Tiếng Huế Xứ Tôi

Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Tiếng Huế Xứ Tôi

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  • Tiếng Huế Xứ Tôi
    ____________________________________________________________________





    Đi đâu thì nói “đi mô”
    “O nớ” ám chỉ “Cái Cô” chung trường
    “Ốt dột” khi tui nói thương
    Có nghĩa “mắc cỡ” má vương nụ hồng.
    “Khôn” là đồng nghĩa với không
    Chẳng muốn lấy chồng, “khôn muốn lấy dôn”
    “Đoản hậu” là “Ác” en ni
    Tui đã … im lặng cứ đi theo hoài
    Nhà tui còn khoảng đường dài
    Có chi noái nấy, ngày mai hết rồi
    Trên cao thì nói “trên côi”
    “Đi rượng” là lúc sóng đôi như chừ
    “Phủ phê” là lúc thặng dư
    Như là tình cảm “đã nư”, no đầy
    “Như ri” có nghĩa như vầy
    … Mô Tê Răng Rứa, em quây … mòng mòng
    “Ở nể” đồng nghĩa ở không
    Trai hông lí dzợ., không chồng “ế dôn”
    Ngu ngu thì nói “khôn khun”
    Dại dại mô tả “đù đù” mặt ra
    Còn trẻ thì nói chưa “tra”
    Tới tuổi già già khú đế là “ôn”
    Có cô thiếu nữ lấy “dôn”
    Lấy được ông chồng thăng chức “mụ o”
    “Răng chừ” đồng nghĩa “”khi mô”
    “Khi mô” có nghĩa khi nào đó thôi
    “Khi mô” có cặp có đôi
    “Răng chừ” hết cảnh tuổi đời bơ vơ
    Đơn côi “cái trốt” dật dờ
    Là ôm đầu bạc “cà ngơ” một mình
    Lặng yên thì nói “mần thinh”.
    Để nghe len lén duyên tình giăng tơ.
    “Mua lửa” thì thật phải lo
    Vì là mua chịu ai cho “lửa” hoài
    “Mắc lửa” là thiếu nợ dài
    “Lửa” chi không thiếu, chẳng phai “lửa tình”
    “Sáng mơi” là lúc bình minh
    Của ngày kế tiếp, nong tình đem phơi
    “Bữa tê” em hẹn lại chơi
    Quên bẵng cái việc em mời bữa kia
    “Bữa tề” mang lịch ra chia
    “Bữa tể” là trước bữa kia hai ngày
    “Bữa ni” là bữa hôm nay
    Là lúc đương nói hàng hai đây nì
    “Mần chi” ai hỏi làm chi
    Em muốn làm gi`, “răng hoải mần chi?”
    Thế này thì nói “ri nì”
    “Rứa tề”, thế đó mần chi đây hè?
    Cái cây thì noái cái “que”
    Còn ở trước hè lại nói cái “cươi”
    Cái “ôn” bản mặt tươi tươi
    Ưa đi tán bậy là người “vô duyên”
    Lấy chồng răng gọi mụ o ?
    Anh trai lấy vợ, mình thành mụ o
    mụ o hiền hậu khỏi lo
    mụ o nhiều chuyện là mụ o “dọn” mồm
    Tối qua thi` noái “khi hôm”
    Hoàng hôn: “Chạng vạng", nghe run quá trời
    Sớm mơi mang “chủi xuốt cươi”
    Sài Gòn nghe thấy thì cười bò lăn
    Lỡ ưng rồi, biết mần răng !
    Cái giọng trọ trẹ…..cũng muốn ăn chung một nồi
    Con gái chưa noái đã cười
    Bị người ta noái là người vô duyên.
    Đọc thơ Cai, thấy đã ghiền
    Huế ơi nhớ quá, muốn bay liền ra ngay…




    Tiếng Huế không phải chỉ đơn giản tê mô răng rứa như thỉnh thoảng vẫn xuất hiện trong thơ, nhạc và văn xuôi như những nét chấm phá rất dễ thương để nói về người và xứ Huế; mà nhức đầu, phức tạp, nhiêu khê, đa dạng và phong phú hơn nhiều . Tùy vào từng địa phương của Huế, cách phát âm có chỗ nặng nơi nhẹ; lúc thanh tao khi khó hiểu .

    Xin được đơn cử một câu rất Huế, một tâm sự kín đáo giữa hai o đang tuổi lấy chồng:
    • “Tau noái với mi ri nì, ien còn ở dôn, rứa mà bữa tê tề, ien chộ tau phơi ló ngoài cươi, ien kiêu tau vô, bồn tau lên chờn, cái ba . . . ien đẩn . Mi quai chướng khôn ?”

    Sở dĩ tâm sự kín đáo vì đây là chuyện riêng của hai người, nói bằng thổ ngữ, nhưng ý nghĩa thì như vầy:
    • “Tao nói với mày như vầy, ảnh còn ở rể, vậy mà hôm kia kìa, tao đang phơi lúa ngoài sân, ảnh kêu tao vào, bồng tao lên giường, rồi ảnh . . . Mày coi có kỳ không ?” .
    Chữ đẩn, ngoài ý nghĩa một trong bốn cái nhất của đời người trên còn có nghĩa như ăn:
    • “Đẩn cho bưa rồi đi nghể” . Ăn cho no rồi đi ngắm gái .
    Đẩn cũng có nghĩa là đánh đòn:
    • “Đẩn cho hắn một chặp!”(Đục cho hắn một hồi!) .
    Chữ đẩn còn được phong dao Huế ghi lại:
    • Được mùa thì chê cơm hẩm
      Mất mùa thì đẩn cơm thiu

