Anh Bằng

Trả lời
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20017
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Anh Bằng

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          
Vào khoảng 9:00 tối ngày 12/11/2015, nhạc sĩ Anh Bằng đã thanh thản ra đi về nước Chúa, trước sự tiễn đưa đầy thương tiếc của gia đình, con cháu tại tự gia tại thành phố Orange Nam California.




facebook.com/SBTNOfficial/
sbtn.tv





[/audio]
Nỗi lòng người đi
Anh Bằng - Sĩ Phú







          
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20017
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Anh Bằng

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  • Anh Bằng
    _____________________
    vi.wikipedia.org




    Sinh Trần An Bường, năm 1926, tại Nga Điền, Nga Sơn, Thanh Hóa
    Mất 12 tháng 11, 2015 (90–91 tuổi), tại Quận Cam, California, Hoa Kỳ

    Anh Bằng là một nhạc sĩ nổi tiếng của Việt Nam với số lượng sáng tác khoảng 650 tình khúc để lại cho đời. Ông là một trong những nhạc sĩ tiêu biểu của dòng nhạc vàng và nhạc hải ngoại, là người đã sáng lập Trung tâm Asia vào năm 1981.

    Ngoài những tác phẩm của chính ông, Anh Bằng còn là một trong nhóm ba người hợp tác soạn nhạc với bút hiệu Lê Minh Bằng.



    Tiểu sử

    Anh Bằng tên thật Trần An Bường,
    sinh năm 1926 tại thị tứ Điền Hộ, nay thuộc xã Nga Điền, huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa giáp giới tỉnh Ninh Bình, cách Hà Nội khoảng 100 cây số về phía Nam.
    Năm 1935 ông xa gia đình để học Tiểu chủng viện Ba Làng tại huyện Tĩnh Gia thuộc tỉnh Thanh Hóa,
    sau đó ông lại tiếp tục theo học trung học ở Hà Nội.
    Vì gia đình anh em ông chống Việt Minh, vào thời kỳ Kháng Pháp, ông bị Việt Minh bắt giam ở trại Lý Bá Sơ. Các anh em ông bị tuyên án tử hình nhưng sau được thả, riêng người anh Trần An Lạc bị Việt Minh thủ tiêu.

    Ông theo gia đình di cư vào Nam năm 1954 và sinh sống ở khu Bà Chiểu, Sài Gòn cho đến năm 1975.

    Trong thời kỳ 1954 - 1975, nhạc sĩ Anh Bằng rất nổi tiếng với nhiều tác phẩm sáng tác và phổ nhạc. Các tác phẩm như
    • "Nỗi lòng người đi" (đanh dấu cuộc di cư vào Nam),
      "Nếu vắng anh" (phổ từ bài thơ "Cần thiết" của nhà thơ Nguyên Sa),
      "Hoa học trò (Bây giờ còn nhớ hay không)",
      "Người thợ săn và đàn chim nhỏ"...
      đã được các ca sĩ Tuấn Ngọc, Ngọc Lan, Khánh Ly thể hiện rất thành công.


    Ông gia nhập Quân lực Việt Nam Cộng hòa năm 1957 ngành Công binh
    sau chuyển sang Nha Chiến tranh Tâm lý trong Đại đội 2 Văn nghệ
    đến năm 1962 thì giải ngũ.

    Cũng trong thời gian trong quân đội,
    • ông là đạo diễn cùng là diễn viên trong ban kịch Liên đoàn Công binh lưu diễn từ Quảng Trị vào Bình Định.
      Anh Bằng sáng tác vở kịch Đứa con nuôi. Tác phẩm này đoạt "Giải Văn học Nghệ thuật Toàn quốc" thời Đệ nhất Cộng hòa.
      Những vở kịch khác do ông soạn tiếp theo nhau ra đời là Hoa Tàn Trên Đất Địch, Lẽ SốngNát Tan.


    Sau khi giải ngũ ông tiếp tục hoạt động trên đài truyền thanh VTVN, phụ trách ban Sóng Mới.

    Cũng vào thời gian hoạt động ở Sài Gòn,
    • Anh Bằng hợp tác trong nhóm Lê Minh Bằng
      quản lý nhà xuất bản và hãng đĩa Sóng Nhạc.
      Quán cà phê Làng Văn nổi tiếng một thời ở Sài Gòn cũng do ông kinh doanh.


    Năm 1975, Anh Bằng cùng gia đình di tản sang Mỹ ở độ tuổi 50,
    và vẫn tiếp tục hoạt động âm nhạc với Trung tâm sản xuất và phát hành băng nhạc cassette Dạ Lan (1981 - 1990).
    Thời gian sau này ông cộng tác với Trung tâm Asia.
    Thời kỳ tại hải ngoại, ông sáng tác nhiều ca khúc, đáng kể có
    • "Anh còn nợ em", "Căn gác lưu đày", "Chuyện giàn thiên lý", "Khúc thụy du", "Kỳ diệu", "Mai tôi đi"...


    Trung tâm Asia tại Hoa Kỳ đã thực hiện một số chương trình ca nhạc và DVD để vinh danh ông, như
    • Asia 15: Tình ca Anh Bằng (1997),
      Asia 52: Huyền thoại Lê Minh Bằng (2007),
      Asia 62: Anh Bằng - Một đời cho âm nhạc (2009),
      Golden Asia DVD 1: Anh Bằng - Dòng nhạc lưu vong (2011).


    Ông mất ngày 12 tháng 11 năm 2015 vì bệnh ung thư.





    Gia đình

    Nhạc sĩ Anh Bằng có con gái là Thy Vân, người đã đứng ra quản lý Trung tâm Asia, sau đó chuyển giao lại nhạc sĩ Trúc Hồ.
    Ngoài ra những người con khác của Anh Bằng là
    • Dân, Việt, Nam, Trần An Thanh, Trần Ngọc Sơn (tác giả ca khúc Hạnh phúc lang thang)






    Nhóm Lê Minh Bằng

    Năm 1966, Anh Bằng cùng với hai nhạc sĩ khác là Lê DinhMinh Kỳ thành lập một nhóm sáng tác nhạc, ký chung tên là Lê Minh Bằng. Các hoạt động chính của nhóm bao gồm:
    • Mở lớp dạy nhạc có tên là "Lớp Nhạc Lê Minh Bằng" tại địa chỉ số 102/8 đường Hai Bà Trưng, Tân Định, Sài Gòn.
      Ba nhạc sĩ thay phiên nhau giảng dạy về lý thuyết (nhạc lý, ký âm) và thực hành (luyện giọng, xướng âm).
    • Thành lập ban nhạc "Sóng Mới", chuyên trình diễn trên đài phát thanh Sài Gòn.
    • Cố vấn cho giám đốc hãng đĩa hát Asia là ông Nguyễn Tất Oanh trong việc lựa chọn bài hát và ca sĩ.
    • Phụ trách trong việc tổ chức chương trình "Tuyển Lựa Ca Sĩ" được tổ chức hàng tuần ở rạp hát Quốc Thanh, do Đài Phát thanh Sài Gòn thực hiện.
    • Sáng tác, xuất bản, và phổ biến nhiều ca khúc mới dưới nhiều bút hiệu khác nhau:
      • Lê Minh Bằng, Vũ Chương, Mạc Phong Linh, Mai Thiết Lĩnh, Mai Bích Dung, Dạ Ly Vũ, Dạ Cầm, Giang Minh Sơn, Hoàng Minh, Trần An Thanh, Tây Phố, Trúc Ly, Tôn Nữ Thụy Khương, Phương Trà, Huy Cường,Vương Đức Long, TH...



    nguồn: vi.wikipedia.org
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20017
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Anh Bằng

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  • NỖI LÒNG NGƯỜI ĐI và Nhạc Sĩ ANH BẰNG
    ______________________________________________
    Phan Anh Dũng




    Một ngày mùa Xuân, tôi nhận được email của Việt Hải (VHLA), Chủ Bút của Văn Đàn Đồng Tâm (VĐĐT), mời qua Quận Cam California tham dự ngày ra mắt sách vinh danh Nhạc sĩ Anh Bằng vào ngày Chủ Nhật 12 tháng 7, 2009. Sau đó, lại biết thêm tin Trung Tâm Asia (TTA) sẽ tổ chức vào trưa ngày thứ bảy 11 tháng 7 một buổi trực tiếp thu hình Asia số 62 tại Long Beach Performing Arts Center để kỷ niệm 30 năm thành lập và vinh danh Nhạc sĩ Anh Bằng (NS AB), người sáng lập TTA. Đang lưỡng lự có nên đi hay không thì nhận được email về ngày đám cưới của anh chị NVK-KO cũng sẽ cử hành ở Little Saigon vào chiều tối 11 tháng 7! Như thế thì thật không uổng công bay về Cali tham dự 3 cuộc họp mặt và nhân thể thăm một số thân hữu và gia đình ở San Jose luôn!

    Trong chương trình ra mắt sách vinh danh NS AB, Việt Hải yêu cầu một số ca sĩ tài tử hát những tác phẩm của NS AB. Tâm Hảo nghĩ đến nhạc phẩm đầu tay “Nỗi Lòng Người Đi” nổi tiếng của Ông. Chúng tôi đã liên lạc qua email với NS AB, hiện cư ngụ ở Nam Cali và sau đó là NS Lê Dinh (NS LD), cư ngụ ở Montreal, Canada, để xin “bản gốc” bài "Nỗi Lòng Người Đi". Chỉ trong thời gian ngắn, sau vài thư từ qua lại, chúng tôi đã có nhiều cảm tình với hai nhạc sĩ đàn anh vì họ rất cởi mở và không quản ngại khi tôi hỏi xin bản nhạc hay trả lời một số thắc mắc …

    Trong lúc Văn Đàn Đồng Tâm thu bài vở để in quyển sách "Kỷ Niệm về Nhạc Sĩ Anh Bằng" thì tôi nghĩ đến thành lập một trang nhạc đặc biệt về Ông trong phần Nhạc của website Cỏ Thơm. NS AB sáng tác rất nhiều và hiện nay, tuy đã 84 tuổi, nhờ “còn trái tim 30” nên Ông vẫn sáng tác những bản nhạc trữ tình như: “Anh Còn Yêu Em”, “Anh Còn Nợ Em” cho những ca sĩ trẻ của TTA …

    Ngoài bản nhạc “Nỗi Lòng Người Đi”, Tâm Hảo và tôi thích:
    • "Nếu Vắng Anh",
      được nhiều thính giả ưa chuộng qua tiếng hát ca sĩ Lệ Thanh và Mai Hương và sau đó là Hà Thanh, Xuân Thu … ;
    • "Khúc Thụy Du" (lời từ thơ của Du Tử Lê)
      đầu tiên nghe thấy thấm thía qua giọng hát trầm đặc biệt của Thùy Dương;
    • “Người Thợ Săn và Đàn Chim Nhỏ”
      điệu tango được Khánh Ly diễn đạt rất hay;
    • Trúc Đào (lời của Nguyễn Tất Nhiên) …
    • Chúng tôi cũng thích giai điệu và lời thắm thiết của “Đêm Nguyện Cầu”
      (sáng tác của nhóm Lê Minh Bằng tức Lê Dinh, Minh Kỳ và Anh Bằng).
      Theo NS Lê Dinh, bài này nhóm sáng tác năm 1966 do Elvis Phương hát đầu tiên.


    Đọc bài viết của Phạm Kim, Chủ Nhiệm Tuần Báo Người Việt Tây Bắc Hoa Kỳ, mới biết NS AB thích một số nhạc phẩm như “Tiếng Ca U Hoài”, một thời được phát thanh thường xuyên qua tiếng hát của Thanh Thúy. Có lẽ, mỗi nhạc sĩ đặc biệt yêu quý một bản nhạc nào đó do mình sáng tác vì lý do nhạc thuật, vì thời điểm hay vì đối tượng đặc biệt. Tôi tin chắc một điều: tác phẩm nghệ thuật nào tồn tại với thời gian phải được sáng tác trung thực, không hư cấu vì thế “dễ đi vào lòng người” và dễ đem đến rung cảm ...




    Phan Anh Dũng ( Mùa Hạ 2009)

    cothommagazine.com
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20017
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Nhạc sĩ Anh Bằng - một đời cho âm nhạc

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  • Nhạc sĩ Anh Bằng - một đời cho âm nhạc
    ___________________________________________
    Phạm Kim - 14/05/2013





    Nhìn lại sau hơn 50 năm sáng tác

    Khi nghe CD “Anh Còn Yêu Em...” trình làng trong năm 2008 của Anh Bằng (phổ thơ Phan Thành Tài)
    cùng với Khúc Thụy Du (phổ thơ Du Tử Lê),
    chúng ta thấy mélody qua dòng nhạc của người nhạc sĩ từng trải mênh mang như sóng nhưng cũng trỗi dậy căng tràn nhựa mới.

    Người phụ trách nhạc yêu cầu trên SBTN-TV Orchid Lâm Quỳnh cho biết,
    • “‘Anh Còn Yêu Em” là ca khúc top hit được yêu cầu liên miên trên truyền hình. Với lời thơ: ‘Anh còn yêu em, Nụ hôn sim tím, áo nhàu qua đêm’ ‘Anh còn yêu em, như rừng lửa cháy, anh còn yêu em, như ngày xưa ấy, anh còn yêu em, đường xanh ngực nở, anh còn yêu em lồng tim rạn vỡ, anh còn yêu em, bờ vai mười sáu... Nồng nàn hương ấm’, và ‘Bạch đàn thâu đêm, Thầm thì tóc rũ chiều xuống mờ sương, cửa đóng rèm buông - Gối kề bên gối, môi kề bên môi’... ‘Buồm trăng giương cánh, khi biển triều lên, sóng xa êm đềm’ ‘Anh còn yêu em - Chênh vênh mi buồn’, mélody của ca khúc này bắt được bằng những rung động của lời thơ, như chính Anh Bằng là người làm thơ, sống động như đó là nội dung cuộc sống của ông.”



    Nhạc sĩ Anh Bằng hiện đã trên 80, vẫn còn miệt mài sáng tác.


    Ðồng thời còn có những bài hát khác cũng phổ từ những lời thơ như “Anh còn yêu em, bờ vai 16” hay “Anh biết em đi chẳng trở về, ” nghe âm điệu cứ như là những ca khúc trẻ nào như của lứa tuổi mới lớn, 18 đôi mươi của ông từ trên nửa thế kỷ trước “Nỗi Lòng Người Ði”: “Tôi Xa Hà Nội năm lên 18, khi vừa biết yêu...” Nên CD “Anh Còn Yêu Em” xuất hiện năm 2008, Anh Bằng như trở lại thời mới lớn khi vừa mới biết yêu? Từ đấy, người thưởng ngoạn tưởng như Anh Bằng sáng tác bởi chính cuộc sống lãng mạn rung cảm đắm say của ông. Tại sao?

    Cuộc đời của Anh Bằng
    • sinh năm 1925,
    • đã trải dài ra, từ “những đồi sim” lớn lên thời có cao trào kháng chiến Văn Cao, Hữu Loan (thập niên 1940-1950), ở vùng cửa Thần Phù Ðiền Hộ, Thanh Hóa,
    • tới những đêm lắng nghe tiếng hàng bạch đàn gió lay, như tóc xõa ở Quy Nhơn (1957 và thập niên 1960).
    • Ðến Hoa Kỳ tiếp sáng tác những ca khúc sáng tác từ cảm nhận khi sống bỡ ngỡ những năm đầu tỵ nạn, bát ngát đồi hoa tím ở thành phố nhỏ dưới 5,000 dân ở (Enumclaw) thuộc tiểu bang Washington
    • tới Quận Cam: Rung cảm khi nhớ lại đồi ấu thơ, cánh buồm căng tuổi trẻ và chênh vênh ở tuổi bất cứ nào khi nhìn nhau qua hàng mi buồn nuối tiếc - Chênh vênh như gần như xa - bên nhau trong quán trên đồi gió cao, như thấy sóng biển, lảo đảo chênh vênh mất mát... những hứng khởi trữ tình rất mới vượt qua lằn ranh thời nhạc phổ thông trở thành trữ tình với cảm hứng từ thơ “mới” Du Tử Lê, Nguyễn Khoa Ðiềm, B.H., Phan Thành Tài...


    Theo nhà văn Trần Khánh Liễm:
    • “Ba Làng có hai vườn thông thật đẹp và đầy mơ mộng, mà những ai thích nhạc đều ra đó để lấy cảm hứng. Những buổi chiều Chúa Nhật các tu sĩ của tiểu chủng viện thường lên núi Thủi chơi. Nơi này có những đồi hoa sim trùng trùng lớp lớp - mấy trăm mẫu trải dài cho tới sườn núi và tận cùng ra tới biển với những tảng đá to lớn phía cạnh bãi.Những đêm khuya khi trời đẹp chỉ nghe tiếng sóng êm từ từ đổ, để ru hồn người vào giấc đông miên... Còn khi biển động thì... ôi thôi, sóng lớn như vỡ bờ!”


