Nguyễn Xuân Phước - Ngàn Cánh Hạc

Trả lời
Hình đại diện
Quy Nam
Bài viết: 824
Ngày tham gia: Thứ năm 21/05/15 18:52

Nguyễn Xuân Phước - Ngàn Cánh Hạc

Bài viết bởi Quy Nam »

  • Một Số Vấn Đề Pháp Lý
    Quanh Hiệp Định Biên Giới Việt Trung

    ______________________________________________________________________
    LS Nguyễn Xuân Phước, Tiến Sĩ Luật Khoa, Hoa Kỳ - 10/02/2002





    LÀ MỘT CHẾ ĐỘ ĐỘC TÀI, không thực sự đại diện cho dân tộc VN, lại mang bản chất tham nhũng, hèn nhát, lại sống cạnh một "đàn anh" cộng sản khổng lồ là Trung Cộng, nên cộng sản Hà Nội đã cam tâm đem tài nguyên, đất đai của tổ quốc dâng cho cộng sản Nga, Tàu để phần đánh đổi vũ khí theo đuổi cuộc chiến xâm lăng Miền Nam, phần tìm chỗ nương tựa, đối phó với nguy cơ mệnh danh "diễn tiến hòa bình", nhằm bảo vệ quyền lực, tiếp tục cai trị, chà đạp dân tộc VN.

    Nửa thế kỷ trước, thủ tướng CS Phạm Văn Đồng và bộ chính trị CS Hà Nội đã lén lút bán nước cho Tàu. Và mới đây, hai bản hiệp ước biên giới liên quan đến lãnh thổ và lãnh hải giữa Việt Nam và Trung Quốc được CSVN ký kết với CS Trung Quốc là bằng chứng mới nhất và cụ thể nhất chứng tỏ cộng sản Hà Nội vẫn sẵn sàng vì quyền lợi cá nhân và phe nhóm, tiếp tục bán rẻ tài nguyên, đất đai của tổ quốc.

    Điều này chứng tỏ, về bản chất, CSVN hôm nay và CSVN cách đây nửa thế kỷ, hoàn toàn là một. Mọi việc làm, mọi chính sách, đường lối được mệnh danh là đổi mới, cải cách, hoàn toàn chỉ là những bước đi đầy mánh khóe, thủ đoạn nhằm đánh lừa dư luận trong và ngoài nước, để phụng sự cho quyền lực và quyền lợi của cộng sản.

    Điều này cũng chứng tỏ, mọi ảo tưởng về những thay đổi, đổi mới của cộng sản, hoặc ảo tưởng về một người "cộng sản chân chính" được một số người Việt, một số hội đoàn, đoàn thể đấu tranh chính trị của người Việt hải ngoại nuôi dưỡng và cổ võ, hoàn toàn không có đất đứng.

    Trước hành động cắt đất bán nước mới nhất của CS, một số câu hỏi then chốt được đặt ra ở đây.
    • Thứ nhất, đâu là những nguyên nhân đích thực đằng sau những duyên cớ quanh co được CS Hà Nội đưa ra nhằm biện minh cho hành động bán nước của chúng"
    • Thứ hai, trên phương diện pháp lý và công pháp quốc tế, những hiệp ước do CS Hà Nội, một nhóm người không thực sự đại diện cho dân tộc VN, một nhóm người không do đa số dân Việt Nam bầu, ký kết với cộng sản Tàu, liệu có hiệu lực hay không"
    • Thứ ba, trước hành động bán nước một cách công khai của cộng sản VN, đâu là hình thức đấu tranh thích hợp, hiệu quả và đúng đắn để chúng ta theo đuổi"
    Để có thể phần nào trả lời được những câu hỏi trên, mời qúy độc giả theo dõi bài viết của Luật sư Nguyễn Xuân Phước, tiến sĩ Luật khoa Hoa kỳ, và những luận điệu quanh co giấu đầu hở đuôi của thứ trưởng ngoại giao CS Lê Công Phụng.





    *
    Hai hiệp ước biên giới liên quan đến lãnh thổ và lãnh hải giữa Việt Nam và Trung Quốc đã được hai đảng Cộng Sản âm thầm ký kết vào ngày 30 tháng 12 năm 1999 và ngày 25 tháng 12 năm 2000. Hai hiệp ước nầy đã được quốc hội Cộng Sản Việt nam thông qua cũng một cách âm thầm. Các tin tức về việc ký kết hiệp định biên giới, cho đến khi ký kết xong và được quốc hội thông qua cũng được giữ bí mật. Nội dung các hiệp ước nầy không được công bố cho nhân dân trong nước biết. Nhân dân không biết được bản đồ mới của Việt nam ngày nay ra sao. Thông tin chỉ được nhà nước tiết lộ sau khi làm lễ cắm mốc biên giới. Báo chí trong nước như tờ Nhân Dân (27 tháng 12 năm 2001) hoặc VNExpress.com chỉ làm một bản tin rất ngắn có nội dung giống nhau.

    Mặc dù bị bưng bít nhưng tin tức về hiệp ước biên giới cũng lọt ra ngoài. Hơn một năm qua, các nhà đấu tranh cho tự do dân chủ trong nước, và các nhà nghiên cứu ở hải ngoại và giới truyền thông không ngừng lên tiếng cảnh báo về sự việc đảng Cộng Sản sẽ dùng hiệp ước biên giới mở đường máu tìm sinh lộ cho bế tắc chính trị hiện nay. Mọi người đều e rằng đảng sẽ không ngần ngại bán đứng đất đai của đất nước để đổi lấy chế độ bảo hộ chính trị do Trung quốc đỡ đầu. Qua tin tức về buổi lễ hiến đất được cơ quan tuyên truyền của đảng Cộng Sản dè dặt loan tải, những quan ngại của những người đấu tranh cho dân chủ đã trở thành sự thật.

    Bài viết nầy có mục đích duyệt xét lại một số vấn đề pháp lý chung quanh việc ký kết các bản hiệp ước nầy và các hậu quả pháp lý. Dĩ nhiên, bài viết không trả lời hết mọi câu hỏi. Tuy nhiên, người viết mong sẽ giải đáp một vài ưu tư có tính cách khẩn cấp như
    • hiệp ước nầy có giá trị quốc tế hay không"
      Liệu chúng ta có thể phủ nhận hiệp ước nầy hay không"...





    Nội Dung Hiệp Ước Biên Giới Việt Trung

    Về hiệp ước lãnh hải, chúng ta được biết hiệp ước nầy được ký kết vào ngày 25 tháng 12 năm 2000. Qua một số bài vở hiếm hoi chúng ta biết được sơ sơ về nội dung của hiệp ước nầy, được gọi là hiệp định “Phân Định Vịnh Bắc Bộ.” Theo ông Lê Công Phụng, thứ trưởng ngoại giao, người đặc trách lo việc đàm phán hiệp định cho biết là, chiếu theo hiệp định Vịnh Bắc Bộ, Việt Nam được 53.23% và Trung Quốc được 46.77% diện tích vịnh. (Tạp chí Cộng Sản Số 2 tháng 1-2001).

    Theo tài liệu của kỷ sư Nguyễn Đình Sài thì hiệp ước phân định vịnh Bắc bộ chấm dứt hiệp ước giữa Pháp và Thanh triều. Diện tích khác biệt giữa hai hiệp ước là hơn 5,000km2 lãnh hải nay thuộc về Trung quốc.

    Theo ông Ngô Nhân Dụng, báo Người Việt thì: “Trên pháp lý, văn kiện lịch sử ký năm 1895 giữa nhà Thanh bên Trung Quốc và chính quyền Pháp ở Việt Nam công nhận trong vịnh Bắc Việt phần thuộc Việt Nam chiếm 64%, Trung Quốc được 36%. Nay, Cộng Sản Hà Nội công nhận nước Việt Nam chỉ được 53%, còn Trung Quốc hưởng 47%.”

    Còn hiệp ước về lãnh thổ, thì đảng Cộng Sản hoàn toàn không tiết lộ mọi chi tiết. Tuy nhiên, theo ông Trần Dũng Tiến, nhà đấu tranh dân chủ và là cựu chiến binh quân đội Bắc Việt, thì hiệp định biên giới đã ký kết ngày 30 tháng 12, 1999, ngày cuối cùng của thiên niên kỷ. Hiệp ước nầy cắt cho Trung quốc rất nhiều địa danh lừng lẫy trong lịch sử: thác Bản Giốc, suối Phi Khanh, ải Nam Quan, ải Chi Lăng. Tất cả nay đã thuộc Trung Quốc.

    Theo Bác sĩ Trần Đại Sỹ thì “Việt Nam nhường cho Trung quốc dọc theo biên giới, 789 cây số vuông (chứ không phải 720 như tin lộ ra trong nước), thuộc hai tỉnh Cao bằng, Lạng sơn. Có mấy hiệp định thư (Photocol) đính kèm về việc thi hành. Quan trọng nhất là: Nhượng vùng Cao bằng, sát tới hang Pakbó, nơi Hồ Chí Minh ẩn thân lãnh đạo cuộc kháng chiến. Hang này trở thánh địa của đảng Cộng sản Việt Nam. Trước kia nằm rất xa biên giới (khoảng 50 km), nay nằm sát biên giới. Nhượng vùng đất bằng phẳng thuộc tỉnh Lạng sơn nơi có cửa ải Nam quan.

    Theo bạn Dieu Van đăng tải trên trên Soc.Culture.Vietnamese thì chúng ta phải tìm hiểu nội dung hiệp ước qua các websites của Trung quốc. Bạn Dieuvan viết:
    • “Theo tài liệu của CSVN trước nằm 1979 biên giới Việt Nam Trung Cộng dài 1,300 Cây số nhưng theo tài liệu của CIA world Book ghi nhận sau năm 1979 còn lại là 1,281. Bây giờ sau khi ký kết bản thương ước mà được gọi là hiến đất của CSVN, biên giới chính thức mà Trung Cộng đưa ra con số là 1,200 chẵn như vậy đường biên giới thu nhỏ lại từ 1,300 Kilometters xuống 1,281 Kilometters bây giờ còn 1,200 Kilometers”.
    Theo tính toán của bạn Dieu Van thì “đại khái là chúng ta mất 81Km X 26Km = 2106 sq Km.” Bạm Dieu Van kết luận: “Tổng Cộng Toàn cõi VN = 329,560 sq Km - 2,106 bây giờ còn 327,454 sq Km.”

    Do tính chất bí mật của hiệp định biên giới, toàn thể nhân dân trong và ngoài nước phải dọ dẫm giải mã những tín hiệu mất nước mà họ tìm được trên internet. Nói cho ngay, nếu những hiệp ước này đem về mối lợi lớn cho Việt nam thì hệ thống thông tin tuyền truyền của Cộng Sản chắc đã không bỏ qua cơ hội ngàn vàng để ca tụng thắng lợi của đảng. Ngược lại, qua thái độ lén lút và hành vi giấu diếm của đảng Cộng Sản trong việc ký hiệp định,chúng ta có thể quả quyết được rằng đây không phải là một “thắng lợi to lớn” để cho đảng hãnh diện.





    Những Vấn Đề Pháp Lý

    1.Giá Trị Pháp Lý Đối Với Nhân Dân và Hiến Pháp:
    Hiệp định quốc tế là hợp đồng giữa hai quốc gia. Điều tiên khởi để cho một hiệp ước có giá trị là chính phủ và người đại diện chính phủ đi ký kết đều phải có đủ tư cách pháp nhân, tính cách hợp pháp và chính thống để đại diện cho quốc gia hay nhân dân. Những yếu tố pháp lý nầy giúp cho hiệp ước có giá trị chắc chắn (certainty), vĩnh cửu và tính chất khả thi.
    Vấn đề giá trị đại diện của đảng Cộng Sản đã được bàn rất nhiều, và đặc biệt trong những năm gần đây đã được phong trào dân chủ trong nước “bàn” đến cách triệt để. ở đây người viết xin bàn lướt qua vấn đề này.

    a. Tính chất hợp pháp của hiến pháp:
    Trong bài viết “Tính Chất Bất Hợp Pháp Của Hiến Pháp Việt nam Hiện Nay”, người viết chứng minh rằng các hiến pháp Việt Nam từ 1959 trở đi không có giá trị vì thủ tục thực hiện các hiến pháp nầy không tuân theo quy định của điều 70 của hiến pháp 1946. Điều 70 của hiến pháp 1946 đòi hỏi mọi thay đổi hiến pháp phải được toàn dân phúc quyết, tức là phải được trưng cầu dân ý. Vì tất cả các hiến pháp từ 1959 đến nay không được trưng cầu dân ý nên các hiến pháp đó không có hợp hiến, không có giá trị. Do đó, một chính quyền dựa trên một hiến pháp không có giá trị thì chính quyền đó không có tư cách pháp nhân, không có tính cách hợp pháp và không có năng lực pháp lý để đại diện cho nhân dân.

    b. Tính chất bất hợp pháp của chế độ:
    Trong một chế độ được gọi là dân chủ hay cộng hoà (republic), nhà cầm quyền phải được công dân bầu lên bằng một cuộc phổ thông đầu phiếu tự do trong sạch. Chế độ gọi là “cộng hoà” khác với chế độ “quân chủ” ở vai trò của người dân trong việc quyết định người cầm quyền. Trong chế độ quân chủ, người cai trị nắm quyền không do lá phiếu của người dân. Nhà vua lên ngôi bằng sức mạnh, bằng sự thần phục của mọi người và bằng huyết thống. Do đó, đã là chế độ cộng hoà, dù là cộng hoà xã hội hay cộng hoà không xã hội, quyền lực của nhà nước phải được người dân ủy nhiệm bằng lá phiếu của họ qua một cuộc phổ thông đầu phiếu tự do dân chủ.

    Quan niệm về chính thể Cộng Hoà (như trong cụm từ Cộng Hoà Xã hội Chủ Nghĩa Việt nam) như nói trên, thì một chính phủ đại diện cho dân phải được nhân dân lựa chọn bằng những cuộc tổng tuyển cử tự do dân chủ có định kỳ. Trong suốt hơn 55 năm lãnh đạo đất nước, Đảng CS chỉ tổ chức một cuộc phổ thông đầu phiếu duy nhất là cuộc tổng tuyển cử năm 1946. Sau đó, họ quên làm tổng tuyển cử tự do. Ngay cả khi xua quân vào miền Nam năm 1960 họ đã nhân danh mục đích thực hiện cuộc tổng tuyển cử cho hai miền nam bắc. Sau khi chiến thắng, họ cũng không thực hiện cuộc tổng tuyển cử có quốc tế quan sát theo quy định của hiệp định đình chiến ký tại Geneve năm 1954. Đối với CS, bầu cử chỉ là hình thức, khả năng cướp chính quyền bằng bạo lực mới quan trọng.

    Khả năng “cướp chính quyền” là lý do duy nhất để chế độ nầy biện minh sự độc quyền lãnh đạo đất nước. Năm 1945 họ đã “cướp” chính quyền từ các đảng phái quốc gia và từ triều đình Huế. Năm 1959 đảng Cộng Sản đã chính thức “cướp” quyền từ nhân dân bằng cách loại bỏ vai trò của công dân trong việc thay đổi hiến pháp. Với các hiến pháp tự ban hành, từ hiến pháp 1980 trở đi, họ đã chính thức thêm điều 4 hiến pháp quy định vai trò lãnh đạo độc quyền của đảng Cộng Sản. Đó là quyền lãnh đạo đất nước muôn đời. Trên bản chất đây là chế độ quân chủ. Do đó, điều 4 hiến pháp đã phủ định chế độ Cộng hoà và hai chữ Cộng Hoà Xã Hội đã hoàn toàn không có ý nghĩa pháp lý trong hiến pháp.

    Trong thời đại dân chủ, quan điểm chính trị dựa vào khả năng “cướp chính quyền” bằng bạo lực, tự nó đã mất đi tính dân chủ, chính thống và hợp pháp. Do đó, một chính quyền không do dân bầu ra bằng một cuộc tổng tuyển cử tự do và dân chủ, không có tư cách pháp nhân để đại diện nhân dân quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước.

