Đà Lạt

Trả lời
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5388
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Đà Lạt

Bài viết bởi Bạch Vân »

          
Đà Lạt


    • Thương nhớ Ôn

      Tôi sẽ đi, thôi Đà Lạt nhé!
      Dấu chân son, mắt biếc, nhớ thương.
      Môi hồng héo nụ em hờn dỗi
      Tà áo tìm tôi trong gió ngoan...

      NT.


I

Một câu ca, một bài hát, trong một hoàn cảnh nào đó, có khi gieo vào tôi những ấn tượng rất mạnh và tạo nên những liên tưởng rất chủ quan. Thơ cũng thế. Bài Silent Night (Đêm Thánh Vô Cùng) thường được hát vào dịp lễ Giáng Sinh là một thí dụ. Mỗi khi nghe bài hát đó, tôi nghĩ ngay đến Đà Lạt, một Đà Lạt tang tóc trong đó ngôi nhà thờ Con Gà đứng co ro, lạnh lẽo, không đèn sao, không cờ đuôi nheo nửa trắng nửa vàng, không có cả những bài thánh ca "tiếng kinh muôn lời" trong đêm Giáng Sinh.

Có lẽ tôi phải nói rõ thêm một chút về trường hợp này. Một buổi chiều cuối năm trời lành lạnh sau cơn mưa hiếm hoi trên một cánh rừng thuộc tỉnh Tây Ninh, quần cụt, áo cánh may bằng bao cát và tóc tai ướt mem, đói, run, và mệt, ngồi gập ghềnh trên cán cuốc gác ngang qua hai vồng khoai lang vừa mới cắm hom để nghỉ giải lao mười phút, tôi bỗng nghe tiếng huýt sáo miệng bài Silent Night. Tôi sững sờ. Suốt mấy năm trời ở trong rừng, tai toàn nghe những âm thanh thịnh nộ, hoặc những điệu tuyên truyền nhạt nhẽo, rẻ tiền, nay tiếng nhạc êm ái của ngày cũ bỗng trổi lên. Điệu nhạc đang dìu dặt, bỗng một giọng nói gầm gừ, gắt gỏng gào to: "Anh kia! Lại nhạc vàng! Lại nhạc vàng hử!"

Tôi quay nhìn. Vài ba người tù của một đội khác đang được nghỉ ngơi gần đó cũng quay nhìn. Người huýt sáo miệng cao, gầy, đeo kính cận thị dày cộm. Tiếng sáo đứt ngang. Anh ta cũng đang ngồi trên một cán cuốc gác ngang, sau lưng là mấy hàng cây sắn lâu ngày hạn hán thân khúc khuỷu đầy mắc bạc trắng, lá vàng nhiều hơn lá xanh, trông giống như những lá cờ đuôi nheo tí hon. Anh giật mình đứng thẳng người lên rồi lính quýnh cúi xuống cầm cuốc định đi lảng nơi khác. Cái kính cận thị chỉ còn một gọng tuột khỏi vành tai của anh rớt xuống vũng bùn. Anh một tay giụi mắt, tay kia quơ quơ mò tìm. Bỗng anh ối lên một tiếng, bàn chân anh đã đạp lên một cái gì đó. Cặp mắt anh dại hẳn đi, mái tóc cũn cỡn lam nham không đi đôi với khuôn mặt khôi ngô, thông minh. Anh nhìn quanh ngơ ngác, rồi ngồi phịch xuống đất duỗi thẳng hai chân, nước bùn đỏ ối làm ướt đẫm cái quần xà-loõng, mấy sợi lông trên hai cẳng chân khẳng kheo nổi lên lờ vờ. Anh đưa hai bàn tay sờ soạng dưới vũng nước bùn. Cuối cùng anh lôi lên được cái kính cận một gọng nay chỉ còn lại một tròng đã bị nứt rạn, tròng kia sút mất. Ngay lúc đó tiếng người quản giáo của đội tôi gọi thật to, "Khẩn trương! Khẩn trương tập họp!" Anh chàng đó và tôi đứng dậy, vác cuốc bước đi cùng với những ngươì tù khác.

Khi đã ra tù, cứ mỗi cuối mùa đông có dịp nghe lại điệu nhạc cũ ấy, lần nào cũng vậy, tôi nghĩ ngay đến anh chàng cận thị mất kính trong vườn sắn lá vàng nhiều hơn lá xanh, và không hiểu vì sao, ngôi nhà thờ Đà Lạt lại hiện rõ lên cùng một lúc, ủ rũ, ngơ ngác sau những hàng thông già. Bài hát thì nghe chìm chìm, rầu rầu, cái nhịp mạnh trong điệu luân vũ xưa kia đệm cho những bước nhịp nhàng trên sàn khiêu vũ trường nay trở thành tiếng dội nhói vào tim. Bài thánh ca quen thuộc vẫn như xưa chăng, không buồn hơn, không vui hơn, Đà Lạt muôn vàn thương nhớ vẫn thơ mộng chăng, chỉ có lòng tôi đổi khác? Không, không phải chỉ có thế, tôi biết chắc như vậy.

Cũng thế, ấn tượng tạo nên bởi câu thơ mạnh không kém, có thể còn mạnh hơn, trong tôi. Mấy câu thơ sau đây tôi không biết tác giả của nó muốn nói đến miền đất nào trên quê hương, nhưng mỗi khi đọc lên, tôi nhớ Đà Lạt quay quắt:

"Nắng hớn hở nắng trong veo như mắt
Mỉm cười xa, phố thấp vẫy chàng."


hoặc: "Cây biếc lục. Trời tím than. Núi sửng.
Phố tuôn vàng huyên náo dưới triền sâu."


Đà Lạt! Đà lạt! Tôi gọi thầm Đà Lạt không biết bao nhiêu lần để vơi bớt nỗi nhớ. Hay để nhớ thêm!

II

Tôi không sinh ra tại Đà Lạt, nhưng thời thơ ấu của tôi đã trải qua trên thành phố cao nguyên này. Đường sá, địa danh hồi đó hầu hết đều mang tên bằng tiếng Pháp, chẳng hạn đường Rue d'Annam, đường Maréchal Foch, đường La Rose, hồ Lac des Soupirs, trường Petit Lycée, trường Yersin, rừng Bois d'Amour, nhà thờ Saint Domaine de Marie, khách sạn Sans Soucis, rạp chiếu bóng Lang Biang v.v... Lẽ dĩ nhiên những tên vừa nói sau này tôi mới biết, còn hồi bé, trừ cái tên của ngôi trường mà tôi đã đến học được mấy năm là trường École Primaire de Dalat, những danh xưng khác bằng tiếng Pháp tôi chỉ nhớ lạng quạng. Sân Bờ-Noa (Saint Benoit) nghe nói hình như ở đâu xa tít, xa hơn cả nhà ga thì phải, khách sạn Ba-Láp (Palace) nghe nói Tây Đầm mới được tới ở, chị Thu bảo đã đi thăm Ba-Le (Palais Impérial) đẹp lộng lẫy. Nhưng những thứ đó tôi không để ý đến.

Chú bé loắt choắt đã có những bận tâm khác. Từ thuở lên ba cho đến khi gần mười tuổi, sau này nhớ lại, hình như chú chỉ quan tâm đến những chuyện sau đây.

Trước hết là chuyện học hành. Chuyện này không thể nào bỏ qua được vì bố rất nghiêm nhặt, luôn luôn lo lắng cho nó nên người. Nó không bao giờ quên được những kỷ niệm của ngày khai trường đầu tiên trong đời. Buổi sáng hôm ấy, lá ngoài đường không rụng nhiều và trên không cũng không có những đám mây bàng bạc, nó líu ríu đi theo chân bố, mặc cái áo xuyến đen dài, quần trắng dài, đầu đội nón cối, chân mang guốc gỗ, hay giày xăng-đan, nó không nhớ rõ, tay ôm cái cặp da to tướng do người cậu họ cho cách đó mấy hôm, trong đó có một tập vở mới tinh, bìa sau có in bản cửu chương và hình cái thước đo "đúp đề-xi-mét" (double décimètre), một lọ mực tím đậy nút chặt cứng, một cây bút mực ngòi hình lá tre, quản bút bằng gỗ qúa lớn đối với những ngón tay nhỏ xíu của nó, một cây bút chì đen và một cây bút chì cu-lơ (couleur) một đầu xanh, một đầu đỏ, đã được mẹ gọt nhọn sẵn, một cục tẩy có hai phần dán dính cứng lấy nhau, phần màu đỏ để tẩy chì, phần màu xám để tẩy mực, và một tấm bảng đá màu đen một mặt kẽ ô vuông, mặt kia trơn, buộc vào góc bảng đá là chiếc giẻ lau nhỏ bằng bàn tay. Đặc biệt, ở đáy một ngăn nhỏ của chiếc cặp là hai cục kẹo có cán cầm, có giấy trong bọc lại.

Nó nhớ mãi buổi sáng sớm hôm ấy. Phố xá vắng và lạnh. Nắng đã lên. Biết nó phải đi học, những đứa bạn cùng dãy phố thò đầu ra khỏi cửa sổ nhìn theo. Lại có ba bốn đứa chịu khó dậy sớm rủ nhau đứng thành một hàng nơi có nắng dọi xuyên kẽ hở của hai ngôi nhà lầu. Chúng đứng chờ nơi đó để có nắng sưởi ấm và đồng thời để vẫy tay ghẹo nó. Nó cảm thấy tủi thân. Bọn kia là những đứa cùng lứa tuổi nó nhưng không bị bắt đi học. Nó không thể nào hiểu tại sao trời lại sinh ra trường học để nhốt tuổi thơ dại của nó lại.

Về sau nó được cô giáo cho biết ngày đi học đầu tiên đáng nhớ lắm, nhớ là vì ngày khai trường luôn luôn có nhiều kỷ niệm đẹp đẽ vô cùng... lúc đó bầu trời mới chuyển động vào thu, lá vàng đi trong đám cây run rẩy... cảnh vật buồn buồn một chút nhưng đẹp hơn bao giờ cả, có chú bé vừa đi vừa nhảy cà tưng như con chim sẻ... Nhưng nó lại nghĩ rằng đó là chú bé ở đâu đâu chứ không phải nó. Cái cặp to tướng ôm chưa quen tay rớt tuột xuống đường mấy lần làm bố cau mày, cái nón đội trên đầu rộng rinh và nặng như đá đeo chốc chốc sụp mũi xuống che kín mắt, hoặc xoay ngang trông kỳ cục, khiến bố phải vừa đi vừa chỉnh cho hoài, cái áo xuyến mới khua rọt rẹt khó chịu. Đó là ngày đầu tiên.

Còn những ngày kế tiếp thì sao? Những buổi sáng trời lạnh quá nếu không có cặp mắt còn lạnh hơn của bố nhìn trừng trừng nó đã nhỏng nhẻo với mẹ đòi "nghỉ học một buổi thôi". Cho nên kết quả là nó đi học đều đặn. Nhưng hoặc là vì bài vở nhiều quá, tiếng Việt, tiếng Tây, và có cả một giờ chữ Hán mỗi tuần nữa; hoặc là vì nó tối dạ; hoặc là vì nó nhỏ xíu trong lớp học gồm hầu hết các anh các chị lớn sầm sầm, có người hơn nó đến chín mười tuổi; hoặc là vì tất cả những lý do nó vừa nêu lên gộp lại, kết quả là chuyện đi học của nó trở thành một hình phạt trong thời thơ ấu.

Hình như nó không học được gì mấy. Nó làm được vài phép toán cọng trừ; nó phải viết chữ cho ngay ngắn, rõ ràng, chữ nào ra chữ nấy, chữ u phải khác chữ n, số 4 không được viết giống số 6, khó quá; phải viết ám tả đừng quá mười lỗi, vẽ bản đồ rồi tô màu làm sao cho phân biệt được nước này với nước khác, đừng để màu vàng của nước mình lem qua màu nâu của Cao Mên hoặc màu xanh của biển Nam Hải; và cuối cùng là phải giữ tập vở cho thẳng thớm, tươm tất, các góc trang giấy không được cuốn lại như lỗ tai chó. Học hành sao khổ thế! Chỉ có một trường hợp ngoại lệ, nó thích cuốn Quốc Văn Giáo Khoa Thư và cuốn Luân Lý Giáo Khoa Thư. Những bài học và hình vẽ trong đó luôn luôn đưa trí tưởng tượng của nó đi mông lung và và gieo vào lòng nó những tình cảm êm đềm.

Một lần, cô Lộc gọi chú bé lên bảng:

“Trò N.! Bản đồ Âu Châu lần này coi cũng được được. Nhưng có đúng trò vẽ và tô màu lấy hay không? Hay là trò nhờ người khác?”

Nó trả lời lí nhí những gì mà chính nó cũng không hiểu.

“Trò phải nói thiệt. Nói láo cô cho zéro. Trò nhờ ai vẽ?”

Nó càng lúng túng, sợ hãi, nước mắt muốn chảy. Thấy tội nghiệp, chị Phụng, người học trò lớn tuổi, nói giúp:

“Dạ thưa cô, trò N. không nhờ ai vẽ giùm cả. Trò Lan vẽ xong chê xấu liệng vô sọt rác, trò N. lượm đem đi nộp cô, thưa cô.”


Một lần khác, cô bắt viết vài dòng tả cây lúa. Nó nộp giấy trắng bị zéro, bị cô la rầy. Cô hỏi tại sao trò làm biếng không chịu "tập làm văn", nhưng nó có bao giờ thấy cây lúa đâu! Một lần khác nữa, nó chép bài từ bảng đen vào tập vở gần xong thì hết trang giấy. Lật qua trang mới, thấy sạch sẽ và thơm tho, mà chỉ còn có mấy dòng là hết bài, cho nên nó ráng nắn nót viết cho đẹp. Nếu bài còn dài phải viết nhiều, thế nào nó cũng viết nguyệch ngoạc như gà bới.

Về nhà bố xem lại vở, giận dữ:
“Cái thằng này hư đốn! Lại nhờ người khác chép bài hả? N.!”

Nó ngạc nhiên không hiểu đâu vào đâu. Bố mắng tiếp:
“Bài vở phải tự chép lấy. Lần sau mà còn làm biếng sẽ ăn roi. Nghe chưa?”

Nó nhìn bố không tìm được lời giải thích. Nó vốn "mũ mít", ai nói đến nó là nó trít miệng. Hơn nữa quả thật lần đầu tiên nó viết được mấy hàng chữ trông đẹp đẽ. Những trang trước chữ nó viết trông như con trùn bò, chị nó bảo như thế. Nó lại lí nhí trả lời bố những gì chính nó cũng không hiểu.

“Hả? Lại còn muốn nói gì nữa? Có nghe lời bố dặn không?”
“Dạ. Con nghe.”


Đại khái chú bé học hành như thế, nhưng không hiểu sao năm nào nó cũng được lên lớp. Có lẽ nó được vớt.

Đến lớp ba, nó bắt đầu lơ mơ cảm thấy vài điều vui vui trong việc học, nhưng lúc đó nó phải xa Đà Lạt. Đó là chuyện về sau.

Học đường cũng có mấy thứ khác đáng nhớ. Chẳng hạn vào giờ thủ công, học trò được phép ra khỏi lớp, tới hai hàng cây keo giữa sân trường gỡ những cục nhựa đọng trên thân cây vo tròn lại bằng hòn bi chai đem vào lớp làm keo dán, tốt và sạch hơn hồ chị nó nấu từ bột gạo. Siêng thì đi kiếm cái "nắp keng" cho chút nước vào hòa với cục keo, làm biếng thì chỉ cần thè lưỡi liếm cục keo cho ướt ướt là dán được ngay. Làm xong bài thủ công đôi khi hai cái môi của nó dính trít, mấy ngón tay dày cộm lên, cả keo là keo. Sung sướng nhất là đến giờ tập thể thao được "lên gò” phía sau trường. “Lên gò!” Lòng nao nức, tay chân ngứa ngáy. Đó là một một ngọn đồi nhỏ và thấp thiết trí mấy dụng cụ dùng để tập thể thao, một giải đất cát để tập nhảy cao, nhảy dài, một cuộn dây dừa to để “leo dây” và chơi trò "kéo co". Và hấp dẫn hơn cả là cái cầu tập thể dục. Cầu là một thanh gỗ chiều dài khoảng sáu thước, bề ngang khoảng hơn một gang tay, bắc ngang trên hai cây cột cao khoảng bốn thước, bên dưới cầu lủng lẳng hai cái xích đu. Đi lên từ một phía của cầu có cái thang nghiêng, nhưng một khi qua được bên kia cầu, phải ôm cây cột tròn tuột xuống. Ai muốn đi qua cầu phải được anh moniteur nắm tay dẫn đi. Con nít đi một mình không quen, ngợp, té, cho nên bị cấm. Nó bị phạt quỳ mấy lần vì lén đi qua cầu một mình để nhìn xuống mái trường ngói nâu nối đuôi nhau có lá thông khô phủ từng vạt, có những tổ chim sẻ, chim én nhỏ xíu.

Nhưng đáng nhớ hơn cả vẫn là Đà Lạt của những ngày nghỉ học. Những ngày đó chú bé như con chim sổ lồng.

*

Một năm có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, như được học tại lớp? Không, các mùa của chú bé khác hẳn. Khi gió ẩm ướt, trời thỉnh thoảng gầm gừ, mây xám có hôm kéo về đầy trời, và nghe sướng tai làm sao, những tiếng reng réc đầu tiên rụt rè, lẻ tẻ, thân yêu, quen thuộc phát ra từ một vài kẽ đá, gốc cỏ, bụi cây, cột đèn đường v.v... nó vui mừng biết rằng mùa đá dế lại về.

Có những tuần lễ trời trong, gió cao, nắng ấm, ấy là mùa thả diều. Nó còn bé tí, không biết làm diều. Bắt chước người ta nó làm đại, cũng khung tre, cũng phất giấy mỏng, cũng hai cái đuôi diều dài như nhau làm bằng những dung giấy hẹp dán nối lên nhau, và cũng đi theo tụi nhỏ khác mang diều tới thả nơi khoảnh đất rộng trống gió cuối đường Rue d'Annam. Nhưng diều của nó không biết bay dù nhiều lần nó bắt chước cầm diều chạy một đoạn ngắn và buông dây ra từ từ, thì chiếc diều đâm sầm xuống đất. Đó cũng là nơi tụi nhỏ tụ tập chơi nhiều trò nhất.

