CÁCH NÓI CỦA NGƯỜI MIỀN TÂY NAM BỘ QUA CA DAO [1]
Ths, Trần Minh Thương[2]
Ths, Trần Minh Thương[2]
1. Người miền Tây Nam bộ với câu nói, tiếng cười
Theo Cơ sở văn hoá Việt Nam của Trần Quốc Vượng (chủ biên), phần được coi là Tây Nam Bộ có diện tích khoảng 4.000 km2, chủ yếu là vùng đồng bằng sông Cửu Long, một số đảo (lớn nhất là đảo Phú Quốc) cùng một vài dãy núi thấp ở phía Tây An Giang, Kiên Giang.
Hầu hết các nhà văn hoá học, dân tộc học, … đều có chung nhận định tương đối thống nhất về tính cách người Nam Bộ. Họ là những người hào hiệp trong cuộc sống, bình đẳng trong giao tiếp, ít bảo thủ.
Xưa, Tây Nam bộ từ miền đất hoang vu rừng rậm, nhiều sông rạch, đầm lầy muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội tợ bánh canh, dưới sông sấu rống, trên rừng cọp um, … Người nông dân Tây Nam bộ lao động cần cù, dũng cảm. Thế hệ sau tiếp nối thế hệ trước cải tạo những vùng đất bát ngát nhưng phèn chua và ngập nước, sinh sống bằng nghề trồng lúa, đánh bắt cá tôm, … Ở vùng đất giồng cao hơn thì trồng cây hái trái, trồng tỉa hoa màu,… Ðể tồn tại và phát triển tất yếu các gia đình nông dân trong xóm ấp liên kết lại, lao động vần công cưu mang đùm bọc trong cái nghĩa bán anh em xa mua láng giềng gần, giúp đỡ nhau từ chén cơm manh áo, đến hột gạo của khoai. Nói chuyện thì thích ăn ngay nói thẳng, ghét ăn gian nói dóc, …
Nói chuyện phải rõ ràng, thẳng thắn:
- Nước chảy cho đá lăn tròn,
Giận thì nói vậy chớ bụng còn thương em
- Ba nơi đi nói chẳng màng,
Chờ nơi chết vợ sẵn sàng nhảy vô
2. Những cách nói của người Tây Nam bộ thể hiện qua ca dao
2.1. Về mặt ngữ âm
Thứ nhất, khi khảo sát về mặt ngữ âm, chúng tôi nhận thấy ca dao Tây Nam Bộ có nhiều hiện tượng nói trại, tức là nói lệch đi cấu tạo của âm chính trong tiếng. Từ đó, tạo nên lớp từ biến âm đa dạng trong lời nói của đồng bào. Họ không nói thuyền mà thay bằng thoàn, nhơn ngãi, nhơn ngỡi, thay cho nhân nghĩa, Châu Do thay cho Chu Du (nhân vật trong Tam Quốc diễn nghĩa), bệnh thay bằng bịnh, huê thay cho hoa, luỵ thay cho lệ, … Nguyên nhân thì có nhiều: vì kiêng huý, để kiêng dè, kính trọng, hoặc … để đơn thuần chỉ hiệp vần cho thơ, …
- - Phụ mẫu tình thâm,
Phu thê nhơn ngỡi trượng,
Một mai anh có xa em rồi, thờ phượng mẹ cha
- Lao xao sóng bủa dưới thoàn
Vắng em một bữa ăn vàng không ngon
- Lụy xang xang đưa nàng xuống vịnh,
Anh trở lộn về nhuốm bịnh tương tư.
- Hai vừng nhựt ngoạt rành rành
Sao anh đứt đạn (đoạn) chung tình bỏ em
- Còn duyên kẻ đón người đưa
Hết duyên đi sớm về trưa một mình
- Còn duyên anh cưới ba heo
Hết duyên anh cưới con mèo cụt đuôi
- Ngó lên tổ nễ chau mày,
Mảng lo sự khó quên ngày muối dưa
Phương ngữ trong câu ca sau, rất đáng chú ý:
- Chiều mai chiều mốt anh cốt cây bần
Chẳng cho ghe cá đậu gần ghe tôm
Người Tây Nam Bộ nói hun, tức dùng mũi để … biểu lộ tình cảm không dùng hôn, không dùng môi, miệng để … làm việc hun!