    Do tính chất bất hợp pháp của nhà cầm quyền, tất cả hiệp ước do họ ký kết đều không có giá trị. Và giá trị thực thi của cá hiệp ước này cũng chấm dứt khi chế độ sụp đổ. Việc duy trì tích chất khả thi của các hiệp ước hay hợp đồng quốc tế đều do chế độ mới duyệt xét và quyết định dựa vào khả năng của chế độ mới đối phó với những hậu quả kinh tế quân sự hay ngoại giao do quyết định phủ nhận các hiệp ước đó gây ra.

    c. Thẩm quyền ký hiệp ước quốc tế:
    Vấn đề thứ hai là người đại diện đặt bút ký tên trong hiệp ước có phải là người phải có thẩm quyền để ký kết theo quy định của hiến pháp.ở đây chúng ta giả thiết là hiến pháp của CS hiện nay hợp pháp, và chúng ta phải xét người đại diện ký kết có đủ thẩm quyền do hiến pháp đó quy định hay không.

    Theo chương VII điều 103 khoản 10 của hiến pháp 1992, Chủ tịch nhà nước có các nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: “Cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam; tiếp nhận đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài; tiến hành đàm pháp, ký kết diều ước quốc tế nhân danh Nhà Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, với người đứng đầu Nhà nước khác; quyết định phê chuẩn hoặc tham gia điều ước quốc tế, trừ trường hợp cần trình Quốc Hội quyết định.”

    Trong khi đó, chương VIII, điều 112 khoản 8 quy định quyền hạn và nhiệm vụ của chính phủ như sau: “Thống nhất quản lý công tác đối ngoại của nhà nước: ký kết tham gia, phê duyệt điều ước nhân danh chính phủ; chỉ đạo việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Cộng Hoà Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia; bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích chính đáng của tổ chức và công dân Việt Nam ở nước ngoài.”

    Chiếu theo những điều khoản trên của hiến pháp 1992, chỉ có chủ tịch nhà nước là người có thẩm quyền ký kết các hiệp ước liên quan đến các vấn đề thuộc tầm mức quốc gia, tức là nhà nước CHXHCN Việt Nam, như vấn đề biên giới hiện nay; và chính phủ (thủ tướng và các bộ trưởng) có thẩm quyền ký kết các vấn đề liên quan đến quan hệ ngoại giao với chính phủ các nước. Vấn đề “nhân danh chính phủ” là những vấn đề có tính cách thủ tục và nghi lễ giữa hai nước.

    Do đó,những hiệp ước liên quan đến quốc gia, như hiệp định về lãnh thổ và lãnh hải, do bộ trưởng ngoại giao ký kết đều không có giá trị pháp lý vì chúng không hợp hiến, cho dù những hiệp định đó được quốc hội thông qua.

    ở đây chúng ta có thể xem lại ai là người đại diện cho Việt Nam ký kết các hiệp ước biên giới nói trên. Theo kiến nghị thư của 20 cử tri yêu cầu quốc hội không thông qua Hiệp Định Biên Giới Việt Trung thì hiệp định biên giới đưòng bộ được ký kết tại Hà Nội khi Đường Gia Truyền, Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao Trung Quốc bay qua Việt nam năm 1999. Tài liệu và hệ thống tuyên truyền của Đảng Cộng Sản VN hoàn toàn không tiết lộ ai đã đại diện bên Việt Nam để ký kết. Tuy nhiên theo thông lệ ngoại giao thì phía bên Việt Nam phải là Bộ Trưởng bộ ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm. Và điều này được xác nhận bởi bản tin của Bộ Ngoại giao Trung Quốc.

    Về phần hiệp ước Phân Định Vịnh Bắc Bộ,theo Thứ Trưởng Lê Công Phụng cho biết hiệp ước này đưọc ký vào ngày 25 tháng 12 năm 2000 với sự chứng kiến của chủ tịch nhà nước Trần Đức Lương và Giang Trạch Dân. Bài viết này không nói rõ ai là người hạ bút ký đại diện cho Việt nam. Nếu nói là ông Trần Đức Lương với tư cách là nhà nước chỉ để chứng kiến, thì người hạ bút chắc không phải ông Lương. Hơn nữa nếu ông Lương ký thì tại sao ông Lê Công Phụng không nói rõ là ông Trần Đức Lương ký, mà phải nói là ông Lương “chứng kiến”"

    Nếu sự kiện xảy ra như lý giải thì chủ tịch Cộng sản VN Trần Đức Lương đã không ký vào bất cứ một hiệp ước nào. Và như thế, chiếu theo chương VII điều 103 khoản 10 của hiến pháp 1992, thì các hiệp ước nầy không có giá trị đối với hiến pháp VN.





    2. Giá Trị Pháp Lý Của Một Hiệp Ước Bất Hợp Pháp Đối Với Quốc Tế

    Thông thường, để tránh trường hợp cãi vã về giá trị thực thi của hiệp ước, khi một nước ký kết một hiệp định với một nước khác, nước đó phải có bổn phận nghiên cứu tư cách pháp nhân của người đại diện quốc gia, cũng như những thủ tục phê chuẩn hiệp ước cần thiết để biết chắc giá trị pháp lý và giá trị thực thi của những điều khoản mà hai bên đồng ý. Trong trường hợp này, Trung quốc có trách nhiệm làm công tác sưu tra đó. Nói một cách khác, nếu những hiệp ước lãnh thổ Việt Trung đều do Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm ký kết, thì Trung Quốc đã ký kết những hiệp ước hoàn toàn không có giá trị. Và với bộ phận nghiên cứu pháp luật của Trung quốc họ phải biết là họ đã ký kết những hiệp ước hoàn toàn không có giá tri theo luật pháp Việt Nam.

    Trên thực tế, dù chúng ta chứng minh rằng những hiệp ước nầy không có giá trị, giá trị cưỡng hành hiệp ước luôn luôn tùy thuộc vào thái độ quyết liệt của nước mạnh ký tên trong hiệp định. Lịch sử cho thấy những hiệp ước bất bình đẳng giữa Việt Nam với thực dân Pháp ký kết từ cuối thế kỷ thứ 19 có hiệu lực cho đến khi Pháp không còn đủ khả năng quân sự, kinh tế và ngoại giao để thực hiện các hiệp ước đó tại Đông Dương. Điều này cũng đang xảy ra cho việc giải quyết biên giới giữa Palestine, các nước ả Rập và Do Thái, và hầu hết các quốc gia có tranh chấp về biên giới.

    Do nguyên tắc “mạnh được yếu thua” vẫn là nguyên tắc lõi cốt trong bang giao quốc tế, một hiệp ước quốc tế, hợp pháp hay không hợp pháp, có hiệu lực cưỡng hành hay không đều tùy thuộc khả năng quân sự, kinh tế và ngoại giao của các nước ký tên. Do đó, những lý luận liên quan đến giá trị hợp pháp của hiệp ước đều có giá trị nghiên cứu pháp lý, ngoạI giao và biện giải giá trị chính nghĩa. Còn giá trị thực tiễn của nó, hay giá trị quân sự, rất giới hạn.

    Vấn đề được đặt ra là
    • với một hiệp ước dâng đất cho Trung Quốc như thế, khi có chính quyền dân chủ, Việt nam có quyền hủy bỏ các hiệp ước biên giới bất công đó hay không"

    Câu trả lời tất nhiên là có. Tuy nhiên, như đã trình bày ở trên, quyền phủ nhận những hiệp ước bất hợp pháp và bất lợi cho chúng ta luôn luôn bị giới hạn bởi sức mạnh quân sự, kinh tế và ngoại giao của chúng ta trong tương quan quyền lực đối với Trung quốc.





    Kết Luận

    Mặc dù nhà nước Cộng Sản Việt Nam
    • không có tư cách pháp nhân, tính chất hợp pháp để đại diện Việt Nam ký các hiệp ước biên giới dâng đất cho Trung Hoa,
      và thủ tục ký kết hoàn toàn bất hợp hiến,
    sự kiện họ nắm chính quyền tạo cho họ một thẩm quyền tạm thời để thực hiện các hiệp ước đó.

    Đối với Trung Quốc đây là điều lợi lớn. Họ không tốn một giọt máu mà chiếm được hàng ngàn kilomet vuông lãnh thổ và hơn 5000 kilomet vuông lãnh hải. Trên mặt trận bang giao quốc tế, đối với vấn đề tranh chấp biên giới, chiếm giữ đất luôn luôn là thế thượng phong. Và để bảo vệ tổ quốc thì máu là chính, và giấy mực là phụ. Do đó, cho dù Trung quốc biết là phía Việt Nam không có tư cách pháp nhân, hiến pháp Việt Nam không hợp pháp, một khi họ đã đưọc dâng đất họ sẽ không bao giờ trả lại. Như thế, qua hiệp ước biên giới, Cộng Sản Việt Nam đã ngu xuẩn, đưa sinh mệnh dân tộc vào một con đường cùng cực kỳ hiểm nghèo mà thế hệ mai sau phải đem máu đào để trả.

    Nói như nhà văn tranh đấu Dương Thu Hương:
    • “Lòng yêu nước của nhân dân là mỏ vàng ròng mà đảng Cộng Sản giành độc quyền khai thác”.
    Đảng Cộng Sản đã khai thác mỏ vàng ròng nầy bằng cách xử dụng xương máu của các thế hệ thanh niên 45, 54, 75 để xây dựng và bảo vệ một chế độ độc tài dốt nát và liên tục tụt hậu. Nhưng xử dụng xương máu của thế hệ thanh niên ngày qua và ngày nay vẫn chưa đủ, với các hiệp định biên giới vừa ký kết, họ lại tiếp tục lén lút bán xương máu của thế hệ 2000 và con cháu mai sau để đánh đổi lấy việc duy trì ngai vàng ngày hôm nay.

    Đây là hành vi mà mọi người Việt yêu nước, không phân biệt chính kiến, đều tuyệt đối không thể chấp nhận. Thái độ quyết liệt đối với vấn đề chế độ CSVN dâng đất cho Trung Hoa là thước chuẩn đo lòng yêu nước của mọi người dân Việt.

    Và đây cũng là giới tuyến rõ ràng nhất của người Việt chân chính yêu nước và chế độ độc tài CS bán nước hại dân.






    LS Nguyễn Xuân Phước
    nguồn:vietbao.com
Hình đại diện
Quy Nam
Bài viết: 824
Ngày tham gia: Thứ năm 21/05/15 18:52

Re: Nguyễn Xuân Phước - Ngàn Cánh Hạc

Bài viết bởi Quy Nam »

  • Bài Học "phục Hưng Dân Tộc"
    ________________________________________
    Ls Nguyễn Xuân Phước - 22/12/2003




    (Tham Luận Đọc Trong Hội Thảo Chính Trị do Phong Trào Thống Nhất Dân Tộc và Vận Động Dân Chủ Cho Việt Nam tổ chức tại American Enterperise Institute, Washington DC. Ngày 8 tháng 12, năm 2003)
    So Sánh thời kỳ hậu Hán thuộc với thời kỳ hậu Pháp thuộc
    Để chuẩn bị kỷ niệm 1000 năm thành lập Thăng Long (1010-2010) ...




    Dẫn Nhập:
    Một câu hỏi luôn luôn nằm trong đầu của người dân Việt Nam là "Tại sao Đất nước đã độc lập từ 1945 mà dân tộc Việt vẫn nghèo nàn, đất nước tụt hậu, và lòng người vẫn còn ly tán""
    Hơn 50 năm qua bao nhiêu thế hệ Việt nam đã cố công đi tìm câu trả lời. Kẻ cầm súng đúng trong hàng ngũ Cộng Sản, người cầm súng bảo vệ chính nghĩa Quốc Gia.
    Và đến ngày hôm nay chúng ta vẫn còn ngồi ở đây để tìm một giải pháp cho Việt Nam.
    Trong những trăn trở đó trong mỗi chúng ta đều có một "Giấc Mơ Việt nam". Chúng ta đều muốn một đất nước phục hưng. Một Renaissance Việt. Một nước Đại Việt của thời đại 2000. Làm sao Việt nam có thể cất cánh về kinh tế văn hoá và chính trị để hoà nhập vào cộng đồng nhân loại " Và làm sao để các thế hệ thanh niên Việt có thể ngững mặt ngang hàng với Đài Loan, Nam Hàn, Nhật Bản
    Trưóc những biến động kinh tế, chính trị và xã hội của đất nước hiện nay, chúng ta có thể cảm nhận được rằng vận nước hiện nay đang chuyển mình. Một vận hội mới sẽ mở ra cho dân tộc Việt. Chúng ta có lẽ sẽ may mắn chứng kiến cảnh đổi đời đó.
    Nhưng nước Đại Việt mới đó chỉ có thể ra đời lành mạnh khi những yếu tố lịch sử cần thiết được hội tụ.



    II. Tổng quát Về Thời Đại
    Trong lịch sử, có hai thời đại đất nước bị ngoại xâm lâu dài đó là thời kỳ 1000 năm bắc thuộc và thời kỳ 100 năm Pháp thuộc.
    Hai thời kỳ ngoại xâm đó chấm dứt cách nhau khoảng 1000 năm, nhưng đã để lại những dấu ấn có những điểm tương đồng trong thời kỳ hậu độc lập.
    Từ thời kỳ độc lập hậu Hán thuộc đến thời kỳ phục hưng Lý Trần đất nước đã trãi qua một thời gian dài khoảng 70 năm. Từ thời kỳ độc lập 1945 đến nay đã gần 60 năm.
    Nếu gọi thời kỳ Lý Trần là thời kỳ phục hưng và thịnh trị của dân tộc Việt ở giai đoạn độc lập hậu Hán thuộc thì vấn để của chúng ta là trong thòi kỳ hậu Pháp thuộc khi nào phục hưng dân tộc mới xuất hiện"
    Tra xét lại những biến động chính trị và xã hội của hai thời kỳ có thể giúp chúng ta tìm thấy phương pháp khai thông lịch sử của người xưa để tìm một xuất lộ cho dân tộc ngày nay.



    III. Một số điẻm tương đồng giữa hai thời kỳ hậu Hán thuộc và hậu Pháp thuộc

    1. Quá Trình Độc Lập:
    Quá trình độc lập thời kỳ hậu Hán thuộc bắt đầu từ thời kỳ Khúc Hạo (907) làm tiết độ sứ dưới thời Ngũ Quí bên Tàu. Từ Khúc hạo đén Dương Diên Nghe (hay Dương Đình Nghệ) là giai đoạn nước Việt có độc lập chuyển tiếp. Mặc dù đã có độc lập về lãnh thổ, Khúc Hạo và Dương Diên Nghê trên danh nghĩa vẫn là quan lại của nhà Đường và Nam Hán. Cho đến lúc Ngô Quyền chiến thắng quân Nam Hán ở Bạch Đằng Giang năm 939 đất nước mới bước vào giai doạn độc lập thực sự. Dầu vậy, nền độc lập từ Ngô Quyền đến thời Lê Long Đĩnh vẫn còn là một nền độc lập chưa triệt để. Đất nước vẫn không vươn lên được vì di tật của 1000 năm đô hộ vẫn còn. Di tật về phân hoá, chia rẽ đã gây những khủng hoảng về chính trị, văn hoá. Hay nói một cách khác, mặc dù độc lập nhưng văn hoá dân tộc vẫn chưa được phục hưng và phục hoạt.
    Thơì kỳ giành độc lập cận đại cũng có những nét tương tư. Việt Nam bắt đầu có những hạt mầm độc lập từ thời kỳ chính phủ Trần Trọng Kim. Chính phủ Trần trọng Kim ra đời là chính phủ đầu tiên của người Việt sau 80 năm bị Pháp đô hộ. Chính phủ Trần trọng Kim bị Việt Minh đảo chính với sự tham gia của nhiều đảng phái cách mạng quốc gia. Khi Pháp trở lại, một chính quyền Quốc gia Việt nam lại xuất hiện song song với chính quyền Việt Minh. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 nước Việt Nam bị chia đôi và cuộc chiến tranh Quốc Cộng tiếp theo sau đó với sự tham dự của các cưòng quốc Mỹ, Nga và Trung Cộng. Miền Nam được độc lập bằng giải pháp chính trị. Miền bắc được độc lập bằng giải pháp chiến tranh. Và đến năm 1975 Cộng Sản thống nhất được hai miền Nam Bắc.
    Từ kinh nghiệm của thời đại hậu Hán thuộc, chúng ta có thể xác định rằng, từ 1945 đến 1954 là giai đoạn độc lập chuyển tiếp tương tự như thời kỳ Khúc hạo, Dương Diên Nghệ. Từ 1954 đến nay là giai đoạn độc lập nhưng chưa triệt để. Đăc biệt từ khi Cộng Sản thống nhất đất nước, Việt Nam phải đi vào một giai đoạn dựa vào các thế lực của Liên Xô chống lại với Hoa Kỳ và Trung Cộng. Sau khi Liên Xô sụp đổ, Việt Nam phải ngã theo Trung Cộng để bảo vệ chế độ Cộng Sản. Cái giá mà Việt nam phải trả để được làm bạn lại với Trung Cộng sau cuộc chiến biên giới đẫm máu là bản hiệp ước biên giới Việt Trung. Theo đó, Việt nam phải nhượng cho Trung quốc một số lãnh thổ biên giới và vùng biển thuộc Vịnh Bắc Bộ. Và ĐCSVN phải làm ngơ trước việc Trung quốc xâm lược Hoàng Sa và Trường Sa.