Từ khoảnh đất đó nhìn thẳng phía trước xuống lòng thung lũng, nó thấy được con đường cong cong hai bên phố xá thưa thớt mà người ta gọi là đường Cầu Quẹo. Nhìn xa hơn nữa, trên sườn chênh chếch từ lòng thung lũng đi lên, tầm mắt nó chạm phải những hàng thông chạy dài theo một con đường vắng. Nó đã theo bố đi trên con đường đó mấy lần nhưng nó không biết tên đường. Về sau nó biết đó là đường Pasteur, sau đổi thành đường Hai Bà Trưng. Nhích lên một chút nữa là những dãy nhà tường trắng, mái đỏ trông rất ma quái, dễ sợ. Bọn trẻ cùng khu phố thường bảo nhau đó là vùng nhà thương, nhà xác, nhà mồ, lẽ dĩ nhiên có nhiều ma. Thỉnh thoảng bọn chúng nghe tiếng kèn lính từ một phía núi nào đó vọng đến, lại kháo nhau rằng Tây sai những toán lính tới vùng nhà xác thổi kèn để đuổi ma qủy. Ngay phía trước khu thả diều trên một đỉnh đồi là nhà thờ Tin Lành mới xây xong. Bên mặt nhà thờ, trên một đỉnh đồi khác, một ngôi chùa cũng đang được xây nửa chừng. Sau này đó là chùa Linh Sơn. Còn phía ngược lại là phố xá, là cái chợ có cái tháp cao còi hụ vào lúc đúng ngọ trên đó có chạm hình nổi “Mọi Cà Răng Căng Tai", đàn ông răng cà sát nớu, đóng khố, tay cầm xà gạc, đàn bà mặc váy, ở trần, trái tai đeo “thứ gì không biết” căng tròn lên to đùng.

Vào dịp nghỉ hè của thầy Khoái, ông thầy giáo trẻ tuổi ở trọ tại nhà của nó, thỉnh thoảng thầy lấy xe đạp chở nó xuống hồ Đà Lạt câu "cá trắng". Nó nghĩ thầm mùa câu cá lại về, chứ không phải mùa hè. Nó được giao phó việc cầm lon trùn và xách chiếc giỏ mây đựng cá. Không bao giờ nó đủ kiên nhẫn ngồi lâu với thầy. Câu một con cá sao mà khổ thế, ngồi chờ mãi. Thế mà thầy vẫn tỉnh bơ. Nó đòi về hoài làm thầy bực mình dọa lần sau không cho nó đi câu nữa. Thật ra nó đâu muốn đi câu cá, nó chỉ muốn được thầy chở xe đạp chạy qua những đoạn đường dài, nhất là khi xuống dốc chiếc xe đạp lao như bay như biến. Đà Lạt có nhiều dốc mà!

Mùa gì nữa? Còn nhiều mùa lắm, chán chơi trò này đổi qua trò khác cũng được kể như sang mùa. Chẳng hạn sau mấy tuần đá banh xoay qua đánh bi đánh đáo, thế là mùa đánh bi đánh đáo bắt đầu. Nó không biết tại sao mùa bắn chim đang vui bỗng nhảy qua mùa đá kiện. Mọi đứa trẻ không ai bảo ai đều chuyển mùa. Có lẽ có một đứa chơi mau chán thứ gì đó nên đổi môn, tụi khác “nhắm mắt” làm theo.

Đá kiện thì chắc đứa trẻ nào cũng biết. Hai "đồng xu nửa" có lỗ đặt chồng lên nhau, một rẻo vải nhỏ luồn qua lỗ thắt lại thành kiện. Rồi chia phe nhau đá, đá tay đôi tay ba tay bốn gọi là "đá kiện giao", đứa nào đá hụt là thua, bị loại; hoặc đá một mình tính điểm, ai tới trước 50 điểm chẳng hạn là thắng cuộc. Có hai kiểu đá: “đá bàn” bằng lòng bàn chân, “đá chó”, bằng mu bàn chân. Đứa thua phải cõng đứa thắng đi quanh vài vòng, hoặc bị "ăn đột", nghĩa là bị đứa thắng dùng nắm tay nện vào vai, vào lưng, nhiều ít tùy giao hẹn trước, nhưng nặng nhẹ là do lòng tốt của đứa thắng. Thường thì nhẹ vì tuy là con nít, tụi nó cũng biết dễ gì mình thắng mãi, nếu cứ lên gân nện đứa thua, lỡ tới phiên mình thua, lãnh đủ. Có lúc nó bị nện đau đến méo mặt. Đến khi nó thắng, trước khi ra tay trả thù, nó đọc lên một câu "thiệu" mà tụi con nít vẫn nói trong những dịp như vậy, "Dễ người dễ ta, khó người khó ta".

Đá banh thích hơn đá kiện nhiều. Banh càng to càng thích. Tụi nó thường chỉ đá banh ta-nít (tennis) đã trụi hết lông xin được của ai đó không biết, đá chân không, đá trên sân trường, trên vỉa hè, trên góc phố vắng người đi, ngoài cổng chùa v.v... Đông thì mỗi phe dăm ba đứa, ít thì mỗi phe một đứa, có hoặc không có trọng tài cũng không sao, lấy sách vở, hoặc guốc giép, hoặc cục đá cục gạch, hoặc bất cứ cái gì vớ được, chất thành hai tụ nhỏ cách nhau để làm gôn. Đấu một chốc phải đo lại gôn, bằng không cái gôn "tự nhiên" hẹp lại lúc nào không ai hay. Chiều cao của gôn được xác định bằng cú nhảy cao thẳng người hai tay đưa lên trời của thằng giữ gôn. Nếu muốn ăn gian, lúc banh bắn vào gôn không lấy gì làm cao lắm mà thằng giữ gôn vẫn bắt không được, thì chỉ có việc đứng chùn người lại một chút, hai cánh tay dạng ngang thay vì đưa thẳng lên trời, thế là banh được coi như đã vượt quá sà ngang tưởng tượng.

Một hôm, thằng "Ông Anh" ở cùng phố cho tụi nó biết đã tìm được một chỗ đá banh mới trên một ngọn đồi phẳng nơi đó nay mai sẽ dựng lên một ngôi trường học. Sau này đó là trường nữ trung học Quang Trung, rồi đổi tên thành trường Bùi thị Xuân. Chỗ đá banh đó rộng lắm, tha hồ đá thẳng cẳng, mỗi phe phải có ít nhất là bốn năm đứa, chưa kể hai thằng giữ gôn. Muốn được "ông anh" kêu đi chơi, nó phải mang theo một trái banh lớn để đá trên sân rộng, không được xài banh ta-nít. Nó không hiểu tại sao ông anh không đặt điều kiện như vậy đối với tụi nhỏ khác. Có lẽ vì nó nhỏ nhất trong bọn chăng? Nó năn nỉ mẹ mua cho một quả banh cao-su to có khứa trông giống trái "ba-lông" của người lớn chơi dưới "xẹc" (Cercle sportif). Gọi là "dưới xẹc" vì xẹc nằm trên vùng đất thấp bên cạnh bờ hồ, nay có tên là Hồ Xuân Hương. Mẹ bằng lòng với điều kiện nó đừng làm bể, làm mất trái banh. Nó đi theo "Ông anh", ôm quả banh vào lòng đầy cả hai cánh tay, sung sướng. Đem banh lên đồi chia phe đá với nhau một hồi mệt toát cả mồ hôi, thì ạc-bít (arbitre) cho nghỉ đờ-mi-tăng (mi-temps). Bỗng có một người lớn lạ mặt đạp xe đạp từ ngoài đường nhựa tạt vào xem tụi nó chơi. Nó không thể đoán ra tuổi của người lớn, 20 tuổi hoặc 30 tuổi đều là lớn như nhau, và đều đáng kính, đáng sợ.

Người lớn bảo thằng "Ông anh":
“Ê! Đưa trái banh tao coi.”

Đối với tụi nó, "ông anh" quyền uy là thế, nhưng trước người lớn, thằng này hết sức ngoan ngoãn hai tay mang banh đến.
“Tụi mày tiền đâu mua trái banh này?”
“Dạ, không phải của tụi tui. Của thằng N.”
“Thằng N. là thằng nào?”

"Ông anh" chỉ nó. Người lớn ra lệnh:
“Ê, tớí đây mau!”

Nó riu ríu tới. Người lớn véo tai nó rồi xoay xoay trái banh trong tay hai ba vòng, ngắm nghía, lại quay nhìn nó, rồi đứng dậy thủng thẳng đi đến cuối bãi, cầm trái banh tung nhẹ lên trước mặt cho vừa tầm rồi lấy sức đá mạnh quả banh xuống thung lũng dưới xa. Xong đâu đấy người lớn cười khoái trá, leo lên xe đạp đạp một lèo mất dạng. Tụi nó nhìn nhau ngơ ngác. Một chốc sau "ông anh" ra lệnh bò xuống thung lũng tìm banh. Cây cỏ cao và rậm, lại sợ rắn, sợ chó, sợ banh đã lọt qua phía bên kia hàng rào của khu vườn trồng cà phê của "thằng Tây", cuối cùng tụi nó bỏ cuộc. Buổi chiều về nhà trễ sợ mẹ hỏi banh đâu. Mẹ không hỏi liền nhưng mấy ngày sau mẹ có hỏi, nó tìm cách nói quanh, cho người này mượn, cho người kia mượn, giấu giếm chuyện mất banh được cả tháng trời. Thế là hết mùa đá banh. Từ đó, hễ gặp người lớn lạ mặt, nó né né, gờm gờm.

*

Nhưng mùa gì cũng không bằng mùa đá dế. Mùa dế đến, theo chân dế, theo tiếng dế gáy thiết tha, giục giã, nó đi nhiều nơi. Đi tới cuối đường Cầu Quẹo, đi lên Cây Số Bốn, Cây Số Sáu, đi xuống dốc Nhà Làng, đi qua xóm Nhà Bò, đi lại phía Nhà Đèn, đi lên đồi Cù, đi xuống cầu Ông Đạo, đi về cầu bà Cửu Huờn v.v... Có khi đi thật xa, gần tới Bơ-tí Lít-xê (Petit Lycée). Nhiều hôm vào thứ năm, chủ nhật, hồi đó là những ngày nghỉ học, dậy thật sớm, nắng vừa lên trời còn lạnh, tụi nó đã rủ nhau đi bắt dế, đi trễ bọn khác bắt hết dế sao.

Muốn bắt được nhiều dế cứ việc đến các vườn la-ghim (légumes) của các ấp Hà Đông, ấp Nghệ Tịnh gần Mả Thánh. Dế vùng này to, mập, chậm, đá dở. Tụi nhỏ cho rằng những con dế làm hang trong đất xốp, đất dùng để trồng trọt, ăn toàn “đồ bổ”, cô giáo nói la-ghim bổ lắm, là loại dế bở, đá vài phút te cò chạy. Ăn cực đá hay hơn. Còn loại dế thấy ánh đèn đường ban đêm bay sà tới lại càng tệ, bắt đem về nuôi thêm chật hộp. Thà bắt dế chó nhốt chơi vài ngày rồi dụt đi còn hơn. Dế chó nhỏ con, có vạch màu vàng hình chữ V trên đầu, không biết đá, tiếng gáy nghe như tiếng rên dài dài từng chuỗi, không nhịp nhàng từng hồi ngắn như dế than, dế lửa. Phải tìm cho được những con dế ở các hang thật sâu đào xuyên qua rể cây lớn, hoặc xuyên qua hốc đá. Hang càng khó đào, dế càng đá hay. Tụi nó không có cuốc, xẻng, mỗi đứa chỉ đem theo một khúc cây ngắn, vót nhọn, dùng để đào hang, mấy cái hộp quẹt hoặc lon sữa bò dùng đựng dế. Đào thật cẩn thận, bằng không đâm chết dế. Có hang sâu quá đào không nổi, tụi nó hè nhau đi kiếm vũng nước, dòng suối, lấy nước đổ vào hang cho dế ngộp phải trồi lên. Một gia đình dế nộp mạng "đầu hàng" theo thứ tự như sau: dế con bò lên trước, rồi đến dế mái, dế mẹ. Có nhiều con dế mẹ vì một con dế trống đầu đàn có nhiều vợ, sinh ra nhiều đàn con. Sau một lúc lâu mới đến phiên con dế trống, chịu ngộp giỏi nhất, nhưng cuối cùng cũng phải bò lên. Cánh nó dợn sóng, hai chấm vàng tươi ở gốc cánh nằm kế cái đầu tròn vo hiện lên rực rỡ dưới ánh mặt trời. Lúc này thì cặp râu dài của con dế đã ướt mèm dính bùn, mấy cái chân trước bước lê lết, mệt nhọc, hai cái chân sau duỗi thẳng. Đó là con dế trống đầu đàn. Nó lấy lại sức rất mau. Chỉ mấy phút sau nếu tụi nhỏ không kịp bắt nó nhốt vào hộp, nó phóng đi cái vèo mất tiêu. Khi tìm không ra vũng nước, tụi nhỏ họp nhau đái vào hang. Một đứa đái không đủ nước! Có khi chúng mạo hiểm phá hang rắn để bắt dế. Dế ở chung với rắn con nào con nấy dài thòong, dế mà dài như thế tức là bị lai với rắn chăng, tụi nhỏ nghĩ như thế, đá hay lắm, nhưng tiếng gáy dở ẹc, là vì cánh của loại dế này thường bị rách hoặc lũng lỗ. Nó gáy lên nghe thua vịt đực kêu.

Kinh nghiệm của tụi nhỏ cho thấy rằng dế than “đen thùi lui như cục than" thúc giỏi, thúc có nghĩa là đẩy, nhờ có cặp giò sau rất cứng, trong khi dế lửa ”đỏ hồng như ngọn lửa” nghiến đau nhờ có cái càng rất mạnh. Nó nghiệm ra điều đó chưa chắc đúng, sau này nó sẽ có bằng cớ. Nhưng dế than phải thật đen, dế lửa phải thật đỏ. Loại dế lai màu nâu nâu đá không hay. Tụi nhỏ được cho biết, ai là người đầu tiên nói điều đó nhỉ, dế than dế lửa lấy nhau đẻ ra dế nâu.

Con dế là người bạn thân yêu của tuổi thơ ấu. Lần đầu gặp nhau, nó là kẻ đi ruồng bắt, con dế là kẻ trốn tránh, nhưng một khi đã sống chung với nhau một thời gian ngắn độ vài giờ, dế và nó thương yêu nhau, quấn quýt bên nhau. Nó lấy cái hộp thật tốt, hộp đựng bánh bích-quy chẳng hạn, cho đất vào, moi sẵn hang cho dế chui vô, trồng một ít cỏ thật xanh, kiếm rể cỏ non cho dế ăn, thay vì cho ăn hạt cơm hoặc cọng giá, những thứ đó chỉ làm cho dế mập phì, chậm chạp.

Rồi nó bỏ ra rất nhiều công sức để làm cái “nhử”. Đó là một cục "dầu hắc" nhựa đen vo tròn to bằng đầu con dế gắn vào một đầu cây nhang dài khoảng nửa gang tay, đầu kia làm cán, rồi xin chị một sợi tóc gấp làm đôi cột vào cục nhựa cho thật khéo, thật thẳng, giả làm cặp râu dế. Thế là xong cái nhử. Hai ngón tay cầm cán nhử xe xe cho tóc của đầu nhử ngoáy vào dế. Những thằng lười và ác chỉ việc ngứt đầu một con dế dở, có sẵn râu, rồi lấy cây nhang đâm vào làm cán thành một cái nhử gọn gàng. Nhưng loại nhử này bết lắm, đầu dế không dính chặt vào đầu nhang, xài năm bảy lần là sút. Những thằng lười và ác đó nhiều lúc thấy dế dở bị ngoáy mãi mà không chịu hăng lên, bèn cầm hai con lên dí càng vào nhau cho chúng nó cạp nhau cho đến chết. Nhưng dầu hắc đâu mà có? Rất dễ kiếm. Chỉ việc lấy mũi dao nạy vài cục nhựa trải đường lên đem về hơ lửa là xong ngay. Còn tóc phải năn nỉ xin chị, tóc nó cụt ngủn, không làm râu được. Đừng lấy ngón tay hoặc cái que lùa dế xáp vào nhau, dế đâm hoảng bỏ chạy. Cũng đừng xách mép dế lên rồi thổi vào bụng dế cho nó nhột, nó đập cánh rồi nó "hăng" lên; lỡ đứt mép, con dế rớt xuống cái bịch, hoảng, bỏ chạy. Những đứa "ba trợn" nắm cặp râu dế xách con dế lên quay tròn cho dế chóng mặt nổi khùng lên đá. Cũng không được. Râu bị cong queo hoặc bị đứt, con dế không râu kể như mù, bò loạng quạng, ngẩn ngơ như người mất vía.

Phải dùng nhử để chọc tức con dế, dụ con dế đuổi theo. Chẳng hạn con dế đang nằm trong cái hang nhỏ trong hộp bích quy, lấy nhử ngoáy ngoáy thế nào cho hai đầu sợi tóc chạm nhẹ vào nó, thế là nó sẽ vừa gáy vừa đuổi theo nhử. Đừng ngoáy mạnh quá, gặp dế nhát gan là hỏng, nó sợ bỏ chạy luôn. Hoặc là khi con dế đang đứng ở một góc hộp, nhử vào đuôi nó nó sẽ xoay người lại ngay, há rộng cái càng sẵn sàng "xáp trận".

Thằng bé cứ thế nhìn con dế một cách say sưa, ngồi một mình chơi với con dế cả tiếng đồng hồ, chốc chốc lấy nhử ngoáy để lại được thấy con dế hăng máu lên, mở rộng hai càng trông như hai lưỡi mác, hai cánh phồng lên cọ sát vào nhau phát ra tiếng gáy reng reng trong khi thân hình rùng rùng chồm chồm như ngọn lửa đang bốc, hay như chiếc khăn voan màu đen nhỏ xíu no gió, nếu là dế than, rùng rùng chồm chồm theo điệu nhún của cặp giò sau thật cao và thật dài. Trông oai ghê! Và đẹp hơn tất cả mọi thứ trên cõi đời này. Con dế ý chừng biết thằng bé đang ngây dại nhìn càng cao hứng chạy quanh trong lòng chiếc hộp sắt sục sạo tìm kiếm xem thử có một tên dế nào khác dám mò vào “giang sơn đất nước này”.

Lẽ dĩ nhiên mỗi chiếc hộp là của riêng của một con dế trống. Nhốt chung những con dế với nhau, chúng đá loạn xạ vài trận rồi sẽ làm quen với nhau, tử tế với nhau, thế là hết đá. Cũng không cho dế mái vào ở chung, nó “phá đám”, làm hư con dế trống. Dế nhất được ở trong hộp bích quy, dế nhì hộp bằng bìa cứng, dế ba, dế tư đựng trong lon sữa bò hoặc hộp quẹt cũng được. Mỗi khi đi học về thằng bé mang dế đi đá với dế hàng xóm. Ít khi nó mang dế nhất ra đá với những con dế bậy bạ. Đá bừa bãi dế sẽ "hết hăng". Muốn dế đá hay, phải biết để dành “sức khỏe” và “sức hăng” của dế. Ai bày cho nó mánh lới đó hè, nó quên mất.