    Trong đời sống thực,
    • Anh Bằng đã rời Sài Gòn trong chuyến bay từ Tân Sơn Nhất vào ngày 29 Tháng Tư, cùng với vài người con, trong số đó có Thy Vân vừa tuổi trăng tròn, nhưng vợ ông và vài người con khác còn kẹt lại.
    • Ông đến trại tị nạn Fort Chaffee-Arkansas,
    • được một phi công (Mr Tom) của hãng hàng không Alaska bảo trợ đến Connecticut,
    • rồi sau đó đạo diễn Trần Thăng giúp về định cư tại Enumclaw, ngoại ô Seattle. Tại đây, Thy Vân đã tốt nghiệp trung học,
    • trước khi cả gia đình (thêm Trần Ngọc Sơn, Trần An Thanh) di chuyển về ở Quận Cam và chủ trương Trung Tâm Asia.


    Và phải chăng như nhà thơ Du Tử Lê thổ lộ trong đoạn “Hãy nói về cuộc đời - khi tôi không còn nữa! ”
    “ Hãy nói về cuộc đời”: Ngay khi tác giả nay còn sống quanh ta đâu đây, thì đáng quí hơn là khi tác giả đã ra đi mất rồi, mới ca tụng chiêu hồn sao?




    “Nỗi Lòng Người Ði”... Tôi Xa Hà Nội, khi lên 18 khi vừa biết yêu”...

    Anh Bằng sinh ra và lớn lên tại vùng đất phù sa Tân Bồi, Thần Phù, làng Ðiền Hộ-Thanh Hóa. Năm 1951, người anh của ông là Ðại úy Trần An Lạc, chỉ huy trưởng Lực Lượng Tự Vệ của Ðức Cha Lê Hữu Từ, bị Việt Minh lùng bắt gắt gao. Cùng lúc Việt Minh muốn đe dọa Ðại úy Trần An Lạc, nên đã dọa trấn áp cả các người anh em là: anh cả, nhạc sĩ Trần Văn Mão và hai người em, là ông Trần Tấn Mùi (trước 1975 là dân cử của Tỉnh Lâm Ðồng-VN) với cậu em út Anh Bằng nhỏ tuổi, để tiêu diệt lòng cương quyết bảo vệ khu tự trị do lệnh của Giám Mục Lê Hữu Từ,... vì ông chỉ huy trưởng Tự Vệ-Trần An Lạc vẫn không chịu ra hàng!

    Vì Anh Bằng không ra khỏi “vùng Tề” và khu Tư (từ Thanh Hóa tới Nghệ An) để trốn tránh như các người anh khác, nên đã bị bắt, bị kết án và đi tù Lý Bá Sơ... Mãi đến khi Việt Minh ám sát được Ðại úy Trần An Lạc, người không ở trong quân đội, nhưng từng xuất ngoại, kể cả Tân Gia Ba, (trong lúc ông này ngồi trên xe jeep chỉ huy từ tòa Ðức Giám Mục Lê Hữu Từ đi ra, bị mai phục bắn hạ - ngay cổng Tòa Giám Mục Phát Diệm, từ đó án đe dọa cho mấy anh em mới không còn nhắc tới đe dọa nữa.

    Theo lời ông Thơ Ðường-Phạm Ngọc Pháp, phụ tá Linh Mục Nhạc (tại Ấp Hàng Dầu-Chí Hòa có Giáo Xứ An Lạc) kể rằng tên giáo xứ An Lạc đã được đặt cho một xóm họ đạo di cư tân lập sau 1957 ở ngoại ô Sài Gòn-vùng Ông Tạ). Nhưng ông Anh Bằng vẫn còn bị giam tù với những cực hình khắt khe, trong khoảng thời gian Tây nhẩy dù xuống Phát Diệm, Việt Minh đang nỗ lực chuẩn bị mặt trận Ðiện Biên Phủ. Rồi Pháp thua trận Ðiện Biên và mãi cho đến khi có Hiệp Ðịnh Genève thì mới được thả - gia đình đi đón Anh Bằng về. Thân hình đúng nghĩa chỉ còn “da bọc xương,” mang theo trí nhớ một ca khúc Anh Bằng viết trong tù: “Tiếng Hò Sông Chu,” là con sông chảy ngang trong ký ức người tù. Anh Bằng đưa vợ con vào Nam.Vợ ông, Trần Thị Khiết, người bạn đời giản dị bình thường, vẫn gắn bó chung dưới một mái nhà Quận Cam trên 60 năm qua...

    Nhiều người dân làng còn nhắc nhớ, nhà văn Trần Khánh Liễm nói:
    • “Có một thời 3 anh em ông Anh Bằng, có người anh cả là nhạc sĩ đàn phong cầm rồi đến hai ‘ca sĩ’ Trần Tấn Mùi và Anh Bằng là các giọng hát chính: Ông Mùi là giọng hát nam solo, hai anh em cùng có giọng hát nổi tiếng át hẳn bạn đồng lứa.”


    Các tiếng đàn tiếng hát đồng lớp với Anh Bằng lúc bấy giờ là Linh Mục Hương Tiến, Linh Mục Ðinh Trí Thức, ông Ninh Phúc Duật, và Trần Khắc Kỷ (cụ Chánh Kỷ đã qua đời gần đây tại Nam Cali), cũng như một số bạn lớp trên như Linh Mục Thanh Lãng, GS Phạm Việt Tuyền, LM Nguyễn Duy Vi, Nguyễn Hữu Chỉnh, Ðức Giám Mục Nguyễn Sơn Lâm, LM Trần Khắc Hỉ (học trên 2 lớp), Vĩnh Phò, Phạm Tế Mỹ, chánh án tòa nhân dân Phạm Ngọc Hoan (thân phụ của cựu viên chức Tình Báo Trung Ương thời Nguyễn Văn Thiệu-Phan Văn Huấn, bố vợ của nhạc sĩ Lê Văn Khoa), những người trong làng danh tiếng như Sơn Ðiền-Vũ Ngọc Ánh, Sư Huynh Phạm Ngọc Hóa (hiệu trưởng Taberd/ Viện Ðại Học La San), Bác Sĩ Trần Kim Tuyến, nhạc sĩ Nguyễn Khắc Cung (cùng người Ðiền Hộ), giám đốc Viện Quốc Gia Âm Nhạc Sài Gòn, thân phụ ông Cung là cụ Bố Chánh Tỉnh Thái Bình Nguyễn Lập Lễ.

    Ngoài ra, Anh Bằng cũng là lớp đàn anh tại Ba Làng của Trần Khánh Liễm, Thượng Nghị Sĩ Nguyễn Gia Hiến, Nguyễn Tiến Hỷ (học trên Anh Bằng 2 lớp), Ðàm Quang Hưng, TS Nguyễn Xuân Phong, TS Nguyễn Tiến Hưng (phụ tá Tổng Thống, đặc trách Liên Bộ, đặc trách kế hoạch VNCH), trẻ nhất là nhạc sĩ Trường Sa, GS Phạm Thiên Hùng, Trần Anh Liễn. Ðồng thời một vài nhân vật kể trên cũng đều là bà con họ hàng, làng nước với nhạc sĩ Anh Bằng. Sau ngày gia đình đón từ Lý Bá Sơ (Trại Giam Số 5) năm 1953 trở về làng Ðiền Hộ, sau đó ông có chuyển ra Nam Ðịnh và Hà Nội trước khi theo làn sóng di cư vào Nam, trôi dạt không có một mảnh giấy tờ, lý lịch nào của những năm học chuyên cần, xuất sắc từ Ba Làng nữa.

    Những người bạn đồng trang lứa hoặc nhỏ tuổi hơn nhưng có đầy đủ giấy tờ bằng cấp từ những năm học Ba Làng thì đã được giữ những chức vụ khá lớn. Còn Anh Bằng sau tháng năm tù đày trở về với hai bàn tay trắng, may nhờ vào Pháp ngữ rất thông suốt, Anh ngữ cũng khá giỏi và cũng nhờ thời gian tự học với một vài trí thức trong tù, ông lại trở thành một nghệ sĩ sáng tác nhạc. Trách nhiệm này, ông đa mang trên vai tròn suốt một đời sau đó.

    Vào Nam, ông phục vụ quân đội trong ngành Công Binh từ 1957, ở Quy Nhơn (lúc ấy Thy Vân mới vừa ra đời sau các anh chị mang tên: Dân, Việt, và Nam). Sau đó ông được chuyển về Tiểu Ðoàn Chiến Tranh Tâm Lý nhờ sáng tác các vở kịch đoạt giải Văn Học Nghệ Thuật Toàn Quốc của Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, suốt thời gian này gia đình nhạc sĩ Anh Bằng từ xa thỉnh thoảng liên lạc với họ hàng anh em.

    Giải ngũ năm 1962, khi đang được trọng dụng nhờ tài năng văn nghệ trong Tiểu Ðoàn Chiến Tranh Tâm Lý, ông liên lạc lại được với anh em họ hàng ruột thịt, sau đó ông cùng vợ con về sống tại Bà Chiểu. Ðây là quãng thời gian ông sáng tác rất mạnh, và gắn bó chặt chẽ gần gụi với các hệ thống truyền thanh Quốc Gia và tư nhân.





    Tâm hồn nhạc sĩ luôn sống động, như mãi vẫn tươi mới

    Trong khoảng thời gian1956-1958, Anh Bằng soạn vở kịch thơ dài khoảng 3 giờ “Ðứa Con Nuôi“đoạt giải thưởng hạng nhất của giải thưởng văn học nghệ thuật và kịch nghệ của Tổng Thống VNCH. Liên tiếp những năm sau đó, ông soạn thêm những vở kịch nổi danh thời ấy như: Hoa Tàn Trên Ðất Ðịch, Lẽ Sống và Nát Tan...

    Những vở kịch này đã được các đài phát thanh diễn lại nhiều lần, nhưng chẳng ai biết Anh Bằng là tác giả! Ông thích sống đời nghệ sĩ tự do, và phát triển trong lãnh vực sản xuất âm nhạc, phát thanh, ông liên tiếp có nhiều tác phẩm “best seller” và lập nhiều cơ sở kinh doanh liên hệ đến ca nhạc, như 3 quán ca nhạc Làng Văn, gần sân vận động Hoa Lư, một quán khác tại Ngã Tư Bẩy Hiền...

    Cuộc sống vẫn thật yên tịnh, ông luôn tự chế, chỉ muốn là người nghệ sĩ hết sức lãng mạn nhưng không bao giờ đi quá xa, và giữ được vai trò người cha gương mẫu trong gia đình, một nghệ sĩ chừng mực, nghiêm chỉnh sáng tạo.

    Nhờ tài năng diễn xuất kịch nghệ, được trọng dụng trong quân đội một cách công bằng, ông luôn khiêm tốn, chừng mực. Là tác giả không ai ngờ được của các khẩu hiệu tuyên truyền, các bài viết chiến dịch cho“Binh Méo-Cai Tròn,” “Huynh Ðệ Chi Binh” thường được ban hài hước nổi tiếng nhất thời ấy là “Ban kích động nhạc AVT” trình bày, với mục đích nêu cao tâm tình của người lính, tránh chia rẽ.

    Nhạc sĩ Anh Bằng thường nhớ lại những năm cuộc chiến cao độ, thính giả ái mộ và yêu mến ca nhạc chính là anh em quân nhân tiền tuyến hoặc hậu phương và những người tình, người thân yêu của lính... Ðó là thời thành tựu của những ca khúc hát mỗi ngày, trên hệ thống phát thanh thương mại tại Sài Gòn. Khi ca khúc “chạm” đến trái tim người nghe rồi sẽ được yêu mến, đón nhận, chỉ giản dị thế thôi... Như “Nửa Ðêm Biên Giới,” “Căn Nhà Ngoại Ô” v.v... dành cho đại chúng, và sau này “Khúc Thụy Du,” hoặc cuối đời:”Anh Còn Yêu Em,” thỏa mãn cả mọi thính giả dù là kén chọn nhạc, khó tính, thích nội dung bài hát có chiều sâu ý nghĩa, hay là đại chúng thính giả ưa nhạc đa sầu đa cảm. Cũng như những năm ở hải ngoại này (lần thứ nhì lập nghiệp trở lại, cũng giống như bao nhiêu năm trước tại quê nhà, vẫn bắt đầu lại từ đầu với hai bàn tay trắng), sáng tác của Anh Bằng có thêm những nét xúc cảm mới, đưa vào dòng nhạc mélody của sức sống mới dựa trên kho tàng âm nhạc Việt, bằng xúc cảm vượt trội hơn cả so với những nhạc sĩ đã thành danh trước đây. Lớn lên trong âm hưởng dân ca, những ca khúc từ giáo đường, thời lên 6 tuổi đã “kéo” đàn Nhị lưu loát...

    Những người hát nhạc Anh Bằng, như Nguyên Khang, Y Phương, Thiên Kim, họ thể hiện thật tươi mới qua các DVD và CD Asia trong vài ba năm gần đây... Họ cũng khiến ta liên tưởng tới mươi năm trước với Như Quỳnh, Mạnh Ðình tiếng hát sở trường những khúc hát mộc mạc bình dị như “Chuyện Tình Hoa Trắng,” “Chuyện Giàn Hoa Thiên Lý, Cô Bé Môi Hồng, ”Chuyện Tình Hoa Sim,” bài hát ra đời sau nhưng vẫn tươi mới hơn những ca khúc tương tự về đồi hoa sim thơ Hữu Loan, đã vang dội sân trường Thanh Hóa (quê Hữu Loan), nối lên cùng với Sông Lô của Văn Cao rung động cả vùng khu Tư, trong lúc ấy Anh Bằng đang được giáo dục và học thuộc sách nhạc Cantique de la Jeunesse của nhà dòng.

    Từ thập niên 1965-1975, với những ca khúc top hit như: Nếu Vắng Anh, Giấc Ngủ Cô Ðơn, và khi sang đến hàng loạt sáng tác như “Chuyện Tình Lan Và Ðiệp 1, 2, 3...” ra đời cùng với các nhạc phẩm khác của Sóng Nhạc. Lúc ấy Anh Bằng đã là người nhạc sĩ sống rất phong lưu, bằng tài và chuyên cần, tự mình tạo ra;đi lại bằng xe Toyota tư nhân mới, tiền bạc vô nhiều không kể,” ”không nhạc sĩ sáng tác hoặc nhà văn có tác phẩm nào có thể giầu bằng.”
    Có nhiều người vẫn nêu câu hỏi: Tại sao tác giả Anh Bằng lại sống thầm kín, khiêm cung, tránh cho in hình (dù là một nghệ sĩ... rất ăn ảnh) và tránh trả lời các cuộc phỏng vấn của báo chí?... Có lẽ hiểu được ông vì bị chi phối bởi quan niệm cổ về nghiệp “xướng ca...”: Dù rất thành công về tài chánh và trở thành “bố già” trong lãnh vực nghệ thuật sân khấu, ông không hề khuyến khích hoặc đào tạo con cháu nối tiếp đường đi của ông, ngoại trừ một khi lớp hậu duệ tự ý thức và tự chọn lựa.





    Trọn cuộc đời giữ tâm hồn thơ và mộng: Anh Còn Yêu Em

    Khởi đi từ những năm xa xưa mới đến Hoa Kỳ và định cư tại một thành phố nhỏ của tiểu bang Washington trước khi về Cali chủ trương một trung tâm ca nhạc đã lớn mạnh và rất danh tiếng hiện nay, nhạc sĩ Anh Bằng tâm sự rằng:
    • “Trong tủ thơ của mình có trân trọng hàng ngàn tập thơ và các sáng tác của nhiều tác giả thương mến gửi tặng, Anh Bằng trân trọng từng bài thơ, đọc thường xuyên rất kỹ, không bỏ sót...”


    Theo lời ông, “tác giả rất quý mến những ca sĩ hát nhạc Anh Bằng trước đến nay.” Mới đây nhất qua ca khúc Anh Còn Yêu Em, như Nguyên Khang, Y Phương, Thiên Kim, cũng như xa xưa có Phương Dung, Thanh Thúy, Thanh Tuyền... đầu thập niên 1980 ở hải ngoại có Lệ Thu, Ngọc Lan, Hải Lý. Họ hát Hạnh Phúc Lang Thang rồi đến Như Quỳnh mà theo lời ông những tiếng hát hát thành công đoạt trong list nhạc top hit.. Tất cả, cho dù bao giờ, lúc nào ông cũng đều dành cho những tiếng hát nhạc của mình: sự cảm mến... Dù mười năm qua, ông không còn thưởng thức qua thính giác được tiếng hát nào qua thanh âm nữa. Có chăng ông chỉ còn ân cần xem lại hình ảnh, qua DVD và ghi nhận từ những lời khen ngợi, cảm kích của thính giả. Nhạc sĩ Anh Bằng cho rằng dù nhà thơ Phan Thành Tài (thơ phổ cho ca khúc Anh Còn Yêu Em) chưa nổi tiếng “nhưng thơ có hồn, thơ gây cảm xúc cho người viết nhạc.”.. và cả hai ca khúc “Anh Còn Nợ Em”“Anh Còn Yêu Em” đều hay.