- Ước gì anh hoá con kiến vàng
Bò qua quay nón của nàng mà hun
- Muốn cúc chơi chậu tam hường,
Liễu huê hiếm hiệm dọc đường thiếu chi.
Thứ tư, nói bằng cách mượn tiếng của người Tiều (Triều Châu), bộ phận người Hoa đã di cư và định cư ở đây từ mất thế kỷ trước. Qua thực tế điền dã, chúng tôi dẫn lại mấy câu ca ở Bạc Liêu, thế này:
- - Chờ anh em hết sức chờ
Chờ cho ến xại (rau muống) lên bờ khùi hui (khai huê, tức trổ bông)
- Nào khi ến thạo, hoan tùa (Khi nào thấy hơi gió lớn thổi)
Sùn hoang nghệc láo, xuốt gùa thăm em (Gió xuôi, nước ngược ra thăm em)
- Trời mưa dít ạm hoan tùa (Trời mưa, trời tối gió to)
A hia phề chuối xuốt gùa thăm em (Anh chèo ghe ngược ra thăm em)
(…)
2.2.1. Nói toạc móng heo
Nói toạc móng heo là cách nói thẳng hết những sự thật, không cần giấu giếm, che đậy.
Đầu tiên là cách nói thẳng để tỏ tình:
- Gió đẩy đưa rau dừa quặn quỵu,
Anh mảng thương nàng lịu địu xuống lên
Không xao xuyến làm sao được, bởi hình bóng của người con gái có duyên:
- Tóc ngang lưng vừa chừng em bới
Để chi dài bối rối dạ anh
- Bước cẳng xuống tàu, tàu khua rổn rổn
Tàu qua Nhựt Bổn lấy nước Châu Thành
Anh với em phải nói cho rành
Để anh lên xuống nhọc nhằn thân anh
Khi tương tư, họ nói mà như bày tỏ cả gan ruột với người mình yêu:
- Phụ mẫu đánh anh quặt quà quặt quại,
Đem anh treo tại nhánh bần.
Rủi đứt dây mà rớt xuống,
Anh cũng lần mò kiếm em.
- Chẳng thà lăn xuống giếng cái chũm
Chết ngủm rồi đời
Sống chi đây chịu chữ mồ côi
Loan xa phượng cách biết đứng ngồi với ai
- Dao phay kề cổ, máu đổ không màng
Chết thì chịu chết, buông nàng anh không buông
- Biển Đông gió thổi bốn mùa,
Say mê lời nói thuốc bùa không hay
Lúc tan vỡ, cô gái đã nhận ra tất cả phũ phàng nên quyết liệt tránh xa:
- Bần gie, bần liệt, diệc đau chờ mồi
Anh với em duyên nợ hết rồi
Đi tìm chỗ khác đừng ngồi kế em
- Vỗ vai con Bảy không ừ,
Hay là con Bảy giận, con Bảy từ ngãi anh
Có trường hợp nguy hiểm hơn, ai đó, vì lý do tế nhị đã quẩn quanh, cố giấu che một sự thật, đến khi sự thật kia bị ... phát hiện:
- Bậu nói với qua bậu không lang chạ,
Qua bắt đặng bậu rồi, đành dạ bậu chưa
- Em đi lên xuống cầu dừa
Lấy ai có chửa đổ thừa cho anh
Cũng là cách nói thẳng, ta gặp câu ca đáo để khác:
- Nước ròng trong ngọn chảy ra
Thấy em chồng chết anh bôn ba qua liền
2.2.2. Nói vòng vo, nói bóng nói gió
Ở trên, chúng tôi đề cập đến cách nói tránh. Đến đây, chúng tôi phân tích chi tiết hơn cách nói bóng gió, vòng vo Tam Quốc của người bình dân.
Khi gặp tình huống không nói thật được, đành phải nói xa xăm để đặt vấn đề:
- Trời xanh bông trắng nhụy huỳnh
Đội ơn bà ngoại đẻ má, má đẻ mình dễ thương
Hơn nữa, với cách nói lấp lửng, vô tình anh ta đã gọi được tiếng ngoại, tiếng má của cô gái như chính cô gái hay kêu. Thông thường, cách kêu như vậy, chỉ xảy ra khi hai người đã nên vợ nên chồng. Thật là đáng khâm phục trong cách nói vòng vo!