Năm nó lên bảy, nó không bao giờ quên năm đó, đầu mùa mưa, từ ngôi nhà đang ở trên đường Rue d'Annam nó đi theo cậu lên Cây Số Sáu thăm ngôi nhà tranh bố vừa mới cất xong, ngôi nhà thứ nhì của bố mẹ. Đi bộ xa, dưới bầu trời trăng trắng, đục đục, mưa lâm râm, đường đất đỏ lầy lội, đôi dép của nó bị tuột hoài cậu phải xách giùm. Chỉ còn một đoạn đường ngắn nữa là đến nơi, cái mặt đang xụ của nó bỗng sáng rực lên khi nó nghe tiếng dế. Chỉ một con dế đang gáy mà thôi, tiếng gáy reng reng, ròn rã, vang dội cả một vùng. Có đứa bảo dế trống gáy như thế để dụ dế mái tới. Sai! Tiếng gáy dụ dế mái tới nghe khác hẳn, không đều đều nỉ non như khi dế kêu trong giấc ngủ ngày hoặc ngủ đêm, không oai hùng rỗn rãng như khi dế khoái chí vì chuyện gì đó nhất là sau khi thắng trận, trái lại dụ dế mái tới thì nghe chắc chắc, chập chập, chọt chọt như ngươì ta chắc lưỡi làm thân với con chó lạ.

Nó biết rằng vùng này không chỉ có con dế ấy mà thôi. Những con dế khác sợ tiếng gáy đó nên đều nín khe, không dám hó hé. Nó lắng nghe, tìm quanh một hồi, thì biết được con dế nằm trong hang bên dưới một tảng đá lớn cạnh cây thông già đứng ngay gần lối ra vào cái sân trước mặt nhà. Nó ráng sức vầng tảng đá đi nơi khác, không nổi. Thấy nó loay hoay mãi, cậu ra tay. Cậu vào nhà xách cái cuốc chỉa ba đào một đường rảnh nhỏ quanh tảng đá. Chỉ thoáng một cái cậu đã nạy được tảng đá lên, một cái hang sâu hiện ra. Tiếng gáy đã ngưng từ lúc nhác cuốc đầu tiên bổ xuống, nhưng nó biết con dế vẫn còn nằm dưới hang. Cậu định đào tiếp, nó bảo để nó làm, nó sợ cậu vô ý cuốc trúng con dế. Nó ngồi chồm hỗm, ì ạch xoay người quanh cái hang nhiều lần, cúi đầu mắt dí vào hang tìm kiếm, hang sâu, chẳng thấy được gì. Nó ngồi ngay người lại, định đi kiếm nước đổ vào hang, bỗng nghe vù một tiếng: con dế từ trong hang phóng mạnh ra chạm ngay vào bụng nó. Nó giật mình đưa tay vào bụng đỡ thì may thay cái vạt áo trước của nó vướng vào tay trùm lên con dế. Nó không mang theo hộp, nó đâu định đi bắt dế, thế là hai bàn tay của nó bụm vạt áo thật kỹ. Cứ thế, tay giữ vạt áo, cho đến khi cậu coi xong nhà cửa trở về ngôi nhà dưới phố, nó vừa đi theo cậu vừa vui sướng trong lòng. Nó biết rằng đây là một con dế trống thứ xịn.

Đó là con dế lửa đỏ rực, cánh dợn sóng lằn sâu, hai chấm nhỏ ở gốc cánh vàng tươi, thân hình dài bằng nhưng bề ngang lớn hơn ngón tay trỏ của nó, hai sợi râu dài hơn cả thân hình, nguyên vẹn, đều đặn, có lúc trông như hai thanh kiếm tuốt trần vung vẩy, có lúc trông như hai cái lông đuôi chim trĩ đính trên chiếc mão của ông tướng hát bội, cái đầu to, tròn, lồi lên hai con mắt như hai hột cườm đen, và sáu cái chân cũng đen nhánh, những cọng gai nhỏ, những răng cưa, những móc câu trên chân còn mới tinh khôi, nhọn hoắt, cặp giò sau bặm xị, dài thoòng, xếp lại thành góc rất nhọn chứ không phải duỗi ra bè bè như những con dế oãi. Nó nuôi con dế ấy trong chiếc hộp sắt chứa đầy đủ đất, cỏ non, và một cái hang cạn làm mồi cho con dế đào tiếp.

Hôm sau, nó nhử con dế lửa xịn ấy vào một cái hộp các-tông trống trơn làm đấu trường - hộp bích quy bằng sắt không xài được, đáy nó cứng và trơn không có chỗ cho gai chân dế bám, dế dễ bị trượt khi bị “thúc” - cho đá thử với con dế ba của thằng hàng xóm. Con dế lửa của nó chỉ cần chỉa hai cái râu chiếu vào đầu con dế kia, con kia đã khiếp sợ bỏ chạy. Đá với con dế nhì cũng chỉ cần một cú "thúc" là thắng. Đúng vậy, dế lửa hay thúc vẫn giỏi, cần gì phải dế than mới thúc! Cuối cùng thằng hàng xóm phải đem dế nhất ra, một con dế than đen thui, bự sư, to hơn con dế lửa của nó, hung hăng vô lối, chưa đá, chưa thắng đã chạy lui chạy tới, xoay người qua trái, qua phải, gáy ỏm tỏi. Con dế nhất đó cũng biết đem tiếng gáy và cặp râu ra dọa nạt con dế lửa của nó, nhưng chẳng "ăn thua" gì. Sau khi phồng cánh lên gáy reng reng và đấu nhau bằng cặp râu như Zorro đấu kiếm, vâng, nó đã được coi phim Zorro tại rạp Lang Biang, hai con dế mới kéo giạt hai cặp râu dài ra hai bên cho đỡ vướng, và há rộng càng đo xem ai khủng khiếp hơn ai. Nhiều con nhát gan, vừa đo càng xong là quay người co giò chạy re. Cặp dế này khác, đo càng xong, từ từ xáp trận. Con dế lửa của nó mạnh qúa, lấy càng đẩy mạnh con kia lùi một quãng dài đến cuối chiếc hộp rồi ép vào thành hộp. Con kia bị kẹt, thân hình cong vòng như con tôm, may sao, sau một hồi vùng vẫy, nó bật người ra khỏi cặp càng siết chặt của con dế lửa và văng mình ra xa. Nó không chịu nổi cái nghiến ghê gớm của con dế lửa, quả có thế. Con dế lửa đứng yên một chỗ rùng người lui lui tới tới, phồng đôi cánh đỏ rực gáy dòn, rồi xoay mình hai ba vòng mà không hề bị chóng mặt hay lảo đảo, rồi nhập cặp râu lại cho giống đôi song kiếm chiếu thẳng vung về phía trước, xong xuôi đâu đấy khua chân chạy rần rần quanh chiếc hộp tìm kiếm quân thù. Không có một ông tướng cải lương hay hát bội nào trên sân khấu "diệu võ dương oai" đẹp bằng con dế lửa của nó. Lẽ dĩ nhiên những chữ "diệu võ dương oai", "đôi song kiếm", sau này nó mới biết; ngoài ra hồi đó nó chưa coi Phùng Há hay Bích Thuận đóng vai Lã Bố nên không chắc mình so sánh có đúng hay không.

Con dế than kia quả không phải đồ bỏ, dù đang đứng khờ khờ, lạc lõng giữa lòng chiếc hộp. Nếu còn tỉnh táo nó không bao giờ đứng vớ vẩn giữa lòng cái hộp như thế, trái lại luôn luôn đứng xuôi người sát thành hộp hoặc ngay tại góc hộp. Bỗng nó sực tỉnh trước tiếng gáy của con dế lửa. Nó lập tức sửa cách đứng cho có thế, hai càng mở ra rồi khép lại đến mấy lần chừng như đang phân vân nói năng lẩm bẩm một mình, hoặc tính toán điều gì, hay cũng có thể nó muốn gò lại cặp càng bị sai khớp trước khi xáp trận. Cuối cùng nó há càng ra thật to, rồi hạ càng xuống sát đáy hộp, lừ lừ tiến tới phía con dế lửa. Có khi càng nhọn vướng vào đáy hộp làm cho cái đầu của nó giật giật. Thằng nhỏ hồi hộp. Tụi nhỏ kia đang châu đầu quanh cái hộp bỗng nhao nhao, coi kìa, coi kìa, nó bị thương, con dế than bị thương, cái giò sau bên trái xuội lơ kéo lê trên đáy hộp. Nhưng con dế lì lợm đó vẫn lừ lừ bò tới. Con dế ấy đi "bộ hạ", nguy hiểm lắm đó. Những con dế lắc xắc ra trận mà cứ ngớp ngớp cái đầu lên cao khỏi mặt hộp thì chỉ bị một cái thúc của con kia cũng đủ văng lộn mèo. Con dế bị thương vẫn bộ hạ lừ lừ tiến.

Thằng nhỏ hàng xóm bỗng la lên, thôi, thôi, huề, không thèm đá nữa đâu, rồi thò tay vào chiếc hộp định bắt con dế của nó ra. Nó và bọn trẻ ngồi xem cũng hét, không được, không được, đừng ăn gian, bắt nó ra là chịu thua. Cho nên trận chiến lại tiếp diễn. Lần này lẹ, chưa đá đã xong. Sau khi cho giạt hai cặp râu ra hai phía, hai cặp càng mở rộng so lại, chuẩn bị xáp trận, con dế than bị thương đột ngột quay đầu bỏ chạy. Con dế lửa rượt theo. Thằng bé hàng xóm vội vàng đưa cái nhử cản đường con dế lửa, bằng không con dế nhất của thằng hàng xóm có thể "tử trận". Vâng, tử trận, không biết đã nghe ai, chúng nó đều hiểu nghĩa hai chữ đó.

Chú bé qúy con dế vô cùng, qúy hơn tất cả những gì nó có. Quý hơn sách vở nhà trường, trái banh, cái ná bắn chim, con diều giấy, mấy hòn bi chai, con vụ v.v... Quý hơn cả con Ba Tô sau này. Trời Đà Lạt buổi sáng lạnh, thằng bé chỉ muốn nằm hoài trong chăn ấm, thế mà từ khi có con dế lửa, nó chịu khó dậy sớm một chút để trước khi đi học, lúc nào cũng thế, nó dành mấy phút mở hộp dế lửa ra ngắm nghía một hồi rồi lấy nhử ngoáy vài cái, tức thì con dế từ trong hang nhỏ chui ra, vung hai thanh kiếm râu, há càng, gáy ròn rã như nói vài lời tạm biệt, rồi chui vào hang. Đi học về, vừa vứt cái cặp lên góc bàn, nó đến ngay hộp dế lửa mở ra coi, rồi ngoáy ngoáy, sung sướng. Nó khéo tay, hiểu được ý dế, khéo cư xử, dần dần nhử được con dế lửa bò lên bàn tay trái của nó. Thế là bàn tay trái nhỏ xíu để ngửa trên đó con dế đỏ như cục than hồng an tâm bước tới bước lui, không đủ chỗ bước ngang, bàn tay phải của thằng nhỏ cầm nhử chốc chốc ngoáy.

Thằng bé đi khắp khu phố với con dế trên bàn tay, tìm địch thủ, những hôm nghỉ học. Bọn nhỏ khác nhìn theo thèm thuồng. Mỗi khi có người lớn để ý đến, nó lịt lịt lẫn tránh, rồi chạy về nhà cho dế vào hộp cất kỹ. Nó nhớ trái banh bị đá mất.

Bố một hôm rầy nó:
“Cái thằng N., con dế cưng của con ban đêm gáy to quá. Không ai ngủ được!”

Đó là bố nói, riêng nó, tiếng gáy nghe trong trẻo và êm ái hơn tiếng chuông đồng trên bàn thờ Phật, đưa nó vào giấc ngủ lúc nào không hay, đưa nó đi đến những giấc mơ đẹp. Nó mơ con dế lửa sẽ ở suốt đời với nó như đôi bạn thân, dần dần trước sự cưng chiều và hiểu biết của nó, con dế sẽ thương nó hơn nữa, như nó đã thương con dế vậy, bảo đừng gáy là không gáy để bố khỏi la, bảo lên bàn tay là từ cái hang nhỏ trong hộp bích quy bò ra rồi bò lên bàn tay liền, không cần phải ngoáy, phải nhử, lỡ gặp người lớn, chưa kịp bảo là nhảy tọt vào túi áo của nó ngay. Nhưng nó rất sợ cái đầu, cái cổ, cái mỏ quá lẹ của con gà trống. Có một lần nó đem một hộp dế để cạnh lồng gà định ngoáy ngoáy cho con dế gáy xem thử con gà có hoảng không. Phặp một cái, con dế lai đó đã nằm quay đơ trong mỏ con gà trống. Cho nên nó không bao giờ dám đem con dế lửa tới gần lồng gà, dù nó cũng khoái ngắm nghía gà.

Mẹ nó đưa ý kiến:
“Để mẹ đem hộp dế ra để sau hè là yên chuyện. Đỡ ồn nhà.”

Nó không chịu. Lỡ bị ăn cắp. Lỡ gặp kiến đùn. Cuối cùng mẹ nó để hộp dế lên trên gác lửng gần mái nhà. Tiếng gáy nghe xa hơn.

Một hôm khác bố gọi nó đến:
“N.! Con chơi dế sa đà. Bỏ cả học hành.”

Vì con dế, nó cố gắng để ý đến bài vở hơn để khỏi bị la là bỏ cả học hành. Nó cảm thấy học hành có "tấn tới" nhiều, chỉ tiếc rằng cô Lộc và bố chưa nhận ra cái giỏi kín đáo ấy của nó.

Một buổi chiều đi học về, như mọi khi, nó bắc ghế trèo lên gác lửng lấy hộp dế xuống, lòng hân hoan sắp gặp lại người bạn thân. Mở hộp ra, nó lấy nhử ngoáy vào miệng hang. Con dế hôm nay lì, nó ngẫm nghĩ, chưa chịu thò đầu ra. Nó ngoáy ngoáy tiếp, thọc cái nhử vào sâu hơn. Vẫn im hơi. Tim nó đập mạnh. Nhử một hồi lâu vẫn không ăn thua. Nó muốn khóc. Con dế đã chết? Nó lấy mũi dao cẩn thận nạy ra từng cục đất nhỏ ở miệng hang. Dần dần phá hết cái hang vẫn không thấy tăm hơi con dế. Nó khóc oà, chạy xuống nhà bếp. Mẹ đang làm cơm tối.
“Mẹ, mẹ. Con dế của con đâu?”
“Chắc nó bay rồi.”

Nó khóc to:
“Không, không, không phải.”
Bố từ nhà trên nghe ồn đi xuống. Mẹ thở dài. Bố nhìn nó, nó cúi mặt. Bố nghiêm giọng:
“N., chuyện chi đó nữa?”
Mẹ đỡ lời:
“Con dế của con nó bay rồi.”
Nó ấm ức:
“Không, nó không bay. Dế hay không bay. Dế dở ngoài cột đèn đường mới ưng bay.”
Bố bật cười. Ít khi bố cười:
“Thì nó không bay. Nó nhảy, nó phóng đi mất.”

Thằng bé nấc lên một tiếng, tránh cái nhìn của bố, nước mắt chảy xuống ròng ròng. Bố gắt: “Cái thằng này...”
Bỗng, thật bất ngờ, bố dịu giọng:
“Bố không ưng con chơi dế đâu. Chiếm hết cả ngày giờ của con. Nhưng, thôi được, mất con này đi bắt con khác. Kiếm không ra con đỏ đỏ như vậy thì cứ việc ra ngoài chợ mua, thiếu giống gì cái thứ đó. Đây, bố cho mấy xu... Ra chợ mua con khác về chơi, nhưng chơi bớt bớt đi nghe! Để ngày giờ học hành.”

Nó cố nén tiếng nấc mà nén không nổi, sức mấy có con dế nào bằng con dế đó, nước mắt càng ràn rụa, mũi chảy thò lò. Nó đưa cánh tay định quẹt mũi, sực nhớ, khựng lại. Mẹ vội lấy khăn lau mũi cho nó. Nó cảm thấy lòng căm ghét dâng lên. Ghét ai đây? Ghét bố hay ghét mẹ? Hình như nó ghét mẹ nhiều hơn. Ghét mẹ dễ. Ghét mẹ mấy ngày cũng không sao. Bố thì khác.

Mùa dế rồi cũng qua đi, và chú bé không bao giờ tìm được chú dế lửa thân yêu. Nó ủ rũ nhiều ngày, nhiều tháng. Mãi về sau khi nó đã lớn khôn nhiều, con dế lửa mất đi vẫn để lại trong lòng nó một vết thương chưa thành sẹo, một nhớ tiếc không nguôi.

*

Những con dế than, dế lửa quả là những hình ảnh hết sức rực rỡ nổi lên trên khung cảnh quá êm đềm của Đà Lạt thời thơ ấu. Đà Lạt thơ ấu! Đúng thế, thời thơ ấu của chính Đà Lạt và cũng là thời thơ ấu của nó. Đà Lạt còn nhiều thứ khác nữa, như nó đã nói và nó sắp nói thêm, và lần nói thêm này nó xin được tóm tắt, “nó sợ làm nhàm tai người khác.”

Những con vụ bay vèo vèo trên các lề đường. Con vụ được đẽo từ sọot chỉ máy may, đẽo đi một vành thôi, một cây đinh giày "săng-đá" đóng vào chân vụ. Quay vụ. Khi con vụ sắp hết đà quay, dùng cây roi cán là chiếc đũa, phần dưới là sợi dây vải, quất mạnh vào vụ, phải biết cách quất, thế là con vụ lại quay xoắn tít, lại tiếp tục bay. Cũng trên những lề đường đó, tụi nhỏ chúng nó tụm năm tụm ba lấy đất sét hòa với nước nhồi nặn thành những cái cốc đáy mỏng nhưng thành dày, và vừa nặn xong, cốc đang còn ướt dẻo, trở úp miệng cốc nện mạnh xuống đất, tạo nên tiếng nổ chát chúa. Đó là trò chơi "đốt pháo đất sét". Đất sét còn thừa chúng trộn muối vào nặn thành những hòn bi tròn lùi vào bếp tro hồng mai đem ra chơi, chơi bi đất sét tự làm lấy vui hơn bi chai mẹ mua. Hoặc nặn ống điếu, gắn cọng đu đủ tía làm cần, bắt chước ống điếu của "mọi cà răng căng tai". Có đứa nghịch ngợm ăn cắp thuốc lá thiệt nhét vào điếu đất sét hút. Ho sặc sụa. Trên nhiều đường phố, hồi đó ít xe cộ, ít người, tụi nhỏ tay cầm cán là chiếc đũa hoặc khúc cây ngắn, vừa chạy theo vừa đánh vào vành bánh xe đạp, hoặc vành thúng vành rổ, giữ sao cho nó lăn hoài.

