng cấp lên Trung Tá khi trận An Lộc chấm dứt. Ông cũng là bạn đồng khóa 5 Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức với Tướng Hưng.
                
    22. Kỷ niệm 40 năm chiến thắng “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không”: những điều chưa biết về “pháo đài chiến lược” B-52 của Không Quân Mỹ, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://thethaovanhoa.vn/the-gioi/nhung ... 605556.htm
                
    23. Andradé, Dale, sđd, tr. 396-397.
                
    24. Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy, sđd, tr. 404-407. Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng, sinh tháng 8-1932 tại tỉnh Bình Dương, tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu Úy Khóa 4 Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức vào tháng 7-1954. Tình nguyện vào Binh chũng Nhảy Dù, và lần lượt nắm giữ các chức vụ chỉ huy từ Trung Đội Trưởng, Đại Đội Trưởng, Tiểu Đoàn Trưởng, và Lữ Đoàn Trưởng, trước khi thăng lên cấp Chuẩn Tướng và làm Tư Lệnh Sư Đoàn Dù vào ngày 1-11-1972. Sau năm 1975, ông định cư tại thành phố Bakerfield, tiểu bang California, Hoa Kỳ. Ông mất ngày 21-9-2005 tại nơi định cư, hưởng thọ 73 tuổi.
                
    25. Nguyễn Văn Dưỡng, Inside An Lộc, sđd, tr. 107-111.
                
    26. Nguyễn Văn Ức. Phi Đoàn 221 trực thăng, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://hung-viet.org/a21141/phi-doan-221-truc-thang Thiếu Tá Nguyễn Văn Ức về sau thăng cấp lên Trung Tá và được bổ nhiệm vào chức vụ Không Đoàn Phó Không Đoàn 64 Chiến Thuật, thuộc Sư Đoàn 4 Không Quân ở Cần Thơ.
                
    27. Vương Hồng Anh. Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù ở Bình Long 1972, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://ongvove.wordpress.com/2012/03/0 ... long-1972/
                
    28. Đại Tá Phan Văn Huấn / Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://conhungnguoianh.blogspot.ca/2012 ... -biet.html
                
    29. Ngô Quang Trưởng, sđd, tr. 123.
                
    30. Vương Hồng Anh, tài liệu đã dẫn.
                
    31. Willbanks, sđd, tr. 99.
                
    32. Trận An Lộc 93 ngày đêm tử chiến, Phần 3: hồi ký của Chuẩn Tướng Mạch Văn Trường, tài liệu trực tuyến đã dẫn bên trên.
                
    33. Willbanks, sđd, tr. 98.
                
    34. Nguyễn Quốc Khuê. Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân với trận chiến An Lộc – Bình Long, tài liệu trực tuyến đã dẫn bên trên,
                
    35. Willbanks, sđd, tr. 104.
                
    36. Trận An Lộc 93 ngày đêm tử chiến, Phần 3: hồi ký của Chuẩn Tướng Mạch Văn Trường, tài liệu trực tuyến đã dẫn bên trên.
                
    37. Andradé, Dale, sđd, tr. 432.
                
    38. Trận An Lộc 93 ngày đêm tử chiến, Phần 3: hồi ký của Chuẩn Tướng Mạch Văn Trường, tài liệu trực tuyến đã dẫn bên trên.
                
    39. Andradé, Dale, sđd, tr. 432.
                
    40. Andradé, Dale, sđd, tr. 434.
                
    41. Lê Đắc Lực. Tàn cơn binh lửa (10): An Lộc Địa, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://vantuyen.net/2014/11/10/le-dac- ... n-loc-dia/
                
    42. Phạm Châu Tài. Trận An Lộc 93 ngày đêm tử chiến. Kỳ 15: An Lộc, chiến trường đi không hẹn, tài liệu trực tuyến có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://saigonhdradio.com/index.php?opti ... Itemid=118
                