    2. Tình Hình Xã hội Loạn Lạc
    Thời kỳ hậu Hán thuộc là thời kỳ loạn lạc nhiễu nhương; chính trị thay đổi liên tục. Chính tà bất phân minh. Khi Dương Diên Nghệï bị Kiều Công Tiển giết chết lẽ ra con của Dương Diên Nghệ là Dưong Tam Kha được thay cha để làm Tĩnh Hải Tiết Độ Sứ. Nhưng bộ tướng và cũng làø con rể của Dương Diên Nghệ là Ngô Quyền dấy quân diệt Kiều Công Tiển và sau đó Ngô Quyền xưng vương, bỏ rơi Dương Tam Kha là người anh vợ. Khi Ngô Quyền băng hà, Dương Tam Kha, thay vì đưa con Ngô Quyền là Ngô Xương Ngâp lên làm vua, thì tiếm quyền xưng vương. Dưong Tam Kha từ giòng chính trở thành dòng phản loạn. Từ Dưong Tam Kha trở đi đất nước rơi là cuộc nội loạn Thập Nhị Sứ Quân, chiến tranh triền miên. Đinh bộ Lĩnh thống nhất 12 sứ một thời gian ngắn thì bị ám sát. Hoàng hậu Dưong Vân Nga âm mưu cùng Lê Hoàn phế Đinh Hạng Lang là con út của Đinh Tiên Hoàng để tiếm ngôi. Lê Đại Hành chết các con dành quyền lực đánh nhau đẫm máu. Lê Long Đĩnh giết anh là Lê Long Việt để chiếm ngôi vua .
    Cuối thời kỳ Pháp thuộc, sau khi Viet nam Quang Phục Hội của cụ Phan Bội Châu thất bại, phong trào đấu tranh giành độc lập chia làm hai phe: các đảng phái tả khhuynh và các đảng phái hữu khuynh. Trong khi đó, triều đình Huế cũng đi vào những thoả hiệp với Nhật và Pháp để tìm con đưòng độc lập. Việt Nam đứng trưóc hai giải pháp đi đến độc lập: giải pháp bạo lực chọn chiến tranh để đến độc lập và giải pháp chính trị ch ọn hoà giải, hợp tác để đi đến độc lập. Các đảng phái hữu khuynh đã liên minh với Cộng Sản chọn giải pháp bạo lực để đánh Pháp giành độc lập. Các chính phủ trong Liên Hiệp Pháp chọn giải pháp chính trị. Sau năm 45 là giai đoạn đấu tranh quyết liệt giữa các phe cách mạng và với thực dân Pháp và chính quyền Việt Nam nằm trong Liên Hiệp Pháp. Cuộc chiến tranh giành độc lập, theo với xu hướng chiến tranh toàn cầu giữa các đế quốc cực quyền, biến dạng thành cuộc chiến tranh Quốc Cộng. Trong thời gian đó, các đảng phái cách mạng Quốc gia bị Cộng Sản tiêu diệt. Sau 1950, các đảng phái quốc gia vào Nam hợp tác với chính quyền miền Nam. Sau khi đất nưóc chia hai năm 1945, các đảng phái quốc gia cũng bị chính quyền đệ nhất Cộng Hoà đàn áp. Sau đó, tổng thống Ngô Đình Diệm bị quân nhân đảo chính và anh em tổng thống Diệm bị phe quân nhân giết chết. Đến thời kỳ đệ nhi Cộng Hoà các đảng phái quốc gia mới được sinh hoạt trở lại. Nhưng lúc đó, cuộc chiến đã leo thang và vai trò quân đội lại nổi bật lên. Đến năm 1975 chính quyền miền Nam sụp đổ. Sau năm 1975, thì tất cả các đảng phái cũng như những người hợp tác với VNCH nếu không ra đượïc hải ngoại đêøu bị bắt giam. Cũng sau năm 1975, lực lượng Giải Phóng Miền Nam hợp tác với Cộng Sản bị giải tán. Các lực lượng đòi tự do dân chủ bị đàn áp triệt để.
    Tình hình loạn lạc còn do tâm thức "đấu tranh giai cấp" của tập đoàn lãnh đạo, một di tật của ngoại bang để lại. Đất nước không bao giờ đưọc yên ổn, và lòng dân không an định để kiến thiết phục hưng vì nhu cầu thực hiện đấu tranh giai cấp để phục vụ cho chủ nghĩa Mác Lê.

    3. Tình hình văn hoá đa diện
    Sau thời kỳ bắc thuộc, đất Việt phải chịu ảnh hưởng 3 nguồn tư tưởng ở ngoài tràn vào. Phật Giáo được vào nước Việt qua ngã Ấn Độ và Trung quốc; Nho giáo và Lão giáo từ Trung quốc. Ba giòng từ tưởng nầy đóng vai trò to lớn trong đời sống tinh thần của người dân cũng như tư duy của những nhà cầm quyền.
    Sau thời kỳ Pháp thuộc ngoài các tôn giáo trên còn xuất hiện thêm Thiên Chuá giáo. Đồng thời các luồng triết học tây phưong cũng tràn vào Việt nam với các chủ nghĩa Cộng sản, Tư Bản, Dân chủ Xã Hội, Tam Dân chủ nghĩa, Duy Vật, Duy Tâm, Hiện Sinh vân vân. Ngày nay trưóc ngọn triều toàn cầu hoá, dân tộc Việt lại phải đương đầu với nền văn hoá mới, một văn hoá trẻ trung của thế giới với sự tham dự của khoa học kỷ thuật điện toán, và mạng lưói toàn cầu cũng như khoa học kỷ thuật về di truyền và y học.

    4. Ý thức Dân Tộc Non Kém
    Trong thời kỳ hậu Hán thuộc ý thức độc lập và quyền lực cá nhân lấn át các nổ lực vận động phục hoạt văn hoá và phục hưng dân tộc. Ý thức dân tộc chỉ chớm nở như những bông hoa lát đát mùa đông.
    Khi Ngô quyền xưng Vương thì ngài chỉ đặt vưong hiệu chứ chưa đăït được quốc hiệu. Đến đời Nam Tấn Vương Ngô xương Văn lại xin thần phục nhà Nam Hán để làm Tỉnh Hải Tiết Độ Sứ. Đến đời Đinh Bộ Lĩnh thì ngài mới xưng Đinh Tiên Hoàng Đế và được nhà Nam Hán phong làm Giao Chỉ Quận Vương, và ngài đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt. Nhưng không có một triều đại nào xây dựng lại nền văn hoá Việt cho khi Lý Công Uẩn lên ngôi.
    Trong cuộc vận động độc lập thời kỳ Pháp thuộc và hậu Pháp thuộc ý thức phục hưng dân tộc cũng không phải là ưu tiên số một của các đảng phái lãnh đạo công cuộc đấu tranh. Đề cương văn hoá của tổng bí thư đảng CSVN Trường Chinh nhấn mạnh là người CS sẽ làm một cuộc cách mạng văn hoá mà nội dung là xã hội chủ nghĩa và hình thức văn hoá là dân tộc.
    Ở đây chúng ta không thể không nhắc tới tên An Nam Cộng Sản Đảng, tiền thân của ĐCSVN ngày nay. Khác với các đảng phái cách mạng phát xuất từ lòng dân tộc có những tên gợi lòng yêu nước như Việt Nam Quang Phục hội, Việt Nam Quốc Dân Đảng; hay những đảng phái gợi lại thời đại vàng son của dân tộc như Đại Việt Quốc Dân Đảng, Đai Việt Duy Dân Đảng, tên An nam Cộng Sản Đảng hoàn toàn không chuyên chở một ý niệm dân tộc. Từ chử "An nam" đến chữ "Cộng Sản" đều không có ý thức dân tộc. An Nam là tên có ý khinh miệt do Trung Hoa đặt cho Đại Việt. Cộng Sản là tên của một ý thức hệ ngoại bang. Và hậu thân của đảng nầy là Đảng Cộng Sản Việt Nam là đảng đang cai trị Việt nam ngày nay.
    Ngoài ra, cuộc cách mạng dân tộc được ĐCSVN biến thành cuộc cách mạng Cộng Sản đẻ phục vụ cho "lý tưỏng" Đấu Tranh Giai Cấp. Trên bàn thờ tổ quốc nogài hình ông Hồ Chí Minh còn có thêm hình hai ông Tây: ông Mác người Đức và ông Lê Nin người Nga. Chưa kể thời ông Hồ Chí Minh còn sống còn có thêm hình ông Mao Trạch Đông người Tàu.
    Giáo dục dưói chế độ Cộng Sản chú trọng đến việc xây dựng con ngưòi XHCN, ca tụng và sùng bái các lãnh tụ ngoại bang chứ không quan tâm đén xây dựng văn hoá dân tộc.
    Những người đi theo đảng CS có ý thức dân tộc, phản tỉnh đều bị đàn áp trù dập.
    Từ xuất phát điểm của đảng đã thiếu ý thức dân tộc cho nên nền độc lập dưới ngọn cờ của đảng đã trở thành cái độc lập không triệt để. Đó là một nền độc lập vong thân.

    5. Tình hình chính trị: Bạo ngược, chuyên chính
    Để cũng cố điạ vị chính trị và quyền lực của mình, các triều đình thời hậu Hán thuộc đã gia tăng hình phạt. Dưới thơì Đinh Tiên Hoàng, triều đình nấu vạt dầu nóng và nuôi hổ báo trong triều đình. Ngươì nào phạm tội thì bỏ vào vạc dầu hay cho hổ báo ăn. Thời kỳ Lê Long Đĩnh là thời kỳ tàn ác bạo ngược. Lê Long Đĩnh giết anh để lên ngôi. Sử chép "Lê Long đĩnh là người bạo ngược, tính hay chém giết, ác bằng Kiệt Trụ ngày xưa. Nhà vua cứ lấy sự giết ngưoì làm trò chơi. Bổ mía trên đầu nhà sư mà róc vỏ."
    Tình hình chính trị thời kỳ hậu Pháp thuộc cũng tàn ác và bạo ngược chẳng những không kém, mà có phần hơn nhờ ác tính của chủ nghĩa Cộng Sản. Đây là chế độ dựa vào đấu tranh giai cấp để xây dựng xã hội và con người. Đấu tranh giai cấp là ngôn ngữ cách mạng của Cộng Sản. Ngôn ngữ bình dân là cướp của giết người để chiếm đoat tài sản của nhân dân. Suốt 60 năm cai trị đất nước Chế Độ Cộng Sản đã đưa đấu tranh giai cấp trở thành quốc sách. Khi Cộng Sản thống nhất đất nước hàng triệu người phải bỏ nước ra đi và hàng trăm ngàn người vào tù. Cho đến ngày hôm nay, ĐCSVN luôn luôn tăng cường "pháp quyền xã hội chủ nghĩa" . Nội dung của "pháp quyền xhcn" là cái vạc dầu của thời đại Đinh Tiên Hoàng, là cái những ngọn dao gọt mía rót trên đầu sư tăng của Lê Ngoạ triều. Đại học công an sản xuất hàng ngàn sinh viên công an tốt nghiệp hàng năm để làm công tác tăng cường sức mạnh của pháp quyền XHCN. Ngày nay, Việt nam là một trong những nước có thành tích chà đạp nhân quyền lớn nhất thế giới.

    6. Đạo Đức Lãnh Đạo Suy Đồi
    Từ đời Ngô Quyền đến Lê Long Đĩnh đạo đức triều chính suy đồi. Dưong Tam Kha, anh vợ Ngô Quyền soán ngôi cháu khi Ngô Quyền băng hà. Dương vân Nga con gái của Dương Diên Nghệ làm hoàng hậu 3 triều đại Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh và Lê Đại Hành. Có sử gia nghi ngờ chính bà tư thông với Lê Hoàn, mưu cho Đổ Thích giết Đinh Bộ Lĩnh và con trưởng là Đinh Liễn, cùng Lê Hoàn phế Đinh Hạng Lang còn bé nhỏ để cho Lê Hoàn lên ngôi. Lê Long Đĩnh giết anh để soán ngôi, ăn chơi trụy lạc đếùn nổi mới 20 tuổi mà đã không đứng nỗi khi lâm triều.
    Suốt thời kỳ hậu Pháp thuộc hình bóng ông Hồ chí Minh luôn luôn ngự trị trên đất nước Việt nam. Ngày nay ông đã chết nhưng hình ảnh của ông được dựng khắp nơi. Tư tưỏng Hồ Chí Minh dù không có gì cũng được đảng CSVN sáng tạo để làm chổ vịn cho chế độ ở thời kỳ thành đồng cách mạng vô sản Liên Xô sụp đổ.
    Thanh niên thế hệ 45, 60 đi theo tiếng gọi của đảng để cuối đời biết mình bị lường gạt. Yêu nước biến thành yêu xã hội chủ nghĩa. Hiến pháp đa nguyên đa đảng 1946 bị thay thế bằng hiến pháp độc tài mà người dân không được trưng cầu dân ý. Thay vì xây dựng một xã hội thái bình thịnh trị, ĐCSVN đã dựng lên một xã hội đấu tranh giai cấp để chinh chiến và hận thù không bao giờ dứt giữa vòng người Việt.
    Dâm đảng gian trá mà không biết hổ thẹn. Ông Hồ Chí Minh lấy vợ từ đông sang tây, từ Nga sang Tàu. Ông sống huởng thụ đời sống nhục dục suôt thời thanh niên bất chấp luân thường đạo lý. Ông lấy bà Nguyễn Thị Minh Khai là vợ của Tổng Bí Thư đảng CS Lê hồng Phong. Ông sống trác táng trong nhục dục nhưng lúc nào cũng được đảng coi như một vị thánh sống đên lúc chết vẫn còn trinh. Người đàn bà được ông sủng ái là Nông Thị Xuân bị bộ trưởng công an Trần Quốc Hoàn hiếp dâm rồi cho xe cán chết quăng ngoài đưòng. Ông không dám làm một động tác của một người đàn ông bảo vệ cho người mình yêu.
    Ở đây chúng ta nói về những con người biểu trưng của thời đại, của những con người lãnh đạo thời đại. Cho dù những so sánh ở đây có cường điệu đi nữa, không ai có thể phủ nhận tình trạng suy đồi đạo đức hiện nay trong xã hội Việt Nam. Tình trạng tham nhũng hối mại quyền thế hiện nay là dấu chỉ rõ ràng nhất của một xã hội với nền đạo đức phá sản.

    7. Tình hình đất nước nói chung:
    - Thời kỳ hậu Hán thuộc: Bế tắc chính trị, nguy cơ bị nhà Tống xâm lược ở phương Bắc
    - Thời kỳ hậu Pháp thuộc: Bế tác tư duy, nguy cơ toàn cầu hoá, và mất đất mất biển về tay Bắc Kinh, và trở thành chư hầu của Trung Quốc.