Để nói bóng gió, người ta còn sử dụng cách nói bằng thành ngữ, điển tích.
Thành ngữ: cụm từ cố định, bền vững, có tính nguyên khối về ngữ nghĩa không nhằm diễn trọn một ý, một nhận xét như tục ngữ, mà nhằm thể hiện một quan niệm dưới một hình thức sinh động, hàm súc. [2; 297]
Trong ca dao Tây Nam Bộ không ít câu sử dụng thành ngữ. Do phạm vi bài viết là khảo sát cách nói, chúng tôi chỉ xem thành ngữ nhất là thành ngữ Hán Việt như một phương tiện của lời nói chứ không đi sâu phân tích chức năng của chúng.
Đây là một cách dùng thành ngữ Hán Việt trong điệu hò:
- Thiện ác đáo đầu chung hữu báo.
Cao phi viễn tẩu dã nan tàng
Từ khi anh xa cách con bạn vàng
Cơm ăn chẳng được như con chim phụng hoàng bị tên.
- Thiên sinh nhơn hà nhơn vô lộc,
Địa sinh thảo hà thảo vô căn.
Trời sinh người đều có lộc trời,
Đất thì sinh cỏ rễ chồi nào không.
- Ai khôn bằng Tiết Đinh San,
Cũng còn mắc kế nàng Phàn Lê Huê.
Hay câu ca khác:
- Văng vẳng bên tai
Tiếng ai như tiếng con Điêu Thuyền?
Anh đây Lữ Bố kết nguyền thuở xưa
Mượn thành ngữ, điển tích để chen vào lời nói, làm cho ý của người diễn đạt thêm sinh động, hàm súc, người tiếp nhận phải có cùng “kênh” giao tiếp thì mới tường tận vấn đề mà người nói muốn biểu đạt!
Phương tiện hỗ trợ đắc lực cho cách nói bóng gió là các biện pháp tu từ.
Một là, dùng từ đa nghĩa để chơi chữ
- Em ơi hãy lấy anh thợ bào
Khom lưng ảnh đẩy cái nào cũng êm
Tương tự từ đẩy vừa phân tích, là từ cày sau đây:
- Chồng em nào phải trâu cày
Mà cho chị mượn cả này lẫn đêm
- Cu tui vừa mới mọc lông
Mượn chị cái lồng tui nhốt đỡ cu tui
Chúng ta hãy nghe lời một cô gái dặn người mình yêu khi chàng và nàng muốn “gần” nhau:
- Chuột kêu chút chít trong rương
Anh đi cho khéo kẻo đụng giường mẹ hay
Hai là, người bình dân dùng hình thức so sánh, phúng dụ, ẩn dụ, hoán dụ, …, trong lời ca, tiếng hát.
Từ hình ảnh so sánh:
- Thân em như cá rô mề
Lao xao giữa chợ biết về tay ai
Đến cách nói phúng dụ, mượn lời con vật để thay lời người muốn nói:
- Cóc chết nàng nhái rầu rầu
Chàng hiu đi hỏi lắc đầu hổng ưng
Con ếch ngồi ở gốc đưng
Nó kêu cái ẹo biểu ưng cho rồi
Rồi nói bằng ẩn dụ:
- Ruộng ai thì nấy đắp bờ
Duyên ai nấy gặp đợi chờ uổng công
Hoặc dùng hoán dụ:
- Nước chảy re re con cá he nó xoè đuôi phụng
Em có chồng rồi trong bụng anh vẫn còn thương
2.2.3. Nói khó
Trong giao tiếp, hay sinh hoạt người ta thường nhắc lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau. Thực tế thì không phải không có những lời nói khó nghe. Mượn những câu hỏi để bộc bạch:
- Gần sông cội mới ngã kề,
Tiếng tăm anh chịu, em về tay ai?
- Có chồng bậu nói rằng không,
Con đâu bậu ẵm bậu bồng trên tay?
Nhẹ nhàng hơn, nói một cách đón ngách chặn đầu rằng:
- Đá cheo leo muốn trèo sợ trợt,
Muốn nói một hai lời sợ nhột ý em?