    Xin được thêm một câu ngăn ngắn gần như rặt thổ ngữ của Huế mà, nếu không có . . . thông dịch viên gốc Huế hoặc Huế rặt, e rằng khó mà . . đã thông cho được:
    • “Thưa cụ mự, bọ tui vô rú rút mây về đươn trẹt, bọ tui chộ con cọt, rứa mà nỏ biết ra răng, con cọt lủi, lủi năng lắm, bọ tui mờng rứa thê ! Chừ mạ tui cúng con gà, cụ mự qua chút chò bui .”
      (Thưa cậu mợ, bố con vào rừng rút mây về đan rá (hoặc nia), bố con thấy con cọp, vậy mà chẳng biết sao; con cọp chạy trốn, chạy lẹ lắm; bố con mừng quá . Giờ mẹ con đang cúng con gà, cậu mợ qua chút xíu cho vui)
    Khó hiểu chưa ? !
    Thổ ngữ ở Huế thì nhiều lắm và cũng lạ lắm, và vì tiêu đề của bài này là lan man về những thổ ngữ đó, nên xin được nhẩn nha tìm lại chút ít những gì đã mất và ôn lại những gì đang còn xài. Vì trang báo có hạn, không thể giải thích từng chữ một, nên trong bài này, xin được ghép thổ ngữ thành từng câu, từng nhóm thổ ngữ, vừa đỡ nhàm chán lại ra câu ra kéo, có đầu có đuôi hơn:
    • “Đồ cái mặt trỏm lơ mà đòi rượn đực!”
      (Thứ mặt mày hốc hác mà đòi hóng trai)
    Độc chưa ?
    O mô mà lỡ mang cái nhãn không cầu chứng tại tòa này chắc phải ở giá hoặc phải chọn kiếp . . . tha hương may ra mới có được tấm chồng. Chữ rượn gần đồng nghĩa với câu con ngựa Thượng Tứ, câu này cũng độc không kém. Thượng Tứ là tên gọi của cửa Đông Nam, bên trong cửa này có Viện Thượng Kỵ gồm hai vệ Khinh kỵ vệ và Phi kỵ vệ chuyên nuôi dạy ngựa cho triều đình Huế . Vì thế gọi ngựa Thượng Tứ có nghĩa bóng bảy xa xôi rằng con đó nó ngựa lắm, nó .. lắm, nhưng thâm thuý hơn nhiều

    • “Mệ cứ thộn ló vô lu, còn lưa, tui này lại !”
      (Bà cứ dồn lúa vô khạp (cho đầy), còn dư ra, con mua lại) .
    Chữ lưa cũng còn có nghĩa là còn đó như trong hai câu trong bài ca dao Huế:
    Cây đa bến cộ (cũ) còn lưa (còn đó)
    Con đò đã khác năm xưa tê rồi

    • Này lại
      (mua lại);
    tiếng này thường chỉ dùng nơi xóm giềng, thân cận; tương đương với chữ nhường lại, chia lại, mua lại . Chứ không dùng ở chợ búa hoặc nơi mua bán um sùm

    • Đập chắc lỗ đầu, vại máu!
      (Đánh nhau bể đầu, toé máu!)

      Thương bọ mạ để mô ? Để côi trốt!
    Chắc chúng ta cũng thường hay hỏi lũ con lúc chúng vừa tập nói, vừa biết tỏ tình thương đối với cha mẹ, câu này có nghĩa:
    • “Thương bố mẹ để đâu ? Để trên đầu!”
    Rồi đưa ngón tay chỉ chỉ, miệng cười cười, nghe hoài không biết chán

    • Tra trắn rứa mà còn ở lỗ!
      (Chững chạc, già đầu vậy mà còn cởi truồng).
    Ở lỗ cũng xuất hiện trong câu phương ngôn “ăn lông ở lỗ” hoặc “con gái Nam Phổ, ở lỗ trèo cau!”

    • Lên côi độn mà coi
      (Lên trên đồi mà xem .)
    Chữ coi về sau này đã phổ biến đến nhiều địa phương khác .

    • Mự đừng có làm đày!
      (Mợ đừng có lắm lời, thày lay).

    Riêng chữ cụ mự thường là dùng cho cậu mợ . Người Huế ít dùng chữ cụ để chỉ người già vì đã có chữ ôn hay ông . Điển hình như cụ Phan Bội Châu với chuỗi ngày “an trí ” ở Huế, dân Huế đã có tên gọi ông già Bến Ngự, hoặc trong ca dao Huế, khi nói đến cụ Phan:
    Chiều chiều ông Ngự ra câu
    Cái ve cái chén cái bầu sau lưng


    • Chộ chưa ? Nỏ chộ !
      (Thấy chưa ? Không thấy !)
    Nỏ là lối phủ nhận gọn gàng pha chút giận hờn, chanh cốm như chả biết, chả ăn, chả thèm vào ! Hắn mô rồi ? Nỏ biết ! Chữ nỏ biết ở đây pha chút, chút xíu thôi sự phủi tay về cái chuyện hắn đang ở đâu ! Tục ngữ Huế:
    Có vỏ mà nỏ có ruột .


    • Khóc lảy đảy, không biết ốt dột !
      (Khóc ngon khóc lành, không biết xấu hổ!) .

      En dòm tui, tui dị òm !
      (Anh ấy nhìn tôi, tôi thẹn quá !)
    Chữ òm người Huế vẫn thường dùng để bổ túc cho cái phủ định của mình: Ngon không ? Dở òm !

    • O nớ răng mà không biết hổ ngươi !
      (Cô đó sao mà không biết mắc cỡ !)
    Hổ ngươi cũng là tên của cây trinh nữ, cây mắc cỡ . Cũng như xấu hổ, thẹn, mắc cỡ thì ốt dột, dị và hổ ngươi có nghĩa khác nhau tuy chút ít nhưng tinh tế, nhẹ nhàng

    • Chiều hắn cho gắt, hắn được lờn !:
      Chiều nó cho lắm vào, nó làm tới .

      Mời ôn mệ thời cơm:
      Mời ông bà dùng cơm .

      Mệ tra rồi mệ chướng:
      Bà ấy già nên sinh tật .
    Chữ chướng, người Huế cũng thường dùng để chỉ mấy đấng nhóc tì khóc nhè, bướng bỉnh hoặc các vị có lối nói, cách hành xử ngang như cua .

    • Ăn bụ cua cho hết đái mế:
      Ăn vú cua cho hết đái dầm .
    Chữ bụ cũng dành cho người và các loài có vú khác . Bụ mạ là vú mẹ, bọp bụ là bóp vú .

    • Bữa ni răng tau buồn chi lạ, buồn dễ sợ luôn !
      (Sao hôm nay tao buồn quá, buồn quá trời luôn !).
    Dễ sợ, với người Huế không đơn thuần ở nghĩa thấy mà ghê ! hoặc khủng khiếp quá !, mà còn có nghĩa quá trời, thí dụ:
    • Con nớ đẹp dễ sợ !:
      Con bé đó đẹp quá trời !

      Răng mà cú tráu rứa tê ?:
      Sao mà cộc cằn quá vậy ?
    Chữ cú tráu nếu phát âm đúng với giọng Huế thì nghe nặng hơn chữ cộc cằn nhiều, có lẽ phải gom thêm mấy chữ như thô lỗ, vũ phu thì mới lột tả được hết nghĩa .