    43. Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy, sđd, tr. 181-182. Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, sinh tháng 10-1932 tại Gia Định, tốt nghiệp Khóa 5 Trường Võ Bị Liên Quân Đà lạt với cấp bậc Thiếu Úy vào ngày 24-4-1952. Ông thăng cấp Thiếu Tá ngày 1-1-1955 và làm Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn 21 BB. Ông thăng cấp Đại Tá tháng 2-1966, và ngày 16-3-1968 ông được cử làm Tư Lệnh Sư Đoàn 21 BB. Ông thăng cấp Chuẩn Tướng ngày 16-9-1969 và cấp Thiếu Tướng ngày 16-9-1970. Ngày 3-5-1972, ông bàn giao Sư Đoàn 21 BB cho Chuẩn Tướng Hồ Trung Hậu, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn Dù và ngày hôm sau, 4-5-1972, ông được cử làm Tư Lệnh Quân Đoàn IV thay thế Trung Tướng Ngô Quang Trưởng đi làm Tư Lệnh Quân Đoàn I. Ngày 1-3-1974, ông vinh thăng Trung Tướng. Ngày 1-11-1974, ông bàn giao chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn IV cho Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam và đi làm Chỉ Huy Trưởng Trường Bộ Binh Thủ Đức. Cuối tháng 3-1975, ông được cử làm Tư Lệnh Phó kiêm Tư Lệnh Tiền Phương cho Quân Đoàn III tại Phan Rang. Ông bị Cộng quân bắt làm tù binh tại đây vào tối ngày 16-4-1975 cùng với Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang, Tư Lệnh Sư Đoàn 6 Không Quân. Ông bị giam trong trại cải tạo cho đến 1988 mới được thả về, và đã đi định cư tại Hoa Kỳ, theo diện HO, từ 1992.
                
    44. Willbanks, sđd, tr. 134.
                
    45. Hồ Ngọc Cẩn (đại tá), tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%9 ... g_h%C3%B2a Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn là một trong số rất hiếm những sĩ quan cao cấp của QLVNCH đã từng là Binh Nhì thăng dần lên đến cấp Đại Tá. Chức vụ cuối cùng là Tỉnh Trưởng Chương Thiện. Sau ngày 30-4-1975, ông vẫn tiếp tục chiến đấu cho đến khi bị quân CS bắt được. Ông bị CS xử bắn vào ngày 14-8-1975 tại sân vận động Cần Thơ. Lúc đó ông mới được 37 tuổi.
                
    46. Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://nhaydu.com/index_83hg_files/main ... -TD6ND.pdf
                
    47. Willbanks, sđd, tr. 142.
                
    48. Lê Đắc Lực. Tàn cơn binh lửa (10): An Lộc Địa, tài liệu trực tuyến đã dẫn.




    https://petruskyaus.net/tu-thu-an-loc-m ... -vinh-the/
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Nhớ về ngày Địa Ngục Trần Gian - An Lộc

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          







Nhớ về ngày Địa Ngục Trần Gian
-
An Lộc

__________________________












https://hoiquanphidung.com/forum/c%C3%A ... %E1%BB%99c
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20163
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Dừng Lại Đây... Gởi Người Nỗi Nhớ

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           




              



              
    Dừng Lại Đây...
    Gởi Người Nỗi Nhớ

    _________________________







    Người có rảnh đi cùng ta một chuyến
    Không phải bằng chân... bằng chính tâm hồn
    Ta muốn kể lại người nghe một chuyện
    Từ Tây Ninh - rừng khóc giữa cô đơn

    Địa danh nào không dấu giày người nhỉ
    Sóc Con Trăng, Bố Túc đến KàTum
    Suối Bà Hào, suối Đá Yêu, suối Kiết
    Nhớ ai bằng... nhớ lính Biệt Động Quân

    Thân bách chiến có ngờ đâu người nhỉ
    Trời tha phương lưu lạc đến bạc đầu?!
    Quê hương mất, cớ sao mình... còn sống
    Cứ hỏi hoài, mà giải thích làm sao?