Có lúc đang vui chơi bỗng thấy voi, thế là bọn chúng bỏ cả cuộc chơi để đi xem voi. Lâu lâu, chuyện này rất hiếm, thấy con voi đứng lại giữa đường iả một đống to tướng, tụi nhỏ cho là gặp được điều may lớn. Mấy đứa lì lợm liền chạy đến giật lông đuôi voi. Voi đau quay người lại gầm lên, mọi trên bành voi la hét rùm beng, tụi nhỏ chạy té re. Nghe nói dùng lông đuôi voi xỉa răng, răng hết sâu. Đó là những con voi của người thượng đem dâng cho nhà vua trên đường đi qua khu phố của chú bé. Chúng chạy theo voi nửa đường rồi quay về tiếc rẻ, nhưng không đứa nào dám mạo hiểm chạy theo voi lên tận "ba-le" (Palais impérial, dinh vua Bảo Đại). Thằng bé lại càng không dám. Ham đi lêu lổng xa quá lỡ quên đường về sao! Chính bản thân của nó đã một lần khổ sở vì chuyện đó.

Một chủ nhật, như mọi chủ nhật khác, chị nó đi "bà xơ" cùng với tất cả học trò con gái khác trong lớp dù có "theo đạo" hay không. Đó là chuyện bắt buộc. "Theo đạo” có nghĩa là theo đạo Thiên Chúa, và "đi bà xơ" là đi đến một ngôi nhà thờ nào đó để được các bà xơ (soeurs) dạy bảo nhiều thứ như thêu thùa, nấu ăn, trồng rau, trồng hoa, ca hát, các môn thể thao, các bài giảng trong Kinh Thánh v.v... Học trò con trai thì đi “lu-vờ-tô” (louveteau, sói con). Học trò con gái khoảng ba mươi đứa sắp hàng hai đi bộ từ nhà trường qua nhiều dãy phố để đến nhà thờ. Sáng hôm ấy, chưa biết sẽ chơi món nào, nó bỗng nẩy ra cái ý chạy theo đuôi đoàn học trò con gái, có chị nó trong đó, xem họ làm gì. Lẽ dĩ nhiên nó chạy theo xa xa đằng sau, khỏi bị ai để ý. Đoàn học trò ra khỏi cổng trường quẹo trái đi một quãng ngắn trên con đường nhỏ lát đá, rồi quẹo phải đi trên con đường nhựa tiến về phía ngôi chợ to lớn của thành phố, tháp ngôi chợ có chạm hình mọi cà răng căng tai, rồi lại quẹo trái xuống một con đường vừa rất dốc vừa cong queo hai bên là các dãy phố để đến khu Cầu Quẹo. Những nơi này nó đều biết. Đoàn người tiếp tục đi, lách theo một con đường mòn nhỏ, băng ngang qua một khu vườn trồng la-ghim, tiến đến một con suối. Một chiếc cầu gỗ cong cong bắc ngang qua dòng nước chảy khá mạnh. Cầu nhỏ, bọn con gái phải từng đứa một đi qua. Nó đứng chờ khuất sau hàng cây "bông trắng" xanh tươi. Nó thầm nhủ hôm nào mình sẽ trở lại đây chặt cây bông trắng đem về làm nạng ná bắn chim. Nạng bông trắng không bền bằng nạng cành ổi nhưng cân đối và dễ uốn. Khi mọi người đã qua hết cầu, sắp hàng hai trở lại, tiếp tục đi khá xa, nó chạy nhanh qua cầu rồi lẽo đẽo đi theo.

Nó bắt đầu chột dạ. Liệu chốc nữa có nhớ đường về hay không? Cảnh vật chung quanh lạ lùng, ghê ghê. Đoàn người đi băng ngang một con đường cái trải đá, lại theo một con đường mòn hai bên cây cối rậm rạp, lên một con dốc khá cao để đến một con đường cái khác chắn ngang. Về sau lớn lên, nó biết đó là đường Thi Sách gần cư xá Đờ-Cu (Cité Decoux). Rồi họ rẽ sang phải. Nó đi đằng sau xa, lòng hồi hộp, ngớp ngớp nhìn theo đoàn người rồi vô tình nhìn chệch qua phía trái. Sau mấy rặng thông rậm rì, xanh ngắt, là những tòa nhà ngang dọc tường trắng xóa, mái ngói đỏ loét, không một bóng người, hiện lên chấp chới trong ánh nắng sớm. Nó thấy cái dáng lạ lạ, quen quen. Bỗng nó rụng rời. Đúng là nhà thương và nhà xác mà tụi nhỏ thường thì thầm nhắc đến. Nó quay người định chạy lui nhưng sợ lạc đường. Nó không dám nhìn qua phía trái nữa, cúi gầm đầu đi theo đoàn con gái. Đi thêm một quãng đường, họ rẽ sang trái, đi vào cổng một khu nhà thờ rộng lớn. Sau này nó biết đó là khu nhà thờ Saint Domaine de Marie. Nó cũng len lén đi vào cổng. Đoàn con gái cứ thế đi xuống tận dưới thung lũng vui chơi, múa hát, học hành cạnh một ngôi nhà thật dài có mái che nhưng không có vách, giống như cái prề-ô (préau), còn nó đứng lấp ló sau các gốc cây. Nó chờ mãi. Sao chị lâu về thế. Trời bỗng tối sầm, rồi mưa. Bọn con gái đi vào nhà. Nó tìm cách ẩn mưa dưới những cành cây lớn. Trận mưa không lâu nhưng nó cũng bị ướt như chuột lột và lạnh run. Nó khóc tấm tức. Sao mãi chị vẫn không chịu về. Nó đói meo. Cuối cùng, chắc là đã chiều rồi, mọi người sắp hàng hai ra về, nó lại chạy theo đằng sau xa, lòng lo lắng nghĩ đến trận đòn đang chờ nó. Chắc chắn bố không thể nào tha thứ cho nó cái tội đi lêu lổng suốt ngày. Từ đó nó không bao giờ dám đi đâu xa một mình.

Nhưng coi voi vẫn không thú bằng coi "mọi về". Lâu lâu, nó không nhớ trong bao bao lâu, người Thượng không biết từ những ngọn núi nào kéo nhau về rần rần. Một đoàn người thật dài đi tỉnh bơ ngay trên đường cái chứ khỏi cần phải đi trên lề đường để tránh xe kéo, xe ngựa, hoặc xe hơi. Hồi đó ít xe hơi lắm. Đoàn người đông hơn toán con gái "đi bà xơ" nhiều, già trẻ lớn bé đều có đủ, đúng là mọi "cà răng căng tai", răng cà sún sát nớu, trái tai đàn bà con gái căng to bằng miếng gỗ dẹp tròn lớn bằng miệng ly uống nước, lủng la lủng lẳng. Lại có cả heo, chó, gà mang theo, ốm nhom. Đàn ông chỉ đóng chiếc khố, da của họ trông dày cộm và đen thui, lưng mang gùi, tay cầm roi mây, xà gạc. Tụi nhỏ bảo nhau trong rừng cây cối rậm rạp không thể nào đi được một bước nếu không dùng xà gạc dọn đường, còn roi mây là để đánh cọp. Cọp không biết đau nhưng sợ tiếng gió phát ra từ cái roi, "ông anh" bảo thế. Đàn bà thì ở trần, mặc váy đen vằn trắng, cũng mang gùi hoặc mang em bé sau lưng. Oai hơn cả vẫn là những người lè kè trên vai chiếc nỏ, để ló ra sau gùi cái ống tre đựng tên nhọn. Tụi nhỏ lại bàn bạc rằng nỏ và tên để săn voi, tức là con thú rừng to nhất, mạnh nhất, khôn nhất và dữ nhất, khác hẳn những con voi tuy cũng mạnh nhưng rất hiền của nhà vua. Mũi tên tuy nhỏ nhưng rất "lợi hại", rất độc, trúng voi voi chết, vì được ngâm trong "nước miếng buổi sáng" để lâu ngày. Cô giáo bảo nước miếng buổi sáng độc lắm, mỗi sáng phải đánh răng để tẩy độc đi.

Tụi nhỏ trố mắt nhìn đoàn mọi đi qua cho hết rồi đi theo xem thử họ sẽ đi đâu. Thì ra mọi đi chợ. Họ bán heo, gà, bắp, kê, mật ong, thịt rừng, móng cọp, nanh heo rừng v.v...và mua gạo, muối. Họ biết xài tiền nhưng không biết đếm. Chẳng hạn họ bán ba cắc một con gà thì họ nói con gà này giá một cắc, một cắc, một cắc, vừa nói vừa chìa một ngón tay thôi, chìa ra làm ba lần. Họ không chịu bán chó. Xong họ ngồi chiếm hết những bậc tam cấp của chợ, mỗi người lấy từ trong gùi một cái đãy dài làm bằng lát cuốn tròn đựng cơm nguội và mắm, lắc lắc đổ ra bàn tay vắc lại thành cục cho vào miệng ăn ngon lành. Ăn xong, họ đến những vòi nước máy công cọng kê miệng uống, rồi lấy ống điếu cần thật dài mồi lửa hút thuốc. Có người mua chai nước ngọt uống một ngụm, rồi tới vòi nước máy châm thêm cho đầy đưa cho người khác uống, người đó cũng uống một ngụm lại đi lấy nước máy châm thêm, cứ thế uống mãi không hết một chai. Không đầy một tiếng sau đó họ đã lục tục kéo nhau đi cùng những con chó ốm nhom. Bọn nhỏ đi theo. Chúng nó rất lấy làm lạ khi thấy đoàn mọi không trở về con đường cũ. Hình như họ đã bỏ rừng cũ, định đi đến một vùng núi rừng huyền bí nào khác nữa. Bọn chúng chỉ đi theo vài chặng đường rồi đành đứng lại nhìn theo tiếc ngẩn ngơ. Quay trở về chúng tha hồ vẽ ra trong đầu không biết bao nhiêu là cảnh rừng rú núi non âm u ghê gớm.

Những ngày sau đó, mỗi lần nhớ đoàn mọi, tụi nhỏ lại đi lên mấy cái gò cây cỏ mọc hoang rậm rạp cầm ná cao su làm bộ đuổi theo heo rừng tưởng tượng, gặp chim sâu nhỏ xíu bằng ngón chân cái là cùng nhau chỉa ná bắn, trúng, không biết ai bắn trúng, tranh nhau nhổ lông, xẻ bụng kiếm lửa nướng lên chia nhau ăn, đứa cái cánh, đứa cái đùi, đứa cái đầu, đứa cái lưng, nhai ngang xương, không bỏ một chút nào. Ăn xong đi kiếm trái mác mác làm món tráng miệng, bóp nhẹ đủ bể làm hai làm ba kêu rốp rốp để lòi cái ruột màu tím gồm một lớp hột trong trong như hột é ngâm nước, ngọt, chua, hăng hăng mùi rừng. Có khi hái được những trái mâm xôi đỏ thắm nằm từng cụm trong đám lá nhám xanh dày cộm to bản. Hoa dại thơm mọc rất nhiều, và cũng có nhiều bướm cánh đủ màu rực rỡ, nhưng chúng nó thích cỏ gà hơn. Trên gò cỏ gà tươi tốt, bặm xị, chúng tha hồ nhổ từng nạm thắt thành nút đá nhau. Chơi trên gò chán lại kéo nhau lên một con dốc gần nhà bưu điện trèo lên mấy cây to mọc hai bên đường hái những trái màu trắng ngà nhỏ như đầu ngón tay mà người ta gọi là trái xa lị, ăn thấy vừa ngọt, vừa chua, vừa chát. Xong rủ nhau đến trước mặt nhà của cái thằng ở cuối phố bẻ đọt hoa hồng bụ bẫm tướt lớp vỏ xanh bên ngoài, ăn cái thân non mềm mại ngọt lợ lợ, hoặc đến nhà một thằng khác có mở quán bán đường đen coi ong ruồi bay rà rà trên mặt cửa kính thỉnh thoảng nhểu ra giọt mật. Tụi nhỏ ngồi chờ ong bay qua khung cửa kính khác, rồi tranh nhau thò ngón tay quẹt mật ong cho vào mồm mút. Ăn gì cũng thấy ngon, nhưng cái ao ước tha thiết nhất vẫn là cơm nguội với mắm cá mòi đựng trong cái đãy làm bằng lát lấy ra vắt trong nắm tay cho vào miệng nhai ngon lành. Phải chi mình là mọi để được ăn như thế!

III

Đà Lạt và tuổi thơ ấu của nó cứ thế trôi qua cho đến một ngày đầu mùa mưa, đầu mùa đá dế, năm 1945. Thật ra những năm tháng trước đó cũng có một số biến động mà nó chẳng hiểu đâu vào đâu. Chẳng hạn bỗng dưng xuất hiện những đoàn quân Nhật trông dữ dằn, nói năng toàn cái giọng nạt nộ. Bọn Tây trước kia dữ không kém, nhưng đến lúc đó lại đổi tính, "hiền từ ra phết", chữ của mẹ. Rồi "đùng một cái", cũng chữ của mẹ nó, Nhật làm sếp, Tây biến đi đâu mất cả, và nó được nghỉ học mấy ngày. Rồi một buổi sáng chủ nhật nó xin phép bố cho lên chơi với thằng bạn học ở trên Cây Số Bốn . Nó lên đó bắt dế. Mấy mùa dế đã qua mà nó không tài nào kiếm cho ra một con dế thật hay. Nó ngồi bệt xuống đất nhớ con dế lửa thân yêu ngày nào. Bỗng nhiên nó thấy chị người làm từ xa hớt hơ hớt hải chạy tới kêu nó về nhà gấp. Nó đứng dậy theo về lòng bồn chồn lo lắng. Rồi từ lo lắng đến hết ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Trên nhiều con đường, đường cái, đường đất, đường mòn, đường dốc, dưới thung lũng, trên sườn đồi... đổ về thành phố, lũ lượt những đoàn người đi hàng một, tay cầm dao, rựa, xà beng, gậy. Có cả mọi cầm nỏ trông oai nhất. Hai bên đường, trước cửa mọi nhà, bày ra những thúng cơm vắt, thịt kho, muối mè. Vài người ghé tạt vớ nắm cơm, miếng thịt rồi vội chạy theo cho kịp đoàn người. Về đến nhà nó cũng thấy cơm vắt, thịt kho mẹ nó bày ra trước cửa từ hồi nào. Sau đó nó được biết ta đem quân đi vây Nhật ở Nhà Đèn, phải có lương thực đầy đủ để đi “đánh giặc”. Đánh nhau hai ngày thì phải, ta chết mất mấy người; Nhật bên trong Nhà Đèn chết nhiều hơn, người ta bảo thế, nhưng vẫn cứ lì lợm không chịu trả Nhà Đèn cho ta.

Nó không biết cuộc chiến về sau kết thúc như thế nào, chỉ thấy bố và vài người bạn thân thường nhỏ to chuyện trò một cách bí mật. Nó rất tò mò muốn biết có chuyện gì, mon men đến gần nghe lóm thì bị bố đuổi "đi nơi khác chơi!" Thế mà có một lần nó nghe được lõm bõm vài câu:
"Hết tuần lễ vàng tới tuần lễ bạc, sắp kiệt quệ rồi. Anh còn chịu nổi nữa không?"
"Không chịu nổi cũng phải ráng chịu, ai sao mình vậy."
"Lại còn cái chuyện này, tại sao không gọi ông ấy là ông Minh mà gọi là cụ Hồ. Nghe nói ông ấy chưa già mấy mà. Trẻ hơn ông anh của tôi đó anh!"
Nghe được chừng đó nó lại bị đuổi đi nơi khác chơi.


Sau đó có lệnh tạm đóng cửa trường. Bố mẹ lo âu “xoắn vó”. Gia đình nó "lên đường chạy giặc”. Bố mẹ chị và nó cùng với tất cả những gì có thể mang theo đều được chất đầy một chiếc xe ngựa tháo chạy. Một dây thừng buộc vào cổ một con ngựa khác theo sau để luân phiên tiếp sức cho con ngựa kéo đằng trước chạy trên những con đường rất dài. Nó bé dại ngu ngơ - bạn học cùng lớp đều lớn hơn nó ít nhất vài tuổi cũng thường bảo nó ngu - chẳng hiểu tại sao khi không lại bỏ nhà mà đi. Hình như người ta sắp đánh nhau thì mình phải chạy đi nơi khác mà người lớn gọi là tản cư. Thế là được nghỉ học một thời gian, tốt quá. Có lâu bằng nghỉ hè hay không, nó băn khoăn. Chiếc xe rời bỏ ngôi nhà, giã từ Đà Lạt lúc trời chưa sáng, hướng về phía Trại Mát, Cầu Đất. Bố mẹ khác hẳn mọi ngày, ít nói, không vui, chị thì cũng có vẻ muốn im lặng, chú đánh xe lầm lì, chỉ một mình nó sung sướng.

Nhưng vui sướng hơn cả nó là con Ba Tô, một "nhân vật" rất quan trọng đối với nó, có thể một phần nào thay thế cho con dế lửa đã “bay” đi đâu mất mấy năm rồi. Đó là con chó mới lớn, có bộ lông láng lẩy, phần lông hướng lên trời thì đen, hướng xuống đất thì vàng, nghĩa là lưng đen, bụng vàng, mỏ cũng dài, hơi nhọn, hai tai cũng nhọn và dài và đứng thẳng, mà cái lưỡi cũng dài luôn có chấm chấm mấy cái bớt đen, bốn chân thì khỏi nói, dài hơn cả cặp giò của nó, thân hình và cái đuôi lại cũng dài dài, và rất đặc biệt là đuôi nó thẳng ro chứ không cuốn tròn như đuôi con chó vàng hàng xóm - những chi tiết ấy khắc sâu vào trí nhớ bé thơ của nó.

Lúc mới gia nhập vào gia đình nó, con Ba Tô bé như con heo con, được nó bồng đi chơi quanh vùng. Nhưng con chó khôn lớn nhanh hơn nó nhiều, chỉ một thời gian ngắn, ngắn là bao ngắn nó không nhớ, đã biến thành con ngựa cho nó cưỡi trên lưng. Con ngựa không yên cương, không biết ăn cỏ, mà chàng kỵ sỹ thì không đeo cung, không mang gươm, nằm dài trên lưng ngựa má áp sát vào lớp lông cổ mịn màng nghe mùi là lạ, hôi hôi, thơm thơm, hai tay ôm chặt lấy cổ ngựa, hai chân quắp cứng vào bụng ngựa. Thế mà ngựa vẫn có thể chạy được mươi bước. Kỵ sĩ tí hon và con ngựa Ba Tô quấn quýt nhau, chơi đùa nhau.