    Huế nói trại :

    Nói trại là nói sai giọng, không đúng âm theo giọng viết, nói trại đôi khi cũng dùng trong trường hợp “nói khác đi, nói cách khác” . Cách nói bị biến âm này rất phổ thông ở Huế, nhất là dân cư vùng biển . Nói trại làm cho âm thanh nặng hơn, khó hiểu hơn .
    • Con tâu tắng ăn ngoài bụi te
      tức là con trâu trắng ăn ngoài bụi tre

      Tời tong tẻo, nước tong veo:
      Trời trong trẻo, nước trong veo .

    Hầu hết những từ bắt đầu bằng “nh” đều được người Huế nói trại thành “gi”: già (nhà) .
    • Giớ già giớ vợ ở già:
      Nhớ nhà nhớ (luôn) vợ ở nhà!

    Những từ bắt đầu bằng “s” thì nói trại ra thành “th”:
    • Ăn thung mặc thướng:
      Ăn sung mặc sướng
    • hoặc
      Thầy gòn là Sài gòn,
    • hoặc nữa:
      Noái năng thòng phẳng:
      nói cho sòng phẳng, rõ ràng .

    Lối phát âm của người Huế không xác định được âm cuối là “n” hay “ng”:
    • Con thằng lằng chép miệng thở thang!:
      Con thằn lằn chép miệng thở than!

    Những chữ có âm “o” thường nói trại ra “oa”:
    • Xa voài voại, noái khôn tới, với khôn được, ngó khôn chộ:
      Xa vòi vọi, nói không tới, với không được, nhìn không thấy!

      Hoặc nữa:
      Đi coai boái, thầy boái noái đi coai cái voài voai
      Đi coi bói, thầy bói nói đi coi cái vòi voi.

    Những chữ có âm “ô”, người Huế thường nói trại thành âm “u”:
    • Thúi trong thúi ra:
      Thối từ trong ra ngoài.

      Túi lửa tắt đèn:
      Tối lửa tắt đèn.

      Nậy rồi mà mũi rãi thò lò !:
      Lớn đầu mà mũi rãi lòng thòng !

    Chữ thò lò cũng đã góp mặt trong ca dao Huế:
    Học trò thò lò mũi xanh
    Cầm cái bánh đúc chạy quanh nhà thầy !


    • Vô rú mà đốn săng:
      Vào rừng mà đẵn gỗ .
    Săng cũng đã góp mặt trong mấy câu hò giã gạo với lối đối đáp rất “văn hóa” của Huế:
    Bên nữ:
    Lẻ củi săng chẻ ra văng vỏ
    Bỏ vô lửa đỏ than lại thành than
    Trai nam nhân chàng mà đối đặng
    Thiếp xin kết nghĩa tào khang trọn đời

    Nghĩa: Cây củi gỗ chẻ ra văng (Văn) vỏ (Võ), thảy vô lửa thì thành (Thành) than (Thang) . Cái kẹt là ý lại thâm hậu, cao xa hơn nhiều: Văn, Võ Thành, Thang là những vị vua thời Tam Đại, Tây Châu bên Tàu .

    Bên Nam:
    Trâu ăn giữa vạc ló lỗ
    Đã ngụy chưa tề !
    Nam nhân chàng đã đối đặng
    Thiếp đã chịu theo chàng hay chưa ?

    Nghĩa: Con trâu (Trâu) ăn giữa vạt lúa trổ (Lỗ), sao kỳ quá vậy ? Ý ư, cũng điển tích như ai: Trâu, Lỗ, Ngụy Tề là bốn nước thời Xuân thu Chiến Quốc cũng ở bên Tàu luôn . Còn hai người có “tào khang” với nhau được hay không là chuyện . . . của họ

    • En trên rầm thượng bổ xuống, nằm ngay đơ cán cuốc, phải địu đi nhà thương !:
      Anh ấy té trên rầm thượng té xuống, nằm cứng như cán cuốc, phải bồng, cõng đi nhà thương !
    Rầm thượng là gác lửng, hay kho chứa bên dưới mái nhà ? Ở Huế, rầm thượng không phải là chỗ ngủ nghỉ mà là nơi chứa những đồ gia dụng đáng giá nhưng phải cỡ nhỏ, vì không có lối lên . Muốn lên rầm thượng, phải bắc thang; thân phụ tôi đã dùng rầm thượng để cất giữ những đồ cổ vừa phải, không qúy lắm .Còn nếu qúy nữa thì bỏ vào rương xe, một thứ tủ thấp đóng bằng gỗ thật dày, có nắp đậy, có luôn 4 bánh xe để đẩy vì khiêng không nổi, nặng quá mà ! Mặt bằng của rương xe là cái đi-văng, tối tối cứ trải chiếu nằm ngủ trên đó là khỏi lo trộm đạo.

    • Nước mắt chặm hoài không khô, răng khổ ri nì trời !:
      Nước mắt lau, thấm hoài không khô, sao khổ vậy nè trời !
    Chữ chặm cũng đã lãng đãng trong mấy câu hò giã gạo, mà vì não nùng ai oán quá, nghe hò xong e phải . . bỏ chày luôn:
    Hai hàng nước mắt như mưa
    Cái khăn lau không ráo
    Cái áo chặm không khô
    Công anh đổ xuống ao hồ
    Quì thưa bẩm dạ thuở mô đến chừ !

    • Mặt mày chạu bạu, ai chịu cho thấu !:
      Mặt mày một . . đống, ai chịu cho nổi !
    Chữ thấu cũng có nghĩa là tới:
    • Kêu trời không thấu:
      Kêu không tới trời;

      Vô thấu trong Thầy gòn:
      Vô tuốt trong Sài gòn .

    • Mả cha cái thằng vô hậu:
      Tiên sư cái thằng đoảng

      Ăn trầu cơi thiếc:
      Ăn trầu (để) trong hộp, quả bằng thiếc .
    Cái cơi thiếc cũng đã đi vào tục ngữ Huế:
    Uống nước chè tàu, ăn trầu cơi thiếc.

    “Mả cha mi” là tiếng chửi, lời nhiếc mắng rất thông dụng ở Huế, đồng nghĩa với “mồ cha mày”. Lối chửi này ít thông dụng ở những địa phương khác .

    • Đi xe hay đi chưn xuống rứa ?:
      Đi xe hay đi bộ xuống đây vậy ?

      Túi thùi thui, có chộ chi mô !:
      Tối quá, không thấy gì hết!

