Khoa Học Phương Tây và Triết Học Phương Đông

Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Khoa Học Phương Tây và Triết Học Phương Đông – 9 - Đa Vũ Trụ – Đa Tâm

Bài viết bởi Hoàng Vân »

    • Khoa Học Phương Tây
                và Triết Học Phương Đông – 9



      Đa Vũ Trụ________
      – Đa Tâm

      _______________________________
      Kiều Tiến Dũng








      Sir Arthur Eddington là người đã đo độ lệch của ánh sáng khi nó đi qua sức hút trọng lực của mặt trời, từ đó đã kiểm chứng và xác nhận Thuyết Tương Đối Rộng của Albert Einstein. Chuyện kể rằng có lần có người hỏi là ông nghĩ sao về Thuyết Tương Đối, khi trên thế giới lúc ấy chỉ có 3 người hiểu lý thuyết này. Eddington giựt mình, hỏi lại:
      • “Ủa, ai là người thứ ba vậy?”


      Danh hề Charlie Chaplin, mà ta biết qua cái tên Charlot trong các phim câm của ông, cũng có lần đã nói với Einstein là:
      • “Người ta vỗ tay khen thưởng tôi bởi vì mọi người đều hiểu tôi muốn nói gì,
        nhưng khi người ta vỗ tay khen ông thì bởi vì không ai hiểu nỗi ông cả!”


      Nhưng đó chỉ là khi Thuyết Tương Đối mới ra đời, còn quá mới mẻ với những tư tưởng và kết luận táo bạo. Ngày nay Thuyết Tương Đối đã trở thành quen thuộc và “dễ hiểu” ngay cả với các sinh viên đại học.



      Nhưng với cơ lượng tử thì lại khác.

      Richard Feynman là một nhà vật lý được giải Nobel về Thuyết Trường Lượng Tử, với cái “chân không” đầy rẫy năng lượng và các cặp vật chất và phản vật chất như đã có nói qua trong một bài trước đây. (Cũng xin thú thật, vì chịu ảnh hưởng từ một cuốn sách của Richard Feynman, tôi đã chọn con đường vật lý cho chính mình ngay từ khi còn ở bậc trung học ở Việt Nam.) Feynman đã có lần tuyên bố:
      • “Ngày nay thì chúng ta đã hiểu rõ Thuyết Tương Đối, nhưng tôi có thể nói chắc rằng không một ai thấu hiểu cơ lượng tử.”
      Đấy là lời phát biểu năm 1965, nhưng vẫn đúng cho ngày hôm nay, ở đầu thế kỷ 21 này.

      Góp phần thêm vào sự khó hiểu của cơ lượng tử lại cũng không ai khác hơn là Albert Einstein với cái hiệu ứng EPR vào năm 1935 xuất phát từ học viện Princeton IAS, nơi ông đã làm việc cho đến cuối đời. Đến nỗi, Robert Oppenheimer, cha đẻ bom nguyên tử của Hoa Kỳ, đã phải thốt lên rằng:
      • “Princeton là một nhà thương điên, và Einstein là một người hoàn toàn khùng”
        — “Princeton is a madhouse and Einstein is completely cuckoo.”





      **

      • Tính bất định là bản chất của cơ lượng tử,
        không phải do sự thiếu sót trong khả năng đo lường của ta.
      Khi ta đo vị trí của một hạt electron, ta được một tọa độ nào đó; nhưng khi ta lập lại y hệt cái thí nghiệm này thì ta lại đo được một tọa độ khác, mặc dù ta có cẩn thận bao nhiêu đi nữa.