    Trong ca khúc này, ta thấy mênh mông cả khung trời Thanh Hóa, rồi đến Quy Nhơn và quãng đời lưu vong Quận Cam, tất cả đều phảng phất nét lãng mạn chôn giấu. Ðiểm đặc biệt là có một vài ca khúc tác giả rất bằng lòng thì lại không được đón nhận mạnh, còn một số ca khúc tác giả không thích lắm thì lại được đón nhận nồng nhiệt (tuy vậy Anh Bằng cũng nói rằng: trường hợp này ít khi xảy ra). Có những tập thơ hay (đối với chủ quan của Anh Bằng), ông nói: “mình đọc đi đọc lại nhiều lần-thấy sung sướng”“ngược lại cũng có những bài thơ của các tác giả danh tiếng nhưng lại vẫn chưa tìm ra được nét ưng ý để phổ thành ca khúc... Tác giả BH nhận định: “Tâm hồn nhạc sĩ Anh Bằng qua thính giả khắp nơi ghi nhận, càng những năm về sau Anh Bằng càng thơ mộng, trẻ trung, yêu thiết tha cuộc đời này, âm nhạc đã mang tâm tình vang xa...”





    Những ca khúc nổi như cồn rất hiện tượng, thời thập niên 1960

    Nếu Vắng Anh là ca khúc đầu tiên của Anh Bằng được in trên bản nhạc giấy với số lượng bán rất cao (đó là nét đặc thù của nền âm nhạc miền Nam - trước 1975) và cùng thời trên dĩa Sóng Nhạc-Asia qua tiếng hát Lệ Thanh, tiếng hát sắc sảo rất hay, nhưng ít chịu xuất hiện trên sân khấu hoặc chịu in hình ca sĩ trên bài hát ngày ấy. Ca khúc thứ nhì lại là Thanh Thúy được mời trình bày mang tên: Giấc Ngủ Cô Ðơn, và kế đến là tác phẩm thứ ba mang tên: Ðôi Bóng với Phương Dung rồi sau đó mới đến Lẻ Bóng một lần nữa lại được Thanh Thúy trình bày. Nhưng trước khi cho ra mắt 4 tác phẩm được các ca sĩ thượng thặng thời đó trình bày, Anh Bằng còn có Tiếc Thầm, (một ca khúc cổ võ cho cao trào đi quân dịch, bảo vệ đất nước tự do cho người dân) ít người nghĩ đến tên tác giả, đã do ban AVT trình bày lần đầu được phát nhiều lần trên màn ảnh truyền hình mới ra đời được chiếu lớn trên toàn quốc cho đợt thử nghiệm truyền hình đen trắng, chưa hết lại còn những bài hài hước Anh Bằng dựa trên ý thơ Hồ Xuân Hương, khiến ai cũng nhớ, cũng cười thoải mái với Em Tập Vespa, hoặc Ðánh Cờ... không phải của Lữ Liên. Riêng bài Huynh Ðệ Chi Binh thì lại là một đề tài phẩm bình về sự chia rẽ trong quân đội rất ý nghĩa khi kêu gọi đoàn kết giữa hàng tướng lãnh để chống Cộng, bảo vệ người dân...

    Trong sáng tác mạnh mẽ bội phần với thời trước 1965, Anh Bằng liên tiếp cho ra đời: Nửa Ðêm Biên Giới, tiếng hát Thanh Thúy, Tiếng Ca U Hoài (một trong những ca khúc tác giả rất thích, rất hài lòng và biết được rằng không thành công như những ca khúc khác), sau đó là những ca khúc mở lối cho cao trào phát thanh thương mại như: Hai Mùa Mưa, Căn Nhà Ngoại Ô, Gõ Cửa... cùng với cả trăm sáng tác khác, với nhiều khúc hát slogan, khúc hát chiến dịch tuyên truyền mà Anh Bằng viết không cần lưu lại tên tác giả dù với ông, không một việc làm hoặc sáng tác nào mà ông coi nhẹ, không đặt trọn vẹn trái tim với tinh thần phục vụ.

    Tên của từng bài hát và tiết tấu cùng chọn ca sĩ thời bấy giờ nằm trong tay nhạc sĩ, sự tìm chọn ca sĩ, tập luyện và cùng nhau đi thu băng chung cả là một công trình kéo dài cả tuần lễ, và nhạc sĩ vừa có quyền vừa thể hiện vai trò rất quan trọng trong tiến trình trình diễn... Cho đến khi “Chuyện Tình Lan và Ðiệp 1, 2, 3...” ra đời đã đánh dấu mức cực thịnh của những fans ái mộ và nhu cầu nghe, thưởng thức loại nhạc tình cảm gần gụi của Anh Bằng.

    Sau đó sáng tác “Chuyện Tình Trương Chi” tuy số thu có thua “Chuyện Tình Lan và Ðiệp” nhưng thính giả đại đa số vẫn khát khao thưởng thức và mua các bản nhạc giấy xuất bản với số lượng đáng kể, và số thu tài chánh đã vượt trội một ca khúc có tựa đề tương tự , đó là “Khối Tình Trương Chi” của nhạc sĩ thành danh Phạm Duy: Dù ca khúc ký tên Phạm Duy này là loại nhạc noble, được đánh giá sang cả, nhưng ít ai bỏ tiền ra mua nhạc giấy bài này, hoặc yêu cầu nghe qua các chương trình Phát Thanh Thương Mại thường nhật so với Anh Bằng.

    Trong khi các chương trình phát thanh thương mại, quyến rũ đông đảo thính giả, từ học sinh, thanh niên, bạn trẻ, quân nhân tiền tuyến, em gái hậu phương, cả giới lao động thợ thuyền, cả những bạn gái trẻ nhọc nhằn gánh nước cũng dành dụm đồng tiền khó kiếm, mua nhạc giấy hoặc dĩa nhạc Chuyện Tình Lan Và Ðiệp. Những tháng năm đó có phong trào “say mê” với các chương trình Phát Thanh Thương Mại, tư nhân là chủ tràn ngập những quảng cáo như ta vẫn thấy ngày nay rất nhiều ở Hoa Kỳ.Một trong những sáng tác mới và rất sung mãn mới được thu CD và DVD gần đây của Anh Bằng là “Khóc Mẹ Ðêm Mưa” qua tiếng hát Ðặng Thế Luân, Nhạc sĩ Anh Bằng tâm sự rằng: “Mẹ mất sớm, người anh thứ hai (bị Việt Minh ám sát từ sớm) khiến Anh Bằng lúc nào cũng chơ vơ nhớ và cần mẹ, nhưng đến khi người anh từ trần ngày 29 Tháng Tư, 2006, khiến nhạc sĩ Anh Bằng cảm nhận như một mất mát thật lớn lao đã xảy ra cho mình.” Nước mắt và xúc động rất chân thật nhiều tháng đã khiến cho ca khúc sống thật và thương cảm, gieo cảm xúc cho hầu hết người nghe qua ca khúc...





    Phong phú sáng tạo, nhanh chóng chinh phục trái tim của khán thính giả

    Tính tình kín đáo, thiện cảm của Anh Bằng khiến những “ông lớn” trong ngành âm nhạc tuyên truyền cũng chẳng bao giờ biết Anh Bằng chính là tác giả những sáng tác như Tiếc Thầm, và là tác giả những vở kịch được quân đội diễn nhiều nơi. Một tâm hồn nghệ sĩ tiềm ẩn biết bao thơ mộng mà bây giờ sau hơn 50 năm nhìn lại sự nghiệp, nhiều thính giả mới thầm thán phục thêm khi nghe những ca khúc lãng mạn chân tình như: Khúc Thụy Du, Anh Còn Yêu Em, Khóc Mẹ Ðêm Mưa.. Tiếc Thương trong DVD Lá Thư Chiến Trường muộn màng ra đời. Và đến nay, gần như không DVD Asia nào không có đóng góp tươi mới. Sáng tác kịp thời để mang tên Anh Bằng mà không được chờ đón.

    Trở lại với các sáng tác như bài “Hoa Học Trò,” là của Anh Bằng chứ không phải Trần Thiện Thanh, “Chuyện Giàn Thiên Lý” cảm nhận từ ý bài thơ Nhà Tôi của Yên Thao, hoặc Trúc Ðào, ý thơ của Nguyễn Tất Nhiên. Theo nhà văn Phạm Quốc Bảo:
    • “Chúng ta thấy các bài thơ dài thượt, khó bắt được âm điệu để diễn tả những ý thơ, thế mà qua tay nhạc sĩ Anh Bằng, ông tỏ ra rất dễ dàng nắm bắt được ý chính những rung cảm mạnh mẽ nhất, thô sơ nhưng gần gũi nhất, để người nghe sẽ nhớ ngay, hiểu ngay và có thể hát lại dễ dàng, họ sẽ yêu thích và ghiền... Và công lao chính là nhờ âm điệu của dòng nhạc tài hoa, dù chỉ cảm nhận một vài ý thơ, nhưng không bao giờ Anh Bằng quên trang trọng đề tên nhà thơ qua tác phẩm ấn hành.”


    Kiếm được một bài nhạc sẽ ăn khách rất khó, kiếm được một bài thơ hay trở thành ca khúc lại càng khó hơn nữa, nhưng Anh Bằng đã “đeo” cho bài thơ một đôi hia bảy dặm, nó đã bay bổng xa tới tận đâu đâu..“ Chỉ cần 32 trường canh,” ông đủ diễn tả cho thính giả biết tựa đề, nét lãng mạn và nội dung của bài thơ bài hát... và như ánh sét, nhanh chóng đi ngay vào tận mỗi trái tim. Ông biết trước loại nhạc nào quần chúng thích, kể cả vào những năm sau những đảo chính, chỉnh lý, biến động ở MiềnNam, người dân cần những tình cảm mới, nguồn xúc động tươi tắn, gần gũi, bình dị và trong thời điểm này có những sáng tác cho chiến dịch, như “Nửa Ðêm Về Sáng,” “Nửa Ðêm Biên Giới” như các khẩu hiệu cổ động, nó phát xuất từ Anh Bằng: Chỉ trong thoáng chốc ngồi ở bàn viết và liền được tung lên phát thanh, vang dội toàn quốc ngay sau đó...





    Triệu phú (thời VNCH) hãng dĩa Sóng Nhạc-Asia

    Nhạc sĩ Anh Bằng quá dầy kinh nghiệm phát hành, phân phối của trung tâm Dĩa Sóng Nhạc, từ những năm điều hành hệ thống âm nhạc ở các đài Phát Thanh Quốc Gia, cho tới các chương trình phát thanh thương mại. Cái nhìn viễn kiến của ông, theo lời anh Trần Văn Khải là
    • “nhìn ra biển rộng mênh mông chân trời bao la, và tiến mạnh, chứ không chỉ là cái nhìn nhỏ hẹp trong ao hồ nhỏ bé.”


    Cũng theo Anh Bằng:
    • “Âm nhạc và văn nghệ miền Bắc(1954-1975) chỉ có kho súng đạn, chiến đấu trong khi miền Nam là một kho tàng nhạc giá trị tình tự và nhân bản.”
    Dù trong một hai năm đầu lớp dạy nhạc Lê Minh Bằng khu nhà thờ Tân Ðịnh Sài Gòn, mới chỉ vừa đào tạo đã có được thêm Trang Mỹ Dung và Giáng Thu... cho các chương trình phát thanh kịp một năm trước khi miền Nam thất thủ vào Tháng Tư 1975. Ðó là những năm hợp tác tuyệt vời của bộ ba: Lê Dinh đến Canada (sinh năm 1934 - là viên chức trọng yếu phụ trách tân nhạc của Ðài Phát Thanh Sài Gòn), nhạc sĩ Minh Kỳ (1930-1975), đi tù và chếtAnh Bằng, trong cái tên ghép ba người: Lê-Minh-Bằng.
    Ra hải ngoại, Anh Bằng khởi nghiệp ban đầu với người cháu trai là nhà tổ chức ca nhạc Trần Thăng, chung sức lập ra Trung Tâm Dạ Lan khoảng năm 1984.

    Ông vốn sẵn có tài, cả hai có sáng tạo, và người cháu có tài chánh, nhiệt huyết và sáng kiến; nên những năm đầu tiên rất thành công đáng kể. Trong dịp này, Thy Vân cũng có hình mặc áo dài xanh nước biển in trên bìa băng cassette nhạc khi hát một vài ca khúc, nhưng sau đó Thy Vân biến dần vào lãnh vực tổ chức. Cô có ý muốn phát triển lớn rộng hơn, và Asia ra đời từ đó. Khi rời Dạ Lan cũng là lúc Thy Vân không còn hát và bắt đầu điều hành, phát triển Asia dưới sự hướng dẫn và công sức của thân phụ. Nhờ vậy, Asia đã lên rất cao.

    So sánh với vài nhạc sĩ có tiếng, có tài và thế lực giao tế rộng, sáng tác mạnh như Hoàng Thi Thơ, Phạm Duy nổi bật trong giới văn nghệ nhờ báo giới luôn nhắc nhở khen ngợi trước 1975, cũng phải chịu nhượng bộ, bó tay trong khung cảnh xa lạ xứ người... Từ đó mới thấy sự chọn lựa đúng lúc và có kế hoạch cũng như tài năng phong phú, nhạc sĩ Anh Bằng lớn lao vượt trội là như thế!

    Soạn nhạc để có người yêu mến, và có số thu tài chánh khó ai có thể ngờ tới... Không đáp ứng được quần chúng qua một vài ca khúc thì bị loại bỏ. Có lẽ như thế mà những ca khúc gần đây mới là cảm nhận nét lãng mạn, tài hoa, như mỗi loạt nhạc ra đời của Asia, và Anh Bằng nói riêng là thêm một đợt đón nhận mới, lạ kỳ! Nhạc sĩ Anh Bằng thập niên qua đã có góp phần viết script, chọn nhạc, soạn nhạc, cùng đóng góp ý kiến trong việc chọn ca sĩ và ca khúc... góp sức đưa Asia lên mức thành công rất cao. Tâm niệm của Anh Bằng là “đáp ứng quần chúng, muốn người nghe thoả mãn tâm sự của nghệ sĩ sáng tác;như vậy có nghĩa là tác phẩm đã thành công...” Cũng như khi lập ra lớp huấn luyện nhạc trước 1975, ông cũng có một lý do đặc biệt: “Vừa đào tạo, vừa tìm kiếm ra tài năng mới.”






    Ðối thủ trong âm nhạc của Anh Bằng? Có hay không?

    Ðã từng sống trong Lý Bá Sơ, từng đêm nghe tiếng cai tù đánh thức những người bạn đồng tù khác, thức dậy, trói ké, mang ra sân bắn hoặc mang đi điều tra hành hạ có lẽ là nỗi ám ảnh khôn nguôi trong đầu của nhạc sĩ... thiếu ăn, thiếu áo quần, thiếu một mảnh chăn đơn để che đắp cái rét giá tù đày... nhưng tác giả Anh Bằng luôn nở một nụ cười, không chua cay oán thù, dù “không bao giờ đội trời chung với chủ nghĩa và chính sách từ những năm trước 1954, và chủ nghĩa CS kéo dài những năm sau đó...” Ðối với người nhạc sĩ đầy tấm lòng nhân ái này, ông luôn có một nụ cười tươi tắn cho cuộc sống, hầu như không bao giờ ganh ghét.

    Không bận lòng với ai, chỉ phấn đấu say mê làm việc, thúc đẩy tự chính mình, nhưng luôn tươi tỉnh với một câu nói như giờ thúc quân (kinh nghiệm từ gian khổ).Ông thường thúc đẩy: “Khi làm việc thì phải tiến lên, phải “sắt máu,” ý của ông chỉ muốn diễn tả lòng quyết tâm. Ông không tranh giành với đồng nghiệp hoặc với một ai, vì bản tính chân chất hiền lành... nhưng có thể chỉ ngoại trừ với lập trường và vì lằn ranh trong cách sống? Theo ông, qua những lần thổ lộ ở tại xứ người, thì:
    • “Trong khi chúng ta cố mang lại những lạc quan, kêu gọi chiến đấu bảo vệ đồng bào, bảo vệ sự sống còn và nhân bản tại miền Nam thì lại có những người cố tình phản chiến, kêu gọi hòa bình bằng mọi giá như thể là họ luôn lên tiếng nói: chúng ta hãy đầu hàng đi!”