      Rạt gáo rồi mà còn làm le làm gió !:
      Cạn túi rồi mà còn làm chảnh, làm sang !

      Ăn đoại cơm hến, uống đoại nước chè:
      Ăn tô cơm hến, uống bát nước chè (xanh) .
    Tục ngữ Huế:
    Ăn lưng đoại, làm đoại lưng (làm muốn gãy lưng !)
    .
    Cơm hến, chẳng có chi cầu kỳ, nhưng nhiều mùi vị với lưng bát cơm nguội, rau sống, thân chuối non, rau mùi xắt nhuyễn, nước luộc hến chan vô, cho chút xíu ruốc, bỏ chút ít hến xào, thêm vài trái ớt, đúng với cái ít ỏi của Huế .

    • Bữa ni đi kéo ghế:
      Hôm nay đi ăn nhà hàng .
    Người Huế, nhất là ở thôn quê, thường dọn cơm trên phản, trên tấm ngựa . Không dọn trên bàn nên khỏi có cái vụ kéo cái ghế mà ngồi vào bàn . Vì thế, mỗi khi được dịp đi ăn ở quán, ở nhà hàng thì gọi là đi kéo ghế .

    • Huế làm đày làm láo,
      Huế nói chữ

    Vâng, người Huế, nhất là mấy o, mấy mệ thì ưa ăn nói văn hoa chữ nghĩa, ưa đa sự đa lự, ưa . . . làm đày làm láo, tức ưa xảnh xẹ, ưa nói lý nói sự, nói dông nói dài . Thêm vào đó, phải nói cho hay, khi trầm khi bổng, lúc nhặt lúc khoan thì “tụng” mới phê !
    Cái phong cách noái lặp đi lặp lại của người Huế vừa như là một cách nhấn mạnh, vừa có vẻ dạy đời lại vừa mang nhiều ý nghĩa khác, xa xôi hơn, thâm thúy hơn nữa.
    Để mô tả cái sự lanh chanh lắm, xí xọn quá, lu bu lắm . Người Huế ít khi dùng chữ lắm hay chữ quá mà dùng điệp ngữ:Cái con nớ, lanh cha lanh chanh ! Mấy mụ o giọn (nhọn) mồm tức mấy bà chị chồng mỏng mép của Huế vẫn đôi khi chê em dâu:
    • Răng mà hắn vô phép vô tắc rứa hè !:
      Sao mà nó vô phép quá vậy!

    Về màu sắc, người Huế thường có lối nói điệp ngữ để nhấn mạnh: xanh lè lè, đỏ lòm lòm, đen thùi thui, vàng khè khè, tím giắt giắt (tím ngắt) .
    • Bởi, cà rịch cà tang rứa mà đoài làm giôn !:
      Vậy đó, tà tà, lè phè vậy mà đòi làm rể !

    Còn nữa, để than trách ông trời sao mưa lâu quá, mấy o ngồi chỏ hỏ trong nhà dòm ra, chép miệng than dài than ngắn: Mưa chi mưa mưa thúi đất thúi đai !.
    Một bà mẹ tụng cô con gái, một bà chị cả mô-ran cô em thứ mà nghe cứ như là đang đọc một bài đồng giao với vần điệu, trầm bổng cũng là một trong những sinh hoạt dưới mái gia đình:
    • Mi phải suy đi nghĩ lại cho kỹ ! Mi coi, là con gái con lứa, đừng có đụng chăng hay chớ, cũng đừng lật đa lật đật, cũng đừng có mặt sa mày sỉa . Bọ mạ thì quần ống cao ống thấp, tất ba tất bật để nuôi mình . Tau thấy mi rứa, tau cũng rầu thúi ruột thúi gan !

    Cái thông điệp cho thằng em trai thì:
    • Năm tể năm năm tê, mi còn lẩm đa lẩm đẩm, mũi rãi thò lò, chừ mi nậy rồi, phải biết ăn biết noái, biết goái biết mở, vô khuôn vô phép . Chớ mai tê mốt nọ mi nên vai nên vế, nên vợ nên chồng, làm răng mi bông lông ba la hoài như cái đồ trôi sông lạc chợ cho được ?!

    Mấy ôn, khi giáo huấn con cháu, vẫn thường trích dẫn ca dao, tục ngữ để đệm thêm cho ý tưởng của mình:
    • Đó, mi thấy đó .
      • Ai ơi chớ phụ đèn chai,
        thắp trong Cần Chánh rạng ngoài Ngọ Môn .
      Mi đoảng, mi vô hậu, được bèo quên rá, được cá quên nơm; thì mi lấy ai mà bầu bạn, lấy mô mà tri kỷ !




    __________________________________

    Xa Huế đã lâu lắm rồi, từ ngày vừa biết tập tành đi nghễ mấy o Đồng Khánh, vừa ngấp nga ngấp nghé muốn vào (nhưng sợ bị chưởi) nhấm nháp thử ly cà phê đen sánh của cà phê Phấn, nơi mà các anh hùng trong thiên hạ vẫn tấp nập ra vào; và cũng vừa biết để dành tiền để mua những tiểu thuyết của Tự Lực Văn Đoàn tại nhà sách Ưng Hạ . Phong cách Huế không ít thì nhiều cũng đã phôi pha, thổ ngữ Huế cũng không mấy khi có dịp để dùng lại cho đỡ giớ, cho khỏi quên; thành ra cũng xao lãng đi nhiều . Trong cái xao lãng bỗng có ý nghĩ muốn tìm lại, noái lại tiếng noái của thời cũ rích cũ rang nhưng đằm thắm đó . Cho nên chỉ xin được ghi lại đây những gì còn nhớ mài mại, để gọi là khơi lại chút âm thanh của những ngày xưa cũ .




    nguồn: saigonocean.com
Last edited by Hoàng Vân on Thứ bảy 30/05/15 11:55, edited 1 time in total.
Hình đại diện
Vịnh Nghi
Bài viết: 1224
Ngày tham gia: Thứ năm 14/05/15 20:59

Re: Tiếng Huế Xứ Tôi

Bài viết bởi Vịnh Nghi »

Hoàng Vân đã viết:
Tiếng Huế Xứ Tôi
____________________________________________________________________


Vâng, người Huế, nhất là mấy o, mấy mệ thì ưa ăn nói văn hoa chữ nghĩa, ưa đa sự đa lự, ưa . . . làm đày làm láo, tức ưa xảnh xẹ, ưa nói lý nói sự, nói dông nói dài . Thêm vào đó, phải nói cho hay, khi trầm khi bổng, lúc nhặt lúc khoan thì “tụng” mới phê !
Cái phong cách noái lặp đi lặp lại của người Huế vừa như là một cách nhấn mạnh, vừa có vẻ dạy đời lại vừa mang nhiều ý nghĩa khác, xa xôi hơn, thâm thúy hơn nữa.
Để mô tả cái sự lanh chanh lắm, xí xọn quá, lu bu lắm . Người Huế ít khi dùng chữ lắm hay chữ quá mà dùng điệp ngữ:Cái con nớ, lanh cha lanh chanh ! Mấy mụ o giọn (nhọn) mồm


:rotfl: :rotfl:

Đọc bài ni thấy lại cả một trời xứ Huế.