      Cái bất định lượng tử này cũng đã được lợi dụng trong việc tạo ra các con số hoàn toàn ngẫu nhiên, không thể tiên đoán được, thí dụ như trong việc xổ số lotto của chính phủ Anh quốc (UK National Lottery).
      • Xin mở ngoặc là việc xổ số bằng những trái banh như ta thường thấy trên TV thật ra có thể trên nguyên tắc tiên đoán được, nếu ta biết chính xác vị trí ban đầu của các trái banh và hình thể của lồng đựng banh. Mặt khác, các con số gọi là ngẫu nhiên (random numbers) từ máy tính computer thật ra chẳng hoàn toàn là ngẫu nhiên (random) vì chúng được tạo ra từ các công thức toán nên trước sau gì các con số đó cũng sẽ phải lập lại theo một thứ tự nhất định.

      Các con số hoàn toàn ngẫu nhiên trong việc đo lường lượng tử thật ra cũng có một cấu trúc nào đó. Thí dụ, trong 100 thí nghiệm thì ta có được 80 lần là hạt điện tử ở vị trí A, còn 10 lần khác thì thấy nó ở B, v.v. Từ đó ta có xác suất ở A là 80%, ở B là 10%, v.v. Nhưng sự ngẫu nhiên vẫn còn đó là vì trước khi thí nghiệm lần thứ 101 ta sẽ không biết là hạt điện tử nằm đâu chắc chắn, mà chỉ biết được cái xác suất mà thôi.

      Cái giá trị của cơ lượng tử là nó cho ta cái xác suất này qua cái gọi là hàm sóng (wavefunction). Hàm sóng lại là đáp số của phương trình sóng của Schrödinger.

      Câu hỏi được đặt ra là cái hàm sóng này có phải là một thực thể như sóng âm thanh, hay sóng điện từ không?

      • Nếu không thực thì tại sao nó lại có thể cho ta cái xác suất trong việc đo lường?

        Nhưng nếu nó là một thực thể hiện hữu
        • thì nó mang ý nghĩa gì khi ta có cái trạng thái hoàn toàn nghịch lý
          • giữa hạt và sóng của vật chất,
            giữa sống và chết của cô mèo Schrödinger?

        Cũng thế, nếu hàm sóng Schrödinger là có thực
        • thì làm cách nào nó có thể truyền đi nhanh hơn vận tốc ánh sáng trong hiệu ứng EPR, với sự quấn quít bất khả phân của vật chất?
          (Xin nhắc lại “quấn quít bất khả phân” là khi hai vật A và B vẫn chịu chung một số phận nào đó dù chỉ đã gặp nhau trong quá khứ, nhưng nay đã cách không gian và biệt thời gian.)




      **

      Để tránh những khó khăn này và để có được một thuyết hợp nhất, Niels Bohr cho rằng những câu hỏi trên đây là vô nghĩa. Và chúng ta chỉ nên nói tới những gì đo lường được mà thôi. Và vì ta không đo được các hàm sóng trực tiếp nên chúng không thể hiện hữu, nó chỉ là những công cụ tính toán trừu tượng trung gian để đi đến cái xác suất cho các kết quả đo lường sau cùng mà thôi.

      Xin nhấn mạnh là đây chỉ là một cách diễn dịch của Bohr cho cơ lượng tử, hoàn toàn độc lập với các phương trình toán của thuyết này. Cách diễn dịch này còn được gọi là lối diễn dịch Copenhagen (Copenhagen interpretation) — vì Copenhagen, thủ đô của Đan Mạch, là nơi Bohr xuất thân.

      Theo ông, việc đo lường là cốt lõi của vấn đề:
      • Chính sự đo lường đã tạo nên cái thực thể ngoài kia, qua sự tương tác giữa dụng cụ đo và vật được đo;
        những gì không thể đo được trực tiếp không phải là hiện thực!





      **

      Đo lường được coi là một sự tương tác, nhưng lại là một loại tương tác đặc biệt. Trong sự tương tác thường phải có sự trao đổi năng lượng giữa hai bên, từ đó dẫn đến các kết quả đo đạc. Nhưng cũng có các loại đo lường không cần trao đổi năng lượng, “không tương tác” nhưng cũng có thể dẫn đến những hệ quả quan trọng.