- Cau già lỡ lứa bán trăm,
Chị nọ lỡ lứa biết nằm cùng ai?
- Bậu đừng ăn nói đảo điên,
Cái áo bậu bận cũng tiền anh cho?
- - Nước không chưn sao gọi rằng nước đứng,
Chén của người sao gọi chén chung?
- Ai từng bận áo không bâu,
Ăn cơm không đũa, ăn trầu không vôi?
- Chim bay mỏi cánh chim ngơi,
Đố ai bắt đặng chim trời mới ngoan.
Từ nói khó chuyển sang nói cho hả, nói để trút cơn tức giận.
- Miệng đuổi chim, tay cầm cần vụt
Mãn mùa rồi xí hụt anh ơi
Họ nói như mỉa mai, cười cho sự chua chát của thân phận mình:
- Anh tưởng giếng sâu anh nối sợi dây cụt
Ai dè giếng cạn nó hụt sợi dây
Qua tới đây không cưới được cô hai mày
Qua chèo ghe ra biển đợi nước đầy qua chèo trở vô
Tiếng nói của sự khao khát yêu đương, tiếng nói cũng những chuyện oái oăm được dân gian thể hiện:
- - Con gái mười bảy mười ba
Đêm nằm với mẹ, khóc la đòi chồng
Mẹ giận mẹ phát ngang hông:
- Đồ con mất nết đòi chồng suốt đêm!
- Mảng coi con quạ rỉa lông,
Chị em lân cận giựt chồng không hay
- Bần gie bần liệt đóm đậu ngọn bần
Anh đi cưới vợ em vái cho sóng thần nhận ghe
Với cảnh ngộ khác, một anh chàng thật tội nghiệp, trút giận:
- Bờ bụi tối tăm, anh quơ nhằm cái tộ bể
Cưới vợ có chửa về thổi lửa queo râu
Với kết cấu đối đáp, ta gặp một lời chọc ghẹo của chàng trai lắm môi mép:
- Trời mưa cho ướt ruộng gò
Thấy em chăn bò anh để ý thương
- Trời mưa ướt cọng rau mương
Bò em, em giữ anh thương cái giống gì?
Cộc tính hơn, cô gái lớn tiếng rủa kẻ ve vãn mình:
- Dê xồm ăn lá khổ qua
Ăn nhầm lá đậu chết cha dê xồm
- - Áo vắt vai đi đâu hăm hở,
Em có chồng rồi mắc cỡ lêu lêu.
- Áo vắt vai anh đi dạo ruộng,
Anh có vợ rồi chẳng chuộng bậu đâu.
- Quất ông tơ cái trót
Ổng nhảy tót lên ngọn cây bần
Biểu ông se mối chỉ năm bảy lần, ổng không se
Cà rỡn là lời nói với chức năng đùa vui, không thể hiển sự giọng cao thấp, cạnh khoé. Chàng trai thấy cô gái dễ thương, bèn bông lông rằng:
- Nước Láng Linh chảy ra Vàm Cú
Thấy em chèo cặp vú muốn hun
- Bới tóc cánh tiên, bỏ vòng lá liễu
Thấy miệng em cười trời biểu anh thương
- Tui hun mình, dẫu mình có la làng
Thì tui la xóm hai đàng la chung
Tui hun mình dẫu có làm hung
Nhơn cùng tắc biến tui chun xuống sàn
- Con cua càng bò ngang đám bí
Nó với chị mày giờ tí qua qua
Trong kết cấu đối đáp cũng có những câu lém lỉnh, cà rỡn:
- - Ai mà bày đặt dị kỳ
Áo bà ba may hai túi đựng giống gì hở anh
- Ba má bày đặt cho anh
Áo bà ba may hai túi đựng dầu chanh o mèo
- Nước mắm ngon dầm con cá bẹ
Anh biểu em rình lén mẹ qua đây!