Thường lệ thì hễ cả nhà đi đâu, bố đều khóa trái hai cánh cửa lớn, con Ba Tô ngoan ngoãn ở lại giữ nhà. Sáng hôm tản cư con Ba Tô trở chứng. Nó chạy ra vỉa hè sủa dăm ba tiếng, rồi chạy vào nhà ngửi chân người này, hít tay người nọ, liếm mặt nó, rồi chạy ra ngoài hè sủa tiếp. Cứ thế mấy chục lần. Mà sủa khơi khơi thế thôi, chứ có người nào đến đứng lảng vảng trước cửa nhà mình rình rập dòm ngó đâu. Cuối cùng khi đồ đạt đã chất lên xe xong, bố định đóng cửa khóa lại, con Ba Tô nhất định không chịu chạy vào nhà nữa. Thằng bé hiểu ngay nói với bố Ba Tô cũng muốn "tản cư". Bố như sực nhớ ra bảo thế là phải lắm, bố quên khuấy đi mất, phải cho Ba Tô đi theo với chứ. Nó muốn cho con Ba Tô lên xe, nhưng bố lừ mắt. Mẹ nói nhỏ vào tai nó, không được mô con, người ta con thấy đó còn phải gánh gồng chạy bộ, mình chở chó coi mô được. Nó không đồng ý nhưng đành tạm chịu thua cái đã.

Chiếc xe ngựa quá nặng nề, cồng kềnh, trong xe hết chỗ thì treo lủng lẳng hai hông xe đủ thứ hăm bà lằng, không thể chạy nhanh, cho nên Ba Tô không những đuổi theo dễ dàng mà còn thừa sức tung tăng chạy rẽ ra nơi này nơi khác dòm dòm ngó ngó, ngửi ngửi khịt khịt, rồi co một cẳng sau lên đái tỉnh bơ. Thấy Ba Tô lần đầu tiên được đi xa nhà chạy nhảy loạn xạ, thằng bé đâm lo, năn nỉ:
"Bố ơi, ngừng xe lại bắt con Ba Tô lên để con ôm nghe bố. Con sợ nó chạy mất."
Bố hơi gắt:
"Không mất đâu. Chó không bao giờ lạc đường. Cứ để nó chạy theo như rứa là được rồi."

Thằng bé không dám nói thêm. Nó không hiểu tại sao con Ba Tô đái nhiều quá thế. Hở một chút là đái một chút. Chút ít thôi. Đái vào cột đèn đường, vào gốc cây. Có khi đái cả vào thềm nhà, tường nhà người ta, bị người ta đuổi, co giò chạy tiếp. Nó hỏi, bố bảo Ba Tô đi đường xa thì đái rắc. Nếu là trước kia, nó còn hỏi nhiều, chẳng hạn đái rắc nghĩa là gì, tại sao bây giờ nẫy ra cái kiểu đái mới mẻ ấy, chứ thường ở nhà lâu lắm nó mới đái một trận dài. Thằng bé thường dẫn con chó đi ỉa đi đái nên biết rõ điều ấy hơn ai cả. Nhưng buổi sáng hôm đó bố mẹ, và cả người đánh xe ngựa đều khó hiểu, có vẻ như không ưa nó nói lý láu huyên thuyên, nó đành câm miệng. Ngồi lắc lắc, giật giật trên xe thật đã, lại được nhìn cảnh lạ đường xa, nhưng mắt nó không quên chăm chú dõi theo từng điệu bộ của Ba Tô mà lòng vừa lo âu vừa vui sướng lây.

Một lần khi xe chạy ngang qua một tòa nhà lớn, sau này nó biết đó là Nhà Ga Đà Lạt, rồi trèo ì ạch lên một trái đồi nhỏ thông xanh trùm đến ngọn, rồi đổ nhanh xuống một thung lũng cây cỏ um tùm, nó không thấy tăm hơi của Ba Tô đâu cả. Nó đứng lên ngồi xuống không yên trên chiếc gối dày cộm mẹ dành riêng cho nó, mắt thì bắt đầu cay sè, môi run run. Chị nó liếc thấy bực mình bảo nó đừng mu khóc, đừng són nước đái ra đó, dị lắm. Thì may quá, Ba Tô vụt phóng ra từ một lùm cây, miệng đang ngoạm một con gì đó, chắc là con chuột bự, hay con thỏ rừng, hay con chồn. Chỉ loáng một cái, con Ba Tô đuổi kịp xe, lại còn dư sức chạy qua mặt một đoạn, rồi đứng lại ngoảnh đầu, vẫy đuôi, chờ. Trên những con đường lạ hoắc, Ba Tô cứ thế khi có khi không, khi còn khi mất, chơi trò cút bắt với nó. Quả thế, mỗi khi con chó xuất hiện, mắt chó và mắt nó luôn luôn gặp nhau. Vui quá! Nhiều lần Ba Tô mất dạng khá lâu, nó quýnh lên, bố lại nhắc con Ba Tô ham đuổi chim đuổi chồn, không sao hết.

Đi hơn nửa ngày xe dừng ngựa đổi, con ngựa chạy theo sau được cho ra đằng trước, và ngược lại. Cơm nắm, muối mè, tôm kho, thịt kho được mẹ mang bày ra ăn. Ngựa cũng được tháo dây cương cho gặm cỏ ven đường. Mọi người ăn uống vội vã cho qua bữa. Bố tuy lặng lẽ nhưng không giấu được nét lo âu, mẹ trông như một tảng nước mắt sắp vỡ òa, chị không lớn tuổi hơn nó nhiều nhưng vẫn giữ bình thản, chú đánh xe vẫn lầm lì như hồi sáng. Riêng nó nhiều lúc hoảng hốt thấy rõ. Hoảng hốt không phải vì chạy giặc, mà vì không thấy Ba Tô đâu cả. Người ta còn đi lạc nữa là. Nó từng bị lạc đường đến nửa ngày khi đi bắt dế trên Cây Số Sáu hè năm ngoái. Huống là chó, nó nghĩ thầm.

Cả nhà, tuy không ai nói ra, đều có ý chờ Ba Tô. Chờ lâu quá không thấy. Nắng đã chiếu nghiêng nghiêng, buổi chiều chưa tới, mà núi rừng bắt đầu lạnh. Sương từ mặt đất dâng lên làm khó thấy những ngọn đồi gần. Đồi xa thì chịu thua, chìm nghỉm trong mù. Núi cũng vậy, vì núi còn xa hơn nữa. Vài ba chiếc xe ngựa tản cư chở đầy người và đồ đạt chạy trên cùng con đường đã qua mặt chiếc xe chở gia đình nó. “Coi tề, ai nấy đều hớt hơ hớt hải như con gà mở cửa mả, mấy người trên những chiếc xe ngựa kia cũng như trên xe mình, trừ chú bé ra”, chú đánh xe thì thầm vào tai nó nói thế. Chẳng hiểu gì cả, nhưng đoán đó là lời khen, nó càng thích chí. Bỗng nó thấy từ xa một người gánh một gánh tới. Đó là người đàn bà gầy gò trong chiếc áo len màu nâu cũ rích có nhiều lỗ thủng, đi chân đất, oằn lưng dưới cái đòn gánh cong như vòng cung, một đầu gánh gồm nồi đất, bịch gạo, mấy củ khoai, mấy trái chuối, áo, quần, mền, chiếu, và những thứ khác mà nó không biết là cái gì, đầu kia, trong cái thúng lớn, hai đứa bé nhỏ hơn nó nhiều ngồi đâu lưng vào nhau, lem luốc, khóc nhè, mũi thò lò thụt vô lòi ra như hai con sâu rọm. Người đàn bà lần từng bước đi ngang qua, tay trái đè lên phần trước của chiếc đòn gánh cong vòng, tay phải vói ra đằng sau níu chiếc gióng lên. Hai cái thúng quá nặng, đu đưa, khiến người đàn bà đi cà giựt, cà giựt. Mấy chị người làm đêm đêm sắp hàng hứng nước nơi cái vòi máy nước công cộng gần nhà nó, nó nhớ, gánh hai thùng nước đầy mà vẫn đi một cách nhẹ nhàng, nhịp nhàng. Vậy thì cái gánh của người đàn bà này chắc nặng hơn nhiều, nó đoán.

Chú đánh xe ngựa bỗng dưng hết lầm lì, ngứa miệng la to:
"Mới ra khỏi nhà hả? Bỏ bớt đồ đi, đừng ham hố."

Người đàn bà làm như không nghe, tiếp tục bước. Chú đánh xe tự nhiên cười lãng xẹt:
"Có bỏ bớt đồ tui cũng không thèm lượm đâu mà sợ. Chị thấy đó, xe tui đã đầy ứ rồi. Tui biết trước sau cũng phải bỏ bớt đồ lại. Bỏ trước khun hơn bỏ sau."

Người đàn bà quay đầu nhìn. Chú đánh xe nhe răng cười nham nhở:
"Tui dám cá giỏi lắm là lết lên nửa cái dốc đằng kia chị bỏ lại hết. Con cũng bỏ luôn cho mà coi."

Chú đánh xe vừa nói dứt, người đàn bà đột ngột đứng lại, hạ đôi thúng, quăng mạnh cái đòn gánh qua một bên, ngồi bệt xuống đất, quắt mắt nhìn chú một cách dữ dội. Rồi cúi đầu ôm mặt. Hình như khóc. Hai đứa con nít có lẽ bị thốn đít vì cái thúng đụng đất mạnh quá, khóc ré lên như vừa bị ai nhéo. Chú đánh xe đến thế mà cũng chưa chịu tha:
"Quay về nhà cho rồi. Tui nói thiệt, không ai thèm ngó tới chị đâu mà sợ."

Tự nhiên mẹ đưa tay ôm lấy ngực, rồi nước mắt chảy ướt hai bên má, khóc không ra tiếng. Nó ngơ ngác nhìn mẹ. Bố bảo mẹ mau nước mắt. Nó thì đoán bệnh khóc là bệnh hay lây, bệnh đái cũng vậy, tụi nhỏ thường bảo nhau thế, "bệnh đái là bệnh hay lây - thấy thằng khác đái mình bày chim ra". Thấy hai đứa con nít khóc, mẹ khóc lây chứ gì. Bố thở dài bảo tất cả lên đường. Nó vội nhắc cho bố biết con Ba Tô chưa chạy theo kịp mà. Bố nghiêm mặt. Thế là nó riu ríu trèo lên xe, cố cầm nước mắt, sợ chị chọc quê, sợ bố bạt tai. Mẹ nó buồn bã nhìn nó, đứng về phe nó, nó biết, nhưng không hiểu sao mẹ vẫn im lặng không chịu nói giúp cho nó một tiếng. Biết đâu có mẹ nói bố sẽ bằng lòng chờ con Ba Tô. Nó nghĩ thầm hễ có rừng núi là có ma quỷ, rắn rít, cọp, voi, đười ươi, và nhất là sư tử, mạnh và dữ hơn chó nhiều. Ở trường cô giáo dạy sư tử là chúa sơn lâm. Chứ đâu phải chỉ có hươu, nai, chồn, thỏ. Thôi, thế là rồi đời con Ba Tô. Nó bắt đầu cảm thấy tản cư không vui như nó tưởng.

Xe chạy lóc cóc mãi cũng tới được Cầu Đất. Dừng lại nghỉ. Đồ đạc được chuyển từ xe ngựa vào một ngôi nhà chật ních. Gia đình nó ở lại đó một hôm, hôm sau chuyển đồ đạc lên xe vận tãi, bỏ lại xe ngựa, chạy tiếp. Qua khỏi Dran, Krong pha, Tuộc Chàm (Tour Cham - Tháp Chàm), đến Phan Rang lại nghỉ.

Bố mẹ và cả chị trông hốc hác, phờ phạc, và mệt nhoài vì những đống hành lý, chỉ có nó con nít không làm gì được, mà cũng không được đứng xớ rớ vướng tay vướng chân ngươì ta. Nó bị bỏ quên, đi thơ thẩn một mình suốt buổi. Có khi buồn quá, nó chạy tuốt ra bờ sông ngồi vọc cát. Cát trắng đâu mà nhiều thế, khác hẳn ở bờ hồ Đà Lạt, gió cũng nhiều, gió thổi cát vào mắt xót, nó chảy nước mắt vì cát và vì khóc, và nắng gắt làm rát da mặt, da lưng.

Ở Phan Rang được mấy ngày, lại lên xe tãi đi đến thành Diên Khánh gần Nha Trang. Chú thím họ sinh sống tại vùng này ngỏ lời mời gia đình nó ở lại trong bao lâu cũng được, khi nào yên yên sẽ tính chuyện trở về Đà Lạt. Nhà rộng, vườn dừa um tùm, tiếng quết chả dòn dã suốt ngày, chú thím làm chả lụa bán, mấy con heo trong chuồng ụt ịt luôn miệng nghe lạ và vui tai, gà, vịt thì từng đàn, lại thêm mấy con ngỗng to đẹp trắng phau phau ngúc ngắc cái cổ dài ò à ò è dọa nó. Nó bớt hoang mang, nó bớt buồn. Nhưng bố từ chối lời mời của chú, nói rằng chỉ ở lại ít hôm rồi về Huế.

Ủa, Huế sao? Thế là bỏ Đà Lạt đi luôn ? Tại sao thế? Tại sao về Huế? Cái xứ Huế ghê gớm, huyền bí đó, nó có biết, hiện lên như một đám mây mù rất xa trong trí nhớ của nó - những chuyến về Huế ăn Tết, ăn giỗ, đám ma, đám cưới, đi bằng xe lửa, đến ga Tháp Chàm đổi xe, vào lúc giữa khuya, những người đàn bà Hời mặc áo dài trắng, chít khăn đen, đầu đội những chiếc vò cao nghều nghệu, đi lui đi tới dọc theo đường rầy trông giống ma.

Chú bảo đang đánh nhau lớn ở Nha Trang, không thể theo đường quốc lộ để ra Huế được. Thỉnh thoảng nó nghe tiếng nổ như trời gầm từ xa vọng lại, nghĩa là có đánh nhau lớn như chú nói? Mình đánh Nhật như hồi đánh Nhà Đèn Đà Lạt? Hay mình đánh ai? Hay ai đánh mình? Mà sao lại đánh nhau kỳ cục thế? Gia đình nó và biết bao nhiêu người khác chạy tán loạn vì người ta đánh nhau. Mà sao lại đánh nhau dai vậy, sao không đánh nhau vài ngày rồi thôi như hồi ở Đà Lạt. Ầm! Ầm! Ầm! Ghê khiếp quá! Bố bảo đó là tiếng súng đại bác. Nó thầm nghĩ trúng đạn đại bác là “tử trận.”

Một buổi chiều, nó thấy nhiều xe tãi chở đầy những người lính trẻ tuổi gầy còm, tay ôm súng, đầu đội nón ca-lô bằng vải hoặc bằng giấy, mặt mày lầm lì, nước da xanh xao, đôi mắt xa xôi, hơi buồn buồn thì phải, từ đâu ghé đến thành Diên Khánh đậu lại choáng hết mấy khúc đường. Các anh lính nhảy xuống xe ngồi bệt xuống đất duỗi thẳng cẳng, lưng dựa vào phên tre, tường vôi của những căn nhà dân cư quanh vùng, súng gác trên chân, lấy cơm vắt, bánh tráng, bánh tét, bánh ú từ trong những gói bằng lá chuối ra ăn. Có anh quên ăn ngồi ngủ gà ngủ gật. Chỉ trong giây lát, đoàn xe lại rồ máy ầm ĩ, rồi những tiếng còi “tu huýt” rít lên nghe muốn xốp phổi. Các anh lính trẻ lại ôm súng nhảy vội lên xe. Anh nào nhảy lên không nổi thì đã có những anh đứng trên xe lôi lên lẹ làng. Đoàn xe chạy về phía có tiếng súng đại bác đang vọng lại từng hồi ghê khiếp. Họ liều mạng đến thế à? Lỡ đạn đại bác bay đến trúng họ? Lỡ “tử trận” như con dế bị cắn lòi ruột? Nó sợ. Nó hoang mang. Nó cảm thấy thương xót đoàn quân đó quá. Nó ngẩn ngơ nhìn theo cho đến khi chiếc xe cuối cùng của đoàn xe chạy khuất sau hàng dừa đứng đu đưa ở một khúc đường quanh, tung lại đằng sau những đám bụi mù mịt.

Chú nói muốn ra Trung phải đi bọc đường rừng, nghĩa là phải đi ngược chiều với đoàn quân đổ về phía Nha Trang, rồi sẽ đến ga Lương Sơn nằm nép bên bờ biển. Đi bằng cách đó may ra còn xe lửa đi tiếp ra Tuy Hòa, Quy Nhơn...

Ngày hôm sau gia đình nó lại lên đường, thuê người gánh gồng hành lý đi bộ ra Lương Sơn theo lối đường rừng. Nó lẽo đẽo chạy theo muốn hụt hơi.

Đến ga Lương Sơn có xe lửa. Ban ngày đoàn tàu nằm dài nghỉ dưỡng sức trên con đường rầy vắng. Hành khách đông, đông quá, đều được lệnh tìm chỗ trốn dưới các lùm cây rậm hoặc hang, hố quanh đó. Đêm đến mọi người lại được cho trở về các toa, chen chúc nhau, chồng chất lên nhau, và đoàn tàu lò mò chạy. Nghĩa là ban ngày sáng sủa thì nghỉ, ban đêm tối tăm thì đi, nó thấy thật là ngược đời. Sau nó mới biết làm như thế để tránh máy bay thả bom. Lúc đó nó càng nhận ra rằng tản cư không sung sướng chút nào cả. Trái lại là khác. Nỗi khổ theo ngày tháng tăng thêm hoài như không bao giờ dứt, bắt đầu từ chiếc cầu thật dài bắc ngang qua sông Đà Rằng thuộc tỉnh Tuy Hòa. Chiếc cầu kinh hoàng! Chiếc cầu dài vô tận! Trong đêm tối đen, không đèn đóm, không còi tàu, cửa đóng kín bưng, mọi người không ai dám hó hé một tiếng, đoàn tàu nín thở chạy qua cầu. Đông nghẹt cả người và đủ thứ hành lý, đồ đạc, đoàn tàu quá tãi như không lết nổi, máy móc như đều rủ liệt, rù rù lăn bánh trên chiếc cầu rung rinh. Thì ra một khúc cầu bị bom thả sập mấy hôm trước, được nối tạm, không biết có chịu nổi sức nặng của đoàn tàu hay không. Lỡ cầu sập, chắc là mọi người đều chết, trong đó không chừng cũng có bố mẹ và cả nó nữa. Nó bắt đầu thấy sợ. Mọi người cũng sợ, không ai bảo ai đều chắp tay lầm rầm khấn vái. Nó cũng bắt chước chắp hai bàn tay lại. Nhưng đó là chuyện nó chưa muốn nói đến nhiều.