    Chế độ VNCH lúc ấy chẳng phải là không chặt chẽ trong chủ trương kiểm duyệt ca nhạc chiến đấu: Các ca khúc trước khi được in, được phát trên các đài phát thanh, hoặc trước khi được thu dĩa, đều trải qua những con mắt kiểm duyệt gắt gao. Vẫn theo ông “thậm chí có những sáng tác khi cho phát thanh, thu dĩa tạm gọi là “đầu Ngô mình Sở,” vì các con mắt kiểm duyệt, các sếp kiểm duyệt, mỗi viên chức, mỗi nhạc sĩ, thêm câu này, thay chữ kia, bớt, cắt chữ nọ, để thích hợp với chính sách... nâng cao tinh thần cùng chiến đấu.” Thế nhưng nói riêng về mặt tuyên truyền thì chúng ta làm sao mà cản nổi khi cứ 3 ca khúc phản chiến, kêu gọi buông súng thì chúng ta mới có kịp một sáng tác nỗ lực chiến đấu như của Anh Bằng, Duy Khánh, Trần Thiện Thanh, (một sáng tác chống tàn ác, bảo vệ tự do thì có ngay ba ca khúc phản chiến kêu gọi buông súng hòa bình mọi giá!!) khiến cán cân lực lượng tuyên truyền chúng ta bị xâm lấn bởi phe phản chiến, làm lợi cho đối phương... Chẳng hạn, khi Trịnh Công Sơn mô tả cảnh “các bà mẹ chết vì chiến tranh vì bom đạn” như một hơi hướng phản chiến, thì nhạc sĩ Anh Bằng lại ra đời ca khúc có những hình ảnh tương tự, nhưng dưới con mắt của một chiến sĩ đấu tranh có chính nghĩa cho tự do:”một bà mẹ ôm con chết trong tay mình nhưng cảm thông sự hy sinh chiến đấu của đất nước“là vì giặc phá hoại, và người dân Miền Nam, yêu chuộng tự do, nỗ lực “tự vệ.”.., hoặc nói lên nỗi khổ chiến tranh qua ca khúc “Nó,” hoặc Ðêm Nguyện Cầu...

    Ðiều trái nghịch là một số những kẻ thụ hưởng trong miền Nam tự do thì thích âm nhạc phản chiến, trái lại rất nhiều cán binh cộng sản và dân chúng miền Bắc lại ưa chuộng tìm nghe, chép chuyền tay những lời nhạc về “người mẹ ôm con chết vì bom đạn của kẻ chủ trương chiến tranh” của Anh Bằng, hoặc ca khúc “Nó” “Ðêm Nguyện Cầu,” “Nỗi Lòng Người Ði” để soi chiếu lại cuộc đời thời chiến tranh của họ quá nhiều bất hạnh: Các cán binh miền Bắc vẫn lén lút thích thú say mê ca khúc “Tôi xa Hà Nội năm lên 18 khi vừa biết yêu.”.. như những món hàng “độc,” được ưa chuộng và đánh giá cao... Phải chăng trước những trách nhiệm tự chọn qua cuộc sống dân sự, trong vai trò Tâm Lý Chiến, tác giả Anh Bằng cũng khác với Trịnh Công Sơn, mỗi người một cách diễn đạt. Theo lời anh Trần Minh:
    • “Nhạc Sĩ Anh Bằng muốn dùng nhạc của mình góp phần làm suy thoái tinh thần sát máu của các chiến binh sinh Bắc tử Nam, với ước mong miền Nam được yên bình, giặc từ Bắc không thể xâm lấn vô Nam...”


    Nỗi đau đớn này dằn vặt tác giả Anh Bằng, khiến ông giới hạn nhạc tình của mình để hướng vào góp phần trực tiếp hoặc gián tiếp qua những ca khúc ca ngợi cuộc chiến đấu cho tự do dân chủ.

    Có lẽ cho đến hơn ba thập niên, sau miền Nam thất thủ, tâm sự của nhạc sĩ Anh Bằng qua thổ lộ vẫn chưa nguôi ngoai... Lý do chỉ giản dị có thế... Theo lời đạo diễn Trần Thăng, Mây Productions - giám đốc/sáng lập Hollywood Night/ Dạ Lan nói: “Những người như ông, không ngại chống lại một chủ nghĩa sai lầm, với tiếng nói và tấm lòng chân thật.” Ông Anh Bằng vẫn có thổ lộ đôi lần: “Tương lai một đất nước Việt Nam rồi sẽ không còn CS,” hình như ông luôn lạc quan như thế: .”.. nhưng không hẳn chúng ta chỉ ngồi chờ đợi sự sụp đổ, ta phải góp phần tích cực thì ngày ấy sẽ đến” ... Một đời tận tụy, với trên 500 sáng tác, trong đó rung cảm của ông trải ra với độ 200 bài phổ thơ. Nhưng trên tất cả vẫn là một tấm lòng trọn vẹn với đất nước của một nghệ sĩ có lý tưởng, dù rất thành công nhưng xem ra ông vẫn thấy không được như mơ ước: Quân đội đã là lò luyện thép nhưng cũng là tháp ngà cho một số người khác kiêu binh. Anh Bằng đã hưởng những phúc lợi từ các lò luyện thép và có những người cũng đã “đứng dậy được” sau những “cú đấm Thôi Sơn” của vận nước mà không thiếu gì những người đã cũng như tiếp tục gục ngã, mà có mấy ai vững niềm tin “sau cơn mưa trời đã lại sáng”... Riêng Anh Bằng, như “người tù vượt ngục Papillon,” đã “đứng dậy được”...

    Và bao nhiêu năm đã trôi qua, nước chảy qua cầu, tác giả Anh Bằng với trái tim nhân ái, hiền lành từ thời tu học ở Ba Làng (cùng chất chứa đau thương ở Phương Ý-Lý Bá Sơ sau đó), tấm lòng với âm nhạc luôn tươi tắn, nhạc trữ tình Anh Bằng cuối đời vẫn thêm mới mẻ sang cả, ở một mức thưởng ngoạn cao vẫn đi vào từng trái tim, và ở lại lâu dài (so với sự đào thải nói chung... nhanh đến độ tàn nhẫn hiện nay của ca khúc sáng tác - nhất là tình trạng nhạc trong nước), qua một số sáng tác mang của Anh Bằng mãnh liệt và tồn tại lâu bền, vừa lòng mọi giới mộ điệu ở trình độ thưởng ngoạn khác nhau.





    Người biến những cô Tấm thành siêu sao diva nhạc Việt

    Ngày xưa ông đã sáng tác có “Chuyện Tình Lan và Ðiệp,” bây giờ qua Hoa Kỳ ông lại tiếp tục sáng tác có Chuyện Tình Hoa Sim, Chuyện Hoa Trắng, Chuyện Giàn Hoa Thiên Lý: Ðề tài cũ nhưng vẫn được đón nhận và hay vượt trội, ngoài ra còn có ca khúc, ý thơ của Nguyễn Tất Nhiên: Trúc Ðào... Tuy vậy những năm đầu khi chưa thành Trung Tâm Ca nhạc tại Hoa Kỳ, ông đã có những ca khúc sáng tác như: Huế Xưa, Cõi Buồn được đánh giá là cũng thu hút, nhưng không được hưởng ứng nồng nhiệt.

    Sang đây, Chuyện Tình Hoa Sim làm kỷ niệm vào nghề của Như Quỳnh, khi cô mới tới Hoa Kỳ. Ngày ấy, Như Quỳnh được nhạc sĩ Trúc Giang, thân sinh nhạc sĩ lắm tài Trúc Hồ (đang nối nghiệp tài năng nhạc Anh Bằng?) giới thiệu tại nhà thờ Tam Biên quận Cam-Cali, và cùng với dòng nhạc lãng mạn tình tứ, Như Quỳnh là mặt nổi của dòng nhạc Anh Bằng được đại chúng yêu mến.Những tài danh 10 , 20 năm qua, hoặc 40 năm về trước... và mới nay thôi cũng chỉ là một sự nối tiếp:Anh Bằng đã từng “khám phá,” từng giúp gò luyến láy những năm xa xưa cho Phương Dung, Thanh Thúy, Thanh Tuyền. Sự nổi tiếng của những tên tuổi này trong làng âm nhạc, từ trong nước đến hải ngoại, nói lên được rằng, cây đũa thần đủ sức “biến cô Tấm thành công nương” được hay không?

    Nơi đây, với nhạc sĩ Anh Bằng trong vài chục năm qua, câu trả lời là với “tên tuổi thành danh thường vẫn là một initial cho một bài mới sáng tác.” Khác với nhiều người nói chung - chưa kịp được khen ngợi đã bị loại bỏ - quên lãng, chính vì đó là những cái hay nổi rộ, ngay từ bước đầu, giống như chương trình thương mại Anh Bằng góp công sức ngày xưa thật khó khăn, nhưng thành công ngay. Ðịnh luật chung: Phải tài hoa mới được trao phó cho, để tạo được những bước nổi lên đình đám... Một ca khúc mới, một bài thơ mới, một tiếng hát mới, có nổi được trên sân khấu (hoặc có cơ hội bước được lên sân khấu) và được vang dội khắp nơi, cũng đã là chuyện khó.

    Tác giả Anh Bằng đôi lần thổ lộ rằng:
    • “Tôi không muốn tác phẩm bị cô đơn, lẻ loi trong âm nhạc, không muốn bài hát mình nghĩ là hay, mà chỉ dành riêng cho vài lớp người hoặc để nhằm chỉ đáp ứng giới người ưa thích xa vời và hiểu được. Khi đã sáng tác là ‘phải đụng tới một khối lớn đa số quần chúng yêu thích.’”
    Theo ông như lời tâm sự với nhà thơ Du Tử Lê và Nguyên Sa,
    • “Sẵn lòng xóa bỏ một sáng tác, khi nghĩ rằng sự ra đời ca khúc nào đó sẽ không chiếm được đa số quần chúng đón nhận, hiện còn nhiều sáng tác trong những năm qua, gần cuối đời những ca khúc ca ngợi tình yêu và vài bài Thánh Ca còn đang cất trong safe box.”


    Chính vì vậy mà ở kết hợp “Ý thơ cùng với mélody” phải vang vọng trong tâm tưởng, để thành một tác phẩm được ưa chuộng. Tác giả phải ngồi xuống bàn vào buổi chiều, có khi cạnh người cháu Trần Khải (hoặc Trần Thăng sau này là đạo diễn của Hollywood Night-Dạ Lan) cận kề tán thưởng: Những ngón đàn guitar dạo mélody của nhạc sĩ Anh Bằng, thường được tâm sự chia sẻ, chỉ trao đổi với vài người thân khi sáng tác vừa kết thúc... Nhưng ngược lại, hầu như ông không hề khuyến khích các người con ông theo ngành sáng tác âm nhạc? Không một lời giải thích của tác giả vì sao? Có thể các người con không có một quá trình dài học nhạc như ông tại Ba Làng, không có hoàn cảnh thúc đẩy cần thiết, không trải qua những kinh nghiệm lẫn thương đau?

    Và sáng tác tiếp nối sáng tác, trở thành tác phẩm được đón nhận, cung cách giản dị đắm say trong vài giờ viết nốt với chữ viết luôn trân trọng và đẹp (và ngày nay thì nhạc sĩ Anh Bằng sáng tác-gõ nốt nhạc rành rọt trên máy điện toán).Những bản nhạc ấy chẳng mấy lâu sau sẽ đồng loạt phổ biến xa rộng, và “một sớm một chiều” được hưởng ứng, ngưỡng mộ...

    Còn ngày nay, cung cách sáng tác không khác, ông dựa trên ý tưởng lời thơ, tươi vui bên phím điện toán... có khác chăng là Anh Bằng đi ngược lại với thời gian, sống lại với đồi sim tím mênh mang quê nhà thời còn đọc thơ Hữu Loan, tím cả chiều hoang biền biệt càng ngày nhạc càng thêm trẻ và căng đầy sức sống...

    Nhạc sĩ Anh Bằng thường tâm sự: từ kinh nghiệm học ở Ba Làng, ông được hun đúc sức sống và tận tụy làm việc mãnh liệt và cương quyết, hàng ngày còn trau dồi - học Anh văn nữa chứ!

    Còn bây giờ là lúc nhìn thấy các hậu duệ đã vững vàng trên đường sự nghiệp, thì ông bắt đầu thanh thản và an nhiên... Những năm lao động khổ sai, người tù Lý Bá Sơ, đói khổ là hành trang để ông thêm trân trọng tự do, nhân bản mà mình được hưởng ở Miền Nam, và ở cả bên ngoài nước Việt Nam ngày nay.

    Vẫn đi tiếp một quãng đời, khởi đi từ ca khúc “Tiếng Hò Sông Chu” và bản án tù Lý Bá Sơ, cướp mất thanh xuân, chàng trai Anh Bằng lúc nào cũng như mới lớn - tuổi 18, tươi tắn nhựa sống, dù nay ông đã bước qua khỏi sinh nhật thứ 81 trên vài năm rồi.



    nguồn: nguoi-viet.com
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20017
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Thi sĩ, Kịch sĩ ANH BẰNG

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  • Thi sĩ, Kịch sĩ ANH BẰNG
    __________________________________
    Diệu Tần






    Nhóm nhạc sĩ Lê Minh Bằng và nhạc sĩ Anh Bằng nổi tiếng, nhưng có lẽ ít người biết Anh Bằng còn là một thi sĩ và một kịch sĩ có tài.

    Chính Anh Bằng vốn ít nói, cũng ít nhắc đến những vở kịch thơ của anh sáng tác từ khi anh còn ở trong quân đội. Ngay từ cuối thập niên 50 anh đã sáng tác kịch thơ. Viết thoại kịch đã khó, vì kịch là một bộ môn nghệ thuật tổng hợp các bộ môn khác. Viết kịch thơ lại càng khó hơn. Thoại kịch diễn trên sân khấu hoặc diễn trong phòng thu tiếng thu hình, tuy phức tạp nhưng còn dễ hơn là viết và diễn kịch thơ. Những câu đối đáp bằng thơ, buộc tác giả phải ngắt câu thơ thành hai, ba đoạn cho các diễn viên. Nói chung là kịch thơ vừa phải giữ cho vở diễn có được chất thơ, vừa duy trì cho được tính chất kịch cũng phải tuân theo những quy luật, kỹ thuật của kịch. Chẳng hạn như đạo diễn phải chọn các diễn viên có tài diễn xuất lại vừa có giọng ngâm tốt, giọng ngâm truyền cảm.

    Những vở kịch thơ nổi tiếng từ thời tiền chiến như
    • Lên Đường; Kiều Loan của thi sĩ Hoàng Cầm với giọng ngâm số một thời đó là Văn Phú.
    • Rồi kịch thơ Vân Muội; Tâm sự kẻ sang Tần của Vũ Hoàng Chương tại Nhà Hát Lớn Hà Nội khoảng năm 1951, 52, nhà thơ họ Vũ còn thủ vai trong chính kịch do ông sáng tác.
      Sau này, tôi còn thấy hoạ sĩ Mai Lân (đã qua đời) cùng bà vợ cũng diễn vở Vân Muội năm 1953.






    Lần đầu tiên tôi gặp Anh Bằng là vào năm 1957 tại Huế.
    Với trách vụ trưởng phòng 5 Liên Đoàn Công Binh, hôm đó tôi ra sân đón ba ‘kịch sĩ” từ một đơn vị từ Quy Nhơn ra Huế. Đó là Trung sỹ Trần An Bường, hạ sĩ I Bích và cô Tuyết Nhung nhân viên dân chính. Anh Bằng người tầm thước, ít nói vẻ hiền lành, còn anh Bích trắng trẻo, hơi mập. Người tài xế chiếc xe dodge 4x4 hôm đó vô ý lùi xe cán vào chiếc máy thu thanh bán dẫn của Anh Bằng. Có lẽ anh cũng tiếc của, nhưng không tỏ vẻ gì giận dữ, nóng nảy. Vào năm đó chưa có nhiều máy thu thanh transistor, còn phần lớn là dùng radio chạy điện có những bóng đèn lớn, nên có câu nói đùa : ladô một đèn tức là lời đồn, tiếng đồn.