      Thí dụ như trong thí nghiệm một hạt photon ánh sáng đi qua hai khe hở, nếu ta đặt máy dò ánh sáng ngay sau khe số 1, và nếu máy dò nhận được một hạt ánh sáng thì dĩ nhiên ta biết là hạt ánh sáng đã đi qua khe số 1. Nhưng nếu ta biết là ánh sáng đã đi qua rồi (và tới được màn hình tuốt đàng kia) mà máy dò ở khe số 1 không báo hiệu gì cả, tức là không có sự tương tác giữa dụng cụ đo và hạt ánh sáng, thì ta vẫn có thể kết luận là nó đã phải đi qua khe số 2.

      Nhưng đấy lại là cái nhức đầu của cơ lượng tử. Nếu không có máy dò ánh sáng thì ta sẽ có hiện tượng giao thoa như cũng đã bàn tới tước đây. Nay nếu đặt máy dò sau khe số 1 thì ta lại mất đi hiện tượng giao thoa — dù khi ánh sáng đã có tương tác với máy dò khi đi qua khe số 1, hay khi ánh sáng đã đi qua khe số 2 mà không biết gì về máy dò đăt tại khe số 1! Cái nhức đầu là nó đã không đi qua khe số 1 mà tại sao lại biết được là có máy dò tại đây?

      Theo cơ lượng tử thì
      • giữa hai trường hợp có máy dò
        và không có máy dò
        thì chỉ có hàm sóng Schrödinger là khác biệt.
      Và chính là
      • nhờ vào cái tính sóng bao trùm của hàm sóng này
        mà ánh sáng biết được máy dò đang hiện diện ở khe số 1,
        mặc dù nó chỉ đi qua khe số 2 cách đó xa lắc xa lơ.


      Như thế thì tại sao Bohr có thể cho rằng hàm sóng không phải là một thực thể?
      Do đó, người ta đã đưa ra nhiều cách diễn dịch khác nhau cho cơ lượng tử, chấp nhận tính thực tại của hàm sóng, khác với trường phái Copenhagen của Niels Bohr.




      **

      Thí nghiệm vừa được mô tả đã được thực hiện thành công và cũng đã được đề nghị để dùng trong việc thử bom; coi trái bom nào là trái bị xì, không nổ được, và trái bom nào là bom tốt, mà không cần phải cho nó nổ hết những trái bom tốt.

      Trước hết, ta gắn một cơ chế vào các quả bom sao cho nếu trái bom đó là tốt thì nó sẽ tác động như một máy dò ánh sáng, và nổ tung khi nhận được một hạt ánh sáng. Còn nếu nó bị xì thì sẽ không dò được ánh sáng. Rồi bây giờ chỉ cần đem các trái bom lần lượt đặt ngay phía sau của khe hở số 1.

      Nếu đó là trái bom xì thì ta có hiện tượng giao thoa, vì cũng như đã không có máy dò ánh sáng nào cả. Vứt bỏ trái xì này đi và đem thay một trái bom khác vào vị trí đó. Nếu trái bom kế tiếp này lại là trái bom tốt thì có hai trường hợp có thể xảy ra. Một là ánh sáng đi qua khe số 1, làm nổ tung trái bom này – thế là ta mất tiêu một trái bom tốt. Hai là hạt ánh sáng đi qua khe số 2, không trực tiếp trao đổi năng lượng với trái bom nên không làm nó phát nổ. Nhưng ta biết đấy lại là trái bom tốt, vì nay ta đã không còn hiện tượng giao thoa nữa với sự hiện diện của khả năng dò ánh sáng của các trái bom tốt.

      Cứ tiếp tục như thế, kết quả là ta biết được 100% đâu là bom xì. Còn với bom tốt thì ta mất đi một nửa bị nổ tung trong lúc thử, nhưng vẫn còn lại một nửa bom tốt chưa bị nổ! Ngược lại, nếu ta thử bằng cách cho nổ trực tiếp thì mấy trái bom tốt nổ hết ráo trong lúc thử, không còn trái nào xót lại.