*

Gia đình nó trải qua nhiều gian lao cuối cùng cũng tới được chốn quê hương mà nó dần dần cảm nhận một phần nào những nét đẹp lạ lùng, và thần bí của cố đô, của đền đài miếu mạo rêu phong, u uẩn, của sông núi trông như những bức tranh thủy mặc. Một thành phố khốn đốn nhưng trang trọng và sang cả nằm co cụm như một ốc đảo bao vây bởi những làng quê xôi đậu ngập chìm trong khói lửa không bao giờ dứt. Nhưng hồi ấy nó chỉ biết đó là nơi nó được sinh ra, nơi trên giấy khai sinh ghi là chánh quán của nó, tầm mắt nó chỉ thấy được bàn thờ ông bà tổ tiên âm u hương khói, mồ mả lạnh lẽo đầy cỏ cú, cỏ may, sim dại nằm ven những chân đồi, chân núi, và thấy rõ hơn hết là hình bóng của bà nội tóc bạc phơ, móng tay dài ngoằn cong queo, người héo quắt như thân chuối khô, sống "một mình chóc ngóc" trong ngôi nhà từ đường cũ nát, những tháng năm loạn lạc, đói kém, con cháu mỗi người đi một ngả. Bà nội giỏi chữ Hán, thỉnh thoảng đọc mấy câu thơ lạ. Và lạ hơn nữa bà nói bà đã quen sống với rắn, những con rắn lồng đục thủng những mắt ống tre để đuổi chuột, thỉnh thoảng buông mình từ sà nhà xuống lưng chừng gian nhà quạnh hiu, vắng teo, đu đưa cái đầu bóng loáng cùng cặp mắt thôi miên, nhìn bà.

Gia đình nó từ Đà Lạt tản cư về, bà nội vui hẳn lên. Nhưng ngày vui ngắn. Chẳng bao lâu gia đình nó, lần này thêm bà nội, lại kéo nhau chạy ra hướng bắc tản cư đến những làng quê thuộc tỉnh Quảng Trị khi mặt trận ở Huế vỡ. Nó nhớ mang máng vài nơi mà gia đình nó đã chạy tới như Ngô Xá, Mai Xá. Tiếp theo, thảm họa xẩy đến với gia đình nó. Cuối cùng nó lại hồi cư trở về quê hương chánh quán tang tóc, nghèo khó, chứ không phải về thành phố của những ngày thơ ấu. Bà nội sống còn sau lần chạy giặc ấy hồi cư về ngôi nhà từ đường cũ nay càng tiều tụy hơn, rắn lồng lui tới càng nhiều hơn. Những khi không thấy ai, bà tưởng thế chứ thực ra nhiều lúc nó tình cờ đứng quanh quẩn đâu đấy, bà lẩm bẩm, "rắn lồng lộn lạo thủy tinh lờ mờ". Bà nói gì vậy, lớn lên nó cũng chẳng hiểu. Khi học xong ở Huế, nó lại ra đi. Bà ở lại một mình rồi qua đời.

IV

Mười năm sau tôi trở lại Đà Lạt. Tôi đi từ Huế. Có người cho rằng sau một thời gian dài trở về nơi đã sống từ thuở thơ ấu ta thường thất vọng. Tầm nhìn xa hơn, hiểu biết rộng hơn, kinh nghiệm sống nhiều hơn sẽ làm mất mát đi rất nhiều điều mà ta trông chờ nơi quê cũ. Những nhận xét ấy liệu có áp dụng được vào trường hợp của tôi hay không?

Chiếc máy bay Bristol hai động cơ đáp xuống phi trường Liên Khương, hồi tôi còn bé tên của nó là Liên Khàng, vào buổi trưa có nắng, gió, và lạnh. Tôi bồi hồi xúc động. Tôi cảm nhận ra ngay rằng Đà Lạt muôn vàn thương nhớ bây giờ vẫn giữ được một cách rất kín đáo những nét hoang sơ ngày xưa, đồng thời đang tỏa ra biết bao nhiêu hương sắc, âm thanh, hình dáng mới. Thật ra tôi của những năm tháng ngu ngơ ngày xưa làm sao nhận ra được khuôn mặt lung linh, huyền ảo của thành phố cao nguyên này. Đà Lạt ngày xưa của tôi chỉ là thành phố của những mùa vui chơi hồn nhiên, thơ dại với hoa cỏ, núi rừng, của con dế lửa gáy vang lừng một buổi sáng mưa lâm râm, của con chó Ba Tô những ngày đầu tản cư hoang mang.

Chiếc xe hơi của hãng Hàng Không Việt Nam đưa tôi từ phi trường về trung tâm thành phố vượt qua những cánh rừng thông ngút ngàn, những thung lũng cũng thông xanh trùng trùng điệp điệp, vượt qua con đèo dài ngoằn ngoèo cũng thông và thông tràn ngập.

Tôi đi xuyên qua màu xanh phơn phớt của những cành thông non chìa tay ra làm thành vòm trên cao vẫy gọi, màu xanh thắm của những hàng thông mọc hai bên đường hân hoan đón mừng, màu xanh thẫm dần của những lớp thông chen chúc đằng sau nô nức chen nhau chờ đợi, hết lớp này đến lớp khác, những màu xanh đậm nhạt khác nhau chồng lên nhau, quyện vào nhau, dàn trải ra thật xa và thật sâu đến tận cuối tầm mắt. Tôi cảm thấy tôi biến thành gió mang theo hương thơm của hoa rừng cỏ nội, của những lớp vỏ thông khô, nhựa thông nâu, phấn thông vàng. Tôi cảm thấy tôi biến thành nốt nhạc hòa trong những đợt âm thanh vi vu. Tiếng gì đó nhỉ? Vâng, tôi nhớ ra rồi - tiếng thông reo.

Hàng vạn, hàng triệu cây thông vừa mới chạy dồn về đây chen nhau đứng sẵn trước cửa ngõ Đà Lạt nghênh tiếp người trở về.

Xe đưa tôi đi dưới những ngọn nắng êm êm, những ngọn gió mát rười rượi, những vạc sương lác đác phủ mờ mờ trên nhiều chặng đường. Tôi đi sâu vào bầu không gian càng lên cao càng tinh khiết hơn, càng tỏa ra cái lạnh se se, xao xuyến đến bùi ngùi. Nước mắt rưng rưng. Nếu không có hành khách đi cùng xe, tôi khóc. Đi hết con đường đèo, thông thưa dần. Qua khỏi một ngọn dốc nữa, kìa, thành phố của tuổi thơ đây rồi, quen thuộc như đã thấy trong nhiều giấc mơ, những mái ngói đỏ tươi, những mái ngói nâu sẫm, những khung tường nhiều màu, những hàng cây xanh mướt, những cụm thông trên những đồi cỏ tròn như bát úp tụm năm tụm ba thủ thỉ chuyện trò, những hàng rào làm bằng nẹp gỗ mỏng sơn trắng thật thấp, thật dài và thật sơ sài chạy tung tăng lượn vòng vèo, những con dốc thoai thoải đổ êm êm xuống các khu vườn trồng khoai tây, cà chua, xà lách, bắp sú, đậu hòa lan. Và kia kìa, soi bóng cây trên đồi, soi mây trời buổi xế chiều, soi cái tháp chuông cuả ngôi nhà thờ trên cao có hình con gà, là mặt hồ nước trong xanh, sóng lăn tăn.

Tôi trở lại Đà Lạt vào mùa hè 1955. Mười năm về trước, tôi nhỏ xíu, mà thành phố cũng nhỏ như tôi. Nay đã khác rồi, cả hai đều khác, Đà Lạt và tôi. Đà lạt đang lớn lên, đang trở thành một thiếu nữ khuê các vừa qua cơn đau nhẹ. Đó là thành phố ít bị khói lửa tàn phá nhất trong chiến tranh tuy dăm ba vết thương vẫn còn lưu lại. Đẹp quá, thanh tân quá, trong trẻo quá. Nước da còn hơi tái xanh, khuôn mặt hơi gầy chưa kịp phấn son, đôi mắt hơi lơ đãng còn vương chút mệt mỏi, còn đọng chút đau đớn, mái tóc mượt như tơ còn lẫn dăm sợi rối buông uể oải xuống vầng trán phảng phất chút sầu muộn.

Tôi ngoan cố, tôi nhất định không đánh điện tín báo trước cho mẹ và chị đón tôi ở phi trường. Tôi muốn đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác cho tôi và cho người tôi thương yêu. Xe tắc-xi đưa tôi đến một căn nhà tiều tụy nằm bên con suối nhỏ, suối này chảy ra thác Cam Ly, mẹ tóc bạc phơ, nước mắt ràn rụa, người của mẹ bé lại, con thì lớn lên nhiều quá, nhìn nhau bỡ ngỡ một giây, ôm chầm nghẹn ngào, nhưng chị ở đâu, chị đan len ngoài phố, để mẹ đi "xoắc" một cái mua mấy thứ con ăn, và kêu chị bỏ buổi làm việc về với con.

Tôi đi trên các viả hè Đà Lạt lòng bồi hồi nhận ra nhiều nét vừa quen vừa lạ, khiến cho tôi cảm thấy vừa gần gũi, vừa bỡ ngỡ. Rồi thời thơ ấu sống dậy - một buổi sáng mùa hè êm ả mưa nhẹ như sương vang lừng tiếng gáy của con dế lửa; một buổi sáng mùa thu lạnh lẽo lóc cóc chiếc xe ngựa chạy trên con đường dài đánh lạc con chó Ba Tô của tôi, đánh mất luôn tuổi nhỏ..

Đường và địa danh đã mang tên Việt Nam, chẳng hạn đường Hàm Nghi thay vì Rue d'Annam, đường Duy Tân thay vì Maréchal Foch, đường Hai Bà Trưng thay vì Pasteur, đường Phan đình Phùng trước chỉ quen gọi tên là đường Cầu Quẹo, hoặc những địa danh như cư xá Chi Lăng thay thế tên Cité Saint Benoit, hồ Than Thở thay Lac des Soupirs, rừng Aí Ân thay cho Bois d'Amour, trường Hùng Vương trước kia là trường Yersin v.v...Đà Lạt khoác chiếc áo mới, Đà Lạt bừng bừng sức sống. Cũng như Nha Trang, Đà Lạt là thành phố trẻ, trẻ hơn, và cũng như Nha Trang thành phố biển mang rất nhiều dáng dấp của Huế, thành phố núi Đà Lạt thiên nhiên có khác, nhưng tâm tình là Huế. Huế, Đà lạt, Nha Trang là ba chị em thân thiết. Lẽ dĩ nhiên cũng có những người từ Sài Gòn, Đà Nẵng v.v...đến cư ngụ, sinh hoạt; hoặc những người Tàu mở quán ăn, tiệm thuốc bắc; hoặc một số phong cách mới rất tây phương và rất có ảnh hưởng; và đặc biệt là sau khi đất nước chia đôi năm 1954 một số người từ Bắc di cư vào mang theo nếp sống thanh nhã; ngoài những trường hợp vừa nói, đại đa số người Đà Lạt đều có liên hệ xa gần với Huế từ huyết thống, tính tình, tập tục, giọng nói, cho đến món ăn, cách phục sức, cách trang hoàng nhà cửa.

Tôi tìm đến ngôi nhà cũ trên đường Rue d' Annam. Ngôi nhà không còn, vỉa hè còn. Tôi nhận ra vị trí cũ của ngôi nhà, nay là cái nền xi măng nứt nẻ loang lỗ cỏ dại trên đó một cái chòi nhỏ lợp tôn được cất lên lôi thôi dùng làm chỗ chứa vỏ ruột bánh xe hơi phế thải, những ống sắt cong queo, những miếng thiếc thừa, những lon dầu nhớt vung vãi, những thùng đựng đủ loại bù lon, đinh, dây chì, dây kẽm, và vài ba chiếc ghế gỗ nhỏ thấp chủn nằm bên cạnh cái lò bếp dựng bằng ba viên gạch mẻ trên đó đặt một cái nồi đất không có vung, ám khói. Bếp lửa đã tắt, nồi đã cạn nước, trong đó mấy củ khoai luộc cháy đen. Chòi vắng, không thấy ai ở đấy.

Mười năm về trước nơi đây là một gia đình còn nguyên vẹn, mỗi chiều về vang lên tiếng nói tiếng cười, tiếng giã hành tỏi, mùi xào nấu, ánh lửa bập bùng từ lò bếp in lên vách tường.

Đứng trên nền nhà cũ, tôi nhìn quanh. Một số nhà láng giềng ngày xưa mọc lên cao hơn, tươm tất hơn. Chẳng qua là vì gia đình tôi đi tản cư xa quá rồi đi luôn trong khi nhiều gia đình khác cũng tản cư nhưng đến Phan Rang, hay Tháp Chàm, hay Nha Trang quay trở lại. Chỗ tôi đứng không phải là cao điểm của thành phố nhưng tôi cũng nhìn thấy được nhiều. Phía triền đất cao, những đồi thông xanh ngắt chen lẫn dăm ba thân cây cháy đen và mấy cái gò cỏ dại mọc đầy, kế đến là nhà thờ Tin Lành một góc vòm bị trụt lỡ in hình thuôn thuôn lên trên nền trời cao không một gợn mây, tiếp theo là chùa Linh Sơn mờ mờ ảo ảo sau những hàng cây trông như tranh vẽ cảnh bồng lai; phía thung lũng, dưới phố xa, phơi mình dưới nắng mai trong và lạnh, là đường Cầu Quẹo văng vẳng vọng lại tiếng người nói, tiếng xe chạy; bên kia thung lũng, đường Hai Bà Trưng uốn éo khi ẩn khi hiện như một con sông đang trôi; và phía bên trên nữa là khu Nhà Thương, đường Thi Sách, và vùng Saint Domaine de Marie tưởng như nằm gọn trong vườn Địa Đàng. Tôi đảo mắt tìm Nhà Thờ Con Gà, cầu Ông Đạo, và cái hồ thường bị sương mù phủ lên một lớp dày. Không thấy. Nhà cửa, cây cối, đồi non che khuất.

Tôi đi lên Cây Số Sáu. Ngôi nhà ngày xưa mà bố vừa cất xong còn in rõ trong trí nhớ, nền nhà nằm bên mé thấp của con đường nhỏ trải đá, mé bên kia của con đường là triền đất chạy lên vùng cao mọc đầy thông. Ngay cả cái mái nhà cũng không cao ngang với mặt đường, vách làm bằng thân cây thông dài và thẳng xẻ làm đôi còn nguyên vỏ sù sì đóng chồng mí lên nhau. Trước mặt nhà là một cái sân nhỏ có lối đi rải đá cuội nối với con đường cái trên kia; sau lưng nhà, mảnh vườn khá rộng đổ xuống cái thung lũng thật sâu; phần trên của vườn, ngoài một số rau xanh, là khoai lang vỏ màu trắng, củ nhỏ, dài như củ cà-rốt, nấu chín bẻ làm đôi hiện lên lớp bột khoai trông sáng óng ánh ăn ngọt lịm; phần dưới của vườn trồng cà phê, hồi đó cây chưa lớn mọc chen chúc thành một đám xanh um. Hình như cà phê chưa trổ ra được lứa trái đầu tiên thì gia đình tôi đã tản cư. "Mảnh vườn dốc" chưa khai phá xong, dăm bảy cây thông bị cưa sát gốc nằm ngổn ngang. Biên giới của vườn là những cọc cắm chưa thành hình cái hàng rào.

Tôi nhận ra hai con đường nhỏ tụm nhau lại ở cuối Cây Số Bốn rồi chạy thêm một quãng nữa để chuyển qua Cây Số Sáu. Thế Cây Số Năm nằm ở nơi nào, quả tôi không biết. Tôi đi quanh tìm kiếm một hồi lâu. Con đường cái còn đó, con đường chạy trên kia cao hơn mái nhà, cây thông già dưới gốc có con dế lửa ngày xưa gáy vang lừng còn đó. Tiếng gáy bỗng dưng ròn rã vang dội trong tôi ngay lúc này. Cái thung lũng cũng còn đó, không sâu thẳm như tôi nghĩ. Tầm mắt của tôi bây giờ lớn hơn ngày xưa, nên tôi nhìn xa ra thấy bên kia thung lũng cánh rừng thưa cây che khuất từng đoạn của một con đường nhỏ đất đỏ chạy uốn éo. Hồi bé tôi cho rằng cuối thung lũng là hết, nghĩa là chỉ có rừng rồi núi. Núi là giới hạn cuối cùng. Không có "bên kia núi”. Nhưng tôi không thể nào tìm ra nền nhà cũ, nói gì đến ngôi nhà tranh vách làm bằng thân cây thông còn nguyên vỏ.

Tôi vừa mới lớn lên thì cụ hàng xóm nghèo khó trước kia ở cạnh nhà tôi đã già lắm. Tóc bạc, má nhăn, miệng móm, răng còn vài chiếc lung lay trệu trạo nhai trầu. Tiếng nói của cụ do đó khò khè, ngắt quãng, khó nghe. Cụ là một trong số người ít ỏi không đi tản cư, ở lại một mình... mà ... mà chịu trận chớ cháu... tới mô thì tới... tra rồi... có chết cũng... cũng vừa. Tôi nhận ra cụ, nhưng cụ nhìn tôi ngẫm nghĩ. Tôi phải "khai báo" dông dài. Khi nhận ra tôi, cụ giữ tôi lại suốt buổi chiều kể lể đủ mọi thứ chuyện. Đến đoạn nói tới con chó của tôi, cụ thở dài. Đôi mắt hom hem, lờ đờ bỗng nhiên bừng lên một vài tia sáng mơ hồ.

Những ngôi nhà mà chủ đã đi tản cư bỏ trống thì mấy ngày sau cửa ngõ bị đập phá, đồ đạt bị lấy sạch, trừ nhà của gia đình tôi. Nhờ con chó. Nhưng rồi cũng tiêu tan hết, cụ nói. Một ngày sau khi gia đình tôi đi, cụ thấy con chó về. Nó chạy theo chắc không kịp, hay bị người ta chận đuổi nên chạy lui, đó cháu. Tôi không thể tưởng tượng được rằng nó đã chạy xa đến thế mà có thể tìm lại đường về, nhưng cụ bảo chó tìm về nhà giỏi lắm, đi mô nó cũng làm dấu. Tôi sực nhớ thế là đúng rồi, nó "đái rắc" suốt dọc con đường đi. Đêm hôm đó nghe rẹt rẹt ngoài cửa nhà tôi, cụ cứ tưởng bọn hôi của tới phá phách, cướp bóc. Cụ sợ quá, nằm yên, nín khe. Sáng hôm sau cụ mới biết thì ra con chó đã cào cửa cả đêm. Không vào nhà được, con chó nằm mẹp suốt ngày trên vỉa hè ngay trước cửa, gầm gừ khi thấy ai đi ngang qua gần. Suốt mấy ngày nó không ăn không uống, không đi đâu cả, cứ nằm hoài trước nhà, lông lá bù xù, cái bụng xép ve, cặp mắt buồn thiu. Thấy tội nghiệp, xóm giềng muốn đem nó về nuôi nhưng mỗi lần ai tới, nó nổi dữ lên, phùng mang trợn mắt, mà cá mới có cái mang chớ bác, ừ thì rứa đó, để tui nói tiếp, làm ai cũng ớn xương sống.