Nghi kể ni nghe. Ôn nội Nghi lúc còn sống đã....kiết lại vừa khó tính lắm. Bữa nớ ôn đi chợ Đông Ba với hai đứa cháu. Lúc về, sợ ôn mệt, cháu mới noái ôn kêu chiếc xích lô chở về. Ôn noái ri, "khôn, ngồi lên tau sợ trúc ốt lậm!" Ôn sợ xích lô nhỏng thì đổ nhào cả mấy ôn cháu, thêm phần tiếc tiền nữa :rotfl:
Carpe diem
Hình đại diện
Dzuy Lynh
Bài viết: 188
Ngày tham gia: Thứ tư 13/05/15 22:52

Re: Tiếng Huế Xứ Tôi

Bài viết bởi Dzuy Lynh »

" Nghi kể ni nghe. Ôn nội Nghi lúc còn sống đã....kiết lại vừa khó tính lắm. Bữa nớ ôn đi chợ Đông Ba với hai đứa cháu. Lúc về, sợ ôn mệt, cháu mới noái ôn kêu chiếc xích lô chở về. Ôn noái ri, "khôn, ngồi lên tau sợ trúc ốt lậm!" Ôn sợ xích lô nhỏng thì đổ nhào cả mấy ôn cháu, thêm phần tiếc tiền nữa :rotfl: "

- Dạ Ôn, con nì, Ôn nói lớn lên lên một xí, con đang về Thừa Thiên thăm lại chiến trường năm nớ... Chừ đứng trên núi ở Phong Điền, trời mưa gió dễ sợ luôn ...
Úi chao ui ! Ôn sống khôn thác thiêng về mà nghe con bé Nghi hắn nói xấu Ôn tề ! Mấy mụ giọn mỏ mô con khôn thấy, thấy cái mỏ hắn còn giọn hơn con nữa á ! Mai con cõng hắn đi ăn chè ba màu, quán cô Thương Ở đường Trần Hưng Đạo ,sẵn dịp đem trả lại hai cái bông mai vàng 18 , chừ tan chinh chiến rồi, con về làm ruộng bên Phú Cam... Dạ , dạ... Mụ Rớt nghĩ bán bún bò rùi, Mụ đang đi đầu thai ở Nhà Nam Ôn ạ, Ôn có buồn khôn? Hay để con mua Mè Xửng cho Ôn nhai đỡ bùn hí ? Ôn không răng mô hả ? Dạ...dạ.. Con chừ cũng tra trốt rùi ....con cho Ôn mượn hàm răng nghen ...Dạ Bye Ôn ... :flower:
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Tiếng Huế Xứ Tôi

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          
.. :focl: ... :flower: :flower:
          
Hình đại diện
Vịnh Nghi
Bài viết: 1224
Ngày tham gia: Thứ năm 14/05/15 20:59

Re: Tiếng Huế Xứ Tôi

Bài viết bởi Vịnh Nghi »

Dzuy Lynh đã viết:- Dạ Ôn, con nì, Ôn nói lớn lên lên một xí, con đang về Thừa Thiên thăm lại chiến trường năm nớ... Chừ đứng trên núi ở Phong Điền, trời mưa gió dễ sợ luôn ...
Úi chao ui ! Ôn sống khôn thác thiêng về mà nghe con bé Nghi hắn nói xấu Ôn tề ! Mấy mụ giọn mỏ mô con khôn thấy, thấy cái mỏ hắn còn giọn hơn con nữa á ! Mai con cõng hắn đi ăn chè ba màu, quán cô Thương Ở đường Trần Hưng Đạo ,sẵn dịp đem trả lại hai cái bông mai vàng 18 , chừ tan chinh chiến rồi, con về làm ruộng bên Phú Cam... Dạ , dạ... Mụ Rớt nghĩ bán bún bò rùi, Mụ đang đi đầu thai ở Nhà Nam Ôn ạ, Ôn có buồn khôn? Hay để con mua Mè Xửng cho Ôn nhai đỡ bùn hí ? Ôn không răng mô hả ? Dạ...dạ.. Con chừ cũng tra trốt rùi ....con cho Ôn mượn hàm răng nghen ...Dạ Bye Ôn ... :flower:


- Nghi! Chơ ôn nớ ôn noái lác lác chi rứa mi?

- (mỏ giọn tra trắn) Dạ, ôn Dzuy Lynh nớ xưa tê ăn lửa mấy chén chè O Thương mờ khôn răng trả, chừ ôn nhủ con qua bên nớ này O xiết đỡ mấy cái bông mai vàng trừ nợ dùm cho ôn. Con khôn ngu mô. O Thương chộ con, O đoài mấy chén chè đậu ngự con ăn chịu bữa tê thì biết làm răng. (mày mày tà áo)

- Khun hè.


:yes2: Túi ni e chộ Ôn
Carpe diem
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5388
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: Tiếng Huế Xứ Tôi

Bài viết bởi Bạch Vân »

Vịnh Nghi đã viết:
Dzuy Lynh đã viết:- Dạ Ôn, con nì, Ôn nói lớn lên lên một xí, con đang về Thừa Thiên thăm lại chiến trường năm nớ... Chừ đứng trên núi ở Phong Điền, trời mưa gió dễ sợ luôn ...
Úi chao ui ! Ôn sống khôn thác thiêng về mà nghe con bé Nghi hắn nói xấu Ôn tề ! Mấy mụ giọn mỏ mô con khôn thấy, thấy cái mỏ hắn còn giọn hơn con nữa á ! Mai con cõng hắn đi ăn chè ba màu, quán cô Thương Ở đường Trần Hưng Đạo ,sẵn dịp đem trả lại hai cái bông mai vàng 18 , chừ tan chinh chiến rồi, con về làm ruộng bên Phú Cam... Dạ , dạ... Mụ Rớt nghĩ bán bún bò rùi, Mụ đang đi đầu thai ở Nhà Nam Ôn ạ, Ôn có buồn khôn? Hay để con mua Mè Xửng cho Ôn nhai đỡ bùn hí ? Ôn không răng mô hả ? Dạ...dạ.. Con chừ cũng tra trốt rùi ....con cho Ôn mượn hàm răng nghen ...Dạ Bye Ôn ... :flower:


- Nghi! Chơ ôn nớ ôn noái lác lác chi rứa mi?