- Nước mắm ngon dầm con cá đối
Em biểu anh chờ để tối em qua
Khi nói cà rỡn, yếu tố tục, những từ ngữ gợi đến những bộ phận trên cơ thể của con người được tận dụng triệt để. Phần trên chúng tôi đã dẫn câu ca mà chàng trai … muốn hun! Đến đây, thấy cần bổ sung mấy ví dụ nữa để bài viết thêm sinh động:
- Thân anh lỡ dại hai lần
Nhỏ măn vú mẹ, lớn mằn vú em
Cách chối từ của cô gái gửi đến cho anh chàng đã có vợ rồi còn giở thói “trăng hoa”, rằng:
- Yêu anh em chẳng sợ ai
Em chỉ có sợ dao phay với chổi chà
Tiếu lâm hơn là lời của “ông” anh rể:
- Giữa trưa đói bụng thèm cơm
Thấy đùi em vợ như tôm kho tàu
Sau hết, xin dẫn một câu ca có miêu tả trực tiếp yếu tố sinh thực khí của nữ giới:
- Cô kia cấy lúa Nanh Chồn
Chổng mông cô để cái l… cô lên
3. Chức năng của cách nói trong ca dao
Những biểu hiện của cách nói trong ca dao mà chúng tôi vừa liệt kê đã góp phần quan trọng để các nhà thi pháp học khẳng định ca dao là câu thơ điệu nói, nó mang ngữ điệu người, giọng điệu người, thể hiện đa dạng các cung bậc, cảm xúc trong tâm hồn con người.
Chính từ những cách nói bằng ngữ điệu ấy đã đem đến cho ca dao hơi thở rất riêng, dù đặc trưng thể loại đã làm cho tính cá nhân bị xoá nhoà.
- - Bên dưới có sông, bên trên có chợ
Hai đứa mình kết vợ chồng nghen
- Thấp đăng cá nhảy qua lờ
Anh đừng xí gạt em chờ uổng công
- Tưởng rằng anh tới anh chơi
Ai dè anh tới kết đôi vợ chồng
Ai đó từng “chê” cụ Đồ Chiểu sao để cho Vân Tiên “ừ” trước mặt nàng Nguyệt Nga xinh đẹp trong truyện thơ Lục Vân Tiên (Vân Tiên ngó lại rằng: ừ), thì hãy nghe đây, cách nói, cách tỏ bày tình cảm trong dân gian miệt này:
- Ngó lên chữ ứ, ngó xuống chữ ư,
Anh thương em hổng thẳng em ừ,
Anh đừng thương vội mẫu từ em hay
- Vợ lớn đánh vợ nhỏ,
Chạy ra cửa ngõ ,
Ngóng cổ kêu trời!
Ớ anh ơi ?
Nhứt phu lưỡng phụ, ở đời đặng đâu?
- Con cá làm nên con mắm
Vợ chồng già thương lắm mình ơi!
4. Kết luận
Người Tây Nam Bộ bộc trực, thẳng thắn, nhưng cũng rất tinh tế, khéo léo trong ứng xử. Họ sẵn sàng đùa cợt, cười rần để xua tan đi những nỗi nhọc nhằn trong quá trình chinh phục thiên nhiên hoang dại. Và lời nói là nơi thổ lộ rõ ràng nhất.
Lời nói là phương tiện không thể thiếu trong giao tiếp. Trong giao tiếp lại bộc lộ văn hoá ứng xử của người bình dân. Hơn thế, lời nói đã đi vào lời ca, tiếng hát, nó góp phần làm lung linh thêm những “hạt ngọc” tinh thần của người dân quê chơn chất.
Từ lời nói dân gian, chúng ta còn phải học tập nhiều lắm ở họ:
Chim khôn kêu tiếng rãnh rang
Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe.
_________________________________________
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Văn Đức, Việt Nam tự điển, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, 1970.
2. Lê Giang (sưu tầm – sưu tập – biên soạn), Bộ hành với ca dao, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh, 2004.
3. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007.
4. Nguyễn Lực – Lương Văn Đang, Thành ngữ Tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1976.
Và những câu ca dao sưu tầm từ điền dã dân gian của tác giả bài viết.
___________________________________________________
[1] Bài đăng trên Tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống số 5 (187) – 2011
[2] Cựu sinh viên, lớp Sư phạm Ngữ Văn K15, hiện là Giáo viên Trường THPT Mai Thanh Thế, Ngã Năm, huyện Ngã Năm, Sóc Trăng
nguồn http://se.ctu.edu.vn/