    IV. Mô hình vận động phục hưng dân tộc của Sư Vạn hạnh:

    Trước những bế tắc lịch sử đó, lực lượng dân tộc mà đại biểu là Sư Vạn Hạnh bắt đầu cuộc tập hợp để phục hưng đất nước.
    Khác hẳn với cuộc đảo chính hoặc soán ngôi xảy ra trưóc đây chỉ dựa vào sức mạnh của người chủ mưu, cuộc vận động đưa Lý Công Uẩn lên ngôi là một phối hợp giữa những người trong triều đình và nhân dân. Cuộc vận động đó được sửa soạn và chuẩn bị trong dân gian. Thơ vè, sấm ký của Sư Vạn Hạnh được rao truyền khắp nơi trong nước. Sự kìện này cho thấy không phải chỉ có một mình Sư Vạn Hạnh mà có rất nhiều người, nhiều thành phần tham dự, tiếp tay với ngài trong cuộc vận động nầy.
    Trong cuộc tập hợp dân tộc của Sư Van Hạnh chúng ta thấy có các điểm chính như sau:

    • 1. Phục hồi đạo đức của tầng lớp lãnh đạo đất nước. Sư Vạn Hạnh chọn Lý Công Uẩn lên ngôi để thay thế cho Lê Ngoạ Triều. Một phần có lẽ Lý Công Uẩn là học trò của ngài. Nhưng yếu tố chính là Lý Công Uẩn là con người đạo đức mẫu mực.
      Nhờ có võ nghệ cao cường nên Lý Công Uẩn được làm đến chức Điện Tiền Chỉ Huy Sứ trong triều đình. Lòng trung hiếu của ngài được sử sách ghi nhận qua hành động của ngài sau cuộc chính biến Lê Long Đĩnh giết anh để soán ngôi. Khi Lê Long Việt bị em giết chết, triều thần chạy tán loạn. Chỉ có ngài là người ở lại, bất chấp nguy hiểm, ôm thây vua mà khóc. Lòng trung hiếu và nhân ái của ông phải làm xúc động Lê Long Đĩnh và chính Lê Long Đĩnh đã lưu giữ ông ở lại triều đình.
      Cuộc vận động phục hưng dân tộc hiện nay không thể không tái tạo lại đạo đức của con người và tầng lớp lãnh đạo.
      Để lãnh đạo đất nước tiến đến thời đại phục hưng, ngoài sức mạnh chính trị phải có sức mạnh đạo đức. Đó là quan điểm "đại nghĩa" và "chí nhân" của Quang Phục Hầu Nguyễn Trãi.
      Một phong trào chính trị nắm vai trò lãnh đạo cuộc phục hưng dân tộc không thể được xây dựng trên sự lường gạt và dối trá. Phương tiện phải nằm trong cứu cánh. Không thể nói cứu cách biện minh cho phương tiện.
      E.C. Carr viết: "Political Action must be based on a coordination of morality and power." Hành động chính trị phải dựa vào sự phối trí giữa đạo đức và quyền lực.
      Trận thế ngày nay là những cuộc giao tranh giữa đạo đức và phi đạo đức, gìữa đại nghĩa và hung tàn, giữa chí nhân và cường bạo, giữa chính phái và tà phái, giữa thành thật và gian dối, giữa tử tế và bất lương.
      Nhưng trong trận thế nầy cũng xảy ra những giao tranh giữa hung tàn và hung tàn, giữa phi đạo đức và phi đạo đức, giữa gian dối và gian dối, giữa bất lương và bất lương.
      Đây là điểm cần để ý. Đối lực của hung tàn chưa chắc là đại nghĩa. Đối lực của bất lương chưa chắc là tử tế. Đối lực của gian dối chưa chắc là thành thật.
      Tất nhiên chúng ta không bao giờ muốn thay thế một chế độ tàn ác bằng một chế độ tàn ác khác, một chế độ độc tài bằng một chế độ độc tài khác, một chế độ gian trá bằng một chế độ gian trá khác. Nhưng cho dù chế độ mới có ít tàn ác hơn ít độc tài hơn, ít gian trá hơn, nhân dân và lịch sử Việt Nam cũng không bao giờ chấp nhận.
      Muốn thế, những người đang làm công tác vận động lịch sử phải có một nhỡn quang thật xa, thật rộng để nhận chân được hạt mầm phản dân chủ, phản đạo đức, phản dân tộc, gian dối, bất lương của những đối lực của đảng Cộng Sản Việt Nam hiện nay.
      Do đó, đạo đức lãnh đạo chính là đòn bẩy tinh thần để đưa đất nước ra khỏi bế tắc hiện nay. Đạo đức cá nhân và đoàn thể là thưóc đo chuẩn mực tầng lớp lãnh đạo ngọn cờ phục hưng dân tộc.
    • 2. Phải có cái nhìn phóng rộng về tưong lai. Trong cuộc vận động của Sư Vạn Hạnh chúng ta thấy ông đã đưa ra tầm nhìn về vận mệnh đất nước qua 3 thòi đại Lý Trần Lê. Tính ra trên dưới 500 năm. Đến thời đại Nguyễn Bỉnh Khiêm lại có thêm tầm nhìn về đất nước 500 năm. Ở thời đại trí tuệ và kiến thúc phát triển nhanh chóng như thờøi đại hiện nay liệu chúng ta có được tầm nhìn về đất nước như cha ông chúng ta một ngàn năm trưóc hay không"
    • 3. Vận động xây dựng một nền chính trị dân bản. Sư Van Hạnh vận động một thể chế chính trị dựa vào sự ủng hộ của toàn dân. Một nền chính trị dân bản. Ông là người thấy ý nghĩa của ý niệm "Dân Vi Quí". Công cuộc vận động của ngài là mô hình mẫu mực của sự giao thoa giữa mặt tầng chính trị và đáy tầng quốc dân.
      Sự sụp đổ của chế độ Cộng Sản khắp nơi trên thế giới cho thấy baÏo lực cách mạng của đấu tranh giai cấp không bao giờ mạnh đủ để có được một mặt tầng chính trị bền vững. Chỉ có một nền chính trị xây dựng trên nền sức mạnh đáy tầng của nhân dân đất nước mới có thể đi vào thời đại chính trị vững bền.
      Đó là lý do giải thích tại sao dưới thời Lê Long Đĩnh nhà nước phải tăng cường pháp quyền của triều đình cùng với đủ loại hình phạt mà loạn lạc nổi lên khắp nơi; trong khi đó, khi Lý Công Uẩn lên ngôi, ngài ân xá cho người tội phạm, dẹp bỏ những hình phạt bất nhân mà đất nước lại đi vào thời đại thái bình thịnh trị.
      Cũng một lẽ ấy, đảng Cộng Sản ngày nay luôn luôn gia tăng pháp quyền XHCN với một lực lượng công an hàng trăm ngàn ngườì, được bổ xung hàng ngàn người mỗi năm, cộng với hơn 2 triệu đảng viên đang độc quyền lãnh đạo đất nước, nhưng tham ô thối nát, mafia, du đảng lộng hành từ thượng tầng kiến trúc đến hạ tầng cơ cở.
      Và đó cũng là lý do thúc đẩy cho cuộc vận động tự do dân chủ ngày hôm nay. Tự do dân chủ là con đưòng duy nhất tiến đến nền chính trị dân bản thời đại 2000. Không thể có nền chính trị dân bản nếu nhân quyền và dân quyền không đưọc tôn ttrọng. Chỉ có nền chính trị dân bản mới có thể sản sinh được một chế độ chính trị bền vững, một thời đại thái bình thịnh tri, để chấm dứt thòi đại pháp quyền xã hội chủ nghĩa tham ô thối nát và để thực sự hoà hợp hoà giải dân tộc.
    • 4. Phải sửa soạn một cuộc phục hưng văn hoá.
      Ngay sau khi lên ngôi Lý Thái Tổ bắt tay ngay vào việc xây dựng việc phát triễn văn hoá.
      Để chấm dứt tình trạng phân hoá do các luồng tôn giáo đến với đất nước trong thời ký Hán thuộc, Sư Vạn hạnh đề xướng chủ thuyết Tam Giáo Đồng Nguyên để tổng hợp và tạo một môi trường tinh thần cần thiết cho các xu hướng triết học và tôn giáo sinh hoạt hoà hài trong dân tộc. Vì chủ trương quyền lợi dân tộc đứng lên trên quyền lợi tôn giáo nên Phật Giáo đã không trở trở thành quốc giáo trong triều đại Lý Trần.
      Nhờ quan điểm tổng hợp đó mà đất nước đã đi đếùn chổ chấm dứt được thời đại độc lập nhưng vong thân.
      Thập nhị sứ quân hay quốc cộng phân tranh là hậu quả của giai đọan chính trị độc lập nhưng vẫn còn mang nhiều di tật chia rẽ của ngoại bang để lại. Di tật phân hoá, thiếu đoàn kết, quên cội nguồn dân tộc, đánh mất bản vị nhân dân. Vì thế nên nôi lực dân tộc chưa được phục hưng trọn vẹn.
      Những người đi làm lịch sử ngày hôm nay không những phải lo xây dựng lại bản sắc văn hoá dân tộc, xây dựng lại đạo đức lãnh đạo, xây dựng lại cương thường cho thời đại mới nhưng còn phải đi tìm tổng hợp đề cho những luồng tư tưởng đang chồng chéo trên đất nước.
      Do đó, quan điểm tổng hợp những trào lưu tư tuởng của thời đại chúng ta phải được tra xét lại.
      Tư tưởng dân tộc của Phan Bội Châu, Lý Đông A, Trương Tử Anh, Huỳnh Phú Sổ cùng với tư tưởng tự do dân chủ của Nguyễn An Ninh, Nguyễn Ngọc Huy, Nguyễn Văn Bồng, với những đóng góp của các học giả như Lê Văn Siêu, Đào Duy Anh, Kim Định, hay những nổ lực của các nhà làm văn hoá hải ngoại cũng như ở trong nước hiện nay, và quan điểm phản tỉnh của những người cưụ đảng viên Cộng Sản phải được đem ra nghiên cứu, phê bình.





    Kết Luận I

    Hãy tạm bỏ qua những tranh luận về giá trị của cuộc chiến chống Pháp. Đứng về phưong diện tình cảm dân tộc thuần túy, có lẽ những chiến sĩ Việt nam ở hào lũy Điện Biên có đưọc cái lãng mạn tuyệt vời khi quân Pháp đưa tay đầu hàng, y như cái lãng mạn của thủy quân Đại Việt khi phá tan quân Nam Hán trên Bạch Đằøng Giang. Đó là cái tình cảm yêu nước tinh truyền đứng lên trên mọi ý thức hệ.
    Nhưng cái lãng mạn đó chấm dứt ngay khi Cộng Sản bắt đầu xây dựng chế độ cai trị. Có một cái gì đó làm cho cái lãng mạn của thế hệ 1945 hụt hẫng. Mất tự do, nghèo đói. Khi bớt nghèo đói thì tham nhũng thối nát.
    Có lẽ những ngươì Côïng sản có lương tri, từ trong đáy lòng, có lúc họ cũng phải tự hỏi, tại sao ngọn cờ độc lập dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản Việt nam lại đưa đất nước vào một thời đại nghèo đói và tụ hậu với các kế hoạch hợp tác xã, đánh tư sản, đánh điền chủ , đánh trí thúc, theo kế hoạch kinh tế của Liên Xô và Trung cộng. Rồi cũng ngọn cờ độc lập đó, đảng Cộng Sản lại đổi mới, tạm ngưng áp dụng chính sách kinh tế Cộng Sản, để xây dựng một tầng lớp tư bản đỏ tham ô thối nát nhất trong lịch sử dân tộc và lịch sử của loài ngươì.
    Phải chăng có cái gì không ổn và đầy mâu thuẩn ở đây dưới ngọn cờ độc lập dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN"
    Từ bài học phục hưng dân tộc thời đại Lý Trần, chúng ta có thể kết luận được rằng ngọn cờ độc lập không phải là tất cả như ĐCSVN vẫn tuyên truyền. Lịch sử thời đại hậu Hán thuộc đã chứng minh rằng giành được ngọn cờ độc lập chưa đủ năng lực lịch sử để biện minh cho quyền lực chính trị.
    Chỉ khi ngọn cờ phục hưng được phất lên, và khi một thể chế dân bản được dựng lên, thì đất nước mới chấm dứt giai đoạn độc lập vong thân.



    Kết Luận II

    Còn có 7 năm nữa là chúng ta kỷ niệm một ngàn năm Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long. Gần đây, trong nưóc đã tìm lại được di tích của kinh thành Thăng Long cũ dưới nền nhà quốc hội khi nhà nước định xây dựng nhà quốc hội mới. Cách đây mấy năm hậu duệ của nhà Lý ở Nam Hàn cũng đã trở về lại làng Đình Bảng làm lễ tế tổ tiên. Tôi có cảm tưởng dường như lịch sử đang muốn chuyển mình; lịch sử đang muốn đòi hỏi thế hệ chúng ta phải làm một cuộc phục hoạt văn hoá để chấm dứt một lần cho xong một thời đại vong thân đã kéo dài quá lâu.
    Cách đây hai năm tôi có cơ hội gặp ông Lý Xương Căn trưởng tộc họ Lý ở Hán. Ông là dòng dõi của hoàng tử Lý Long Tường, người đã bỏ nước ra đi khi Trần Thủ Độ chủ mưu soán ngôi nhà Lý từ thế kỷ thứ 13. Điều tôi ngạc nhiên là Việt tính trong ông ta còn rất mạnh và ông ta nói tôi là ông ta là người Việt có quốc tịch Triều Tiên. Ông nói tiếng Việt không sành lắm nhưng tôi rất xúc động khi biết ông ta đăït tên con là Lý Việt Quốc.
    Có cái gì rất mầu nhiệm ở đây tôi không thể diễn tả hết được. Một chi lưu Đại Việt vong quốc gần tám trăm năm đã trở về cố quốc. Như lá rụng về cội. Như châu về Hợp Phố. Như những ngươì Do thái lưu lạc ngàn năm về lại thánh địa Jerusalem. Như có ứng nghiệm một lời tiên tri nào đó.
    Điều tôi biết chắc chắn là qua câu chuyện của dòng họ hoàng tử Lý Long Tường, chúng ta thấy rằng, Việt tính vẫn tồn tại qua không gian và thời gian. Và tôi tin rằng một ngày không xa, tinh thần Việt ấy sẽ được phục hưng trên đất nước chúng ta. Ngày ấy tổ quốc ĐaÏi Việt sẽ hồi sinh. Ngày ấy Thăng Long và Sài Gòn sẽ phải được trả lại cho dân tộc và lịch sử.
    Và tôi tin rằng ngày ấy sẽ không có một đảng phái, một tôn giáo nào, một cá nhân nào chiến thắng, mà chỉ có dân tộc Việt là kẻ chiến thắng.






    LS Nguyễn Xuân Phưóc - Dallas, Texas -Tháng 12, năm 2003
    nguồn: vietbao.com
Hình đại diện
Quy Nam
Bài viết: 824
Ngày tham gia: Thứ năm 21/05/15 18:52

Re: Nguyễn Xuân Phước - Ngàn Cánh Hạc

Bài viết bởi Quy Nam »

  • Nhân Ngày 30-4
    Xem Lại Bài Học Thống nhất Ðất Nước

    _________________________________________
    Nguyễn Xuân Phước - 30-4-2004





    Hình ảnh



    Từ 1802 đến 1975 lịch sử Việt nam chứng kiến hai lần thống nhất sau một thời kỳ phân liệt đẩm máu . Năm 1802 Nguyễn Ánh diệt được nhà Tây Sơn, lên ngôi lấy hiệu là Gia Long và chọn Phú Xuân làm kinh đô. Đến đời Minh Mạng cố đô Thăng Long được đổi thành Hà Nội.

    Năm 1975 Ðảng Cộng Sản Việt Nam chiếm được Sài Gòn, thống nhất hai miền Nam Bắc sau hơn 20 năm chia cắt và chiến tranh. Sài Gòn bị đổi tên “Thành Phố Hồ chí Minh.”

    Hai lần thống nhất cách nhau gần 200 năm. Nhưng quá trình thống nhất và sự chọn lựa con đường phát triển đất nước của hai triều đại có một số điểm tương đồng. Sự sai lầm trong việc chọn lựa con đuờng phát triển đất nước ở cả hai thời đại đã đánh mất cơ hội phục hưng tổ quốc, làm tiêu tán nội lực dân tộc, dẫn đưa đất nước đến giai đoạn suy vong.