    Xứ Mỹ này rượu thiếu gì để uống
    Ai bảo say là... dục phá thành sầu
    Bao nỗi nhớ-rượu nào làm quên được
    Lính bọn mình dài dặc nỗi thương đau

    Dừng lại đây ta gởi người nỗi nhớ
    Rũ xuống xót xa... là nỗi hào hùng
    Giờ phút cuối... những mảnh đời chinh chiến
    Của gia đình... 38 Biệt Động Quân

    Lệnh buông súng... mẹ, có lầm không nhỉ
    Bao máu xương đâu phải chuyện... vô tình
    Súng đỏ nòng thà chết theo vận nước
    Vĩnh biệt chiến trường, vĩnh biệt Tây Ninh

    Người có rảnh... đi cùng ta một chuyến
    Về Tây Ninh khơi lại chiến trường xưa
    Bởi nơi đó vẫn i sì nỗi nhớ
    Bao bạn bè gục ngã... nhẹ như mơ...





    Trạch Gầm



    Trích trong Tập Thơ VỤN VẶT (Tác Giả xuất bản 2007)



              

              



Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5468
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

30 Tháng 4: Giải Phóng Cái Gì Và Cho Ai?

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           

    30 Tháng 4: Giải Phóng Cái Gì Và Cho Ai?




    Cứ mỗi năm đến tháng 4 là niềm đau xót xâu xa, tưởng chừng như đã quên, lại hiện ra trong tâm não, không muốn nghĩ đến, nhưng vẫn ám ảnh ngày đêm. Chợt nhận được đoạn kết của Quyển “A reporter's love for a wounded people” của tác giả Uwe Siemon-Netto, người Đức, thấu đáo tình hình Việt Nam còn hơn chính cả nhiều người Việt.

    Mong Quyển sách sớm xuất bản để đọc toàn bộ, tạm thời chỉ có đoạn kết thôi. Đọc cho vơi nỗi "buồn mất Nước".

    Tác giả đặt các câu hỏi rất chí lý mà csVn muôn đời cũng không trả lời được.

    • - Dân Việt Nam có mong muốn một chế độ Cộng sản hay không?

      - Tại sao các anh thảm sát tất cả những người vô tội mà các anh rêu rao là đi chiến đấu để giải phóng họ?


    Tác giả vạch trần khuyết điểm trong chính sách Mỹ đối ngoại, rất thấm thía và cho đến bây giờ, ở Afghanistan hay ở Ukraine, vẫn không thay đổi:

    Nền dân chủ Hoa Kỳ đúng là không được trang bị về chính trị và tâm lý để theo đuổi một cuộc chiến trường kỳ.

    - Kết luận rút ra từ kinh nghiệm về Việt Nam là:

    Khi một nền văn hóa bê tha hủ hóa đã mệt mỏi về lòng hy sinh, nó (Mỹ?) sẽ có khả năng vứt bỏ tất cả. Nó đã chín mùi để bỏ rơi một dân tộc mà đáng lẽ nó phải bảo vệ. Nó còn thậm chí sẵn sàng xóa đi những mạng sống, sức khoẻ về thể chất và tinh thần, nhân phẩm, trí nhớ và danh thơm của những thanh niên đã được đưa ra mặt trận.

    Đối với csVN, tác giả nêu rõ:

    Không có ai sinh ra là biết hận thù cả.

    Sự thù hận chỉ có thể có được do dạy dỗ.

    Nuôi dưỡng tính giết người trong lòng thanh niên là một khuôn phép huấn luyện chỉ có trường phái chủ nghĩa cộng sản toàn trị là giỏi nhất.

    - Ðã có khoảng 3,8 triệu người Việt Nam đã bị giết giữa các năm 1954 và 1975. Khoảng 164.000 thường dân miền Nam đã bị thủ tiêu trong cuộc tru diệt bởi Cộng sản trong cùng thời kỳ, theo nhà học giả chính trị Rudolf Joseph Rummel của trường Đại học Hawaii.

    Ngũ Giác Ðài ước tính khoảng 950.000 lính Bắc Việt và hơn 200.000 lính VNCH đã ngã xuống ngoài trận mạc, cộng thêm 58.000 quân Hoa Kỳ nữa. Đây không thể là một cuộc chiến tranh của nhân dân mà chính là

    chiến tranh chống nhân dân.

    Cuốn sách Đức: “A reporter's love for a wounded people” của tác giả Uwe Siemon-Netto đã được viết xong và đang chờ một số người viết “foreword” và endorsements.