    Ngay từ khi đó tôi đã thấy được nét trầm tĩnh, hiền hoà, ít nói của anh. Anh Bằng có giọng nói trầm ấm, khi đã “nhập vai”, từ ngữ giới sân khấu cải lương và thoại kịch, tiếng nói anh thiết tha, say mê, lôi cuốn. Tôi đã đoán gần đúng anh người vùng Bùi Chu, Phát Diệm, sau mới biết anh gốc quê ở Thanh Hoá, sinh ở Điền Hộ, Ninh Bình. Anh thường có nụ cười nhẹ, riêng ánh mắt anh rất tươi. Ánh mắt nụ cười này có thể coi như đúng với nhận xét của nhạc sĩ Lê Dinh, là Anh Bằng có số đào hoa. Tài sáng tác nhạc, nụ cười theo với ánh mắt cũng cười, lời nói thiết tha của anh dễ đắm lòng người.

    Tôi được cho biết ba nhân vật từ Quy Nhơn lên có khả năng diễn kịch khá hay, có chút tiếng tăm về tài diễn kịch tại vùng biển dưới đó. Tôi mải lo tờ nguyệt san cho đơn vị nên không chú tâm lắm đến ban kịch mới được thành lập do anh Bường (tên thật của anh) đứng đầu. Coi như tôi giao hẳn ban kịch cho Anh Bằng, chỉ thỉnh thoảng ghé qua chổ tập dượt kịch. Bình thường anh không nói nhiều, nhưng khi tập kịch hoặc hướng dẫn anh chị em trong ban, anh lộ vẻ say mê, mắt anh sáng lên và nói khá nhiều. Khi học kịch và dượt lại cách đi đứng, cách biểu lộ tình cảm bằng nét mặt... tôi chưa thấy được cái hay của vở kịch. Ngay cả buổi tổng dượt trên một sân khấu tạm, tuy đã có trang phục các vai diễn, nhưng âm thanh và ánh sáng yếu ớt nên cũng chưa tạo được sự tin tưởng là sẽ thành công.

    Cho tôi được ghi chép ở đây những chi tiết về ban kịch LĐ Công Binh, cũng như chuyến đi Bến Hải, Hiền lương, chuyện Vùng phi Quân sự mùa hè năm 1957. Bởi trong Ban Kịch và chuyến đi đó có Anh Bằng, cái đinh của Ban Kịch. Hơn nữa anh đã là một lão trượng, tôi cũng chẳng trẻ trung gì, đều mắc tật hay quên, nếu không ghi lại cũng chẳng cò dịp nào nhớ lại được nữa.

    Chúng tôi đã đi lưu diễn bờ nam sông Bến Hải, làm công tác tuyên truyền của một đại đội võ trang tuyên truyền hoặc đại đội văn nghệ của Cục Tâm Lý Chiến... Các bạn nói đùa
    • ơi ngoa là nhờ có ban kịch mà dân Huế và dân chúng miền Trung biết đến Liên Đoàn 2 Công Binh Chiến đấu.
    Cho đến bây giờ một số các bạn sĩ quan lớn tuổi còn nhắc đến những kết quả đẹp của ban văn nghệ lính thợ, nghề tay trái của Công Binh ở Huế.

    Ban kịch chúng tôi
    • có tôi, trưởng đoàn,
      phụ tá là Anh Bằng với chừng mười người vừa nhà binh vừa dân chính.
      Anh Bằng là đạo diễn, thủ vai chính, và kịch bản cũng do anh soạn.
      Một nhiếp ảnh viên kiêm thủ vai ông già là Ngô Bá Nhượng,
      cô Tuyết Nhung,
      có các diễn viên phụ như HS I Bích,
      Hs Vương Đức Long thủ vai nữ khi cần,
      HS Bầu lo phông màn và chuyên thổi Harmonica bằng ...môi,
      một dân chính chuyên chơi đàn guitar điện, v.v...


    Tôi và Anh Bằng dẫn ban kịch ra Quảng Trị theo lời yêu cầu của tòa tỉnh địa đầu giới tuyến.
    Trên một xe GMC đã biến cải thành một sân khấu lưu động đi khắp lãnh thổ tỉnh như kẻ nhàn du, cưỡi ngựa xem hoa, nghĩ rằng vui tươi thoải mái như ngồi trên bánh xe lãng tử. Xe đến thị trấn Đông Hà (bây giờ là tỉnh lỵ Quảng Trị), chúng tôi dừng lại ăn cơm trưa. Đây là lúc chúng tôi bắt đầu hiểu được cái thời tiết khắc nghiệt Quảng Trị. Gió tây từ Kham-Muộn, Xà-vằn-nà-khẹt bên Lào thổi qua nóng hầm hập, khô khốc, tạt cát vào quần áo và thân thể, ngứa ngáy khó chịu. Chỉ nội thứ thời tiết kỳ lạ ngày thật nóng đêm rất lạnh cũng đủ cho chúng tôi hiểu được nỗi vất vả gian truân, nét oai hùng và nỗi oan khiên, kinh hoàng của các chiến sĩ và đồng bào sau này tại vùng lửa đỏ địa đầu giới tuyến.

    Chúng tôi vượt Hương Trà, Hương Điền, qua Hải Lăng đến thị xã Quảng Trị (bây giờ gọi là Triệu Hải).
    Ra đến sát sông Bến Hải và được phép bước lên đầu cầu, chúng tôi mới thực sự trực diện với người ngợm và lãnh thổ bên kia sông thuộc cộng sản.

    Tôi còn nhớ trên sân khấu nhỏ nền đất trên bờ sông vĩ tuyến 17 đêm đầu tiên tại Hồ Xá.
    Hai bên bờ sông chỉ cách nhau khoảng 300 mét, chúng tôi thấy rõ cảnh nghèo nàn của đồng bào bờ bên kia. Tuy chỉ qua bốn năm thôi, thôn xóm bờ Nam đã hồi sinh, trù phú mặc áo trắng, quần tây. Dân bờ bắc mặc quần áo màu chàm bạc phếch, không có bóng một chiếc xe đạp, chiếc xe gắn máy nào. Cán bộ cấp kha khá thì đi ngựa, trong khi Cảnh sát Dân sự bên này lái xe díp Wyllis màu xanh lá cây bóng loáng.

    • Tiện đây cũng nhắc sơ qua chuyện xưa để anh Anh Bằng nhớ lại,
      • chuyện thi đua có cột cờ cao hơn ở cây cầu Hiền Lương giữa Nam và Bắc.
      Bên này có cột cờ cao hơn thì bên kia sẽ nâng cột cờ cho cao hơn. Năm chúng tôi ra thăm cầu được cho biết cuộc thi đua đã chấm dứt. Nghe nói có một kỹ sư miền Bắc nhân vụ cột cờ cao thấp, lấy cớ phải lùi lại đứng ngắm xem cờ đỏ đã cao hơn cờ vàng chưa đã cố ý bước lui rồi quay đầ chạy qua vạch kẻ chia đôi cầu. Theo lệ của Ủy ban Kiểm soát Đình Chiến Quốc tế, hễ ai buốc qua lằn kẻ đó coi như đã chọn lựa miền. Chưa kể những chuyện vượt sông vĩ tuyến tìm tự do, khiến chúng tôi nhớ lại chuyện nhà văn Vũ Anh Khanh lỡ theo chủ nghĩa, rồi tập kết ra Bắc, sau đó giác ngộ, biết mình lầm vượt sông đã bị bắn chết giữa dòng.

      Chuyện khác nữa là
      • chuyện đua nhau sơn chiếc cầu lịch sử ranh giới Bắc-Nam, vào khỏang năm 61-62.
      Có lẽ nhằm mục đích tuyên truyền, diễn trò yêu chuộng hoà bình, cộng sản bất ngờ dở chứng sơn cầu. Chiếc cầu này vốn là loại cầu dã chiến Bailey một tầng kép, do quân Pháp phóng khỏang năm 52-53, có màu xám nhạt. Miền Bắc tập trung nhân công cho cạo rỉ sét trước và khởi sự sơn cầu. Miền Nam bị bất ngờ nhưng phản ứng kịp, chỉ kẹt nỗi khởi công sau, luống cuống việc cạo rỉ sét, cạo bằng thủ công thì rất chậm. Một chuyến máy bay quân sự chở cấp tốc những thùng dung dịch tẩy rỉ sét rất lẹ, Anh em Công Binh (lại Công Binh!) nhào vô xịt thuốc, gửi vũ khí ngoài vùng phi quân sự, lăn xả vào công tác xịt thuốc tẩy sét (bán rẻ rế ờ các tiệm True Value, Orchard) và dùng máy ép hơi cỡ lớn sơn xì vừa nhanh vừa đẹp. Nguyễn Văn Dần, bạn cùng khoá Thủ Đức với tôi chỉ huy công tác thi đua sơn cầu. Nhân công phía bắc, có lẽ cũng là bộ đội mặc áo dân thường, ngạc nhiên và tức tối vì không có thuốc tẩy xịt, rồi diễn ra vài cuộc đấu khẩu bất ngờ giữa người hai bên chiến tuyến.
      Rút cuộc Bắc chậm hơn Nam vì thua kém về kỹ thuật. Điểm khác nữa là màu sơn, Bắc sơn nửa cầu bằng màu xanh, ra điều yêu chuộng hòa bình, không hiếu chiến. Miền Nam không thể theo đuôi sơn tiếp nửa bên mình cùng màu xanh được. Cũng không thể sơn màu đỏ đối chọi , bởi đó là màu sắt máu, màu chết chóc, cuối cùng chiếc cầu mang màu nửa vàng, nửa xanh ngộ nghĩnh!!


    Ngay từ hồi chiều, chúng tôi đã nghe được bên đó có tiếng loa kêu gọi dân đi họp. Một cảnh sát dân sự cho biết đó là mánh khoé của bờ Bắc. Khi nào có những cuộc viếng thăm lớn của các phái đoàn Sài Gòn, chúng thường tập trung dân tại một điểm nào đó, không cho dân thấy đựoc phái đoàn bên này. Trái lại, chúng có tổ chức ban ngày những cuộc đấu bóng chuyền từ Hà Nội, Hải Phòng vào, chúng tôi để đồng bào tự do đứng coi. Đêm đó bên bờ Bắc không một người dân được đứng xem, chỉ có ba đốm lửa thuốc lá lập loè. Đó là mấy cán bộ đứng quan sát, nghe ngóng để lập báo cáo với “trên”

    Tại môt thôn hẻo lánh trên thượng nguồn con sông chia cắt, gần biên giới Lào-Việt chúng tôi đã có một kỷ niệm khó quên.
    Màn hai kịch Nát Tan diễn được nửa chừng đang hồi gay cấn thì trời đổ mưa, mưa mỗi lúc càng nặng hat hơn, diễn viên bị ướt lạnh, khán giả cũng bị lạnh vì đội mưa. Tôi vội nói qua micro
    • vì trời mưa quá xin tạm ngưng, bớt mưa chúng tôi sẽ xin tiếp tục.
    Khán giả lên tiếng liền:
    • Xin cứ diễn!
    Tôi nói
    • Chúng tôi sợ rằng đồng bào bị mưa ướt hết!
    khán giả hô to:
    • Không sao, chúng tôi chịu ướt quen rồi.
    Anh chị em kịch sĩ tài tử, tay ngang tuy rét run đã gồng mình diễn cho hềt vở kịch giữa những tràng pháo tay nồng nhiệt. Anh chị em tuy bị ướt lạnh nhưng trong lòng cảm thấy niềm tin yêu, hứng khởi ấm áp vô cùng. Đêm đó chúng tôi được thôn cho bồi dữơng cháo gà nóng hổi, thơm phức. Người phụ trách thông tin thôn cho hay chưa bao giờ dân thôn này được xem văn nghệ trình diễn kể cả thời VC có mặt tại đây và cũng chưa bao giờ được xem một vở kịch có ý nghĩa và xuất sắc đến thế. Sáng sớm hôm sau có hai bà già mang khoai , sắn luộc và cơm nắm đến đãi chúng tôi và yêu cầu ở lại diễn thêm một đêm nữa. Chúng tôi đành phải từ chối vì chương trình lưu diễn đã ấn định trước rồi.

    Tôi và Anh Bằng, qua nửa thế kỷ, cho tới bây giờ không còn nhớ chi tiết vở kịch thơ “Nát Tan” hai màn cũng như vở thoại kịch “Đứa Con Nuôi”, thoại kịch này đã đoạt giải nhất về Kịch nghệ do Bộ Thông Tin tổ chức. Tôi và Anh Bằng cho đến nay chỉ còn nhớ nội dung chính...
    • Bi kịch thứ nhất mô tả mảnh đời một anh vệ quôc quân bị thương, phải đi nạng, anh đã hiểu mỉnh bị lừa bịp, bị lợi dụng. Về tới nhà đúng lúc một tên cán bộ xã đang đòi cưỡng ép vợ anh, trong lúc chị ta còn bế đứa con nhỏ. Kết cục là anh ta giết tên kia, đốt mái lều và cùng vợ chạy trốn đi tìm tự do.
    Vỏ kịch này đựơc trình diễn lưu động từ Cam Lộ rồi vào Hương Hoá, rồi trở ra theo quốc lộ 1 ngựơc lên vùng phi quân sự.

    Còn vở thoại kịch Đứa Con Nuôi diễn lại
    • chuyện một gia đình giàu có, nhân từ có môt đứa con nuôi, thương nó như con đẻ. Nó trở thành một cán bộ trở về làng đấu tố cha mẹ nuôi. Nó đòi lấy con gái út của vợ chồng nạn nhân sau đó là những tình tiết éo le, ngang trái và sau cùng đạo lý, tình thưong đã thắng gian tà.
    Kịch Đứa Con Nuôi đã đựơc trình diễn ra mắt tại bến Thương Bạc tại Huế thành công rực rỡ. Chúng tôi dự định chỉ diễn một đêm thôi, nhưng theo đề nghị của ty Thông Tin Huế và được khán giả yêu cầu nồng nhiệt, anh chị em phải diễn liên tiếp ba đêm. Anh chị em ban kịch mệt đừ, bù lại là niềm vui, được thấy rõ tinh thần thù ghét cộng sản được hoan nghênh quá sức.
    Khán giả miền Trung khó tính hơn khán giả miền Nam, khán giả Huế còn kỹ tính hơn nữa. Khán giả cho biết là quá chán những màn hài kịch vô thưởng vô phạt, nghèo nàn nhạt nhẽo kiểu hâm nước mắm, thiếu nội dung chống cộng. Người mệt nhất vẫn là Anh Bằng, anh đóng vai chính, tinh thần căng thẳng, phải nói, phải la hét, phải vận dụng trí não, tài năng mức tối đa.

    Có tận mắt chứng kiến phản ứng náo nức, hừng hực căm hờn chủ nghĩa hoặc sâu lắng trầm tư, những giọt lệ của khán giả vùng giới tuyến , Thừa Thiên vào đến những thôn xóm xa xôi vùng trước đây chịu sự cai trị sắt máu chế độ như Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định,... mới thấy lòng dân năm 57, 58 ủng hộ tự do dân chủ ra sao. Có đi sâu sát, lăn lộn với đồng bào nông thôn mới thấy được tinh thần chống cộng của dân chúng, lòng yêu mến người lính cộng hòa lên cao đến mức nào. Nhận xét này có anh Anh Bằng và anh chị em trong ban kịch nhận biết rõ sau hơn một tuần ngắn ngủi sống sát đồng bào.

    Như trên tôi đã dẫn, viết thoại kịch để diễn trên sân khấu đã khó , viết kịch thơ để diễn khó hơn, thủ vai chính diễn kịch thơ loại tranh đấu càng khó hơn nữa. Anh Bằng đã thực hiện thành công được chuyện đó. Tôi nghĩ là nhờ khán giả thời bấy giờ hưởng ứng, tán thưởng với tâm lý, tâm thức như đã nói ở đoạn trên. Càng về những năm sau, tâm lý, tâm thức đám đông, rõ hơn là lập trường, quan điểm đã biến chuyển. Lỗi đó không phải do sai lầm của đám đông mà là lỗi của những người có trách nhiệm.

    Tiếp theo chuyến đi đó, theo yêu cầu của các đại đội Công Binh miền Trung, ban kịch đi lưu động suốt từ Huế vào đến Quy Nhơn.
    Cũng từ đó Anh Bằng được các Ty Thông Tin biết tiếng, quý mến và Đại đội 2 Văn nghệ thuộc Nha CTTL nghe danh. Sau cùng thì anh được gọi vào Biệt Đoàn Văn nghệ trung ương của Nha (thời đó chưa mang tên Tổng Cục CTCT).

    Tôi đi tu nghịêp, rối đến Anh Bằng nhận lệnh vào Sài Gòn, ban kịch dần dần tan rã.