    Khi Nguyễn Ánh phát động chiến tranh chống lại nhà Tây Sơn, ngài đã dựa vào hai thế lực ở nước ngoài. Ðó là lực lượng của người Tây Phương và lực lượng người Trung Hoa.

    Đứng đầu lực lượng Tây Phương phò Nguyễn Ánh là đức Giám Mục Bá Ða Lộc. Nguyễn Ánh gặp giám mục Bá Ða Lộc khi ngài bôn tẩu ở Vọng Các, kinh đô của Xiêm La, tức Thái Lan. Từ đó, mối quan hệ của hai nguời trở nên mật thiết. Ðể vận động sự trợ giúp của Pháp quốc, Nguyễn Ánh đã giao hoàng tử Cảnh lúc mới lên bốn cho Giám Mục Bá Ða Lộc. Đồng thời Giám Mục có toàn quyền ký hiệp định với hoàng đế Pháp để giúp cho Nguyễn Ánh đánh nhà Tây Sơn. Sau đó ông trở về Pháp để vận động viện trợ cho Nguyễn Ánh. Ngài đã thay mặt Nguyễn Ánh ký hiệp ước 1787 dùng các đảo Côn Sơn và các đảo ngoài khơi Đà nẳng để đổi lấy viện trợ quân sự. Nhưng việc thi hành hiệp ước 1787 với Pháp thất bại. Sau đó Giám Mục Bá Ða Lộc đã bỏ tiền túi cũng như vận động tài chánh riêng để mua khí giới và đưa sĩ quan Pháp về huấn luyện cho Nguyễn Ánh. Những người Pháp giúp cho Nguyễn Ánh như Sạc Ne (Charner) và Sai Nhô (Chaigneau) đều được tham dự triều chính của vua Gia Long khi ngài lên ngôi.

    Trong những ngườì chịu ảnh hưởng Tây Phương trong triều đình Gia Long, quan trọng nhất là Hoàng tử Cảnh. Như đã nói trên, hoàng tử Cảnh được vua cha Gia Long cho theo đức Giám Mục Bá Ða Lộc từ lúc ông mới 4 tuổi. Ở tuổi thơ ấu nầy, hoàng tử Cảnh rất dễ tiếp thu văn hoá và ngôn ngữ tây phương. Có lẽ hoàng tử Cảnh là vị hoàng tử Á Châu đầu tiên được theo tây học ở cuối thế kỷ thứ 18. Tuy lịch sử không nói nhiều đến cuộc đời của Hoàng tử Cảnh, ngày nay chúng ta có thể suy luận được rằng Hoàng tử Cảnh là người tiếp cận văn hoá tây phương rất sớm, thông thạo Pháp ngữ và có quan hệ rất tốt với tây phương. Nói thế để xác định rằng sở học tây phương của hoàng tử Cảnh đi trước cả Nguyễn Trường Tộ mấy chục năm. Và có lẽ cuộc cách mạng kỷ nghệ tại Việt Nam đã có thể đựơc triển khai ngay thời đại hậu Gia Long nếu hoàng tử Cảnh không bị mất sớm.

    Cùng lúc vơí những ngưòi Pháp đến Việt nam giúp Nguyễn Ánh, một số ngưòi Minh Hưong đã gia nhập lực lượng của Nguyẽn Ánh để chống với Tây Sơn. Ngưòi Minh Hương là những ngưòi Trung Hoa phục vụ cho nhà Minh xin tỵ nạn chính trị tại Đại Việt khi nhà Thanh diệt nhà Minh. Sau hơn 100 năm sống ở Đại Việt, những ngưòi Hoa kiều nầy trở thành một bộ phận của dân tộc nhưng họ vẫn có những mối quan hệ chặt chẽ với mẫu quốc Trung Hoa. Do đó, những ngưòi Minh Hương nầy trở thành lực lượng có xu huớng thân Trung Hoa trong triều đình Gia Long. Ðứng đầu lực lượng nầy là Trịnh Hoài Ðức, Lê Quang Ðịnh, và Ngô Nhân Tịnh. Cả ba ông đều gốc người Minh Hương và là học trò xuất sắc của Võ trưòng Toản, một bậc thâm nho cũng gốc người Minh Hương, có nhiều uy tín tại Gia Ðịnh. Cả ba người đều tham gia hoạt động phò Nguyễn Ánh từ năm 1788.

    Khi Gia Long lên ngôi, Trịnh Hoài Ðức làm đến chức thượng thư bộ lại kiêm bộ hình và phó tổng tài Quốc Sử Quán. Lê Quang Ðịnh được thăng Binh Bộ thượng thư, tương đương với bộ trưởng quốc phòng ngày nay. Ngô Nhơn Tịnh sau được thăng Công Bộ thượng thư. Cả ba ông đều dóng những vai trò quan trọng trong mối quan hệ ngoại giao với Trung Hoa.

    Nhưng vai trò quan trọng nhất của Trịnh hoài Ðức là được vua Gia Long ủy thác để dạy dỗ cho hoàng tử Ðảm. Hoàng tử Ðảm sau lên ngôi lấy hiệu là Minh Mạng.

    Hai xu hướng thân tây phương và thân Trung hoa trong triều Gia Long xung đột gay gắt về vấn đề kế vị hoàng tử Cảnh sau khi hoàng tử qua đời. Khi Trịnh Hoài Đức thuyết phục được Gia Long phế dòng trưởng lập dòng thứ, vua Gia Long đã chọn Minh Mạng làm người kế vị. Khi Minh Mạng lên ngôi, dưói ảnh hưởng của Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, và Ngô Nhân Tịnh, Việt nam đã nghiêng hẳn theo mô hình Nho giáo của Thanh triều (Thanh Nho) để phát triển đất nước.

    Sau khi lên ngôi, để giữ vững ngai vàng, Minh Mạng (1820-1840) triệt hạ dòng dõi của hoàng tử Cảnh bằng cách xử tử vợ và ngưòi con trưởng của hoàng tử Cảnh, và giáng ngưòi con thứ làm thưòng dân. Về phương diện ngoại giao, ông cho giảm dần quan hệ với tây phương. Những ngườì Pháp làm việc với Gia Long chán nản bỏ về nước.

    Với những người Minh Hương thân Trung hoa cầm nắm vận mạng của triều đình, Minh Mạng đã thi hành một loạt các chính sách ngoại giao đi ngược với đưòng lối của Gia Long. Từ một nền chính trị ngoại giao khai phóng của Gia Long với những quan hệ rộng rãi với các quốc gia trên thế giới, Minh mạng và các vua kế vị (Thiệu Trị (1841-1847), và Tự Đức (1848-1883)) cùng triều đình thân Trung Hoa đã bắt đầu một nền chính trị cục bộ, thiển cận với chính sách bế môn toả cảng, đoạn tuyệt với tây phương, ban hành lệnh cấm đạo.

    Do ảnh hưởng của Thanh Nho, triều đình nhà Nguyễn từ Minh Mạng trở đi chỉ chú trọng đến văn chương thi phú biền ngẫu, đi theo con đường trọng văn và xao lãng vấn đề quân sự và quốc phòng.

    Ðây là lý do, sau khi Gia Long băng hà, sức mạnh quân sự của triều Nguyễn suy giảm hẳn. Khi các tướng lãnh thuộc thế hệ Gia Long qua đời, các tướng lãnh thế hệ kế thừa không đủ tài thao lược để thực hiện chính sách quốc phòng hữu hiệu. Lực lượng quân sự của Trương Minh Giảng không đủ khả năng duy trì guồng máy cai trị ở Nam Vang. Và Trương Minh Giảng đã bị người Miên đánh đuổi về nước dưới triều Thiệu Trị.

    Đến thời kỳ Tự Đức, xu hướng thân Trung Hoa hoàn toàn nắm trọn quyền trong triều đình. Sự kiện nầy được xác định khi triều đình họp nhau bác bỏ bản điều trần canh tân đất nước của Nguyẽn Trường Tộ. Nguyễn Trưòng Tộ (1828-1871) là một nho sĩ theo đạo Thiên Chúa. Ông nổi tiếng thông minh và hay chữ, được người đời gọi là Trạng Tộ. Ông cũng thông thạo nhiều ngôn ngữ tây phương. Ông làm thông ngôn cho các giáo sĩ Thiên Chuá trong việc truyền đạo tại Việt Nam. Sau một thời gian đi chu du kháp thế giới, đặc biệt là nước Pháp và Ý, ông trở về Việt Nam để mấy năm trời đem tâm huyết của một người yêu nước viết nhiều bản điều trần để cải cách và canh tân đất nước dâng lên triều đình Tự Đức. Nhưng trìều đình Tự Đức với đầu óc cổ hủ của Thanh Nho không đủ tầm nhìn để hiểu được những thế lớn đang bùng ra trong thiên hạ thời bấy giờ. Sau hoàng tử Cảnh năm mươi năm, Việt Nam đã mất đi cơ hội phát triển một lần nữa khi triều đình nhà Nguyễn quay mặt trưóc những yêu cầu canh tân của Nguyễn Trường Tộ.

    Điều bất hạnh hơn cho dân tộc là lúc ấy giáo điều Thanh Nho đã bắt đầu rã mục. Triều đình nhà Thanh đang trên đà phá sản. Năm 1839 chiến tranh nha phiến bùng nổ, nhà Thanh phải ký các hiệp ước biên giới nhượng đất cho Anh và Pháp. Với hiệp ước Nam Kinh, Anh chính thức chiếm đóng Hong Kong năm 1842. Và với hiệp ước Hoàng Phố 1844, Pháp chính thức đặt chân lên lãnh địa Trung Hoa. Ở mạn bắc, năm 1850 quân đội của Nga Hoàng tràn xuống Hắc Long Giang chiếm đóng Mãn Châu, quê hương của nhà Thanh. Từ 1854 đến 1860, Hồng Tú Toàn và phong trào Thái Bình Thiên Quốc đã chiếm gần một nửa Trung Hoa. Cuối cùng, cuộc cách mạng Tân Hợi 1911 của phong trào cách mạng Quốc Dân Đảng dưới sự lãnh đạo của Tôn Văn đã lật đổ triều đình phong kiến Mãn Thanh để xây dựng chế độ Cộng Hoà.

    Trong khi đó, triều đình nhà Nguyễn vẫn còn như mơ ngủ. Tiếng súng của hải quân Pháp bắn vào Đà Nẳng năm 1856 vẫn không làm cho triều đình Tự Đức tỉnh giấc mộng Thanh Nho. Sau khi Pháp chiếm Nam Kỳ năm 1860, tức là 20 năm sau khi nhà Thanh bị liệt cường xâu xé và đang dãy chết, triều đình Tự Đức vẫn còn cho ngưòì đi sang Trung Hoa cầu viện. Những tiếng nói đòi cải cách của các sĩ phu yêu nước như Nguyễn Trường Tộ, Bùi Viện, Nguyễn Lộ Trạch trở thành nổi trăn trở kéo dài hàng thế kỷ của nhiều thế hệ. Ý hệ Thanh Nho làm triều đình nhà Nguyễn u mê đến nổi không thấy được một thế giới mới đang ra đời với cuộc cách mạng kỷ nghệ đang đẩy xã hội tây phương lên đỉnh cao của lịch sử phát triển xã hội loài ngườì. Và cuộc cách mạng đó làm thay đổi cục diện thế giới và làm thay đổi lịch sử nước Đại Việt.

    Hậu quả bi thảm của nền chính trị do đầu óc cổ hủ, thiển cận lãnh đạo đưọc thấy rõ ràng khi tàu chiến của Pháp kéo vào hải phận Đại Việt. Khi Pháp tấn công Nam Kỳ thì triều đình hoàn toàn không có đủ năng lực quân sự và chiến lưọc quốc phòng để đối phó. Những võ tướng uy tín trong triều như Nguyễn Tri Phương, Phan Thanh Giản (cũng gốc người Minh Hương) dù thừa khí phách của nho gia nhưng không đủ tài thao lược quân sự để lãnh đạo cuộc chiến tranh chống xâm lược. Khi Pháp chiếm Sài Gòn thì súng ống và đạn dược của quan quân Triều đình có rất nhiều nhưng quân đội ô hợp không có khả năng chống trả quân xâm lăng. Hậu quả tất nhiên là đất nước đã mất vào tay thực dân.

    Với Hoà Ước Nhâm Tuất 1862 và hoà ước Patenotre 1884, công cuộc thống nhất đất nước của Gia Long được coi như cáo chung. Việt Nam bước qua trang sử mới, đó là trang sử nô lệ. Và sau 1000 năm giành được độc lập từ Trung Hoa thời Ngô Quyền Vương, nước Đại Việt lại một lần nữa mất quyền tự chủ.

    Cái nhục mất nước, tụt hậu của dân tộc Đại Việt ở thế kỷ 19 phát xuất từ nhiều yếu tố lịch sử khác nhau. Thế nhưng sự chọn lựa mô hình phát triển đất nước, sự ỷ dốc vào Thanh triều Trung Hoa trên mặt trận ngoại giao và văn hoá thời kỳ hậu Gia Long, chính sách bế môn toả cảng, và sự tin tưỏng mù quáng vào giáo điều Thanh Nho bất chấp các bản điều trần yêu cầu canh tân của các sĩ phu tiến bộ là những yếu tố quyết định đưa đất nước vào giai đoạn nô lệ.









    Ðến năm 1975, tức gần 200 năm sau, Cộng sản thống nhất đất nước. Giống như thời nhà Nguyễn, những người lãnh đạo đảng CSVN đứng trước những chọn lựa chiến lược để canh tân, để đưa đất nước vào giai đoạn phục hưng sau một thời kỳ nô lệ thực dân và thời kỳ chiến tranh hậu Pháp thuộc.

    Tình hình Việt Nam ở thời điểm tháng 4 năm 1975 hết sức thuận lợi cho việc phát triển đất nước.

    Xã hội miền Nam sau hơn 20 năm xây dựng, mặc dù bị chiến tranh, đã đạt được những thành quả đáng kể. Về phương diện kinh tế miền Nam đã có những cơ sở kỹ nghệ hạ tầng cao cấp đủ khả năng giúp nền kinh tế hậu chiến cất cánh. Về phương diện thương mại, Sài Gòn đã là trung tâm điểm của kinh tế Đông Nam Á. Về phương diện nông nghiệp, sức sản xuất nông nghiệp của miền Nam đủ để nuôi cho cả nước.

    Thêm và đó, nền giáo dục miền Nam với những cơ sở giáo dục hiện đại đã đào tạo được nhiều chuyên gia kinh tế, khoa học, kỷ thuật thượng thặng. Khoa học điện toán đã bắt đầu đưọc đưa vào trong công việc quản lý hành chánh và giáo dục. Đó là cơ sở khoa học kỷ thuật chuẩn bị đưa đất nưóc vào cuộc cách mạng điện toán và điện tử của thời ký 1980s. Đồng thời quan hệ ngoai giao của miền nam và các nước tây phương và Hoa Kỳ hêt sức tốt đẹp. Đặc biệt, Liên Hiệp Quốc đồng ý để cho hai miền Nam Bắc gia nhập tổ chức quốc tế nầy với tư cách của hai nưóc độc lập.

    Nói chung ở thời điểm 1975 miền Nam đã ở vị thế ngang ngữa với Nam Triều Tiên, Đài Loan và vượt xa Thái Lan và Malaysia.

    Trước viễn ảnh của một đất nước thống nhất và hoà bình, nhiều nhà trí thức yêu nước miền Nam đã bất chấp mối đe doạ chính trị, tiếp tục giấc mơ Nguyễn Trưòng Tộ. Họ từ chối những lời mời di tản ra nước ngoài của Hoa Kỳ, của thân nhân, để ở lại xây dựng đất nước. Có lẽ nhiều người yêu nước trong hàng ngũ Cộng Sản cũng chia xẻ giấc mơ Nguyễn Trưòng Tộ. Nhiều ngưòi đã hy vọng rằng với những bài học thất bại trong việc áp dụng chế độ Cộng Sản ở miền bắc, những ngưòi lãnh đạo ở Hà Nội sẽ thức thời để trở thành những “Minh Trị Thiên Hoàng” của Việt Nam để phát triển và phục hưng dân tộc.