    Đoạn kết:

    Hơn 40 năm đã trôi qua kể từ khi tôi giã biệt Việt Nam. Vào năm 2015, thế giới sẽ chứng kiến kỷ niệm lần thứ 40 chiến thắng của Cộng sản và nhiều người sẽ gọi đó là ngày “giải phóng”.

    Hiển nhiên là tôi rất vui khi chiến tranh kết thúc và Việt Nam được thống nhất và phát triển.

    Nước Đức hoàn thành sự thống nhất, một phần nhờ người dân tại Đông Đức đã lật đổ chế độ độc tài toàn trị bằng những cuộc biểu tình và phản kháng ôn hòa, một phần nhờ vào sự khôn ngoan của các nguyên thủ quốc tế như các vị Tổng thống Ronald Reagan và George G.W. Bush, của Thủ tướng Helmut Kohl, của lãnh tụ Xô Viết Mikhail Gorbachev, và cũng phần khác vì sự sụp đổ có thể đoán trước được của hệ thống xã hội chủ nghĩa sai lầm trong khối Xô Viết. Không có ai bị thiệt mạng trong tiến trình này, không một ai bị tra tấn, chẳng có ai phải vào trại tù và cũng không có ai bị buộc phải trốn chạy.

    Có một khuynh hướng khó hiểu, ngay cả trong số các vị học giả đáng kính của phương Tây đã diễn tả sự kiện Cộng sản cưỡng chiếm miền Nam như là một cuộc “giải phóng”.

    Điều này đặt ra một câu hỏi: giải phóng cái gì và cho ai?

    Có phải miền Nam đã được “giải phóng” khỏi sự áp đặt một nhà nước độc đảng toàn trị được xếp hạng chung với những chế độ vi phạm tồi tệ nhất thế giới về các nguyên tắc tự do tôn giáo, tự do phát biểu, tự do ngôn luận, tự do hội họp và tự do báo chí?

    Một cái thứ giải phóng gì đã làm chết 3,8 triệu người dân Việt từ 1954 đến 1975 và đã buộc hơn một triệu người khác phải trốn ra khỏi đất nước, không những từ miền Nam bại cuộc mà cả từ những bến cảng miền Bắc và làm từ 200.000 đến 400.000 người gọi là thuyền nhân bị chết đuối?

    Có phải là hành động giải phóng không (?) khi xử tử 100.000 người lính miền Nam và viên chức chính phủ sau ngày Sài Gòn thất thủ? Phải chăng chỉ là một màn trình diễn nhân đạo của bên thắng cuộc bằng cách lùa từ một triệu đến 2 triệu rưỡi người miền Nam vào các trại tù cải tạo, trong đó có khoảng 165.000 người mất mạng và hàng ngàn người khác đã bị tổn thương sọ não lâu dài và bị các vấn đề tâm thần do hậu quả của tra tấn, theo một cuộc nghiên cứu của một nhóm học giả quốc tế do Bác sĩ tâm thần Richard F. Molina của đại học Harvard dẫn đầu?

    Từ giữa những năm 1960, những tay bịa đặt chuyện huyền thoại về chính trị và lịch sử của phương Tây, hoặc ngây thơ hoặc bất lương, đã chấp nhận lời giải thích của Hà Nội rằng cuộc xung đột là một cuộc “chiến tranh nhân dân.” Cũng đúng thôi nếu chấp nhận định nghĩa của Mao Trạch Đông và Võ Nguyên Giáp về cụm chữ đó. Nhưng theo luật văn phạm về sở hữu tự theo cách Saxon Genitive quy định thì “chiến tranh nhân dân” phải được hiểu là cuộc “chiến tranh của nhân dân”.

    Thực tế không phải như vậy. Ðã có khoảng 3,8 triệu người Việt Nam đã bị giết giữa các năm 1954 và 1975. Khoảng 164.000 thường dân miền Nam đã bị thủ tiêu trong cuộc tru diệt bởi Cộng sản trong cùng thời kỳ, theo nhà học giả chính trị Rudolf Joseph Rummel của trường Đại học Hawaii. Ngũ Giác Ðài ước tính khoảng 950.000 lính Bắc Việt và hơn 200.000 lính VNCH đã ngã xuống ngoài trận mạc, cộng thêm 58.000 quân Hoa Kỳ nữa. Đây không thể là một cuộc chiến tranh của nhân dân mà chính là chiến tranh chống nhân dân.