    Sau này người viết kịch và diễn kịch Trần An Bường nổi tiếng Quân Khu I trở thành một nhạc sĩ tiếng tăm, khi không còn khoác áo nhà binh. Anh gặp đúng thời cơ, môi trường thuận lợi ở Sài Gòn, càng hoạt động, sáng tác nhạc mạnh mẽ. Trong các đơn vị công binh dạo đó đều công nhận anh đã góp rất nhiều công sức, tài năng, anh là diễn viên nòng cốt, một đạo diễn trong ban kịch, năng khiếu văn nghệ của anh phát triển ngay từ bước khởi đầu này.

    Nhạc của anh, nhất là nhạc hùng, nhạc chiến tranh đầy kịch tính. Thí dụ rõ nhất là Huynh đệ chi binh, hơi nhạc hùng mạnh, dứt khoát và biến chuyển mau lẹ như những “xen” đột biến trình diễn trên sân khấu. Chỉ riêng bài hát ấy lời và nhạc đơn giản nhưng đã nói lên tâm hồn nhân ái rộng mở của anh, nói đến tình bạn chiến đấu, tất cả đều là anh em, kể từ Binh Nhì lên đến Đại Tướng.

    Trong 86 bản nhạc của tác giả Anh Bằng phần lớn là thơ phổ nhạc, nói cách khác là đưa nhạc vào thơ. Thơ của các thi sĩ nổi danh từ tiền chiến cho đến những áng thơ của các nhà thơ sau 54 cho đến nay tại xứ người. Nếu tính kỹ ra có lẽ đến 50 bản nhạc là chính lời thơ của anh. Thơ và nhạc, nhạc với thơ đã trộn lẫn nhau, quấn quýt nhau không rời. Đó là đặc điểm cõi thơ, cõi nhạc sâu sắc, thâm trầm của Á Đông. Do đó tôi nghĩ rằng thơ làm cho nhạc lãng mạn, bay bổng hơn, nhạc đã khiến thơ nổi lên bằng âm thanh trầm bổng, du dương, réo rắt. Và cũng có thể nói muốn sáng tác nhạc hay nên biết, phải biết làm thơ. Một bản nhạc hay, nhưng nếu nhạc sĩ mượn thơ thi sĩ thì bản nhạc mới chỉ có một nửa hay hai phần ba của nhạc sĩ còn phần còn lại là của thi sĩ kia. Năm mươi bài thơ của Anh Bằng, thí dụ chưa phổ nhạc, có thể in thành tập thơ nho nhỏ, và giá trị nghệ thuật thơ không kém ai.

    Chúng ta hãy ngâm, ngâm nga thôi đã, khoan hãy hát, những lời thơ của “Thi sĩ Anh Bằng’ thơ tình yêu rất nồng nàn:

    • Anh! Tình em như lửa cháy
      mà anh vẫn lạnh lùng
      Vẫn như mùa đông tuyết rơi
      Anh! bây giờ anh ở đâu
      Em gọi trong giấc mơ
      Em buồn trong gió mưa
      (Anh không lại)


    Anh Bằng làm thơ lồng tình quê hương với tình yêu nam nữ, thơ 4 chữ rất mới và hay có thua gì thơ Phạm Thiên Thư:

    • Vào đây tiểu thư, ngồi trong lớp học
      Đắp đôi tay ngà trên bâu áo bạc
      Mang ngoài nắng vào, tà dài mấy nhịp
      Qua cầu gió bay, qua cầu gió bay
      .......................
      Em mang áo dài, đi hài xám tro
      Anh nhìn ngẩn ngơ, ơ, ơ, ơi tình
      Anh nhìn ngón chân, như là hoa hậu
      Như là quê hương, như là quê hương
      (Áo dài quê hương)


    Phần lớn thơ nhạc Anh Bằng tán tụng tình yêu, nhưng là người đã khoác áo chiến binh, anh có những áng thơ diễn tả nét bi hùng của chiến tranh:

    • Chuyện một đêm khuya, nghe tiếng nổ vang rền
      Chuyện một đêm khuya, ôi máu đổ lệ rơi
      Chuyện một đêm khuya, nghe tiếng than trong xóm nghèo
      Mái tranh lửa cháy bốc lên ngun ngút trời cao
      Bà mẹ đau thương như muối đổ trong lòng
      Chạy giặc ôm con qua những cảnh lầm than
      (Chuyện một đêm)


    Man mác trong thơ nhạc Anh Bằng là nỗi nhớ quê hương đất nước:

    • Màu trăng nơi đây
      Đục hơn trăng Sài Gòn nhiều
      Trời đêm lặng sao
      Nhưng khác trăng Sài Gòn nhiều
      Biết không anh, biết không anh
      Ở đây trăng sao rất buồn, rất buồn
      (Cõi buồn)


    Nếu Anh Bằng không gặp môi trường thuận lợi về lãnh vực nhạc, tôi có thể nói rằng, giả thử gặp môi trường, gặp bạn bè bên sân khấu kịch nghệ hoăc giới “mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây” biết đâu anh chẳng nổi danh kịch sĩ, thi sĩ?

    Hiện nay anh ở dưới nam California an hưởng tuổi già, sau những thành công tốt đẹp trong lãnh vực âm nhạc. Nay anh đã 85 tuổi, tinh thần minh mẫn, vẫn yêu đời ,vẫn chú ý đến ca nhạc, vẫn thích nói chuyện với bạn bè. Nhưng anh có gửi điện thư cho tôi biết mắt anh kém lắm, tai nghe cũng khó khăn dù đã có máy trợ thính, nên anh nói đùa với bạn bè: “Nghe tôi nói thôi, đừng có nói với tôi, vì tôi không “thèm” nghe đâu”. Muốn nói chuyện với anh, ở xa thì dùng máy vi tính, gặp gỡ thì người đến thăm phải viết ra giấy kiểu bút đàm một chiều.

    Tôi rất quý mến Nhạc sĩ, thi sĩ, kịch sĩ Anh Bằng, đa tài, năng khiếu vượt trội.
    Tôi rất quý mến Anh Bằng một người bạn, một cộng tác viên nhiệt tình, một người anh lớn tuổi trong văn học nghệ thuật, ngoan đạo, hiền hoà, yêu đời, yêu người.



    cothommagazine.com
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20017
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Anh Bằng

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  • ANH BẰNG và TÔI
    ________________
    Lê Dinh - 2008




    Đầu năm 1966,
    một ngày vào khoảng giữa trưa, lúc tôi đang làm việc trong phòng Sản Xuất, đài Phát thanh Sài Gòn, có một anh quân nhân, mặc sắc phục, lên lầu tìm gặp tôi. Nhìn người khách lạ không quen biết, nhưng qua phù hiệu của Biệt đoàn Văn nghệ, tôi cũng đoán được đây là một người thuộc giới văn nghệ. Anh tự giới thiệu anh là nhạc sĩ Anh Bằng. Qua cái bắt tay thân thiện chào hỏi, anh mở tờ giấy cuộn tròn đang cầm trên tay - đó là một bản nhạc - đưa tôi xem để nhờ tôi "lancer" giùm. Chữ "lancer" trong giới nhạc sĩ sáng tác, được coi như là phổ biến.

    Tuy không quen với Anh Bằng trước đây, nhưng tôi rất có cảm tình với cái tên Anh Bằng, và ca khúc "Nếu vắng anh" của anh, viết theo ý thơ của Nguyên Sa, đã được giọng ca tha thiết của Lệ Thanh gửi vào lòng nhiều thính giả, trong đó có tôi.

    • "Nếu vắng anh, ai dìu em đi chơi trong chiều lộng gió
      Nếu vắng anh, ai đợi chờ em khi sương mờ nẻo phố
      Nếu vắng anh, ai đón em khi tan trường về
      Kề bóng em ven sông chiều chiều, gọi tên người yêu..."


    Với cảm tình sẵn có, tôi vui vẻ mời Anh Bằng ngồi để nói chuyện về bài nhạc mới mà anh đưa tôi xem để nhờ phổ biến. Nơi tôi làm việc được coi như là nơi gặp mặt của tất cả các anh chị em văn nghệ sĩ, từ các trưởng ban cho đến các ca sĩ, nhạc sĩ tân cũng như cổ nhạc, các nhạc sĩ sáng tác, nhạc công, kịch sĩ, thi sĩ... cộng tác với đài phát thanh. Theo một lịch trình đã định sẵn, các vị trưởng ban tân nhạc, cổ nhạc Trung Nam Bắc, thoại kịch, ca kịch, các ban thi văn... cùng các nghệ sĩ trong ban của họ lần luợt đến đài để thu thanh trước những chương trình sắp phát thanh. Các nghệ sĩ bạn bè đến sớm, trước giờ thu thanh vài mươi phút, cũng thường đến phòng tôi nói chuyện, hoặc thi thoảng, lúc rỗi rảnh, tôi cũng bước qua phòng vi âm để trò chuyện đôi câu với anh chị em ca nhạc sĩ. Vì vậy nên tôi có cơ hội được quen biết tất cả anh chị em nghệ sĩ cộng tác với đài Phát thanh và việc đưa một sáng tác mới để nhờ ca sĩ hay trưởng ban "lancer" giùm cũng không khó khăn gì. Vã lại, các ban nhạc cũng cần những sáng tác mới hay, để thay đổi món ăn, không làm nhàn chán tai thính giả.

    Trở lại bài hát vừa viết xong của Anh Bằng, đó là bài "Hẹn anh đêm nay", một bài hát rất buồn, viết với âm điệu Si thứ, và là lời nhắn nhủ của một cô gái gửi cho người yêu là một quân nhân sắp trở ra chiến trường ngày hôm sau, sau khi hết hạn phép... Tình bạn giữa Anh Bằng và tôi bắt đầu từ lần gặp gỡ đầu tiên này. Và rồi ngay chiều hôm đó, chúng tôi hẹn nhau đến nhà Minh Kỳ để tôi giới thiệu Anh Bằng với Minh Kỳ, người tôi quen biết từ nhiều năm rồi.

    Lúc mới bắt đầu biết nhau, chúng tôi đều có những sáng tác riêng rẻ và cũng được nhiều người biết đến.
    • Minh Kỳ, người lớn tuổi nhất, đã có những bài như
      • Nha Trang, Nhớ Nha Trang, Nha Trang chiều mưa, Chị Hằng, Xuân đã về...

      Anh Bằng đã có
      • Nếu vắng anh, Lẻ bóng...

      còn tôi, giới ngưỡng mộ cũng biết tôi qua những ca khúc
      • Tấm ảnh ngày xưa, Ga chiều, Cánh thiệp hồng, Ngang trái, Tình yêu trả lại trăng sao...
    Tuổi tác của chúng tôi xấp xỉ nhau, khuynh hướng sáng tác cũng gần giống nhau, cho nên chúng tôi dễ kết thân với nhau, và từ đó đi đến việc thành lập Nhóm Lê Minh Bằng (tức 3 tên Lê Dinh, Minh Kỳ, Anh Bằng ghép lại), mở lớp nhạc và làm cố vấn cho hãng đĩa Sóng Nhạc của ông Nguyễn Tất Oanh ít lâu sau.

    Anh Bằng, tên thật là Trần An Bường, sinh năm 1927 (Đinh Mão) tại Ninh Bình. "An Bường" nếu đọc lên cũng nghe trài trại như "Anh Bằng" và vì vậy anh lấy biệt hiệu là Anh Bằng, và đó cũng là một sự khôn khéo, ai gọi Anh Bằng, dù lớn tuồi hơn, cũng phải kêu anh bằng "anh": Anh Bằng. Tính anh rất hiền lành, bãi buôi, vui vẻ nhưng, so với chúng tôi, anh rất ít nói. Mà những người ít nói thường hay được lòng của phái nữ. Anh lại có duyên dáng trong lời nói, cái duyên dáng đáng yêu đó đã bộc lộ trong một số lời ca của anh. Chúng ta còn nhớ:

    • "... Từ lâu, tôi biết câu thời gian là thuốc tiên
      Đời việc gì đến sẽ đến
      Những ai bạc bẽo mình vẫn không đành lòng quên". (Sầu lẻ bóng)


    Hoặc như:

    • "Đời như cánh chim bay ngàn phương
      Chia tay rồi đây, mỗi người đi một đường
      Chuyện tâm tình thôi đành dở dang,
      Siết tay nhau một lần, kết chặt tình bạn thân.
      Chúc nhau, nâng ly lần cuối
      Cầu mong cho bọn mình tuy xa mà tình chẳng rời
      Quên buồn, quên sầu tìm vui mà sống
      Nhớ nhau, mỗi năm thu sang về đây ba đứa nghe mưa chiều thu" (Ly cà phê cuối cùng)


    Trong việc giao thiệp hàng ngày, anh cũng thuờng ít xuất hiện và nếu có xuất hiện cũng thường hay làm thinh và nếu nói thì những lời nói nào anh đưa ra cũng duyên dáng và vì lẻ đó mà anh rất... đào hoa. Bạn bè thường bảo rằng anh có duyên ngầm. Vì cái duyên đó mà có rất nhiều cô mến anh, thích anh và rồi yêu anh, và anh cũng yêu lại người ta, nhưng anh không bỏ bê gia đình, vẫn chăm lo, săn sóc người vợ anh cưới từ khi chưa di cư, ở thị trấn Điền Hộ, tỉnh Ninh Bình. Bỏ quê hương, anh cùng gia đình vào Nam tìm tự do sau hiệp định đình chiến, chia đôi đất nước năm 1954. Năm 1975, thêm một lần nữa chạy trốn Cộng sản, anh di tản trước cùng cô con gái nhỏ và những cậu con trai, và vừa khi đủ điều kiện để bảo lãnh gia đình, anh đã bảo lãnh vợ và con gái qua Mỹ để sống hạnh phúc cho đến ngày nay. Ở địa hạt tình cảm, Anh Bằng là người trái ngược với Minh Kỳ, cho nên chúng tôi thường hay nói Anh Bằng là người ướt át nhất và tuy là người tình cảm mà không mất cảm tình khi vì hoàn cảnh, chia tay với ai đó bởi vì anh đã "nhắn nhủ" qua bài "Sầu lẻ bóng":

    • "Người ơi, khi cố quên là khi lòng nhớ thêm...".


    Hờn giận người ta thế nào được khi người đó vẫn còn nhớ đến mình.




    Trong vấn đề sáng tác, bộc lộ sự thương yêu qua lời ca tiếng nhạc là chuyện thông thường của người nhạc sĩ sáng tác, nhưng anh cũng thường hay bộc lộ sự hờn giận qua nét nhạc và lời ca. Ca khúc "Người thợ săn và đàn chim nhỏ" của nhóm Lê Minh Bằng, mà chúng tôi ký dưới tên Vương Đức Long, lời ca do Anh Bằng viết, để nói lên việc đối xử không mấy tốt đẹp - đôi khi hơi tàn bạo - của một vài cảnh sát viên, tuy nói là bạn dân, nhưng thường hay có thái độ hằn học, không đẹp với dân chúng, đặc biệt là người xử dụng công lộ và nhất là những phụ nữ mua gánh bán bưng... Trong óc tưởng tuợng của anh - người cảnh sát không phải là bạn dân - khi có cây súng trên tay, như người thợ săn và hà hiếp dân chúng mà anh so sánh như đàn chim, để rối anh viết lời ca:

    • "Một người thợ săn âm thầm mang súng lang thang vào rừng
      Còn một bầy chim vô tình vẫn hót líu lo đùa chơi
      Nào ngờ thợ săn đang cầm cây súng bắn lên cành cây
      Chim chết chim lạc bầy..."


    Trong một phút hờn dỗi ông Giám đốc hãng đĩa Sóng Nhạc - hãng đĩa mà anh em chúng tôi cộng tác - anh có ý nghĩ để lời ca sau đây vào bài "Trở về cát bụi" của nhóm Lê Minh Bằng, coi như lời nhắc nhở ông Nguyễn Tất Oanh trong tư cách đối xử với anh em - qua lời ca - như sau:

    • "... Sống trên đời này, có đây rồi lại mất
      Cuộc sống mong manh, nhắc ai đừng đổi trắng thay đen
      Làm người sang giàu, đừng vì bạc tiền bỏ nghĩa anh em..."


    Trong công cuộc làm ăn, đôi khi cũng có những sự hiểu lầm, những vướng mắc nho nhỏ, cho nên chuyện lủng củng giữa anh em chúng tôi với ông Giám đốc hãng đĩa Sóng Nhạc cũng không tránh khỏi. Một người hờn giận, không nói ra mà chỉ bày tỏ bằng lời ca, nhưng ông Sóng Nhạc nào có biết, tuởng đâu rằng nhóm Lê Minh Bằng viết bài "Trở về cát bụi" không phải để "nhắn nhủ" mình, mà là một bài ca nghiêng về giáo lý của nhà Phật, cuộc đời là hư không, khi nhắm mắt không đem theo được gì. Và ca khúc "Trở về cát bụi", được coi như một "lá thư ngỏ" gửi ông Nguyễn Tất Oanh lại là một bài hát đem lại cho ông khá nhiều về tài chánh qua số đĩa hát tiêu thụ, với giọng ca thu đĩa lần đầu tiên của Elvis Phương và sau đó, tiếng hát của Thế Sơn làm sống lại ca khúc này ở hải ngoại.