Bà cụ dù thiếu thốn, vẫn mỗi buổi tối trước khi đi ngủ sớt ra bớt một chút cơm nguội, cơm cháy cho vào miếng lá chuối đem để trước nhà cụ rồi đóng cửa lại đứng nép bên trong nghe ngóng. Chỉ một chốc sau, con chó đánh hơi được, đến ăn sạch bách. Nhưng nếu cứ thế cũng kẹt cho cụ, người không đủ ăn, của đâu cho chó mãi. Con Ba Tô khôn lắm. Từ hôm được cho ăn, tui để trước cửa nhà tui chớ có mời mọc chi mô, nhưng nó biết tui cho nó, thoáng thấy tui nó vẫy đuôi một cách uể oải, nhưng hễ tui đến gần, nó lại gầm gừ. Cụ nghĩ trước sau gì nó cũng sẽ ngoan ngoãn, lúc ấy cụ sẽ dụ nó về nhà nuôi thêm ít hôm rồi mang đi bán. Cơm và vô lỗ miệng không đủ, có mô nuôi chó. Nó đẹp quá, thế nào cũng có người mua, cụ biết chắc như thế.

Nhưng mọi chuyện không xẩy ra suôn sẻ như cụ muốn. Sau đó khoảng một tuần lễ, đêm mô cũng rứa, lúc ai nấy đã ngủ ngon, con chó nó tru. Thoạt đầu là vài ba tiếng sủa trong cổ họng, ngập ngừng, như dò đường, như rà mìn. Rồi tru to lên dần dần. Rồi cau có, gắt gỏng, giận dữ. Chỉ chưa đầy nửa giờ sau, những tiếng sủa rời rạc ban đầu nối lại thành những chuỗi tru dài liên tục, càng lúc càng dài như bất tận, khi trầm khi bổng, khi to khi nhỏ, khi rì rầm cằn nhằn nhức nhối, khi hét tướng lên như điên tới nơi. Tiếng tru nghe ai oán quá cứ thế tuôn ra từ cái mỏ dài nhọn hoắt chỉa thẳng lên trời. Nếu cứ thế, con Ba Tô biến thành chó dại mất. Mọi người trong khu phố vừa bực bội, vừa thương hại con chó mất chủ.

Những ngày ấy Đà Lạt là thành phố gần như bỏ ngỏ, lực lượng giữ gìn an ninh trật tự chưa kịp tái lập, bọn hôi của tha hồ hoành hành, chó dại, chó hoang, chó vô chủ, chó đói tha hồ chạy rông ngoài đường phố. Con chó của cháu, hắn tên chi hè, dạ, con Ba Tô, khác những con chó kia, ban ngày thì cố thủ nơi vỉa hè trước ngôi nhà cũ, ban đêm thì tru tiếp. Biết cụ có chăm sóc con chó, nhiều người hàng xóm bảo cụ nên tìm cách bắt trói nó lại, họ sẽ giúp một tay, lấy dây cột chặt cái mỏ của nó, thế là hết tru, để người ta ngủ cho yên giấc chớ. Bà cụ thấy cũng có lý, nhưng cứ hẹn rày hẹn mai. Cụ biết rằng cấm nó tru một cách tức tưởi như rứa nó chết mất. Để nó tru thêm ít bữa cho hả hơi, rồi sẽ tính.

Gần nửa tháng sau, một buổi chiều khi mặt trời sắp tắt, đường phố không đèn đóm bắt đầu nhá nhem tối, bà cụ định bước vào nhà thắp ngọn đèn dầu thì trông thấy ba tên đàn ông trông chẳng hiền lành chút nào không biết từ đâu nghênh ngang đến, một tên cầm cái xà beng, hai tên kia trong tay mỗi tên một thanh củi, và hai ba cái bao bố rách. Bà cụ lo bấn xác, nhưng cố lấy giọng bình tĩnh nhỏ nhẹ hỏi:
"Mấy chú tới đây có việc chi rứa hả mấy chú?"

Chúng gắt:
"Việc chi kệ người ta, hỏi vô duyên."

Ai vô duyên hả cháu? Khi không tới đất của người ta, sắp sửa làm chuyện bậy bạ, lại dám nhiếc người ta vô duyên! Đúng là thứ đồ cứt một về sau khu mà miệng thì cứ bô bô thúi mô rứa, mô thúi rứa. Cái tội đổ hô nớ trời không dung, đất không tha, tre trên rừng không đủ để viết, nước dưới biển không đủ để rửa. Người ta hay nói rứa phải không, bác không nhớ hết.

Nói xong chúng nó hầm hè tiến đến gần con chó, tên nào tên nấy mặt đanh lại hung ác. Bà cụ muốn kêu cứu hàng xóm, nhưng sợ hãi đến líu lưỡi không nói ra được một tiếng nào. Vả lại trong thâm tâm bà cụ cũng biết rằng có kêu lên cũng vô ích, thời buổi này ai lo việc nấy còn không xong, hơi sức mô xía vô việc làm của bọn dao búa. Con Ba Tô vẫn lì lợm không chịu bỏ chạy, đi chầm chậm lùi sát vào cánh cửa lớn, gầm gừ dọa nạt. Nhưng ba tên ấy là thứ người da dày lắm, da mặt càng dày hơn, không sợ chó cắn, không sợ người ta rủa, vẫn cứ lừ lừ tiến. Con chó phải lùi xa dần cánh cửa, cụp tai, trợn mắt, nhe răng, sùi bọt mép. Trông nó như con thú dữ trong rừng. Chúng bèn chia lực lượng ra, như chiến đấu ngoài mặt trận, hai tên cầm hai thanh củi thủ thế canh giữ con Ba Tô, tên còn lại cầm xà beng quay lui về phía cánh cửa. Bà cụ thở dài như trút bớt gánh nặng trong lòng, thầm nghĩ rằng có lẽ bọn này không đến đây giết chó để ăn thịt, chúng chỉ muốn lấy đồ đạc trong nhà mà thôi. Cái xà beng nhanh chóng nạy bật cánh cửa ra kêu rẹt một tiếng lớn. Nhanh như chớp, bất chấp hai tên đang cản đường, con chó phóng mình đến ngoạm ngay vào cườm tay tên phá cửa. Cả ba tên xúm lại đánh đập con Ba Tô nghe thình thịch, hừ hự. Con Ba Tô một mình không có đồng minh, không có vũ khí, mà lạ quá, nó chịu đòn giỏi lắm, không sủa, không gào, không rên, chỉ vùng vẫy nhảy nhót táp tên này, cắn tên nọ, và lãnh những trận mưa đòn. Sau một hồi, chiếc xà beng nện trúng ngay vào đầu con chó phát ra một tiếng như tiếng nứt nẻ. Ba Tô giật bắn lên như quả bóng, rồi rơi bịch xuống đất nằm nghiêng bốn chân duỗi dài, thân hình ốm tong teo bầm dập co giật, mồm chảy máu thành dòng, nước mắt ứa ra đục ngầu. Trước khi nằm bất động, nó vươn mỏ tru lên mấy tiếng đứt quãng, ngăn ngắn, khe khẽ, yếu ớt. Rồi im bặt.

Bà già òa khóc chồm tới ôm xác Ba Tô vào lòng. Một cái đẩy mạnh, bà lăn quay. Chúng vội vàng dộng xác Ba Tô vào một bao bố, có lẽ để mang về xẻ thịt ra chia nhau ăn, bà nghĩ thế. Rồi chúng tiếp tục nạy cửa.

Con chó nghĩ gì khi nó thí cả mạng sống chống cự bọn người hôi của ấy? Nó quý ngôi nhà đến thế sao, quý nơi nó từng sống và đã trở thành một phần của cuộc đời nó, cho nên nó không muốn người khác đến xâm lăng? Hay nó nghĩ đến chúng tôi trước, muốn giữ ngôi nhà để nay mai chúng tôi sẽ trở về đó sum họp với nó? Hay nó đã tuyệt vọng, mất chủ cho nên ngôi nhà biến thành nơi bám víu cuối cùng, phải cố giữ? Hay cái bản năng trung thành của nó là thế, rất đơn giản, ấy là cái bổn phận bảo vệ đến cùng tài sản của chủ cũ? Là gì chăng nữa tôi không biết, không thể đọc đúng ý nghĩ của nó, chỉ có điều chắc chắn rằng nếu nó không bị đánh lạc, nó sẽ "lên đường tản cư" theo chúng tôi đến chân trời góc biển, từ núi đổ xuống đồng bằng, qua cầu Đà Rằng, ra Huế, rồi lại tản cư tiếp, rồi hồi cư, vân vân và vân vân. Chúng tôi đâu nó đó.

Có lẽ tôi phải mở một dấu ngoặc kể lể một chút về hoàn cảnh gia đình tôi. Sau khi chạy giặc về Huế, rồi từ Huế lại tản cư thêm hai lần nữa ra hướng Quảng Trị, gia đình tôi tan nát. Bố qua đời, mẹ và chị phải đi lần hồi nhiều chặng mới trở lại được Đà Lạt rất muộn màng, bán nhà, bán đất, thuê một căn phòng nhỏ để ở, đan len và buôn bán lặt vặt tại chợ Đà Lạt, chờ tôi học "thành tài". Tôi ở lại Huế với người cô, mười năm sau mới trở lại Đà Lạt. Tại sao phải chờ đến mười năm? Không tiền mua vé máy bay đi một chuyến thăm mẹ, mà không chịu “mở miệng” xin tiền của mẹ, hoặc của cô, tại sao? Đó là do lòng tự ái, tự trọng, hay do tính nhút nhát không dám làm phiền người khác? Hay vì học chưa xong ở Huế thì không được tự cho phép đi đi đâu xa, dù đi thăm mẹ? Sau một mùa hè ở Đà Lạt, tôi vào Sài Gòn vừa đi học vừa đi kiếm sống.

Đà Lạt, những năm tôi quay lại, bừng bừng vươn lên như Thánh Gióng trong thần thoại. Trường học mọc lên nhiều nơi. Vào giờ đến trường và tan trường ta có thể gặp trên bất cứ con đường nào nam nữ học sinh, sinh viên ăn mặc thật đẹp, đặc biệt là các nữ sinh má ửng hồng không do son phấn một tay ôm cặp sách, tay kia giữ vành nón, đi thành hàng dài qua những khu phố dốc tấp nập. Rồi nào là Viện Đại Học, trường Cao Học Chính Trị Kinh Doanh, Lò Nguyên Tử, trường Võ bị Quốc Gia, trường Chỉ Huy và Tham Mưu, Nha Địa Dư, Viện Pasteur v.v...

Những buổi sáng cuối tuần, ngoài số du khách tấp nập từ các nơi đến, người Việt cũng như người nước ngoài, là những sinh viên sĩ quan trường Võ Bị Quốc Gia trong bộ lễ phục trang nhã đi song song nghiêm chỉnh bên cạnh người yêu. Không nắm tay nhau, không ôm eo ếch của nhau, tuân hành quân phong quân kỷ. Họ vào những quán cà phê thơm ngào ngạt trên đường Hàm Nghi, vào những tiệm phở ấm cúng, phở Tùng, phở Ngọc Lan, phở Ga, phở Đắc Tín..., những tiệm cơm tây sang trọng như tiệm Mékong hoặc Chic Shanghai tại khu Hòa Bình, những quán bún bò Huế, cháo lòng, bánh nậm, bánh canh khói từ nồi nước lèo tuôn ra nghi ngút ngay mặt sau của ngôi chợ chính, hay ở cuối dốc đường Duy Tân; họ xuống Dốc Nhà Làng ngồi trên những bậc tam cấp bằng đá sạch bóng, ăn bánh xèo bánh khoái; họ đến mua hoặc ngắm hoa, quả, đủ loại, muôn màu muôn vẻ, thơm ngào ngạt, ngay trước mặt chợ; họ đi vòng các cửa hiệu quanh chợ mua đồ lưu niệm như tên, nỏ, và các thứ vũ khí cuả người Thượng, những móng cọp, nanh heo rừng bịt bạc, phèn la bằng đồng, tù và bằng sừng trâu, những chuỗi hột cườm nhỏ li ti nhiều màu, những tấm ảnh chụp những ngọn thác, những đàn voi, những người đàn bà Thượng mặc váy rằn, ở trần v.v... Còn dư thì giờ, họ vào những quán kem mọc cheo leo bên sườn dốc cạnh những con đường xuống hồ Xuân Hương, hoặc đi thẳng đến nhà thủy tạ ngay bên bờ hồ uống cà phê, hút thuốc lá, nhìn ngắm thiên nhiên phơi bày ra trước mặt. Toàn là cảnh đẹp. Đó là chỉ nói đến một vài nét sinh hoạt xúm xít tại trung tâm thành phố trong một buổi sáng cuối tuần. Xa hơn là các thắng cảnh nổi tiếng, các tụ điểm giải trí, vườn hoa, chùa chiền, nhà thờ, rồi ghềnh, thác, đồi, non, thung lũng, núi rừng, nơi nào cũng lộng lẫy, cũng thơ mộng.

*

Tôi nghĩ đến câu nói "Mới đầu ở ngoài sân, sau lần vô bếp". Câu nói này thường có ý xấu mô tả cái tính lì lợm, sàm sỡ, dành sân lấn đất, "được đằng chân lân đằng đầu" của những kẻ lòng tham không đáy. Câu đó có thể áp dụng vào trường hợp của tôi .

Có dịp là tôi đến nhà anh Quang trên đường Hai Bà Trưng rủ anh đánh vũ cầu tại cái sân xi măng rất rộng trước nhà. Tôi không thích vũ cầu, và hình như anh ấy cũng không ưa trò chơi này. Chẳng qua để dãn gân cốt một chút rồi tôi theo anh vào phòng khách kiên nhẫn ngồi nghe anh say sưa nói đến những dự án mở nông trại vùng Tùng Nghĩa, Fim-Nôm, xây nhà, xây đập, đào giếng, nuôi bò, dựng chùa. Anh vẽ đẹp và có khiếu về kiến trúc, trang hoàng. Tôi nhớ hồi còn bé tôi có theo bố đến ngôi nhà này mấy lần, hai gia đình quen biết nhau lâu, và hình như lúc đó Liên, em gái của Quang, chưa ra đời.

Hôm đó, một ngày mùa đông quá lạnh, phòng khách rộng lớn trông rộng thêm ra. Tôi ngong ngóng nhìn qua cửa kính trong khi Quang mải miết trình bày một dự định mới. Tôi lơ đãng nhìn đồng hồ treo tường. Tôi biết nếu tôi cứ thỉnh thoảng nhìn đồng hồ đeo tay sẽ bị hiểu rằng tôi không muốn ngồi lại lâu hơn nữa. Đã hơn năm giờ chiều, học trò đi học đã về, trời mùa đông chóng tối. Học trò đi học đã về rồi mà, ý nghĩ đó luẩn quẩn mãi trong đầu. Tôi lẩn thẩn nhớ câu mắng yêu của mẹ hồi tôi còn bé: "Học trò đi học đã về/ Cơm canh chưa chín lại trề môi ra." Không khéo... Bỗng bóng của Liên lướt nhanh qua cửa sổ, tay ôm cặp, chiếc quần lụa trắng uyển chuyển, chiếc áo dài màu tím nhạt khép nép, chiếc áo len đen xẻ giữa chỉ cài nút cổ, chiếc khăn quàng màu hồng quấn hờ bên bờ vai, và khuôn mặt xinh đẹp hơi cúi nhìn xuống đất có lẽ vì biết có tôi trong phòng đang nhìn theo, tất cả những hình ảnh đó vụt hiện lên rực rỡ. Chỉ một thoáng thôi, Liên đã bước nhanh vào nhà bếp. Cánh cửa khép kín!

Quang tiếp tục câu chuyện:
“Anh N. đồng ý không nào, ngôi nhà sẽ nhìn dòng suối chảy ngang trước mặt. Cái gò ngo này đứng án ngữ đằng sau, đây, đây là gò ngo, anh thấy chưa. Đúng phép phong thủy. Ngo là thông đó. Bên trái là con đường nhỏ chạy ra đường cái, bên phải sẽ đào một cái giếng... này này anh có nghe tôi nói không đó? Anh nói sao? Đúng vậy cái giếng nước. Đã có suối vẫn phải đào giếng, anh biết tại sao không?”

Tôi trả lời như cái máy:
“Vâng, tôi biết chứ. Mà tại sao hả anh?”
“Hả? Là vì...anh biết tại sao không? Nhưng anh có nghe tôi nói gì không đó?”
“...”

Quang chắc lưỡi:
“Thôi, để tôi nói cho nghe. Vào mùa khô con suối nhỏ này có khi cạn nước, hoặc là vào mùa lá rụng nhiều, khô, thối, nước suối bị ô nhiễm...”
Tôi lơ đãng góp ý:
“Đồng ý với anh, nước suối tinh khiết.”
“Ủa, anh nói gì vậy?”

Nói xong Quang quay nhìn tôi. Bỗng anh cười khà một tiếng rồi gọi to:
“Liên! Liên làm gì dưới đó? Có anh N. đến chơi. Hôm nay lạnh quá, pha chút trà uống cho ấm bụng nghe Liên.”
Anh vui vẻ nói tiếp với tôi:
“Lại có cả bắp non nữa. Nướng lên thoa mỡ hành ăn được lắm. Vừa ăn bắp nướng, vừa rỉ rả nói chuyện, vui hơn. Hôm qua đi La Ba về tôi mua được một bao bắp non mới hái ngoài vườn.”
“La Ba?”

“Anh chưa biết La Ba hả? Hôm nào mình xuống đó chơi. La Ba cách đây khoảng bốn chục cây số, đi về hướng phi trường Liên Khàng, rồi quẹo phải độ vài chục cây số. Ngoài bắp ra, chuối La Ba ngon tuyệt. Sau vườn mình cũng có giống chuối La Ba, nhưng đất ở đây không hợp cho lắm, nên chuối không ngon bằng. Trên đường về mình sẽ quẹo qua ngả Ba Lọn cho anh biết thêm chỗ mới. Anh biết không, Đà Lạt không có mít, vậy mà cứ xuống đèo Ba Lọn là tha hồ ăn mít chín cây. Nhưng không có mít vào mùa này đâu. Liên! Liên! Xong bình trà, em lấy bắp đem nướng nghe. Nướng xong đem lên đây ngay, trời lạnh mau nguội. Bắp nướng phải ăn lúc đang nóng hôi hổi mới ngọt, mới mềm, mới ngon. Để nguội trời đây lạnh nó cứng lại như đá.”