- (mỏ giọn tra trắn) Dạ, ôn Dzuy Lynh nớ xưa tê ăn lửa mấy chén chè O Thương mờ khôn răng trả, chừ ôn nhủ con qua bên nớ này O xiết đỡ mấy cái bông mai vàng trừ nợ dùm cho ôn. Con khôn ngu mô. O Thương chộ con, O đoài mấy chén chè đậu ngự con ăn chịu bữa tê thì biết làm răng. (mày mày tà áo)

- Khun hè.


:yes2: Túi ni e chộ Ôn
đọc đoan này của O Nghi thì chịu thua: : chộ, noái lác lác, khun hè ... :help:

TB: Rau muống mới được giá sống giải thích câu cuối cùng :" Tối nay ông Nội sẽ dzìa rờ cẳng A Gzành " :lol2:
Hình đại diện
Vịnh Nghi
Bài viết: 1224
Ngày tham gia: Thứ năm 14/05/15 20:59

Re: Tiếng Huế Xứ Tôi

Bài viết bởi Vịnh Nghi »

Bạch Vân đã viết:đọc đoan này của O Nghi thì chịu thua: : chộ, noái lác lác, khun hè ... :help:

TB: Rau muống mới được giá sống giải thích câu cuối cùng :" Tối nay ông Nội sẽ dzìa rờ cẳng A Gzành " :lol2:


Không thấy anh giá sống giải thích cho chị rau muống mấy chữ thắc mắc còn lại nên chừ Nghi noái luôn.

Noái lác lác = nói...thánh nói tướng, nói tào lao xí muội :mrgreen:
Khun hè = khôn(≠ dại), chớ hổng phoải khôn=không :peekaboo:
Carpe diem
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Tiếng Huế Xứ Tôi

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          

.. có giải thích chưa chắc người ta tin ..
("anh đâu có phải người Huế .. anh gạt em .. anh hay gạt em lắm .. vv ..")
:giggles:

          
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5388
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: Tiếng Huế Xứ Tôi

Bài viết bởi Bạch Vân »

Hoàng Vân đã viết:          

.. có giải thích chưa chắc người ta tin ..
("anh đâu có phải người Huế .. anh gạt em .. anh hay gạt em lắm .. vv ..")
:giggles:

          
Tại giá sống biết rau muống "khờ tợn" nên hay xí gạt :lol:
hahaha Nghi, ông HV ni cũng noái lác lác lắm không phải chỉ mình ôn nớ mô :rotfl:
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5388
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: Tiếng Huế Xứ Tôi

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           
    Giọng Huế đặc thù, tiếng Huế khó hiểu... (Phần 1)



    Giọng Huế đặc thù, tiếng Huế khó hiểu... nhưng cũng vì thế mà Huế có những cá tính riêng biệt không nơi nào có được. Huế lại càng mang tính cách lạ lùng, quyến rũ hơn lên .



    Nói đến Huế, người ta sẽ liên tưởng đến một thành phố xa xôi với những ngày hè nắng chang chang thiêu đốt thịt da; những ngày đông mưa dầm dề, trắng trời thối đất; mưa rã rời, dai dẳng với cái lạnh cắt da.Huế với điệu hò câu hát não nùng, buồn rười rượi, những khúc Nam Ai, Nam Bình, Hành Vân, Lưu Thủy, Tương Tư.. bềnh bồng trên sông nước khi chiều xuống, lúc đêm về.Huế với dòng Hương Giang ‘ngọc tan thành nước’; với đỉnh Ngự ngỡ ngàng mây trắng thông reo; với lăng tẩm đến đài âm thầm cổ kính, với hoàng cung ‘năm thức mây phong nếp áo chầu’; với áo tía lọng vàng; với lầu son, gác phượng...Huế với những món ăn thanh đạm, đậm đà mang nặng tình quê hương bát ngát...Huế thật quyến rũ, thật đặc biệt, và rất chi là Huế.Nhưng nổi bật và đặc thù hơn hết trong những thứ rất Huế, đó là: tiếng nói Huế.Tiếng nói Huế làm nhiều chàng trai tương tư,“ngớ ngẩn một trời thơ bay”và suốt đời chỉ mong đợi một phút giây nghe em nói:



    • Nghe em nói tự bao giờ,
      Bao giờ chừ vẫn ngẩn ngơ lạ kỳ
      Em ơi, giọng Huế có chi
      Mà trong hoa nắng thầm thì cơn mưa
      Nghe hoài nghe mãi chưa bưa,
      Anh thương, thương quá tiếng xưa vọng về
      .. .. .. .. .. .. .. .. .. ..
      Nhiều khi như lạ như quen
      Giữa mênh mông đọng giọt em ngọt ngào
      .. .. .. .. .. .. .. .. .. .. .
      Xanh trong như tiếng chim chuyền
      Nhìn em mái tóc che nghiêng mắt cười
      Suốt đời giây phút này thôi
      Lắng nghe em nói, một trời thơ bay
      (Một Trời Thơ Bay, Lê Nhược Thủy)


    Tiếng Huế nói ra rất lạ tai với những từ: chi, mô, răng, rứa, tê, chừ, ni, nớ, hỉ, hả...và giọng nói Huế cũng rất khó nghe, dễ gây bối rối ở những người bạn đồng hương Việt Nam từ các tỉnh thành khác. Có thể vì vậy mà chàng Lê Nhược Thủy này sinh ra ngớ ngẩn rồi tương tư cô nàng? Hay vì cô em quá đẹp đã hớp hồn chàng? Nhưng có lẽ Lê Nhược Thủy phải là một chàng trai Huế ‘chính hiệu con nai’ mới hiểu được nàng nói, rồi cảm thông, rồi say men tình...Nhà văn Thanh Nam, người bạn đời của nhà văn Túy Hồng đã nhận xét và phát biểu cảm nghĩ về tiếng Huế như sau:‘Người Huế nói chuyện với nhau bằng ‘ngoại ngữ Huế’. Người Nam, người Bắc chỉ đứng ở ngoài mà nghe, không làm sao chen vào được một câu’(Túy Hồng: Áo Rộng Khăn Vành, Tiếng Sông Hương, 1990)Mới nghe qua tưởng như chuyện khôi hài đùa cợt; nhưng qua kinh nghiệm thực tế, qua giao tiếp, ý kiến trên không phải là không có lý. Chúng ta thử đọc qua bài:

    • Rứa Răng (Ghi chú)

      Đời là rứa hay là răng rứa hí
      Rứa răng đời không một chút vui tươi.
      Thấy răng răng nên đôi lúc mỉm cười.
      Vì rứa rứa nên dường như muốn khóc
      Câm lặng rồi, rứa răng cứ mời mọc.
      Có nói nhiều răng rứa cũng như ri
      Mà răng răng, rứa rứa có ích chi
      Rứa răng, răng rứa hỡi người đà chán lắm
      Có nhiều lúc hỏi răng mà như rứa
      Đành trả lời như rứa chứ mần răng

      (Đời là thế, hay là sao thế nhỉ)
      (Thế sao đời không một chút vui tươi)
      (Thấy sao sao nên đôi lúc mỉm cười)
      (Vì thế đấy nên dường như muốn khóc)
      (Câm lặng rồi, thế sao cứ mời mọc)
      (Có nói nhiều, sao thế cũng thế thôi)
      (Mà sao sao, thế thế có ích chi)
      (Thế sao, sao thế... )
      (Có nhiều lúc hỏi sao mà như thế)
      (Đành trả lời như thế, chứ làm sao)
      Vô Danh ĐVP ‘chuyển ngữ’


    Nếu không phải là dân Huế thì khó lòng hiểu nổi bài thơ, hoặc câu chuyện giữa một đôi bạn trẻ người Huế:

    • Ghét tui không?
      Ghét mà cho ri!
      Cho chi mô?
      Ầu, răng rứa?
      Có chi mô nà.
      Ấy, làm răng chừ?
      Không răng mô!
      Răng răng?
      Răng thì rứa.


    Đối với những người khác xứ, câu đối đáp trên có vẻ bâng quơ, bí ẩn, không đâu vào đâu cả. Nhưng với dân Huế, họ có thể hiểu ngay là câu chuyện gay cấn giữa hai người trẻ tuổi với nhau, hứa hẹn nhiều sôi nổi.

    Người Huế khi nói chuyện với nhau dùng rất ít chữ, câu nói ngắn, gọn mà hàm súc ý. Với họ, việc diễn tả ý tưởng của mình bằng một vài chữ sơ sài là một chuyện quá dễ dàng, như chuyện cơm bữa. Người Huế nói ít mà hiểu nhiều. Người Huế dùng những từ đặc biệt rất Huế, của riêng Huế để nói chuyện với nhau. Những từ này kết hợp, móc nối khác nhau để trở nên dồi dào phong phú đủ để họ trao đổi các ý nghĩ riêng tư.

    Hai câu thơ:
    • Nghiêng nghiêng hoài chiếc nón
      Hỏi mãi cứ làm thinh


    Cho thấy rõ một nét đặc điểm của cô gái Huế.
    Túy Hồng, nhà văn nữ của Huế cũng đã nhận xét:

    ‘Giọng Huế không phải là giọng nói trước đám đông, mà chỉ có thể là giọng nói trong phòng khách.. .’

    • Ở đây dằng dặc những ngày mưa
      Bông sứ trầm tư lặng cổng chùa
      Có một dòng sông trôi chẳng nỡ
      Có người con gái: ‘Dạ, xin thưa.. .’
      (Nét Huế - Xuân Hoàng)


    ‘Giọng Huế khó nghe, tiếng Huế khó hiểu, có thể xem như một ‘ngoại ngữ’’
    (Võ Hương An, Tiếng Sông Hương, 1994, trang 86)

    Theo giáo sư Lê Văn Lân trong bài ‘Tiếng Huế Trong Nhóm Thổ Âm Miền Bắc Trung Việt’ (Nhớ Huế, số 9) thì tiếng Huế chỉ là một trong nhiều thổ âm đặc biệt của ta. Theo ông, có thể thổ ngơi thường quyết định sự khác biệt về thể chất, tính khí của các dân tộc. Chẳng hạn Lê Quý Đôn trong ‘Vân Đài Loại Ngữ’ đã trích dẫn một đoạn văn trong sách Hoài Nam Tử của Lưu An đời Hán: ‘Khí núi sinh nhiều con trai, khí đầm sinh nhiều con gái; khí nước sinh nhiều người câm, khí gió sinh nhiều người điếc. Khí rừng sinh nhiều người yếu ớt, khí cây sinh nhiều người còng, khí đá sinh nhiều người khỏe...’ và đặc biệt sách trên ghi: ‘Ở nơi nước trong thì tiếng nhỏ, ở nơi nước đục thì tiếng thô.’

    Thật ra ảnh hưởng của môi trường sinh thái trên các cá thể. Ngày nay khoa học cũng đã khám phá ra nhiều dữ kiện khả dĩ giải thích một phần nào, nhưng vẫn chưa hoàn toàn đúng hẳn.
    Còn tiếng nói thì người mình vẫn cho là do nước uống mà ra.

    Trong cuốn Đại Nam Nhất Thống Chí, khi nói về tỉnh Nam Định, vùng giáp biển Mộ Trạch, có đoạn: ‘Mộ Trạch có tập tục quê mùa, giọng nói ngọng nghịu. Người ta gọi là tiếng nói đường biển... Ở đây ít có kẻ sĩ danh tiếng và thành đạt. Ấy là do phong thổ mà nên vậy.’



    Một tài liệu viết về thổ âm xứ Huế lại cho rằng dòng sông Hương có ảnh hưởng đến giọng nói Huế. Và bởi vì dòng sông Hương chảy qua lòng thành phố Huế, nên người Huế rất sâu sắc, thâm trầm:

    • Con sông dùng dằng, con sông không chảy
      Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu
      (Tạm Biệt Huế, Thu Bồn)


    Linh mục Leopol Cadiere qua hai bài khảo cứu Phonetic: Dialec du Haut Annam và Dialec du Bas Annam đã nhận xét tiếng Huế là một trong những thổ âm miền bắc Trung Việt. Theo ông, căn cứ trên sự phân hoạch về dân cư và thổ âm Trung Việt, người ta chia ra ba địa khu: Thanh Nghệ Tĩnh - Bình Trị Thiên - Nam Ngãi Phú Khánh.