    Nạn nhân chiến tranh do cs Bắc Việt gây ra



    Trong tất cả những lập luận đạo đức giả về cuộc chiến Việt Nam ta gặp quá thường trong vòng 40 năm qua, cái câu hỏi quan trọng nhất đã bị mất dấu hay AWOL, nếu dùng một từ ngữ viết tắt quân sự có nghĩa là “vắng mặt không phép,” câu hỏi đó là:

    Dân Việt Nam có mong muốn một chế độ Cộng sản hay không?

    Nếu có, tại sao gần một triệu người miền Bắc đã di cư vào Nam sau khi đất nước bị chia cắt năm 1954, trong khi chỉ có vào khoảng 130.000 cảm tình viên Việt Minh đi hướng ngược lại?

    Ai đã khởi đầu cuộc chiến tranh?

    • Có bất kỳ đơn vị miền Nam nào đã hoạt động ở miền Bắc hay không?

      Không.

    • Có du kích quân miền Nam nào vượt vĩ tuyến 17 để mổ bụng và treo cổ những người trưởng làng thân cộng, cùng vợ và con cái họ ở đồng quê miền Bắc hay không?

      Không.

    • Chế độ miền Nam có tàn sát cả một giai cấp hàng chục ngàn người trên lãnh thổ của họ sau năm 1954 bằng cách tiêu diệt địa chủ và các đối thủ tiềm năng khác theo cách thống trị theo lối Sô Viết của họ hay không?

      Không.

    • Miền Nam có thiết lập chế độ độc đảng toàn trị hay không?

      Không.


    Với cương vị một người công dân Đức, tôi không can dự gì đến cuộc chiến này, hay nói theo lối người Mỹ là “I have no dog in this fight” (tôi chẳng có con chó nào trong vụ cắn lộn này cả). Nhưng, nhằm chú giải cho cuốn sách “Lời nguyện của nhà báo”, tương tự như các phóng viên kỳ cựu có lương tâm, lòng tôi đã từng và vẫn còn đứng về phía dân tộc Việt Nam nhiều đau thương. Lòng tôi hướng về những người phụ nữ tuyệt vời với tính tình rất thẳng thắn và vui vẻ; hướng về những người đàn ông Việt Nam khôn ngoan và vô cùng phức tạp đang theo đuổi giấc mơ tuyệt hảo theo phong cách Khổng giáo; hướng về các chiến binh giống như trẻ con đi ra ngoài mặt trận mang theo cái tài sản duy nhất là một lồng chim hoàng yến; hướng về các góa phụ chiến tranh trẻ với cơ thể bị nhào nặn méo mó chỉ vì muốn bắt một tấm chồng lính Mỹ nhằm tạo một ngôi nhà mới cho con cái và có thể cho chính họ, còn hơn là đối mặt với độc tài Cộng sản; hướng về nhóm trẻ em bụi đời trong thành thị cũng như ngoài nông thôn săn sóc lẫn nhau và những con trâu đồng. Với trái tim chai cứng còn lại, lòng tôi thuộc về những người trốn chạy khỏi lò sát sinh và vùng chiến sự, luôn luôn đi về hướng Nam mà không bao giờ về hướng Bắc cho đến tận cùng, khi không còn một tấc đất nào vắng bóng Cộng sản nữa để mà trốn. Tôi đã chứng kiến họ bị thảm sát hay bị chôn sống trong những ngôi mồ tập thể và mũi tôi vẫn còn phảng phất mùi hôi thối của những thi thể đang thối rữa.

    Tôi không có mặt vào lúc Sài Gòn thất thủ sau khi toàn bộ các đơn vị Quân Lực VNCH, thường xuyên bị bôi bẩn một cách ác độc bởi truyền thông Hoa Kỳ, giờ đây bị những đồng minh người Mỹ của họ bỏ rơi, đã chiến đấu một cách cao thượng, biết rằng họ không thể thắng hay sống sót khỏi trận đánh cuối cùng này. Tôi đang ở Paris, lòng sầu thảm khi tất cả những chuyện này xảy ra và tôi ước gì có dịp tỏ lòng kính trọng năm vị tướng lãnh VNCH trước khi họ quyên sinh lúc mọi chuyện chấm dứt, một cuộc chiến mà họ đã có thể thắng: Lê Văn Hưng (sinh năm 1933), Lê Nguyên Vỹ (sinh năm 1933), Nguyễn Khoa Nam (sinh năm 1927), Trần Văn Hai (sinh năm 1927) và Phạm Văn Phú (sinh năm 1927).