Lòng tôi như mở hội. Tôi hỏi một câu gọi là:
“Nhưng sao lại La Ba? Tiếng Thượng hả anh? Cũng như hai chữ Đà Lạt gốc từ tiếng bộ lạc.”
“Có lẽ không phải. Có lẽ đó là tiếng Pháp. Có lẽ khi lần đầu tiên sắp đến vùng này, tụi Tây chỉ chỏ cái thung lũng xanh tươi đằng kia kìa, dưới kia kìa, là-bas. Người mình xài luôn chữ đó như địa danh. Như cái tên Nha Trang nghe thật êm tai vậy.”


Tôi không quan tâm đến giải thích của anh ta, buột miệng:
“Hay là... Hay là thế này anh Quang. Mình xuống nhà bếp phụ cô Liên một tay... cùng nhau nướng bắp cho mau.”
Quang cười xòa.

Tôi đã để ý đến Liên ngay từ khi mới gặp lần đầu, rồi bồn chồn mong gặp lại, rồi thương nhớ, và cuối cùng tình yêu của tôi và Liên được xác nhận một cách thật đơn giản trong cái nhà bếp thân mật có bếp lửa ấm cúng nổ lách tách, bằng những trái bắp nướng thoa mỡ hành thơm ngào ngạt, bằng những ly nước trà nóng hổi và mấy câu mời nhỏ nhẹ, bẽn lẽn, ngoài kia trời sắp tối, đêm mùa đông đến sớm và lạnh hơn mấy hôm trước, có tiếng gió vèo trên những ngọn cây, bằng cái nhìn kín đáo dò xét của Quang, bằng những câu trả lời thỏ thẻ, ngập ngừng của Liên, và bằng nỗi sung sướng dâng lên trong lòng tôi.

Từ đó chúng tôi có dịp đi nhiều nơi. Đi qua những phố đông. Những quán ăn bình dân, những nhà hàng sang trọng; các món chè quanh rạp hát Ngọc Hiệp; gánh phở Ngọc Lan ở cuối bến xe đò với rất nhiều hành củ ngâm dấm, tủy, gân gối, và cả tiếng gào thét của ông chủ luôn miệng la mắng thằng con chết dịch bưng phở chậm như rùa; những món Huế thơm tho, đậm đà, cay xé lưỡi sau góc chợ; ly sữa đậu nành bốc khói cạnh những xe mì thánh mì sợi gần trường tiểu học ngày xưa; gói đậu phụng rang ấm tay thơm dòn đầu đường Duy Tân khi đèn đường vừa bật sáng, khi buổi tối êm đềm lại về. Và ly cà phê đen nóng, điếu thuốc lá Bastos xanh, nhà thủy tạ, chập chờn đôi mắt của Liên xao động như lớp sóng lăn tăn trên mặt hồ qua làn khói thuốc. Rồi... rồi mình đi hồ Than Thở nghe anh, nghe thông reo, qua hồ Chi Lăng nữa, chỉ cách đó mấy ngọn đồi nhỏ, xem có còn tám ngôi nhà kỳ cục nhô ra ngoài mặt nước hay không, công chúa Bạch Tuyết và Bảy Chú Lùn, đó anh. Những ngôi nhà xinh đẹp ấy đổ nát dần không được ai săn sóc uổng quá. Còn nơi nào nữa không em? Còn nhiều chứ, chẳng hạn trời nắng tốt đi sâu vào làng Thượng, con đường độc đạo, cây to gốc đầy rêu đứng sát nhau làm thành hàng rào hai bên, nghe thác Cam Ly đổ ào ào sau lưng. Thác Cam Ly hả em? Anh biết thác Cam Ly từ hồi anh còn bé tí. To lớn, khủng khiếp! Không phải, không phải đâu anh. Hồi nhỏ anh tưởng là to chứ thật ra nó nhỏ lắm. Nó nhỏ nhất, được cái nó ở gần thành phố. Hôm nào mình đi Pongour nằm sâu trong rừng, nước chảy lớn, hoang vu, hùng vĩ lắm đó anh. Hoặc trèo lên nguồn thứ sáu, thứ bảy của Đa-tân-la, trước kia gọi là Dantania, đẹp lắm đó anh. Và còn còn nữa, anh em mình sẽ đi thăm hết, nghe anh. Vâng anh nghe, anh nghe không sót một lời, nghe như mật rót vào tai "đó em".

Em biết nhiều quá, còn anh thì mù tịt. Nhưng anh cũng cứ đưa em đi nhiều nơi nhé, đi đâu, đi trên những con đường nhỏ phủ đầy lá thông khô, những đồi cỏ xanh in rõ màu sắc của những chiếc áo len màu đỏ, màu vàng của Liên, những cánh rừng hoang chưa có đường mòn, cỏ gai vướng chân, cành cây chắn lối làm rối bù hai mái tóc, làm sây sát da thịt; đi trong sương mù của những buổi sáng sớm thành phố còn thiêm thiếp ngủ, vắng teo, lặng câm, và lạnh cóng để có cảm giác rằng Đà Lạt là của riêng của hai đứa, để thấy bụi sương đọng nhiều trên hai hàng lông mi dài, để nghe hơi ấm của hai bàn tay và tiếng đập nhẹ của hai trái tim, tiếng chân bước chầm chậm, nho nhỏ, mơ hồ như tiếng vang vọng ở một góc nào ngoài dĩ vãng.

Hoặc là gặp hôm trời mưa chẳng đi đâu cả, ngồi bên nhau, nhìn nước mưa chảy giọt ngắn giọt dài trên kính cửa sổ lầu hai, nhìn bong bóng nước dưới kia nổi lên rồi vỡ, ngắm giàn su cạnh nhà bếp cành lá xanh tươi phơi phới, nụ non nhú ra thật nhiều trông như hàng trăm đầu ngón tay đang trỏ, và ngắm cây ngọc lan cổ thụ trước ngỏ chuẩn bị đâm hoa thơm ngát cho cả một vùng. Rồi cùng chờ mưa tạnh, chờ xem mấy con chim từ đâu bay đến đậu trên những ngọn cây vả, cây mimosa rồi sà xuống nhảy nhót trong khóm hồng chìa cành sát vào kính cửa sổ. Mấy con chim vô tình tung tăng ngoài kia cửa kính chỉ cách khuôn mặt êm ả của em vài gang tay.
“Lần sau anh lên vào dịp Nô-en nghe. Rồi ở lại đến Tết tây. Đẹp lắm. Và lên vào dịp Tết ta nữa, nghe anh!”
“Vâng, Nô-en hoặc Tết ta.”
“Không phải. Nô-en và Tết ta . Cả hai.”
“Đâu được. Thì giờ của anh đâu có nhiều thế.”
“Ngày lễ mà. Bộ anh bận việc cả vào những ngày lễ sao? Ráng lên đi anh. Tết tây rồi Tết ta, mỗi cái Tết có cái hay riêng của nó.”
“Không.”
“Năm này lên cả hai, năm sau một cũng được.”
“Không, nhất định không.”
“Em giận anh rồi đó.”
“Thì lên.”


Đà Lạt tháng 12 nắng trong veo, trời xanh ngắt và lạnh. Lạnh hơn tất cả những ngày tháng khác trong năm. Buổi sáng buổi chiều đầy sương mù trên những đường đi ven các ngọn đồi mé sau trung tâm thành phố dẫn đến khu Đại Học mà chúng tôi thường tay trong tay đi bên nhau. Đường đi mau hết, lại quay ngược về phía hồ. Sương mù nhiều hôm che kín mặt hồ một lớp dày như mây, phủ luôn những trái đồi bao quanh, lan xuống cầu Ông Đạo, tràn qua khu ấp Ánh Sáng, kéo lên vùng khách sạn Palace. Đến chín mười giờ sương tan, nắng lên nhuộm hồng ngàn vạn cánh hoa anh đào bên những con đường từ khu Hòa Bình chạy xuống khu chợ, rồi từ đó chạy lên nhà Bưu Điện, rồi rẽ phải chạy lên vùng Biệt Điện của nhà vua, hoặc rẽ trái xuôi về khu Chi Lăng, vùng hồ Than Thở, ấp Thái Phiên, trường Võ Bị... Anh đào rung rung trong gió, rải rác trên những vùng rộng lớn, hoặc xúm xít nhau thành từng cụm, trên các đường đi, trên sườn đồi, dưới thung lũng, trong những khu vườn rộng ở giữa là những ngôi biệt thự tráng lệ. Ban đêm trời buốt giá. Càng gần lễ Giáng Sinh trời càng lạnh. Đêm Nô-en đường phố đông nghẹt con chiên cũng như người ngoại đạo trong những chiếc aó choàng ấm lũ lượt đi đến những ngôi nhà thờ đèn sao rực rỡ, ngập tràn ánh sáng.

Rồi Tết ta đến. Tết ở Đà Lạt cảnh vật có khác, khí hậu có khác, nhưng mang rất nhiều hình ảnh của tết ở Huế. Đêm ba mươi phố xá vắng teo, nhà nhà cửa đóng ỉm im, bên trong đèn sáng trưng, trên bàn thờ trầm hương nghi ngút, hoa quả, thức ăn, đồ cúng sắp đầy. Tại góc sân sau, nằm trên lò lửa dựng bằng ba viên gạch lớn và chụm bằng những thanh củi thông to còn nguyên cả vỏ cây sù sì kêu lách tách, là nồi bánh chưng, bánh tét "sắp chín tới nơi", bao vây bởi mấy em bé ngồi quanh nôn nao chờ vớt mấy cái bánh lẻ nhỏ xíu, mấy cái bánh ú, để được ăn trước mọi người. Đến nửa đêm pháo giao thừa vang rền khắp nơi, khói pháo không bay được lên cao, quyện vào đám sương mù đang phủ đầy mặt đất. Lễ vật cúng giao thừa được bày ra trước sân rước mùa xuân vào. Sáng mồng một tết, trời lạnh, xác pháo phủ đầy trước mỗi nhà, rải rác khắp mọi nẻo đường, trên đó đã có những cô bé, cậu bé nóng ruột chạy ra khỏi nhà khoe aó quần mới. Phố đông dần, những con đường dẫn đến các vùng mộ, các ngôi chùa, tấp nập người đi. Sinh họat càng lúc càng bừng dậy, đây tiếng trống múa lân giục giã, kia pháo nổ chát chúa, dưới thung lũng lễ hội mùa xuân, trên phố cao những sòng bài công cọng...

*

Miền Nam sụp đổ. Cũng như đại đa số thanh niên thời đó, tôi vào tù. Sau mấy năm ở trong rừng, tôi được trả lại một phần tự do dành cho loại công dân ở mức thang thấp nhất trong một xã hội rất hạnh phúc, rất tự do, rất dân chủ, và rất bình đẵng, trong đó, nói như một nhà văn người Anh, có một số người bình đẵng hơn một số người khác. Dù sao, dù còn thêm hai năm bị quản chế không được đi xa nơi cư trú, tôi cũng có thể đi ra khỏi thành phố Sài Gòn. Đi chui.

Trước tiên tôi thử đi xuống Vũng Tàu tương đối gần. Nếu trót lọt, tôi sẽ đi Đà Lạt. Vũng Tàu bớt phần nhộn nhịp. Nhưng cũng những cây dù to bản nhiều màu đứng thành hàng dài trên bãi cát, cũng ruột bánh xe hơi bơm sẵn làm phao cho thuê chất thành từng chồng cao, cũng những gánh hàng ăn vây quanh du khách ngồi trên những chiếc ghế vải bố, những gánh cua, ghẹ, nghêu, sò, hột vịt lộn, đậu phụng nấu, đậu hủ, đu đủ, mãn cầu. Cũng mùi ai ải, mùi gió mặn, mùi tôm cá. Cũng biển xanh, cát trắng, nắng vàng. Tôi đứng lặng nhìn. Cuộc đời cứ thế bình thản trôi đi mãi hay sao sau bao nhiêu cơn biến động vừa qua? Và biết đâu, nay mai Vũng Tàu còn náo nhiệt hơn. Tôi lần từng bước xuống làn nước ấm. Vài đợt sóng lớn đánh mạnh vào tôi, tôi để mặc cho nước biển bắn vào miệng nuốt ực mặn chát. Vài ba cặp thanh niên thiếu nữ đùa giỡn cười nói la hét vang lừng trên bãi cát gần đó. Tôi bỡ ngỡ. Bỗng dưng tôi thấy mất hết cả mọi cái háo hức mà tôi mang theo từ lúc khởi hành, quay lên bãi cát, tìm chỗ có bóng mát nằm dài chờ chuyến xe đưa trở lại Sài gòn.

Tôi nghĩ đến chuyến đi Đà Lạt sắp tới. Tôi tự hỏi lòng liệu cái thành phố muôn vàn nhớ thương ấy, thành phố của thời thơ ấu, của tuổi hoa niên, của tình yêu, của thơ mộng, sẽ có một diện mạo nào, một cung cách gì? Tự hỏi để làm cái gì vậy, phải chăng để tự dối lòng, vì trong sâu xa tôi thừa biết chuyến trở về thành phố miền núi lần này sẽ mang đến cho tôi không ít buồn khổ.

Đà Lạt, Huế, Sài Gòn, Lục Tỉnh... đâu phải của riêng tôi, nhưng ngày xưa tôi có cái cảm giác đó, cái cảm giác mình là một thành phần của quê hương đất nước, một ông chủ nhỏ bé bên cạnh hàng triệu người chủ khác, dù tôi chưa tậu nổi một cái nhà riêng để ở. Còn bây giờ, khác. Mọi chuyện đều nghịch lý, đảo lộn, đổ vỡ.

V

Tôi có việc đi đến quận Fresno, California, cách nơi tôi ở hơn bốn giờ lái xe. Vùng này có nhiều người tỵ nạn Đông Nam Á, đông nhất là người Lào, người Miên và một số người Việt Nam. Tôi có dịp thăm một nông trại do người Miên làm chủ. Nông trại được cơ giới hóa, có bơm nước, máy điện, máy kéo, máy cày. Ngoài những cây ăn trái như cam, táo, nho, hồng dòn, hồng mềm, còn có rất nhiều loại rau quả rất quen thuộc với tôi như mướp ngọt, mướp đắng, bầu, bí, ớt, sả, dưa leo, cà tím v.v... Một số người tỵ nạn gốc Nga đến đó mua thật nhiều cà tím chất đầy xe. Mọi thứ đều xanh tươi, ngon mắt, nhìn mãi không thấy chán. Bỗng tôi cảm thấy có thiếu món gì đây. Khoai lang? Không phải. Sắn, cải ngồng chăng? Cũng không phải. Tôi nhớ ra rồi, thiếu những giàn su su, những trái su màu da xanh non, có gai ở cuối trái, gọt vỏ để nguyên trái hầm với đuôi bò và rau cần, đậu xanh, khoai tây, cà rốt, hành củ và một số rau mùi khác, rồi rắc kha khá hạt tiêu vào, ăn trong những buổi tối bên ngoài trời lạnh mưa lâu. Mà ăn ở đâu nhỉ? Tôi lại nhớ ra rồi. Đà Lạt! Đà Lạt muôn vàn nhớ thương! Tôi mua những rau quả ấy mỗi thứ một ít, cho vào đầy một hộp giấy to, chất vào xe rồi trả tiền, nhưng ông chủ người Miên nhất định biếu không, nói tiếng Anh bập bẹ: "Anh và tôi kể như người đồng hương. Cao Miên, Lào và Việt Nam là ba nước láng giềng mà." Tôi chỉ còn biết cám ơn.

Tôi cầm tay lái trước, bạn tôi ngồi bên cạnh tha hồ ngắm cánh đồng bằng phẳng và rộng mênh mông kéo dài từ Fresno đến thung lũng Bakersfield. Qua khỏi ngọn đèo rất dài để vào quận Los Angeles tôi buồn ngủ quá chừng. Nếu tôi cố lái tiếp không khéo gây tai nạn. Tôi ngừng xe lại nép sát lề đường trao tay lái cho bạn tôi. Khi xe ngừng hẳn, cơn buồn ngủ cũng giảm bớt đi nhiều. Tôi nhìn bâng quơ xuống triền núi, rồi nhìn xa ra một chút xuống thung lũng dưới kia. Kìa, ô kìa, một thị trấn nhỏ phơi mình dưới bầu trời bao la nhìn lại tôi, những mái ngói đỏ ửng lên, những chòm thông xanh quấn quýt nhau, ríu rít nhau trong nắng, "Nắng hớn hở nắng trong veo như mắt..." Tôi xúc động mạnh.

Bạn tôi bảo tôi đổi chỗ ngồi để bạn tôi lái. Chiếc xe lại rời lề đường nhập vào xa lộ tăng dần tốc độ. Tôi điều chỉnh ghế ngồi, ngả mình. Bạn tôi nói, ừ, vậy đó, ngủ một giấc cho khỏe người. Tôi lim dim mắt nhìn lên bầu trời cao trước mặt, chờ giấc ngủ tới. Nhưng tôi không ngủ được. Bỗng dưng Đà Lạt hiện lên. Mé này là Đồi Cù, là mặt hồ gương, là nhà thờ Con Gà; mé kia là con đường sương mù Liên và tôi đi qua nhiều lần, một bên đồi thông xanh biếc, bên kia là triền đất đổ xuống thung lũng trồng nhiều loại rau cải, là khu Đại Học, là chùa Linh Sơn; mé nọ là Cây Số Bốn, Cây Số Sáu, là ngôi nhà tranh mái thấp hơn mặt đường, có con dế lửa gáy vang lừng tuổi thơ trong một buổi sáng lặng câm trời mưa lâm râm, và con đường dài những ngày tản cư con Ba Tô chạy theo chiếc xe ngựa lóc cóc mà lại còn ham đuổi chim đuổi thỏ; rồi chệch qua một chút là đường Hai Bà Trưng hai bên nhiều thông, có mấy khúc cong, có một đoạn dốc đổ xuống đường Hoàng Diệu, và có ngôi nhà thân yêu trong đó cái phòng khách đôi khi trông trống trải, lành lạnh, nhưng cái nhà bếp và bếp lửa thì êm đềm, ấm áp vô cùng. Tôi lại buồn ngủ. Giá tôi được ngủ ngồi trên chiếc ghế dựa đặt cạnh bếp lửa ấy lơ mơ nghe tiếng than nổ lách tách, tiếng gió rít từng hồi ngoài kia. Chiếc xe chạy nhanh thêm trên xa lộ êm, thẳng và rộng mang cho tôi cái cảm giác bềnh bồng, và kia kìa, tôi lại thấy rõ chứ không phải tôi đang mơ, đúng lại là cái thành phố đó nữa rồi, phía trên cao, trên không trung, trên trời, Đà Lạt chờn vờn bay bay cùng với phố phường, suối ngàn, hồ thác, rừng thông, đồi non, và sương mù./.


NGỰ THUYẾT




Nguồn: http://www.dalatdauyeu.org

          
Trả lời

Quay về “ký ức thương yêu”