    Thổ âm Bình Trị Thiên đương nhiên phải bắt nguồn từ vùng Thanh Nghệ Tĩnh cùng dùng chung những từ Mô, Tê, Răng, Rứa... như trong bài hát dặm Nghệ Tĩnh
    Đi mô cũng nhớ về Hà Tịnh.

    hoặc:
    • Trời làm trộ (trận) mưa giông
      Trời làm hai trộ mưa giông
      Nước chảy băng đồng, băng hói, băng sông


    Bài thơ sau đây của một thầy đồ người Quảng Bình có những chữ thường gặp ở vùng quê Bình Trị Thiên:

    • Con Voi
      Con chi to nậy tắng hai thừng
      (to lớn, trắng hai sừng)
      Cấy mụi lòn thòn tọt dưới chưn
      (cái mũi long thong tuốt dưới chân)
      Một vạt da đen thui, thủi thụi (vạt = đám)
      Bốn đùi chưn cứng nững nừng nưng
      (Chưn = chân)

    Vấn đề kề cận địa lý càng có nhiều sự giống nhau hơn .

    Bài Hò Cuốn phát xuất từ miền núi Mai, sông Thạch Hãn cũng có nhiều từ thổ âm của Thừa Thiên:

    • Khoai to vồn thì tốt cộ (củ)
      Đậu ba lá cũng vừa um
      Gà mất mẹ thì lâu khun (khôn)
      Gái thiếu trai thì thậm khổ (rất khổ)
      (Mà) Trai thiếu gái cũng thậm khổ
      Trời sinh voi thì sinh cỏ
      Trời sinh giếng thì sinh mo
      Trời sinh sông thì trời sinh đò
      Trời sinh o thì sinh tui (o= cô, tui = tôi)
      O một mình thì không đặng
      Gió dưới biển (hắn) dồn vô
      Mây trên trời (hắn) cuốn lại.
      O với tui cùng cuốn lại.
      Tui với o cùng cuốn lại.


    Người Huế chịu ảnh hưởng thổ âm vùng Bình Trị Thiên, nhưng giọng Huế lại nhẹ nhàng thanh tao hơn; có lẽ do ảnh hưởng của dòng Hương Giang thơ mộng, dòng sông ‘ngọc tan thành nước’ chăng?

    • Dạ thưa xứ Huế bây giờ
      Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương
      (Bùi Giáng)


    Thường thường các thổ âm chỉ được nói ở các vùng quê, xa nơi thành phố. Kinh đô Huế là một trung tâm văn hóa quan trọng - nơi giao lưu của nhiều dòng văn hóa tư tưởng - như Hà Nội, Sài Gòn, nên việc dùng các thổ âm cũng dần dà mất đi.



    Bài thơ sau đây tuy không dùng nhiều thổ ngữ Huế, nhưng lại có giọng thơ đặc sệt Huế .

    • Trong gánh vương tư(tơ) những vật gì?
      Dây hồng lá đỏ đó chớ chi!
      Hãy còn bợ ngợ sương (mang, gánh) không nổi
      Sao lại lần đân (Lần khân, dây dưa) chẳng vất đi?
      San sẻ không nhờ cân tạo hóa
      Nặng nề thêm mãi khối tình si
      Hỏi ai là bạn thương mình đó
      Xin hãy xê vai rớt (chia sớt) chút ni!


    Một giả thuyết khác lại cho rằng người Việt trên bước đường Nam Tiến, tiếp xúc với Chiêm Thành, Chân Lạp, Cao Mên, Thái Lan... có thể theo nhu cầu, người dân xứ Huế đã sáng tạo cho mình và vay mượn của người để có những chữ ngắn gọn, giản dị dễ hiểu rất cần thiết để dùng trong khi giao tiếp với nhau trong cuộc sống hang ngày.

    Nhiều tiếng Huế đã xuất phát từ tiếng Chàm như: Tê (The), Rứa (Roh), Ấy (Ay), Ni (Ni). Giọng Huế khó nghe đối với đồng bào khác xứ phải chăng vì thanh âm do người Huế phát ra thuộc một âm vực khó nhận ra. Nhiều khi người ta còn chọc quê người Huế nói năng ‘trọ trẹ’ khó hiểu.

    Theo Võ Hương An, khi phát âm, người Bắc thiên về giọng thấp; người Nam đi giọng cao, còn người Huế thì giọng bình. Phải chăng cái đặc tính bình thanh này khiến cho nó trở nên khó nghe. Điều này xin nhường lại cho các nhà âm ngữ học.
    Theo tác giả trên, nếu miền Bắc và Nam có giọng nói dễ nghe hơn Huế, thì họ lại khó giả giọng các miền khác. Giọng Huế thuộc loại bình, trung tính, khó nhận với người ngoài; nhưng cũng nhờ đặc điểm này đã giúp người Huế có thể giả giọng nói mọi miền đất nước không mấy khó khăn.

    Người Huế phát âm không phân biệt dấu hỏi (?) dấu ngã ( ), không phân biệt có ‘g’ hay không ‘g’, ‘c’ với ‘t’ ở cuối chữ, và ‘oi’ với ‘oai’. Người Huế cũng không phân biệt ‘gi’ với ‘d’ và ‘nh’. Ví dụ: người già thành người nhà(Về điểm này, có lẽ tác giả Ngọc Lan đã nhầm ngược lại. Vì người Huế nói người ‘d’ hoặc ‘nh’ thành ‘di’. Ví dụ: cái ‘nhà’ thành cái ‘già’, con ‘dao’ thành con ‘giao’. LTS);‘nói’ thành ‘noái’.



    Sau chiến tranh, sau bao dâu bể, người dân Huế sống tha phương đều đổi giọng. Họ đổi giọng không phải vì mặc cảm giọng nói mình khó nghe, mà chỉ để đáp ứng với thực tế cuộc sống, thích nghi với hoàn cảnh.
    Nói như thế không có nghĩa là người Huế đã quên đi giọng nói của xứ mình. Khi ở trong gia đình hay thù tiếp bạn bè đồng hương ‘cơm hến, bún bò’ của mình, thì người Huế vẫn là ‘Huế chay’, ‘Huế rặc Huế’, Huế thứ thiệt 100%’. (Còn tiếp)

    Ngọc Lan

    Nguồn: http://fatasa1.blogspot.com.au

              
Trả lời

Quay về “ký ức thương yêu”