    Cũng nằm trong ý nghĩ lồng vào bài hát những lời cảnh tỉnh con người, như một bài ngụ ngôn, Anh Bằng có soạn riêng ca khúc "Huynh đệ chi binh" để - theo lời anh nói - gián tiếp khuyên mấy ông "chóp bu nhà mình" đừng có xào xáo nhau nữa, mà phải họp sức chung lo chống kẻ thù chung là CS. Mà thật vậy, sau cuộc đảo chính Tổng thống Ngô Đình Điệm năm 1963, liên tiếp trong nhiều năm sau, tình hình chính trị miền Nam thật vô cùng rối ren. Nay đảo chính, mai chỉnh lý và nhất là vào giai đoạn cuối của đất nước, hai vị Tổng thống và Thủ tướng, đều là người của quân đội, đã không đoàn kết với nhau mà lại còn hục hặc nhau luôn, cho nên Anh Bằng mới viết ca khúc "Huynh đệ chi binh", mong rằng sẽ đến tai các ông quan lớn nhà binh này:

    • "Huynh đệ chi binh là gì hở anh Hai
      Huynh đệ chi binh là..., là... huynh đệ chi binh.
      Từ người đơ dèm cùi bắp
      Và rồi đi lên thượng cấp đều là huynh đệ chi binh.
      Tiến thối có nhau là huynh đệ chi binh
      Sướng khó có nhau là huynh đệ chi binh..."



    Nhạc sĩ Anh Bằng


    Năm 1979,
    khi gia đình chúng tôi định cư tại thành phố Montreal được gần 1 năm, Anh Bằng cứ tha thiết bảo tôi bỏ tất cả ở Canada để qua bên Mỹ, tái lập lại tên Lê Minh Bằng (mặc dù chỉ còn 2 người) với lý do anh muốn hoạt động lại trong ngành âm nhạc, xuất bản, ra băng đĩa và tổ chức nhũng chương trình nhạc hội. Anh nói anh ít ăn ít nói, không có tài xã giao, ít giao thiệp mà chỉ biết có sáng tác thôi cho nên anh muốn tôi qua để làm cái đầu tàu hoạt động trở lại như ngày trước. Nhưng đi thế nào được khi mà ở bên này, gia đình chúng tôi cũng đã ổn định được đời sống một phần nào rồi, vợ chồng tôi đều đã có việc làm, 3 đứa con cũng đã vào trường... cho nên tôi không làm theo lời yêu cầu của Anh Bằng. Lúc đó là Anh Bằng đang dùng nhà để xe của anh để làm phòng thu thanh và đã thực hiện những băng cassette với tên Lê Minh Bằng, để cho Trung tâm Thanh Lan (Thanh Lan lớn, có cửa hàng băng nhạc ở Bolsa) độc quyền phát hành, rồi sau đó anh đổi tên nhà sản xuất thành những tên như Sóng Nhạc, Dạ Lan rồi Asia và những băng cassette này rất được thính giả ái mộ cho nên thương hiệu của Anh Bằng càng ngày càng phát đạt cho đến khi chị Anh Bằng và cô con gái Thy Vân qua, anh mới đi đến thực hiện chương trình sản xuất Video Asia trước kia và DVD Asia bây giờ.

    Bước sang lãnh vực thực hiện Video, với sự góp sức của chị Anh Bằng và Thy Vân, thương hiệu Asia tiến lên thấy rõ, một phần nhờ lúc đó chưa có nhiều công ty khác ra cạnh tranh, một phần, Anh Bằng là nhạc sĩ sáng tác cho nên bài bản chủ lực vẫn trội hơn hết và ngoài ra anh còn có một số vốn rất phong phú là những sáng tác của Lê Minh Bằng. Công việc của Trung tâm Asia tiến triển rất khả quan, nhưng từ khi chồng của Thy Vân là Bạch Đông, người phụ trách kỹ thuật cho Trung tâm Asia ly dị với vợ và càng ngày tuổi già càng chồng chất, Anh Bằng đã không còn giữ vững tay lái con thuyền Asia nữa, hay nói một cách khác là Anh Bằng đã dần dần không còn chủ quyền trong mọi sự xếp đặt của Asia. Cũng từ đó, Anh Bằng thường hay thố lộ với tôi rằng, tuy anh là người sáng lập ra Trung tâm Asia nhưng thật ra anh không còn quyền quyết định trong công việc Asia. Quyền này giờ đây là do cô con gái Thy Vân của anh và những người cộng tác với Asia. Sáng tác mới anh làm có cả trăm bài, vẫn nằm trong hộc tủ đó, Asia muốn lấy bài gì cho vào chương trình thì lấy, anh cũng không chú ý tới.




    Viết đến đây, tôi rất thông cảm những sự khó khăn của những nhạc sĩ mới bước vào con đường sáng tác, trong việc phổ biến những ca khúc của mình. Trước năm 1975, muốn phổ biến một sáng tác mới, không quá khó khăn như bây giờ. Một nhạc phẩm vừa hoàn tất, được một ca sĩ quen biết trình bày một vài lần trong phòng trà, vũ trường, đại nhạc hội hay trên Đài Phát thanh Saigon, hoặc đài Quân đội hay tốt hơn hết là đài Truyền hình và, nếu là bài hay, thì có tiếng vang ngay. Các ông chủ nhà xuất bản nhạc chạy đua, tìm đến tác giả để hỏi mua bản quyền xuất bản, vì nếu không mua nhanh thì sẽ có nhà xuất bản khác tranh giành mua trước. Nếu bài không được hay thì cũng sẽ xuất bản được nhưng chậm hơn vì phải để cho thính giả có thì giờ thẩm định và cũng phải có thì giờ để cho bài nhạc ngấm dần vào lòng của thính giả. Phương tiện phổ biến một ca khúc mới truớc 1975 rất đa dạng, từ đài phát thanh đến đài truyền hình, từ phòng trà đến vũ trường, đến đại nhạc hội. Còn ngày nay, ở hải ngoại, phương tiện phổ biến những sáng tác mới chỉ nằm võn vẹn trong tay vài ba trung tâm mà trung tâm nào cũng đôi ba tháng mới sản xuất được một chương trình. Hơn nữa, những trung tâm này còn dành chỗ cho một số nhạc sĩ sáng tác của bè bạn, thân hữu của họ. Thật vậy, việc phổ biến những sáng tác mới ở hải ngoại vô cùng khó khăn. Có nhiều anh em nhạc sĩ sáng tác mà tôi quen biết, có nhiều bài rất hay, chỉ thu CD, in ra vài chục đĩa, để tặng bạn bè và nghe chơi hoặc để làm kỷ niệm thôi, chứ khó mà phổ biến đến quảng đại quần chúng như trước 1975. Vì vậy, một nhạc sĩ mới nào tìm được một chỗ đứng dưới mặt trời hải ngoại này thật là đáng khen. Câu "vạn sự khởi đầu nan" không lúc nào đúng bằng khi đem áp dụng vào trường hợp này. Thảo nào, trong hơn 30 năm nay, ở hải ngoại, chúng ta chỉ thấy được có vài ba nhạc sĩ mới, được giới thưởng ngoạn biết tới, nổi tiếng với chỉ một vài bài. Phương tiện phổ biến hạn chế đến mức tối thiểu như vậy cho nên khó mà tìm ra được một Lam Phương, một Y Vân, một Trúc Phương... của giữa thập niên 50 bước qua 60, hay một Trần Thiện Thanh, một Song Ngọc, một Thanh Sơn... của những thập niên 60, 70. Đáng buồn cho các nhạc sĩ mới "sinh bất phùng thời", nếu mà Cộng sản miền Bắc không chiếm miền Nam thì giờ đây, những sáng tác của họ đã vang vang khắp nơi, từ sông Bến Hải đến mũi Cà Mau.

    Sức sáng tác của Anh Bằng rất sung mãn. Sau khi ra khỏi nước, anh viết riêng một mình những ca khúc mới mà chúng ta đã nghe và không thể nào quên được như
    • Khúc thụy du (thơ Du Tử Lê), Cõi buồn, Mất nhau mùa Đông, Tango dĩ vãng,
    rồi ít lâu sau, một loạt bài phổ thơ như
    • Chuyện giàn thiên lý, Hồi chuông xóm đạo, Bướm trắng, Chuyện hoa sim...
    Nói về việc phổ thơ - như chúng ta đã biết - trong lãnh vực này, Anh Bằng là người nhạc sĩ phổ thơ nhiều - nhiều nhưng hay - trong số những nhạc sĩ thành công trong khuynh hướng này như
    • Phạm Duy (Tiễn em, Áo anh sứt chỉ đường tà),
      Văn Phụng (Các anh đi, Một lần cuối),
      Song Ngọc (Chân quê).
    Anh Bằng là người đem nhạc vào thơ rất bền bĩ, trước 1975 cũng như sau này. Những bài thơ nổi tiếng thời tiền chiến
    • của Nguyễn Bính (Bướm trắng), Hữu Loan (Chuyện hoa sim), Thái Can (Anh biết em đi chẳng trở về), Yên Thao (Chuyện giàn thiên lý), Hồ Dzếnh (Anh còn nợ em)...
    được Anh Bằng khéo léo diễn tả bằng âm thanh là một chứng minh khả năng phổ thơ của Anh Bằng.

    Nói về sức sáng tác của Anh Bằng, tôi còn nhớ trước 1975, mỗi lần có một chiến dịch nào do chính phủ đề ra, như "Người cày có ruộng", "Kêu gọi nhập ngũ", "Tố Cộng" (nói lên sự dã man tàn ác của CS, như pháo kích vào trường học, liệng lựu đạn vào rạp hát...), "Chiêu hồi" v.v..., tôi cho Anh Bằng biết hôm trước, hôm sau là anh có ngay một bài hát thuộc loại chiến dịch, tuyên truyền nhưng không phải là những bài không được thính giả chú ý. Chẳng hạn những bài viết cho chiến dịch chiêu hồi như
    • Bóng đêm (Em chắp hai tay quỳ gối nguyện cầu, Cầu cho hai đứa mình sống bên nhau...),
      Đôi bóng (Tình thương gửi theo gió chiều, nhờ trao đến cho người yêu - Rừng sâu suốt đêm thâu, người đi đã bao lâu mà không biết tương lai về đâu..."),
      Nếu hai đứa mình (Nếu hai đứa mình không về cùng chung lối đường, Thì dù trăng sáng cũng là màu trắng khăn tang...),
      Nhật ký của hai đứa mình (Thức trắng đêm nay viết lại nhật ký của hai đứa mình...),
      Nếu ai có hỏi (Nếu ai có hỏi bao giờ chúng mình gần nhau),
      Giấc ngủ cô đơn (Nửa đêm nhớ anh, nằm nghe mưa khóc bên mành)...
    toàn là những bài viết cho chiến dịch chiêu hồi, lời nhắn gửi tha thiết của người vợ hiền, của người yêu nhỏ gửi những người trai lầm đường, lạc lối hãy quay về với yêu thương, về với người vợ hiền, với đàn con dại, với người yêu bé bỏng - mà phần nhiều lời ca những bài loại này do Anh Bằng viết - đã mau chóng trở thành những bài chan chứa tình cảm lứa đôi cho nên sức tiêu thụ rất mạnh.


    Nhạc sĩ Anh Bằng - hí họa của Họa sĩ Etcetera


    Một khía cạnh khác của vấn đề sáng tác mà chúng ta tìm thấy ở Anh Bằng là óc hài hước của anh. Tôi còn nhớ, khi còn làm băng cassette, Anh Bằng có thuê một nhân viên người Mỹ đề dán nhãn, làm hộp băng. Ít lâu sau, trong một dịp qua Cali thăm Anh Bằng, tôi không thấy anh Mỹ này nữa, tôi mới hỏi anh thì được anh cho biết là anh đã sa thải người đó vì, theo lời anh nói, ngày xưa Mỹ nó cho tôi nghỉ việc, bây giờ tôi cho Mỹ nó nghỉ việc lại. Nhưng tôi biết đó là anh chỉ nói đùa thôi. Trong số nhiều bài nhạc của ban AVT với Lữ Liên, Vân Sơn và Tuấn Đăng trình bày trên sân khấu đại nhạc hội trước 1975, có một số bài do Anh Bằng sáng tác. Không có óc hài hước, khó mà viết được những bài như Tập lái Vespa, Đánh cờ người v.v...



    Những ngày đầu mới tỵ nạn ở Mỹ, Anh Bằng chưa bắt tay trở lại vào nghề cũ cho nên anh phải bươn chải để lo cho đời sống của gia đình gồm có 2 cậu con trai và cô con gái nhỏ, tất cả đều còn ít tuổi, phải trở lại ghế nhà trường. Anh xin được một chỗ làm trong một hiệu bán dụng cụ sắt thép, được buổi sáng thì buổi chiều, chủ cho anh nghỉ vì anh bắt đầu bị bệnh lãng tai, chủ nói một đàng, anh làm một nẻo. Thí nghiệm với vài ba chỗ mới nữa, kết quả, anh cũng chẳng làm được bao lâu. Càng ngày, bệnh lãng tai của anh trở nên thật trầm trọng hơn, dù có đi bao nhiêu bác sĩ chuyên khoa về tai mũi họng, dù có máy thật đắt tiền gắn liền vào tai - được điều chỉnh cho thích hợp với âm sắc và cường độ của từng giọng nói của mỗi người - nhưng anh chỉ còn nghe được chừng 10%. Có những sự việc rất buồn cười xảy ra vì việc mất dần khả năng thính giác của anh. Năm 1990, anh sang Montréal tham dự lễ thành hôn con gái của tôi, anh đi từ phi trường Los Angeles, dừng ở New York rồi sang Montréal. Theo như dự định, phi cơ sẽ đến phi trường Dorval (Montréal) lúc 17:00, tôi lên phi trường lúc 16:30 để đón anh. Chờ đến 17:00 hơn, chẳng thấy bóng anh đâu, dù trên màn hình ghi chuyến bay của anh đã đến. Đợi thêm 15 phút, rồi nửa tiếng, rồi một tiếng rưỡi nữa, vẫn không thấy bóng dáng anh. Điện thoại về nhà, tôi được bà xã tôi cho biết là cô con gái của Anh Bằng có gọi qua nói "ba con đi lạc rồi thím ơi". Thật ra, thay vì ngồi luôn trên phi cơ ở phi trường New York để chờ đợi tiếp tục đi Montréal, Anh Bằng hỏi ông Mỹ ngồi bên cạnh có phải đây là Montréal không, và anh bảo khi nghe ông Mỹ này trả lời "Yes" cùng lúc thấy thiên hạ lần lượt ra khỏi phi cơ, Anh Bằng cũng lụt tụt xuống theo. Đến khi biết được chuyện nghe lầm thì phi cơ đi Montréal đã bay lâu rồi. Thành ra đêm đó, Anh Bằng phải ngủ lại New York để chờ chuyến bay sáng hôm sau, còn tôi lủi thủi trở về nhà, đón khách mà không có khách. Về đến nhà, tôi được điện thoại của Thy Vân gọi qua cho biết là ba của cô sẽ đi chuyến bay New York - Montréal vào lúc 9:15 sáng hôm sau. Cũng may mà đến hôm sau mới là ngày tổ chức lễ thành hôn của con gái tôi.

    Cũng liên quan đến việc mắc bệnh lãng tai này là một chuyện kể của anh, nghe như một chuyện cười: Thời kỳ anh bị mất khả năng thính giác là lúc anh vẫn còn lái xe. Một hôm, trên đường đi công chuyện về, cũng vì mắt anh hơi kém, anh vượt đèn đỏ và xe cảnh sát có đèn chớp đuổi theo phía sau. Anh vẫn phom phom, từ từ và ung dung chạy hoài, theo đường lên núi để về nhà. Một lát, lại có thêm một chiếc xe cảnh sát thứ hai cũng chạy phía sau xe trước. Anh vẫn không hay biết gì. Khi anh lái xe về đến nhà, mở cửa bước ra khỏi xe, anh mới biết phía sau anh có 2 chiếc xe cảnh sát đuổi theo. Có lẽ cảnh sát nghĩ rằng họ sẽ phải đối phó với một tay khủng bố dữ dằn lắm thì phải. Cuối cùng, anh bị mất bằng lái và từ đó, đi đâu anh nhờ đưa cháu ngoại chở đi.