    Điều làm mọi người kinh ngạc và bàng hoàng là sau hoàng tử Cảnh và Nguyễn Trường Tộ gần 200 năm, lịch sử lại tái diễn.

    Từ năm 1976 ĐCSVN bắt đầu áp dụng chính sách Cộng Sản trên toàn quốc. Đất nước bước vào đoạn bế môn toả cảng, cắt đứt mọi liên hệ với các nước tự do dân chủ. Những quan hệ ngoại giao, nếu có, chỉ có trên hình thức.

    Đảng Cộng Sản Việt nam đã biến đất nưóc thành một nhà tù vĩ đại. Hơn 300.000 quân cán chính Việt Nam Cộng Hoà đã bị giam giữ vộ hạn định. Đây là thảm hoạ lịch sử mà cái tàn ác của vua Gia Long khi ngài trả thù nhà Tây Sơn cũng không thể nào so sánh được. Và suốt lịch sử 5000 năm của dân tộc cũng không có một thời đại nào có cuộc trả thù khủng khiếp như thời kỳ Cộng Sản thống nhất đất nước.

    Về phương diện kinh tế, một loạt các chính sách kinh tế rùng rợn và ngược đời đã được thực hiện: hợp tác hoá nông nghiệp, cải tạo công thương nghiệp, “đánh tư sản”, đổi tiền, chính sách tem phiếu, hộ khẩu, cưỡng đoạt đoạt tài sản của người có tiền của, và kinh khủng nhất là chính sách xoá bỏ quyền tư hữu. Chỉ trong một thời gian ngắn toàn bộ tài sản của nhân dân thuộc vào tay của đảng Cộng Sản Việt Nam. Và cũng trong thời gian đó, kinh tế Việt nam điêu tàn. Trong thời chiến tranh gạo ở miền Nam dù không dư thừa nhưng đủ nuôi cho cả nước. Dưới chính sách kinh tế hợp tác xã của Cộng Sản, gạo do hai miền nam bắc sản xuất trong thời bình không đủ cung cấp cho toàn dân. Chỉ sau vài năm dưới chế độ cộng sản toàn dân phảI ăn khoai sắn và bo bo. Trong khi kinh tế các nước trong vùng đi vào cuộc cách mạng địện toán và cất cánh nhanh chóng thì người dân Việt Nam phải sắp hàng cả ngày để mua gạo, mua thịt, và các loại nhu yếu phẩm. Đất nước ở bến bờ của nạn đói lớn nhất từ năm 1945 với hàng trăm ngàn nông dân bỏ ruộng vưòn lên tỉnh kiếm ăn. Nông dân Thái Bình Xuân Lộc, Tây nguyên thay nhau nổi dậy.

    Những chuyên gia kinh tế, tài chánh, kỷ thuật yêu nước quyết định ở lại hợp tác với chính quyền đều vở mộng. Lòng yêu nước chân thành và đầy hy vọng của họ mong được đóng góp phát triển đất nước thời kỳ hậu chiến được trả giá bằng tù đày và khổ sai lao động. Đến năm 1990 kinh tế xã hội chủ nghĩa do đảng Cộng Sản Việt Nam xây dựng 15 năm trên toàn đất nước hoàn toàn phá sản. Và cũng đến thới điểm đó, hàng triệu ngưòi đã bỏ nước ra đi.

    Về phương diện văn hoá, ĐCSVN triệt để xoá nền văn hoá dân tộc để thay vào đó là “văn hoá Mác Lê”. Dưới sự lãnh đạo của tập đoàn “những ngưòi vượn do lao động thành ngừơi” tại bắc bộ phủ, triết học “mạnh được yếu thua” của Mác Lê đã được thay thế truyền thống triết học nhân bản của dân tộc. Về phương diện tâm linh, đảng CS cố tâm tiêu diệt tôn giáo. Từ năm 1975 CS đã phát động chiến dịch “chống thằng trời” để khắc phục thiên tai lũ lụt. Với tâm thức duy vật vô thần, đảng CSVN đã chối bỏ mọi truyền thống văn hoá trong việc trị nước. Đứng về phương diện tâm linh dân tộc, ông Hồ chí Minh và những ngưòi kế vị của ông là những ngưòi ngườì lãnh đạo đã phủ nhận giá trị cổ truyền. Đền chùa nhà thờ tại những vùng quê đã được đảng Cộng Sản Việt Nam trưng dụng để làm đồn công an, kho lương thực, nhà hàng tập thể. Và chế độ Cộng Sản là chế độ duy nhất trong lịch sử đã không làm lễ ra mắt Trời Đất và tổ tiên khi nắm chính quyền.

    Về phương diện quân sự, đến năm 1990 sức mạnh quân sự của Việt Nam suy giảm rõ rệt. ĐCSVN không còn đủ khả năng chiếm đóng Campuchia. Như Trương Minh Giảng cách đó hơn 150 năm, lực lượng chiếm đóng Campuchia của ĐCSVN phải rút về nước. Đến năm 1999 Bắc Kinh không một phát súng đã ép ĐCSVN phải ký hiệp ước biên giới trên đất liền và hiệp ước phân định vịnh bắc bộ để nhượng lãnh thổ và lãnh hải cho Trung quốc.

    Cũng như sự phá sản của Thanh Nho cách đây hơn 150 năm, phong trào Cộng Sản thế giới đã bắt đầu tan rã từ những năm 1960 khi mâu thuẩn của hai siêu cường Nga Hoa bùng nổ trở thành những trận chiến biên giới đẩm máu. Những ngưòi Cộng Sản Việt Nam lúc ngã theo Tàu, lúc ngã theo Nga. Mỗi lần có sự xoay chiều chính trị là xảy ra những đợt thanh trừng rùng rợn trong nội bộ đảng. Sau năm 1975, ĐCSVN đã ngã hẳn theo Liên Xô và ra mặt chống đối bọn “bành trướng Bắc Kinh”. Sự chọn lựa Liên Xô đã phải trả giá bằng những trận chiến biên giới Việt Trung năm 1979 với hàng trăm ngàn nhân mạng thưong vong.

    Đến năm 1990 các chế độ CS ở Liên Xô và Đông Âu đồng loạt sụp đổ. Liên Xô , thành đồng cách mạng vô sản thế giới và tổ quốc thứ hai của những ngưòi Cộng Sản Việt Nam, đã lạnh lùng chia tay với chủ nghĩa Mác Lê không một lời từ giả, bỏ Đảng Cộng Sản Việt Nam chơ vơ như trẻ con lạc chợ. Thay vì noi theo gương Liên Xô tháo gở cơ chế Cộng Sản để xây dựng một đất nưóc tự do dân chủ, những ngưòi Cộng Sản lại xoay chiều chính trị. Trong giờ phút thập tử nhất sinh của chế độ họ đã phải cầu hoà với Trung Quốc. Và để trả giá cho sự dại dột theo Liên Xô trưóc đây họ đã không ngần ngại ký ngay mật ước nhượng đất và nhuợng biển cho Bắc Kinh. Đồng thời ĐCSVN đã nhanh chóng đổi mới kinh tế theo mô hình Đặng Tiểu bình. Những tiếng nói muốn thay đổi cơ chế chính trị theo gương Liên Xô như của ủy viên bộ chính trị Trần Xuân Bách, Nguyễn Cơ Thạch đã bị thanh trừng không khoan nhượng.

    Thế nhưng điều nghịch lý là thực chất của đổi mới là chấp nhận con đường phát triển của Việt Nam Cộng Hoà trước năm 1975. Đó là con đường kinh tế thị trường với sự mở rộng hợp tác thị trường Tây Phương và Hoa Kỳ. Đó là mô hình kinh tế tư bản. Và mô hình kinh tế tư bản với bản chất mâu thuẩn với lý thuyết kinh tế Mác Lê là nguyên nhân trực tiếp và sâu xa để đảng Cộng Sản phát động cuộc chiến 20 năm và cuộc chiến đó đã chấm dứt ngày 30-4- năm 1975.

    Ngày nay, kinh tế Việt Nam đã có những tiến bộ khả quan. Nhưng đó là những tiến bộ tương đối so với với thời kỳ chuyên chính vô sản đói rách và đen tối. Nếu nhìn trên bình diện vĩ mô thì thực chất của “chính sách đổi mới” là quyết định không áp dụng chủ nghĩa Mác Lê vào một phần đời sống kinh tế quốc dân. Sự hồi sinh của “khu vực kinh tế phi Mác Lê” trên sinh hoạt kinh tế quốc gia giúp cho nhân dân được tự do làm ăn. Nhờ thế, ngày nay bộ mặt kinh tế của Việt nam đã thay đổi. Nhưng khi so sánh với những tiến bộ của Nam Triều Tiên, Đài Loan, Singapore, Nhật Bản, thì Viêt Nam vẫn là nước chậm tiến nhất trong vùng. Lực phản động của chủ nghĩa Mác Lê hơn 60 năm qua là sức tiêu cực làm cho khu vực kinh tế phi Mác Lê, (hay khu vực kinh tế thị trường), không thể phát huy trọn vẹn tiềm năng của nó. Thêm vào đó, nền kinh tế Việt nam đưọc hồi sinh nhờ vào hơn 2 tỷ đô la hàng năm của người Việt tỵ nạn Cộng Sản chuyển về cho thân nhân, và giúp cho các đảng viên Cộng Sản rửa tiền ở hải ngoại.

    Về phương diện văn hoá, tuy nền văn hoá Mác Lê đã phá sản nhưng chính sách văn hoá trong suốt sáu mươi năm qua đã làm cho văn hoá dân tộc bị tật nguyền và suy yếu. Sự sụp đổ của chủ nghĩa Mác Lê trên thế giới kéo sự sụp đổ của nền văn hoá duy vật đã tạo khoảng trống trong sinh hoạt văn hoá. Từ khoảng chân không ấy, những di sản văn hoá trước năm 1975 đã xuất hiện trở lại. Những tác phẩm thơ văn nhạc thời tiền chiến và miền Nam trước 1975 đã trở thành những món ăn tinh thần của người dân Việt Nam. Âm nhạc chói tai XHCN, văn chương đấu tranh giai cấp đã phải lùi bước trước sự phục sinh truyền thống sáng tác phong phú, đa dạng và nhân bản để đáp ứng với nhu cầu tinh thần của người dân ngày nay.

    Tuy nhiên việc phục hồi di sản văn hoá miền Nam chưa đủ năng lực để phục hưng dân tộc. Giáo điều Mác Lê vẫn còn hằn sâu trong tư duy của ngưòi Cộng Sản, và não trạng nô lệ vào chủ thuyết ngoại bang vẫn đè nặng trên đời sống văn hoá Việt Nam.

    Sự phá sản của chủ nghĩa Mác Lê trên thế giới, sự quay về với mô hình phát triển của Việt Nam Cộng Hoà, sự phục sinh của văn hoá miền Nam trên đất nưóc hiện nay đòi hỏi chúng ta phải đánh giá lại toàn bộ ý nghĩa cuộc chiến tranh “Chống Mỹ Cứu Nước” của ĐCSVN.

    Một số vấn đề được đặt ra ở đây. Tại sao dân tôc Việt Nam phải mất đi 3 triêu nhân mạng, với 10 triệu thương vong và phải bỏ ra 20 năm vô cùng quí báu để hai miền Nam Bắc đánh nhau để giải quyết vấn đề chia cắt đất nước ?. Liệu có một giải pháp không đổ máu để giải quyết vấn đề nầy hay không ?. Tại sao khi thống nhất đất nước những người CSVN phải thực hiện nền kinh tế Mác Lê bằng cách xoá đi xã hội miền Nam thịnh vượng, để rồi 30 năm sau, sau khi thiết lập nền kinh tế đã xua đuổi người dân ra biển, chiếm đoạt tài sản nhân dân và làm cho đất nước nghèo đói, họ phải trở lại đi theo mô hình phát triển của xã hội đó ?.

    Bài học phân chia đất nước của Nam Bắc Triều Tiên, của Trung Quốc và Đài Loan, bài học thống nhất của Đông Đức và Tây Đức, của Trung Quốc và Hongkong, cho thấy chiến tranh không phải là giải pháp duy nhất để giải quyết vấn để thống nhất.

    Ở đây chúng ta không thể không xem lại bài học của Trung Quốc đối với Đài Loan và Hong Kong. Trong khi Trung quốc hô hào chiến tranh giải phóng “chống đế quốc Mỹ xâm lược”, tích cực viện trợ bom đạn mìn cho Việt Nam, các nưóc Nam Mỹ, và các nước Phi Châu để các nước nầy phát động chiến tranh “giải phóng” thì chính họ đã âm thầm chọn lựa con đường chính trị, không chiến tranh, không đổ máu để giải quyết vấn đề Đài Loan va Hong Kong. Họ đã dùng xương máu của dân Việt Nam và của các nước nhược tiểu làm con bài để thương lượng với Hoa Kỳ và tây phưong trên mặt trận chính trị. Trong khi đó, những người Cộng Sản Việt Nam đi nghe những lời “xúi trẻ ăn cứt gà” của đàn anh Trung Quốc, đem dân tộc Việt nam vào biển máu của chiến tranh nồi da xáo thịt, biến dân tộc Việt nam thành những con thiêu thân cho chủ nghĩa Mác Lê.

    Thay vì chọn con đường thẳng tiến đến nền kinh tế thị trường để phát triển như Nam Hàn, Ðài Loan, Hong Kong Singapore, và miền Nam Việt nam trước năm 1975, ĐCSVN đã chọn con đường Mác xít Leninit, Stalinít, Maoít nghèo đói, đầy máu xương và đầy nước mắt. Con đường Mác Lê nầy cũng ngoằn nghèo lắm gian truân. Lúc theo Tàu, lúc theo Nga, lúc thì theo Mỹ. Điều nầy cho thấy ý thức hệ Mác Lê không thể giúp cho ngưòi Cộng Sản Việt Nam có cái nhìn chính xác về con ngưòi, đất nước và thế giới để đưa đất nước lên ngang tầm thời đại.

    Hãy nhìn lại những quốc gia Á Châu trước đây như Malaysia, Thái Lan, Đài Loan, và Nam Triều Tiên. Trong thời gian chiến tranh, các quốc gia nầy còn nghèo nàn lạc hậu hơn miền nam Việt Nam trước năm 1975. Những quốc gia nầy đã chọn Hoa Kỳ và các nước Tây Phương làm bạn. Ngày nay, Malaysia Nam Triều Tiên, Đài Loan trở thành những con rồng kinh tế bay cao với chủ quyền lãnh thổ không sức mẻ. Ngày nay họ là những chủ nhân ông của những công ty tư bản to lớn đang đầu tư vào Việt Nam để xử dụng lực lượng nhân công Việt Nam nghèo đói và rẽ mạt do chế độ XHCN sản xuất. Hàng năm, hàng trăm ngàn thanh niên thiếu nữ Việt Nam “được” ĐCSVN xuất khẩu để làm nô lệ tình dục và lao nô cho các quốc gia trong thời gian chiến tranh Việt nam bị người Cộng Sản gọi là “chó săn của đế quốc Mỹ xâm lược.” Trong khi đó con rồng Việt Nam vẫn quằn quại không vươn lên nỗi vì cái đầu rồng bị nhồi nhét đống rác Mác Lê quá nặng nề.

    Nổ lực hiện nay của ĐCSVN gia tăng hợp tác kinh tế và quân sự với Hoa Kỳ để tồn tại cũng như áp dụng chính sách của Việt Nam Cộng Hoà vào việc phát triển kinh tế đã chứng minh được rằng “Chiến Tranh Chống Đế Quốc Mỹ Xâm Lược” là công việc không cần thiết và gây quá nhiều thiệt hại cho đất nước.