    Khi tôi viết đoạn kết này, một ký giả đồng nghiệp và một học giả sinh năm 1975 khi Sài Gòn bị thất thủ, đã tự tạo cho bản thân một thứ tên tuổi bằng cách bêu xấu tội ác chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam. Vâng, họ thật đáng bị bêu xấu. Đúng, đó là sự thật. Mỹ Lai có thật. Tôi biết, tôi đã có mặt trong phiên tòa mặt trận khi Trung úy William Calley bị kết án là có tội. Tôi biết cái tiêu chuẩn đếm xác chết được tôn sùng bởi đầu óc méo mó của các cấp chỉ huy quân sự cũng như dân sự thời đại Mc Namara tại Washington và bản doanh Hoa Kỳ tại Sài Gòn đã làm tổn hại hàng ngàn mạng sống của người dân vô tội.

    Nhưng không có hành vi tàn ác nào của các đơn vị rối loạn Hoa Kỳ và VNCH có thể sánh bằng cuộc tàn sát do lệnh nhà nước giáng xuống đầu người miền Nam nhân danh Hồ Chí Minh. Những tội ác mà cho đến ngày nay những kẻ kế thừa thậm chí vẫn không thừa nhận vì không ai có cái dũng cảm hỏi họ: (cs không bao giờ nhận tội).

    Tại sao các anh thảm sát tất cả những người vô tội mà các anh rêu rao là đi chiến đấu để giải phóng họ?

    Với tư cách một người Đức, tôi xin được thêm một đoạn chú thích như sau: tại sao các anh giết người bạn của tôi là Hasso Rüdt von Collenberg, tại sao lại giết các bác sĩ người Đức ở Huế, và anh Otto Söllner tội nghiệp mà “tội ác” duy nhất là dạy trẻ em Việt Nam cách điều khiển một ban nhạc hòa tấu?

    Tại sao các anh bắt cóc những thanh niên thiện nguyện Knights of Malta, làm cho một số bị chết trong rừng rậm và số khác thì bị giam cầm tại Hà Nội?

    Tại sao các anh không bao giờ tự xét lương tâm về những hành động đó, theo cách những người Mỹ chính trực trong khi họ đã được xác định một cách đúng đắn là họ thuộc về phía lẽ phải trong cuộc Đại Chiến Thứ Hai, vẫn bị dằn vặt bởi cái di sản khủng khiếp để lại vì đánh bom rải thảm những khu dân cư trong nước Đức và tấn công bằng bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki?

    Hồi tưởng lại cuộc thử thách trên con đường mòn Hồ Chí Minh trong tạp chí Der Spiegel, cô y tá Tây Đức Monika Schwinn nhớ lại cuộc gặp gỡ với các đơn vị chiến đấu Bắc Việt trên đường xuống phía Nam như là một trong những kinh nghiệm khủng khiếp nhất. Cô diễn tả cái cường độ của mối hận thù trên khuôn mặt của những tên lính đó và cô viết chính những tên Việt Cộng canh chừng phải khó khăn lắm mới ngăn chận họ không giết những người Đức ngay tại chỗ.

    Không có ai sinh ra là biết hận thù cả. Sự thù hận chỉ có thể có được do dạy dỗ. Nuôi dưỡng tính giết người trong lòng thanh niên là một khuôn phép huấn luyện chỉ có trường phái chủ nghĩa toàn trị là giỏi nhất. Trong cuốn tiểu sử rất hay nói về tay chỉ huy SS Heinrich Himmler, sử gia Peter Longerich diễn tả là ngay cả gã sáng lập viên cái lực lượng tàn độc gồm những tên côn đồ mặc đồ đen cũng khó lòng buộc thuộc hạ vượt qua sự kiềm chế tự nhiên để thi hành lệnh thảm sát Holocaust (Longerich. Heinrich Himmler. Oxford: 2012).