    Có người hỏi bị khiếm khuyết thính giác có ảnh hưởng gì đến việc sáng tác của anh không? Theo chỗ tôi biết, cũng có trở ngại đôi chút nhưng không ảnh hưởng gì đến việc sáng tác. Tư tưởng, ý nhạc, hồn nhạc từ óc mà ra, và theo đó, anh ghi lên giấy. Tay anh ghi một câu nhạc lên giấy là anh đã có âm điệu câu nhạc này trong đầu, hay nói ngược lại, âm điệu của câu nhạc mà anh có trong đầu được anh chép lại trên giấy. Một nốt nhạc để trên giấy, anh đã biết nó cao thấp, trầm bổng, ngắn dài thế nào rồi và một dòng âm thanh liên tiếp ghi lại trên giấy, anh đã biết nó uyển chuyễn, du dương, êm đềm, hay hoặc dở thế nào rồi. Còn việc viết lời ca thì dù lãng tai cũng không bị chi phối gì cả. Bằng cớ là những sáng tác gần đây như "Khóc mẹ đêm mưa" vẫn trau chuốt, vẫn rất là Anh Bằng, không có gì để cho chúng ta bảo rằng khiếm khuyết thính giác gây trở ngại cho việc sáng tác của anh. Chỉ có một điểm trở ngại duy nhất là nếu nhạc của người khác mà khi cho anh nghe qua CD hay nhìn lên màn ảnh qua DVD thì anh tiếp nhận chỉ được 10%, nhưng nếu kèm theo cho anh một bài nhạc in trên giấy, để anh vừa nhìn và vừa nghe bản nhạc - bằng phương pháp thính thị - nghĩa là vừa phối hợp thị giác với thính giác - thì kết quả không gì thay đổi, hiệu quả gần như hoàn toàn.



    Có nhiều người cho việc tin tử vi là tin dị đoan, nhưng tử vi không phải là dị đoan - mà là một khoa học, chúng ta phải công nhận, như nhiều nhà tử vi đã nói - nếu thầy tử vi học có căn bản, tới nơi tới chốn thì tử vi rất đáng cho ta lưu ý. Nhiều sự việc nhiệm mầu đã xảy ra thật khó giải thích, liên quan đến tuổi Thìn, một tuổi mà các thầy tử vi nói là rất tốt trong việc lấy vợ gả chồng. Người tuổi Thìn đem đến may mắn cho người phối ngẫu, khiến cho gia đình ăn nên làm ra. Trong phạm vi gia đình (cũng như trong phạm vi bạn bè), chúng ta chắc cũng đã có chứng kiến sự thành công trong gia đình mà một trong hai người, vợ hoặc chồng, là người tuổi Thìn. Gia đình Anh Bằng cũng nằm trong trường hợp này. Từ ngày sang Mỹ, lúc ban đầu, Anh Bằng cũng lận đận lao đao như đa số người tỵ nạn khác. Nhưng từ ngày chị Anh Bằng (tuổi Mậu Thìn - 1928) qua Mỹ cùng với cô con gái lớn, với số vốn nho nhỏ vay mượn của bạn bè, với khả năng sáng tác của Anh Bằng, cùng với sự phụ sức của tất cả con cái, Anh Bằng đã tiến lên một bước, lập nên Trung tâm Băng nhạc Asia, một trong vài trung tâm băng nhạc lớn hiện nay ở hải ngoại. Và cũng ngạc nhiên thay, nếu chúng ta không tin vào mạng số tuổi Thìn thì cũng phải tin. Chỉ ít lâu sau khi chị Anh Bằng sang Mỹ đoàn tụ với gia đình thì cô con gái lớn của Anh Bằng, người coi sóc các chương trình thực hiện băng cassette Dạ Lan chẳng may qua đời. Nếu không có cô gái út Thy Vân tiếp tục quán xuyến việc làm ăn của Anh Bằng, khi công việc thực hiện thêm video và DVD Asia bắt đầu. Và cho đến ngày nay, Thy Vân vẫn là người điều khiển tổng quát - cùng với Trúc Hồ trong phần vụ giám đốc âm nhạc - Trung tâm băng nhạc Asia và đã giữ vững uy tín trong nhiều chục năm nay. Trung tâm băng nhạc Asia được thành hình và bắt đầu đi vào hưng thịnh từ khi Anh Bằng có người phối ngẫu là chị Anh Bằng nhúng tay vào.

    Tôi bắt đầu cho ra nguyệt san Nghệ Thuật từ tháng 4-1994. Trong 3 năm đầu, thường bị lỗ lã, mỗi tháng phải lấy thêm tiền nhà để châm vô mới có đủ trả tiền nhà in, mặc dù những người cộng tác không có chút thù lao nào. Đã biết lỗ nhưng không hiểu sao tôi vẫn tiếp tục làm, âu đó cũng là cái nghiệp, nghiệp văn nghệ. Đến tháng 3 năm 1999, trong một chuyến qua thăm Anh Bằng, anh có nhã ý đề nghị ủng hộ Nghệ Thuật tấm hình bìa và nhờ vậy mà Nghệ Thuật kéo dài sự sống được cho đến tháng 4-2007, thời điểm mà tôi thấy đã quá mệt mỏi sau 13 năm làm báo cho nên tôi quyết định đình bản tờ Nghệ Thuật. Trong 8 năm sau của tờ Nghệ Thuật, nhờ có sự yểm trợ của Asia cho nên khỏi phải bù đắp tiền nhà, nếu không thì Nghệ Thuật chắc cũng phải chết dở sống dở. Nghệ Thuật nhớ mãi sự ủng hộ của một người bạn cũ, trước sau vẫn nhớ đến anh em, mặc dù xa mặt nhưng không cách lòng.



    Anh Bằng là một con chiên rất ngoan đạo. Ngày trước, khi anh còn khỏe, khi thính giác anh chưa có vấn đề, anh thường hay sang Montréal thăm gia đình chúng tôi. Mỗi bận ghé qua Montréal là anh yêu cầu tôi chở anh đi viếng một thánh đường rất nổi tiếng nằm trên sườn phía Bắc của một ngọn núi nhỏ có tên là Mont Royal của thành phố Montréal, đó là thánh đường St-Joseph. Du khách nào đến thành phố Montréal mà chưa viếng thăm thánh đường St-Joseph, có thể coi như chưa đến Montréal. Lên đến tận đỉnh cao của thánh đường, Anh Bằng xem rất sung sức, anh dừng lại ở tầng có mộ ông thánh St André, đốt đèn cầu nguyện ở bàn thờ các thánh rồi mới ra về. Nếu tôi không đưa anh đi viếng thánh đường Saint Joseph thì cũng phải đưa anh đến một nhà thờ nào đó gần nhà, để anh cầu nguyện.



    Nhạc Sĩ Anh Bằng-Lê Dinh


    Một người sinh trưởng nơi một thị trấn nhỏ ở tận miền Bắc, có tên là Điền Hộ, thuộc tỉnh Ninh Bình, một người sinh trưởng ở cuối miền Nam nước Việt, một làng bé nhỏ có tên là Vĩnh Hựu, thuộc tỉnh Cò Công, những tên thị trấn, tên làng xã mà chúng ta chưa chắc tìm được trên bản đồ, hai người cách biệt nhau 7 tuổi, ở hai đầu non nước, thế mà gặp nhau và trở thành những người bạn văn nghệ. Đó là gì, nếu không phải là duyên và cái căn duyên này đưa đến việc hình thành một tình bạn tương thức. Nếu vào ngày đầu năm 1966 đó mà Anh Bằng không tìm đến gặp tôi thì sẽ không có nhóm Lê Minh Bằng, sẽ không có ca khúc Đêm nguyện cầu, hay Linh hồn tượng đá, hay Truyện tình Lan và Điệp để lại hậu thế. Nếu không có chuyện "hữu duyên thiên lý năng tương ngộ" đó, chúng tôi, Lê Dinh, Minh Kỳ và Anh Bằng vẫn là những đồng nghiệp thông thường, coi nhau như bao nhiêu thân hữu thông thường khác, không có sự gắn bó của một nhóm khăng khít, không có tình bạn đồng tâm thắm thiết, tri âm, tri kỷ.





    Lê Dinh - Tháng 04/2008
    cothommagazine.com
Hình đại diện
thiên thanh
Bài viết: 1352
Ngày tham gia: Thứ năm 14/05/15 11:49
Nơi ở: Phố Cổ

Re: Anh Bằng

Bài viết bởi thiên thanh »

          
Hình ảnh


Nhớ nhạc sĩ Anh Bằng qua hai giòng nhạc tình và nhạc đấu tranh
_________________________________________________________






Ngày 12/11 năm nay, những người yêu nhạc Việt Nam cùng tưởng nhớ một năm ngày mất của nhạc sĩ Anh Bằng, một cây cổ thụ của nền âm nhạc Việt Nam.

Nhạc sĩ Anh Bằng sinh ngày 5/5/1926 tại Thanh Hóa, mất ngày 12/11/2015 tại Quận Cam Nam Cali, để lại sự thương tiếc vô vàn cho cộng đồng người Việt hải ngoại, đặc biệt là tại khu vực Little Saigon, thủ đô của Người Việt Tị Nạn, nơi ông sống những ngày cuối đời.

Với khoảng 600 ca khúc để lại cho đời, nhạc sĩ Anh Bằng sáng tác rất nhiều thể loại ca khúc khác nhau: nhạc tình, nhạc quê hương, nhạc lính, nhạc đấu tranh…

Trong một bài viết mới đây về nhạc sĩ Anh Bằng và Trung Tâm Asia, nhà báo Phạm Trần có viết: “… ta biết gia đình Nhạc sĩ Anh Bằng là nạn nhân của người Cộng sản Việt Nam ngay từ thời kháng chiến chống lực lượng Việt Minh (người Việt theo Cộng sản Hồ Chí Minh) ở Liên khu Tư. Do đó tất nhiên, không ai ngạc nhiên khi thấy tại sao Trung tâm ASIA do ông thành lập đã có những dòng nhạc đấu tranh và các ca nhạc sỹ cùng chung lập trường chống cộng sản với ông đã ngồi chung với nhau dưới một mái nhà ASIA trong mấy chục năm qua ở Hoa Kỳ…”. Có thể nói, dòng nhạc đấu tranh là một phần sáng tác quan trọng của nhạc sĩ Anh Bằng, kể từ ông phải rời bỏ quê hương Việt Nam để lưu vong tại Hoa Kỳ.

[youtube][/youtube]

Theo nhạc sĩ Trúc Hồ, bản nhạc đấu tranh của nhạc sĩ Anh Bằng được phổ biến nhất chính là ca khúc Phải Lên Tiếng. Khi quê hương Việt Nam bị giặc Tàu xâm lấn trước sự im lặng bất lực của chính quyền CSVN, thì những Người Việt Tự Do tại hải ngoại như nhạc sĩ Anh Bằng là những người lên tiếng đầu tiên:
  • Trường Sa là máu của ta.
    Hoàng Sa là thịt của ta.
    Đất nước ta là xương là máu ông cha để lại.
    Quân bành trướng đừng mong xâm lấn.
    Kia, còn bao mồ chôn quân Tống.
    Hỏi quân thù? Hỏi quân thù còn nhớ hay không?
    VIỆT NAM nòi giống Lạc Long.
    Cùng nhau thề nguyền ĐỒNG TÂM .
    Quyết đứng lên dựng xây Tổ Quốc thân yêu TRƯỜNG TỒN.
    Không để đất vào tay quân cướp.
    Dân tộc ta vùng lên anh dũng.
    Sống oai hùng. Sống kiên cường đòi lại Biển Đông.
    ĐỪNG IM TIẾNG – MÀ PHẢI LÊN TIẾNG!
    Khi quân thù vào cướp QUÊ HƯƠNG.
    Đoàn kết lại!. Tiêu diệt bá quyền thâm độc vô biên.
    ĐỪNG IM TIẾNG – MÀ PHẢI LÊN TIẾNG!
    Khi quân thù giết hại dân ta.
    Dòng máu VIỆT đã đổ chan hòa trên biển nước ta…

Nhịp điệu dồn dập như tiếng hịch chiêu quân. Giai điệu hào hùng như tiếp nối những bản hùng ca yêu nước bất tử Hội Nghị Diên Hồng, Bạch Đằng Giang… Ở đoạn kết, lời kêu gọi “ĐỪNG IM TIẾNG - MÀ PHẢI LÊN TIẾNG” không trở về Chủ Âm, mà kết ở bậc Năm, cho nên không tạo cảm giác kết thúc, ngừng nghỉ. Bởi vì lời kêu gọi đó cần phải tiếp tục ngân vang, để lôi kéo sự thêm chú ý của đồng bào trong nước. Cho đến khi nào, toàn dân Việt khắp nơi đoàn kết lại, để đồng lòng đuổi giặc ngoại xâm như thời Lý, Lê, Trần mới thôi. Một kỹ thuật âm nhạc đầy ý nghĩa, trong một ca khúc đấu tranh đầy sức sống!

Song song với dòng nhạc đấu tranh đầy lửa, những bản tình ca của nhạc sĩ Anh Bằng cũng thực sự chinh phục trái tim của khán giả Việt Nam thuộc mọi thế hệ. Một trong những tình khúc nổi tiếng vào bậc nhất của nhạc sĩ Anh Bằng, có lẽ là ca khúc Anh Còn Nợ Em, phổ thơ Phan Thành Tài. Một ca khúc ngắn, lời hát giản dị. Nhưng Anh Còn Nợ Em có đầy đủ các yếu tố của một ca khúc để đời. Giai điệu đẹp và trữ tình. Có đoạn lên cao trào để kể lể, và để rồi câu kết thổn thức, nhẹ nhàng như kết thúc một cuộc tình dang dở:

  • Anh còn nợ em,
    Công viên ghế đá
    Công viên ghế đá,
    Lá đổ chiều êm

    Anh còn nợ em,
    Dòng xưa bến cũ
    Dòng xưa bến cũ,
    Con sông êm đềm

    Anh còn nợ em,
    Chim về núi nhạn
    Trời mờ mưa đêm,
    Trời mờ mưa đêm

    Anh còn nợ em,
    nụ hôn vội vàng
    nụ hôn vội vàng,
    Nắng chói qua song

    Anh còn nợ em,
    Con tim bối rối
    Con tim bối rối,
    Anh còn nợ em

    Và còn nợ em,
    Cuộc tình đã lỡ
    Cuộc tình đã lỡ,
    Anh còn nợ em…


[youtube][/youtube]

Một tình khúc phổ thơ khác của nhạc sĩ Anh Bằng là Kỳ Diệu, phổ thơ Nguyên Sa, thi sĩ nổi tiếng với những bản thơ tình bất tử. Có lẽ Nguyên Khang là một trong những ca sĩ trình diễn ca khúc này thành công nhất, đã lột tả được nét lãng mạn, trau chuốt, quý phái của ca khúc này từ nhạc đến lời:
  • Khi áng mây cao dừng trên nếp trán.
    Anh chợt nghe tình vỗ cánh bay
    Trái tim anh hờn dỗi trên vai.
    Ðêm hạnh phúc như hạt sương gầy
    Bỗng mùa xuân về trên năm ngón.
    Trên bàn tay lộc biếc lá non.
    Anh đứng nghe âu yếm gọi tên em.
    Khi em đến nằm ngoan trên cỏ biếc
    Có bỡ ngỡ là mặt trời bỡ ngỡ.
    Có xôn xao là sỏi đá xôn xaọ
    Cánh tay anh, anh đã dặn nằm im.
    Ðể người yêu thả trôi suối tóc mềm…
Nghe nhạc tình, hay nhạc đấu tranh của nhạc sĩ Anh Bằng, chúng ta đều thấy có lửa. Cho dù đó là lửa tình đam mê, hay lửa hừng hực khí thế của lòng yêu nước, thì nó đều xuất phát từ trái tim của một người nghệ sĩ chân chính. Có lẽ vì vậy, mà cả nhạc tình lẫn nhạc đấu tranh của cây đại thụ âm nhạc này vẫn luôn được ghi nhớ mãi trong trái tim của hàng triệu khán giả Việt Nam…

Cung Mi / SBTN
nguồn

          
Ngoc Han
Bài viết: 1577
Ngày tham gia: Thứ tư 20/05/15 14:24

Re: Anh Bằng

Bài viết bởi Ngoc Han »

[youtube][/youtube]

:flower:
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20017
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Anh Bằng

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          

... mới đó mà đã 1 năm ..

          
Hình đại diện
thiên thanh
Bài viết: 1352
Ngày tham gia: Thứ năm 14/05/15 11:49
Nơi ở: Phố Cổ

Re: Anh Bằng

Bài viết bởi thiên thanh »

          

Nhạc sĩ Anh Bằng: Một Đời Cho Âm Nhạc
Hoàng Dung-DC & Hà Nguyên thực hiện


[youtube][/youtube]

:tiphat:

          
Trả lời

Quay về “chứng nhân Việt”