    Không cần thiết vì sự hiện diện của Hoa Kỳ trong thời chiến tranh tại Thái Lan, Malaysia, và Nam Triều Tiên và sự độc lập lãnh thổ của các nước nầy hiện nay minh chứng rằng Hoa Kỳ không có nhu cầu xâm lăng Việt Nam hay các nước trên. Thật vậy, Hoa Kỳ và Tây Phương cũng như các nước phát triển ở Á Châu không còn là mối đe doạ lãnh thổ cho Việt Nam. Điều dễ hiểu là sau thế chiến thứ hai, sau khi chế độ thực dân cáo chung và sự hình thành của Liên hiệp Quốc, đối với các quốc gia văn minh tiến bộ Tây Phương và Hoa Kỳ, ý niệm xâm lược lãnh thổ các nước khác đã lỗi thời.

    Nếu cuộc chiến tranh (1954-1975) vừa qua không có ý nghĩa của một cuộc chiến chống xâm lăng của Mỹ như quan điểm của ĐCSVN, thì cuộc chiến ấy có giá trị như là cuộc chiến ý thức hệ đã giúp cho việc ngăn chận làn sóng Cộng Sản tràn xuống Đông Nam Á, Nam Á và tràn lên Bắc Á, theo quan điểm của miền Nam.

    Thực tế về nền kinh tế nghèo đói và chính trị bạo tàn của Bắc hàn, Liên Xô, Cu ba, Trung Quốc, Khmer Đỏ, và các nước Đông Âu cho thấy Cộng Sản là hiểm hoạ lớn nhất của loài người từ trước đến nay. Cuộc chiến Việt Nam đã làm chậm, nếu không nói là ngăn ngừa được, sự phát triển của hiểm hoạ Cộng Sản vào Thái Lan, Mã Lai, Philippines, Nam Dương và Ấn Độ. Cái bất hạnh của dân tộc Việt Nam là cái may mắn cho các nước trong vùng. Khi dân tộc Việt Nam chiến đấu giết lẫn nhau để làm mũi xung kích của khối xã hội chủ nghĩa và tiền đồn chống Cộng của thế giới tự do, thì Singapore, Mã Lai, Thái Lan, Nam Dương, Nam Triều Tiên, Đài Loan được hoà bình để phát triển kinh tế. Các quốc gia này còn được giàu lên vì chiến tranh Việt Nam. Khi ĐCSVN Việt Nam đẩy dân tộc vào lò thí nghiệm xã hội chủ nghĩa để đất nước tan hoang điêu tàn thì các quốc gia trong vùng đã xây dựng được một xã hội dân sự ổn định và văn minh, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển để bắt kịp một thế giới toàn cầu hoá đang ra đời.

    Cuộc chiến ý thức hệ đó hoàn toàn không những không đem lại một lợi lộc gì cho dân tộc Việt Nam mà đã tiêu phí quá nhiều xương máu và tài nguyên quốc gia. Đặc biệt trong giai đoạn thế giới phát triển với vận tốc nhanh chóng, việc đẩy đất nước vào một chiến tranh vô bổ là phí phạm thời giờ của lịch sử.

    Ngày nay, mối đe doạ xâm lược không đến từ các nước Hoa Kỳ hay Tây Phương. Chỉ có những quốc gia to lớn nhưng chậm tiến lạc hậu như Trung Hoa Cộng Sản mới còn mang giấc mộng bành trướng lãnh thổ. Nguy cơ mất đất mất biển ngày nay chính là truyền thống xâm lược hàng ngàn năm của nòi Hán. Lá thư của thủ tướng Phạm văn Đồng năm 1958 gởi cho thủ tưóng Chu Ân Lai mau mắn công nhận chủ quyền lãnh hải của Trung Hoa trong phần biển Việt Nam, cũng như cuộc tấn công xâm lược Hoàng Sa và Trường Sa của hải quân Trung Quốc năm 1974, chiến tranh biên giới 1979, và gần đây nhất, hiệp ước biên giới trên đất liền năm 1999 và hiệp ước phân định Vịnh Bắc Bộ năm 2000, là bằng chứng hùng hồn về nguy cơ nầy.

    Thế nhưng, trong suốt thời kỳ chiến tranh chống quân Trung Quốc xâm lăng Hoàng Sa và Trưòng Sa của nhân dân Việt Nam (1974-1975), thay vì đứng về phía dân tộc để bảo vệ tổ quốc, ĐCSVN đã tiếp tay với ngoại địch bằng cách đứng hẳn về phía chiến tuyến của quân xâm lược.

    Những sự kiện lịch sử nầy xác định một lần nữa ĐSCVN không hề chiến đấu bởi dân tộc và vì dân tộc. Họ chiến đấu bởi đảng Cộng Sản Quốc Tế và vì đảng Cộng Sản Quốc Tế, bởi ý thừc hệ ngoại bang và vì ý thức hệ ngoại bang. Khi quyền lợi của dân tộc và của đảng Cộng Sản Quốc Tế trùng hợp, như thời kỳ đấu tranh chống Pháp, họ giành lấy ngọn cờ dân tộc để tiêu diệt những người yêu nước không đồng chính kiến. Nhưng khi quyền lợi của dân tộc và của đảng Cộng Sản Quốc Tế mâu thuẩn, như trong trận chiến Hoàng Sa, hay vấn đề tranh chấp biên giói và vịnh bắc bộ gần đây, hay việc áp đặt nền kinh tế Mác Lê lên xã hội Việt Nam, họ nhanh chóng đứng về phía ngoại đảng, bất kể sự khốn cùng và đau khổ của nhân dân, lấy cái bạo tàn của chuyên chính vô sản để đàn áp những tiếng nói phản đối trung thực của những ngưòi yêu nưóc.

    Ở đây chúng ta có thấy đưọc một đặc điểm khác của những người Cộng Sản Việt Nam. Trong suốt lịch sử của đảng, quan điểm đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản làm cho họ hoàn toàn không có khả năng làm hoà với những ngưòi yêu nưóc nhưng khác chính kiến, mặc dù những người đó cùng dòng máu Việt, cùng bọc trăm trứng của cha Rồng mẹ Tiên. Những cuộc đấu tố địa chủ, trí thức, đánh tư sản, ám sát đàn áp đối lập cách tàn nhẫn vô nhân đạo là những chứng cớ rõ ràng về đặc điểm nầy. Thế nhưng họ luôn luôn có khả năng làm hoà với quân ngoại thù. Khi cần thiết, họ có thể chia xẻ giang sơn của tổ tiên với ngoại bang để được bảo hộ về quyền lực.

    Đối với đất nước Việt Nam, hiện trạng tụt hậu về kinh tế, hà khắc về chính trị, suy sụp về văn hoá cùng với những mật ước nhượng đất nhượng biển cho Trung Quốc đã chứng minh rằng, chủ nghĩa Mác Lê, từ ngày thống nhất đến nay, hoàn toàn bất lực giúp Việt Nam xây dựng một thể chế dân chủ để bảo toàn lãnh thổ, làm cho kinh tế Việt Nam cất cánh và làm cho văn hoá dân tộc được phục hưng. Cái chủ nghĩa xa lạ đó không có một chút khả năng giúp Việt Nam thành một quốc gia cường thịnh

    Ngày nay, ở thế kỷ thứ 21, giáo điều Mác Lê lạc hậu tiếp tục bịt tai những người Công Sản trước yêu cầu phục hưng dân tộc của lịch sử. Họ không nghe được những tiếng kêu gọi đòi canh tân của những Nguyễn Trưòng Tộ thời đại. Đó là những tiếng nói của những người đã đáp lại tiếng kêu gọi của hồn sử, hòa nhịp với những thao thức từ Nguyễn Trưòng Tộ đến Phan Bội Châu, Phan chu Trinh, Nguyễn Thái Học, Nguyễn An Ninh, Lý Đông A, Trưong Tử Anh, Huỳnh Phú Sổ. Đó là những rung động và lãng mạn lịch sử nhất quán xuyên suốt qua bao thế hệ để gìn giữ chất nguyên trinh và chính thống của hồn Việt. Đó là tiếng nói của những người Cộng Sản phản tỉnh như Trần Độ, Nguyễn Thanh Giang, Hà Sĩ Phu, Hoàng Minh Chính, Trần Khuê, Trần Dũng Tiến, Vũ Cao Quận; của những người không CS như Nguyễn Đình Huy; Đoàn Viết Hoạt, Nguyễn Đan Quế hay của thế hệ trẻ như Lê Chí Quang, Nguyễn Khắc Toàn, Nguyễn Vũ Bình, Phạm Hồng Sơn và của nhân dân Việt Nam trong và ngoài nước.

    Giấc mơ phục hưng dân tộc và phát triển kinh tế của Nguyễn Trường Tộ ngày xưa, cũng như giấc mơ của bao thế hệ trí tuệ Việt Nam từ đó đến nay vẫn không bao giờ thay đổi. Nhưng khác với Nguyễn Trưòng Tộ ngày xưa bị chết trong quên lãng, để cho đất nưóc rơi vào tay của quân xâm lưọc, những Nguyễn Trưòng Tộ thời đại, sẽ không ngồi yên để tập đoàn “ngưòi vượn do lao động thành ngưòi” tại Ba Đình tiếp tục dẫn đưa đất nước đến chổ tụt hậu và vong thân.

    Ngày nay, chìa khóa để mở ra thời đại phát triển kinh tế, phục hưng văn hoá dân tộc và để bảo toàn lãnh thổ nằm trong tính chính thống chính trị của nhà cầm quyền.

    Về phương diện chính trị, ý niệm chuyên chính vô sản và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác Lê là một trở ngại cho việc thiết lập một nền dân chủ chính thống. Lấy khả năng “cướp chính quyền” để xác định tính chính thống lãnh đạo đất nước là quan điểm chính trị của phường thảo khấu dưới thời kỳ phong kiến và của băng đảng mafia thời kỳ hiện đại. Quan điểm chính trị nầy hoàn toàn đối nghịch với ý niệm dân chủ. Trong thời đại dân chủ, một chính quyên có năng lực pháp lý phải được xây dựng trên một hiến pháp hợp pháp và dân chủ. Hiến pháp dân chủ đó phải xác định được tính độc lập của ba ngành hành pháp, lập pháp và toà án. Và hiến pháp đó phải được toàn dân chấp thuận qua một cuộc trưng cầu dân ý độc lập và vô tư.

    Lá phiếu tự do độc lập và trong sáng của ngừời dân xác định tính chất chính thống, tính hợp pháp của nhà cầm quyền. Nó là biểu tượng của quyền làm chủ của nhân dân. Vì thế, một chính quyền bởi dân do dân và vì dân không bao giờ phải sợ hãi trước lá phiếu. Ngược lại, một chính quyền luôn luôn nơm nớp lo sợ lá phiếu tự do của ngưòi dân, không được toàn dân bầu ra trong một cuộc bầu cử tự do đa nguyên, là chính quyền không có năng lực đạo đức chính trị và tính chính thống để lãnh đạo đất nước.

    Do đó, tái lập tính chính thống, tính hợp pháp của nhà cầm quyền là điều kiện tiên quyết và là nhu cầu cấp bách để xây dựng một nền chính trị dân bản bền vững. Và nền chính trị dân bản bền vững là nền tảng để mở ra thời đại phục hưng dân tộc, làm bệ phóng cho giai đoạn cất cánh về kinh tế toàn dân và để bảo đảm sự toàn vẹn lãnh thổ.

    Nhìn lại giai đoạn lịch sử thống nhất đất nước ở thời kỳ hậu Gia Long để thấy rằng cái vòng oan nghiệt của quyền lực tuyệt đối đi đôi với tầm nhìn thiển cận của những đầu óc ngu muội luôn luôn đưa đất nước vào thời kỳ suy vong. Từ hai trăm năm trước đến nay cái vòng kim cô nghiệt ngã đó vẫn tròng lên giòng sinh mệnh của dân tộc.

    Ngày nay, chủ nghĩa Mác Lê vẫn là trở ngại lớn nhất trong việc phục hưng dân tộc. Để tháo gở chướng ngại vật to lớn nầy trên đưòng sống của dân tộc, thế hệ mới của Việt Nam trong ngoài nước phải vận dụng trí tuệ để có một tầm nhìn rộng lớn, khai phóng, nhân bản và chính xác về con người, dân tộc và nhân loại. Do đó, khởi điểm của vận động phục hưng dân tộc là thực hiện một cuộc vận động và tập hợp thời đại nhằm xây dựng một xã hội dân bản và nhân bản cho tất cả mọi người. Đó yêu cầu cấp bách của lịch sử.

    Mỗi lần đến ngày 30 tháng Tư là một cơ hội để chúng ta suy nghĩ về những thất bại lịch sử và để mơ đến “Giấc Mơ Việt Nam”. Để từ những nơi xa xôi trên trái đất đến những trung tâm vận động phục hưng dân tộc ngay tại trong nước, mọi người Việt đều phải cùng nhau chia xẻ một viễn tượng về sinh mệnh dân tộc và hướng đi tới của đất nước. Từ đống tro tàn của lịch sử, những con phượng hoàng sẽ cùng nhau cất cánh. Từ đó, mọi người Việt sẽ cùng nhau tái tạo một nước Đại Việt mới, một tổ quốc Đai Việt của thời đại 2000 với không gian Việt trãi dài khắp nơi trên thế giới, một tổ quốc của mọi người mang dòng máu và văn hoá Việt không phân biệt chính kiến, tôn giáo hay bất cứ một quá khứ chính trị nào.






    LS Nguyễn Xuân Phước
    Dallas, Texas 30-4-2004

    ________________________________________________________________________
    Tài Liệu Tham Khảo:
    • – Nguyễn Huyền Anh, “Việt Nam Danh Nhân Từ Điển,” Nhà Xuất Bản Khai Trí, Sài Gòn 1967
      – Phạm Văn Sơn, “Việt sử Toàn Thư.” Ấn Bản Điện Tử, phatuvietnam.org
      – Trần Trọng Kim, “Việt nam Sử Lược,” Nhà Xuất Bản Đại Nam, Los Angeles USA
      – Lương Ninh, “Lịch Sử Việt nam Giản Yếu,” Nhà Xuất Bản Chính TRị Quốc Gia. Hà Nội 2000
      – Phạm Việt Châu, “Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh,” Nhà Xuất Bản North Falls House, Minneapolis, MN USA 1997
      – Nguyễn Phan Quang, “Cuộc Khởi Binh Của Lê Văn Khôi,” Nhà Xuất Bản Thành Phố Hồ Chí Minh, Sài Gòn, Việt Nam 1991
      – Nguyên Hương Nguyễn Cúc, “Sài Gòn 300 Năm Cũ,” Tiếng Sông Hương Xuất Bản, Dallas, Texas USA 1999
      – Vũ Hữu San, “Trận Chiến Hoàng Sa,” http://vuhuusan.com
      – Lê Chí Quang, “Hãy Cảnh Giác Với Bắc Triều,” ấn bản điện tử
      – Trần Khuê, “Thư Gởi Tổng Bí Thư Giang Trạch Dân,” ấn bản điện tử
      – Nguyễn Minh Cần, “Công Lý Đòi Hỏi”, Nhà Xuất Bản Văn Nghệ,” California USA 1997
      – Đoàn Viết Hoạt, “Việt Nam Trong Tầm Nhìn Thế Kỷ 21”, Thế Kỷ 21, Số Tết 2003
      – Bùi Tín, “Mây Mù Thế Kỷ,” Đa Nguyên Xuất Bản 1998
      – Hà Sĩ Phu, “Chia Tay Ý thức Hệ,” ấn bản điện tử
      – Hà Sĩ Phu, “Dắt Tay Nhau Đi Dưới bảng Chỉ Đưòng Của Trí Tuệ,” ấn bản điện tử
      – Trần Độ, “Một Chiến Lược Dân Chủ Cho Việt Nam,” ấn bản điện tử.
      – Lý Đông A, “Huyết Hoa,” Ấn Bản Điện Tử. http://chinhkhiviet.com
      – Lý Đông A, Chu Tri Lục, ấn bản điện tử. http://chinhkhiviet.com
      – Nguyễn Chí Thiệp, “Trại Kiên Giam,”
      – Hoàng Thanh Đạm, “Nguyễn Trường Tộ Thời Thế và Tư Duy Cách Tân,” Nhà Xuất Bản Văn Nghệ Thành Phố Hồ Chí Minh, Sài Gòn 2001
      – Cao huy Thuần, “Đạo Thiên Chúa và Chủ Nghĩa Thực Dân Tại Việt Nam,” Luận Án Tiến Sĩ Quốc gia Khoa Học Chính Trị Đại Học Paris. Hương Quê xuất bản, Los Angeles, USA 1988
      – Võ Nhơn Trí, Việt Nam Cần Đổi Mới Thực Sự, Đông Á Xuất Bản, Vancouver, Canada, 2003.
      – John O’Sullivan, “Vietnam on the Mind, Understanding then and now,” National Review Online September 9, 2003 http://www.nationalreview.com/jos/jos090903.asp





    nguồn: namvietnetwork.wordpress.com
Hình đại diện
thiên thanh
Bài viết: 1352
Ngày tham gia: Thứ năm 14/05/15 11:49
Nơi ở: Phố Cổ

Re: Nguyễn Xuân Phước - Ngàn Cánh Hạc

Bài viết bởi thiên thanh »

          
Hình ảnh


Nguyễn Xuân Phước, cánh hạc vừa bay


Mặt hồ Irving buổi trưa im vắng chợt nghe như có tiếng chim bay. Vâng, cánh hạc Nguyễn Xuân Phước vừa từ giã chúng ta hôm nay 22 tháng 6, 2015.