    Chính cái ánh mắt thù hận của những tên sát nhân Bắc Việt tại Huế làm ám ảnh những người tôi phỏng vấn hơn cả. Nhưng dĩ nhiên phải dành nhiều thời gian với họ, chịu sự đau khổ cùng họ, tạo niềm tin và trò chuyện với họ thì mới khám phá ra cái cốt lõi của một phần nhân tính con người, một hiểm họa về mặt chính trị và quân sự vẫn còn quanh quẩn bên chúng ta từ bốn thập niên qua. Chỉ phán ý kiến về nó từ trên tháp ngà đài truyền hình New York hay các trường đại học Ivy League thì không bao giờ đủ cả.

    Sự thật, hay chính xác hơn: là các nền dân chủ như Hoa Kỳ đúng là không được trang bị về chính trị và tâm lý để theo đuổi một cuộc chiến trường kỳ. Sự nhận thức này, cùng với cách sử dụng các phương tiện khủng bố đã trở thành trụ cột trong chiến lược của Võ Nguyên Giáp. Hắn đã đúng và hắn đã thắng.

    Cho đến tận ngày hôm nay tôi vẫn còn bị ám ảnh bởi cái kết luận tôi bắt buộc phải rút ra từ kinh nghiệm về Việt Nam là:

    Khi một nền văn hóa bê tha hủ hóa đã mệt mỏi về lòng hy sinh, nó (Mỹ?) sẽ có khả năng vứt bỏ tất cả. Nó đã chín mùi để bỏ rơi một dân tộc mà đáng lẽ nó phải bảo vệ. Nó còn thậm chí sẵn sàng xóa đi những mạng sống, sức khoẻ về thể chất và tinh thần, nhân phẩm, trí nhớ và danh thơm của những thanh niên đã được đưa ra mặt trận.

    Tác động của sự khiếm khuyết đã ăn sâu trong các nền dân chủ tự do này rất đáng sợ vì cuối cùng nó sẽ phá hỏng chính nghĩa và tiêu diệt một xã hội tự do.

    Tuy nhiên tôi không thể kết thúc câu chuyện ở đây bằng điều tăm tối này được. Là một người quan sát về lịch sử, tôi biết là lịch sử, mặc dù được khép kín trong quá khứ, vẫn luôn luôn mở rộng ra tương lai.

    Chiến thắng của Cộng sản dựa vào những căn bản độc ác:

    Khủng bố, tàn sát và phản bội. Hiển nhiên tôi không biện minh cho chuyện tiếp tục đổ máu nhằm chỉnh lại kết quả, cho dù có khả thi đi chăng nữa. Nhưng là một người ngưỡng mộ tính kiên cường của dân tộc Việt Nam, tôi tin là họ sẽ cuối cùng tìm ra phương cách ôn hòa và các lãnh tụ chân chính để họ có thể thoát khỏi những tay bạo chúa. Có thể sẽ phải mất nhiều thế hệ, nhưng điều đó sẽ xảy ra.

    Tôi còn lại gì nữa ngoài niềm hy vọng?

    Cám ơn Tác Giả, hiểu thấu niềm đau "Mất Nước của Dân Miền Nam", sự tàn ác của cs miền Bắc:

    Chiến thắng của Cộng sản dựa vào những căn bản độc ác:

    Khủng bố, tàn sát và phản bội, chính sách "lợi ích cho mình" của Mỹ, và niềm hy vọng của Tác giả mong VN thoát khỏi cs bạo tàn:

    Tôi còn lại gì nữa ngoài niềm hy vọng?

    Chỉ có giải thể chế độ cộng sản VN hiện tại mới mong thoát được ách Nô Lệ Tàu, đem lại thanh bình thịnh vượng cho Việt Nam.


    Lưu-Vĩnh-Lữ

    Tháng 4/ 2022

    Nguồn:https://nguoiphuongnam52.blogspot.com


              
Trả lời

Quay về “Tưởng niệm ngày Quốc Hận 30/04/1975”