Nguyễn Xuân Phước, người cha thân yêu của Rebecca Bội Anh và Matthew Mạnh Tường Nguyễn, luật sư, nhà tranh đấu cho nhân quyền và người bạn thân thiết của rất nhiều người Việt trong nước cũng như đang sống khắp năm châu vừa qua đời sau hơn một năm chiến đấu với căn bệnh ung thư máu ngặt nghèo.

Nguyễn Xuân Phước sinh ngày 26 tháng 1, 1954 tại Khánh Bình, một làng nhỏ rất đẹp nằm bên bờ sông Thu Bồn, thuộc quận Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam, Việt Nam.

Anh sinh ra và lớn lên trong gia đình kính Chúa và có niềm tin sâu xa vào ân điển cứu độ của Chúa Cứu Thế. Thân phụ anh, Cố Mục sư Nguyễn Xuân Ba, là một trong những Mục sư đầu tiên của đạo Tin Lành tại Việt Nam. Các anh của anh cũng đều là Mục sư, gồm có Mục Sư Nguyễn Xuân Hồng, cố Mục sư Nguyễn Xuân Hà, Mục sư Nguyễn Xuân Đức, Mục sư Nguyễn Xuân Bình và Mục sư Nguyễn Xuân Sơn.

Nguyễn Xuân Phước tốt nghiệp Trung Học Petrus Ký niên khóa 1972 và du học tại Hoa Kỳ trong cùng năm. Anh được UC Berkeley nhận và tốt nghiệp Cử nhân Kinh Tế tại đại học danh tiếng này vào năm 1978. Sau một thời gian làm việc tại Đông Nam Á, anh trở lại Mỹ để học Luật tại Rutgers University và tốt nghiệp Tiến Sĩ Luật Khoa (Doctor of Jurisprudence) năm 1996. Đầu năm 1997, anh mở văn phòng luật sư tại Dallas.

Ngoài khả năng chuyên môn, Nguyễn Xuân Phước dành thời gian và công sức để đóng góp vào các đề án nhân quyền dân chủ cho Việt Nam. Anh tích cực yểm trợ cho phong trào “kết nghĩa dân chủ” và các “Ủy Ban Yểm Trợ Dân Chủ Quốc Nội” tại hải ngoại. Anh góp phần sáng lập nhiều tờ báo và cố vấn luật pháp cho nhiều đoàn thể tại Dallas. Anh là cây bút thường xuyên về các vấn đề luật pháp cho các báo tại Dallas, giải đáp các thắc mắc về luật pháp cũng như tham gia Diễn Đàn Văn Hóa Lịch Sử trên đài phát thanh.

Trong quan hệ quốc tế, Nguyễn Xuân Phước và các bạn anh đã đi nhiều nơi tại châu Âu như Tiệp Khắc, Ba Lan, Hungary để học hỏi kinh nghiệm phục hưng đất nước sau CS. Tại Á Châu, anh đến Miến Điện, Thái Lan, Nam Hàn, Philippines, Singapore. Tại Nam Hàn, anh đã làm việc với các thành viên của lãnh tụ đối lập Kim Dae-jung, người sau đó trở thành Tổng thống Đại Hàn nhiệm kỳ 1998-2003. Riêng tại Miến Điện, anh đã tìm cách liên lạc các thành phần dân chủ thuộc đảng Liên minh Dân tộc Dân chủ (National League for Democracy) đối lập của bà Aung San Suu kyi khi bà còn bị tù. Sau khi bà Aung San Suu kyi được tự do, năm 2013, Nguyễn Xuân Phước đã trở lại Miến Điện lần nữa trong nỗ lực vận động dân chủ cho Đông Nam Á trong đó có Việt Nam.

Từ 2005 trở về sau, Nguyễn Xuân Phước đã đệ trình hàng loạt danh sách tù nhân lương tâm đang bị CS giam giữ tại Việt Nam lên Ủy Ban Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc.

Trong lãnh vực tin học, mặc dù không phải là chuyên viên điện toán, anh đã tự học các phương pháp xây dựng trang mạng khi kỹ thuật Mạng lưới Toàn cầu hình thành vào cuối thập niên 1990. Nguyễn Xuân Phước cũng là một trong những người đầu tiên mở rộng chiến dịch vận động chữ ký qua phương pháp Internet.

Trong quan điểm chính trị, Nguyễn Xuân Phước có một lập trường Quốc Gia Dân Tộc và Dân Chủ ôn hòa nhưng dứt khoát. Trong tiểu luận xuất sắc viết nhân dịp 30-4 2004, anh khẳng định:

“Đảng Cộng Sản Việt Nam đã biến đất nước thành một nhà tù vĩ đại. Hơn 300.000 quân cán chính Việt Nam Cộng Hoà đã bị giam giữ vô hạn định. Đây là thảm hoạ lịch sử mà cái tàn ác của vua Gia Long khi ngài trả thù nhà Tây Sơn cũng không thể nào so sánh được. Và suốt lịch sử 5000 năm của dân tộc cũng không có một thời đại nào có cuộc trả thù khủng khiếp như thời kỳ Cộng Sản thống nhất đất nước… Cộng Sản là hiểm hoạ lớn nhất của loài người từ trước đến nay” và anh khẳng định chỉ có “tính hợp pháp của nhà cầm quyền là điều kiện tiên quyết và là nhu cầu cấp bách để xây dựng một nền chính trị dân bản bền vững. Và nền chính trị dân bản bền vững là nền tảng để mở ra thời đại phục hưng dân tộc, làm bệ phóng cho giai đoạn cất cánh về kinh tế toàn dân và để bảo đảm sự toàn vẹn lãnh thổ.”

Về tương lai dân tộc, Nguyễn Xuân Phước ôm ấp một “Giấc Mơ Việt Nam”:

“Mỗi lần đến ngày 30 tháng Tư là một cơ hội để chúng ta suy nghĩ về những thất bại lịch sử và để mơ đến “Giấc Mơ Việt Nam”. Để từ những nơi xa xôi trên trái đất đến những trung tâm vận động phục hưng dân tộc ngay tại trong nước, mọi người Việt đều phải cùng nhau chia sẻ một viễn tượng về sinh mệnh dân tộc và hướng đi tới của đất nước. Từ đống tro tàn của lịch sử, những con phượng hoàng sẽ cùng nhau cất cánh. Từ đó, mọi người Việt sẽ cùng nhau tái tạo một nước Đại Việt mới, một tổ quốc Đại Việt của thời đại 2000 với không gian Việt trải dài khắp nơi trên thế giới, một tổ quốc của mọi người mang dòng máu và văn hoá Việt không phân biệt chính kiến, tôn giáo hay bất cứ một quá khứ chính trị nào.”

Nguyễn Xuân Phước yêu nước Việt và yêu lịch sử dân tộc Việt. Anh không những dành nhiều thời gian để học sử, viết về lịch sử Việt Nam mà còn sống với các sự kiện lịch sử. Khoảng đầu năm 2000, xúc động khi được đọc về hành trình tỵ nạn của Hoàng Tử Lý Long Tường, anh đã đến tận Nam Hàn để thăm hỏi ông Lý Xương Căn, trưởng tộc của họ Lý tại Nam Hàn. Buổi gặp gỡ gia đình họ Lý đã củng cố niềm tin trong anh về Việt Tính như anh nhắc lại sau đó:

“Điều tôi biết chắc chắn là qua câu chuyện của dòng họ hoàng tử Lý Long Tường, chúng ta thấy rằng, Việt tính vẫn tồn tại qua không gian và thời gian. Và tôi tin rằng một ngày không xa, tinh thần Việt ấy sẽ được phục hưng trên đất nước chúng ta. Ngày ấy tổ quốc Đại Việt sẽ hồi sinh. Ngày ấy Thăng Long và Sài Gòn sẽ phải được trả lại cho dân tộc và lịch sử. Và tôi tin rằng ngày ấy sẽ không có một đảng phái, một tôn giáo nào, một cá nhân nào chiến thắng, mà chỉ có dân tộc Việt là kẻ chiến thắng”.

Truyền thống văn hóa, các bài học lịch sử và khí tiết của các anh hùng dân tộc như Nguyễn Trãi, Đặng Dung luôn là niềm thôi thúc để anh nghiên cứu và sáng tác. Anh viết không nhiều nhưng những tiểu luận văn hóa, chính trị, lịch sử của anh cho chúng ta thấy niềm tin vào lịch sử dân tộc của anh vô cùng sâu đậm. Dưới đây là 10 tiểu luận tiêu biểu của Nguyễn Xuân Phước đã được phổ biến rộng rãi trên internet:

– Bách Việt trong lòng Đại Việt
– Nhân ngày 30-4 xem lại bài học thống nhất đất nước
– Từ Phan Liêu, Đặng Dung đến Nguyễn Trãi, tâm sự của một thế hệ.
– Bàn về hai chữ văn minh
– Bài học phục hưng dân tộc
– Những nghịch lý lịch sử của thế kỷ 20 và hành trình đi tìm tính chính thống lịch sử ở thế kỷ 21
– “Máu ta từ thành Văn Lang dồn lại…”
– Một số vấn đề pháp lý quanh hiệp định biên giới Việt-Trung.
– Xét lại giá trị pháp lý và tính chính thống của Hiến Pháp Việt Nam hiện nay
– Thân Thanh Triều nên mất nước.

Nick trên internet của Nguyễn Xuân Phước là Ngàn Cánh Hạc. Anh Đỗ Thành Công, bạn của Nguyễn Xuân Phước viết bài thơ Ngàn cánh hạc tặng anh và đọc cho anh nghe bên giường bệnh trong lần ghé thăm đầu tháng 5, 2015:

ngàn cánh hạc
chiều chưa tắt nắng
dậy mà nghe
Nguyễn Trãi bình Ngô

chí ta lớn
sao trời không thương
đường đoạn trường
thôi đưa nhau rồi

ly khách xa
buồn như muốn khóc
hôm qua trăng sáng
Đặng Dung ơi

ly khách đi
về đâu khách ơi
lòng ai thôi cũng
nát tơi bời

vỗ tay cho
hết đời nhân thế
chờ ta mà cạn
chén ly bôi.


Nguyễn Xuân Phước là một người khiêm cung, đơn giản. Ngoài một số bạn cùng chí hướng, ít ai nghe anh nói về mình. Đa số người quen chỉ biết một Nguyễn Xuân Phước hồn nhiên, vui tính và hiếu khách. Khi cần phải tự giới thiệu, anh thích khoe cách nấu phở rất ngon, cách làm bánh tét dân chủ [Phước dự tính làm bánh tét bán để lấy tiền giúp cho thân nhân những đồng bào đang bị CS giam tù nên gọi là bánh tét dân chủ trong mỗi dịp Tết] rất nghề hơn là những đóng góp của anh cho tiến trình dân chủ Việt Nam về nhiều mặt, bao nhiêu công sức anh đã đổ ra, bao nhiêu nơi anh đã đến, bao nhiêu tháng năm anh đã miệt mài.

Nguyễn Xuân Phước có tấm lòng luôn rộng mở. Căn nhà của anh bên bờ hồ Irving là địa điểm gặp gỡ giữa các nhà hoạt động, nhà văn, nhà thơ có khuynh hướng dân chủ có dịp ra nước ngoài, lãnh đạo các tổ chức, đoàn thể đấu tranh dân chủ tại hải ngoại và là địa điểm sinh hoạt thường xuyên của giới văn nghệ sĩ trong vùng cũng như từ khắp nơi, kể cả trong nước, khi đến viếng thăm thành phố Dallas.

Anh là người yêu âm nhạc, văn, thơ, thích hát, thích đàn. Khi được yêu cầu, anh thường hát nhạc phẩm Giọt nước có biết mình là sông của Khúc Lan:

…..

Giọt nước có biết mình là sông, nhưng sông vẫn chảy
Ngọn cỏ có biết mình về nguồn, đâu lời khóc than
Giọt nước có biết mình là mây, mây sao chưa nổi
Giọt nước hóa kiếp mình vào đời, dù dặm trường xa xôi….


“Lời khóc than” hay những lời tiên tri dành cho số phận của một áng mây chưa kịp thành mưa tắm mát quê hương đã vội “hóa kiếp mình vào đời” trên quê người, đất lạ.

Từ mái hiên của căn nhà không cao sang, rộng lớn nhưng đầy kỷ niệm của Nguyễn Xuân Phước, nhà thơ Nguyễn Xuân Thiệp đứng nhìn những giọt mưa nhỏ xuống mặt hồ. Cuộc đời của một người bạn nhỏ thân thương đang tan dần trước mắt anh như thế. Nhà thơ không nói ra nhưng trong lòng anh và trong lòng bạn hữu của Nguyễn Xuân Phước đều biết một cuộc chia tay sắp sửa xảy ra. Đêm đó nhà thơ Nguyễn Xuân Thiệp viết bài thơ Mưa Xám như một lời từ giã:

……
mưa xám
giăng. giăng. qua đời tôi. đời bạn. và còn những ai nữa. hở em
như chiều qua
mưa xám lạnh mặt hồ. ngôi nhà ở irving. của nguyễn xuân phước
tôi ngồi nhìn
mặt trời
nói lời từ giã
adieu.


Vâng, cuộc đời vốn là những adieu, nhưng nếu còn nhớ Nguyễn Xuân Phước, xin hãy nhớ đến anh trong những lần hạnh ngộ.

Cố Tổng thống Abraham Lincoln có lần đã nói, đại ý “Cuối cùng, điều quan trọng không phải bạn đã sống được bao nhiêu năm mà là ý nghĩa cuộc sống của bạn trong những năm tháng ấy” (In the end, it’s not the years in your life that count. It’s the life in your years). Nguyễn Xuân Phước chỉ sống 61 năm nhưng 61 năm dâng hiến cho quê hương, đất nước. Anh đã sống nhiều hơn so với bao nhiêu người có tuổi tác cao hơn.

Cánh hạc Nguyễn Xuân Phước vừa bay nhưng sẽ không xa khuất bên kia bờ ước vọng mà như vẫn còn đây soi bóng dưới mặt hồ Irving. Mai này, bạn bè anh có thể không còn dịp trở lại căn nhà đẹp đó nữa nhưng mùi phở thơm, tiếng đàn và giọng Quảng Nam của Phước nghêu ngao “Giọt nước có biết mình là sông nhưng sông vẫn chảy” sẽ còn vang vọng mỗi đêm. Tất cả còn đó và sẽ mãi mãi còn trong mỗi trái tim người.

Những người thân yêu của Nguyễn Xuân Phước ơi, đừng khóc cho giờ chia tay hôm nay mà hãy cùng cười hồn nhiên và vui tính với anh. Xin dành những giọt nước mắt đó cho “ngày đoàn viên dân tộc, ngày hội lớn tự do dân chủ trên quê hương, ngày phục hưng của dòng giống Đại Việt anh hùng” mà Nguyễn Xuân Phước thân yêu của chúng ta hằng mơ ước.


Trần Trung Đạo
Boston, viết xong vào ngày Phước đi xa, 22 tháng 6, 2015


nguồn trantrungdao.com
          
Trả lời

Quay về “Chuyên đề”