      Cơ lượng tử đã cho ta bom nguyên tử và nay lại cho ta cách thử bom!




      **

      Một trong những cách diễn dịch khác cho cơ lượng tử, với sự chấp nhận tính thực tại của hàm sóng, được gọi là cách “diễn dịch đa thế giới” (Many Worlds Interpretation) do Hugh Everett, cũng đã xuất thân từ Princeton, đề nghị vào năm 1957.

      Trong cách diễn dịch này, trong một lần đo nào đấy ta có được kết quả cô mèo Schrödinger còn sống trong thế giới này, thì ngay tức khắc có một thế giới mới khác được phân nhánh sinh ra, nhưng ở đấy ta sẽ có kết quả cô mèo Schrödinger đã chết! Do sự phân nhánh này ta có cả hai kết quả mặc dù trái nghịch nhưng lại ở những thế giới khác nhau. Đây là cách giữ gìn được cái thực thể của hàm sóng, không cho nó biến mất đi khi ta thực hiện sự đo lường, như đã xẩy ra trong lối giải thích của Niels Bohr.

      Nhưng các thế giới phân nhánh này lại không thể liên lạc được với nhau, tránh cho ta cái phi lý của sự kiện cô mèo sống nhăn, mà lại biết về cái chết của mình ở thế giới “bên kia!”

      Cứ thế, sau mỗi lần đo lường ta lại có các thế giới mới được phân nhánh sinh ra, mỗi thế giới có một kết quả có thể có của việc đo lường.
      • Đây là nguồn gốc của cái gọi là “đa vũ trụ” –multi-verse
        – thay vì chỉ có một vũ trụ duy nhất – uni-verse.


      Mới nghe qua tưởng chừng như chuyện đùa, nhưng cái “diễn dịch đa thế giới” này đã được một số người chấp nhận và
      • dùng để giải thích tính thực tại của hàm sóng,
        sự bất định biểu kiến trong việc đo lường,
        bao gồm luôn hiện tượng “quấn quít bất khả phân.”
        Nó cũng giúp loại bỏ cái cần thiết của sự hiện diện của một người quan sát từ bên ngoài.
      Điều này có sức thu hút hấp dẫn với các nhà vũ trụ học vì theo đó thì cái vũ trụ này không cần phải được quan sát mà vẫn hiện hữu. Đây là điều hoàn toàn trái ngược với cái lập luận của Niels Bohr là mặt trăng kia (hay vũ trụ này cũng thế) sẽ không thể gọi là hiện hữu nếu không có người quan sát từ bên ngoài.




      **

      “Diễn dịch đa thế giới” cũng có thể giúp giải quyết một luận lý logic phản bác lại việc đi ngược thời gian về quá khứ như trong các cuốn phim khoa học giả tưởng. Lý luận này cho rằng nếu người con của tôi trong tương lai có thể đi ngược về quá khứ, lúc tôi còn chưa có con, và nếu cô ta lỡ tay giết chết tôi, thì làm sao cô ta có thể hiện hữu trong tương lai để mà có thể đi ngược lại quá khứ?

      Vậy thì cô ta chỉ có thể đi ngược lại quá khứ nhưng không thể làm thay đổi được cái dĩ vãng của mình. Như thế thì có khác chi lúc ta ngồi trước màn hình coi lại một cuộn phim chứa đầy kỷ niệm dĩ vãng, và rồi đành bất lực với những gì đã xẩy ra.

      Hoặc là cô ấy chỉ có thể đi về quá khứ của một nhánh vũ trụ trong thuyết đa thế giới, đa vũ trụ, khác với cái vũ trụ cô ấy khởi hành. Và rồi có chuyện gì xảy ra đi nữa thì chỉ có cái tương lai trong cái nhánh vũ trụ đó bị ảnh hưởng mà thôi. Do đó sẽ không đưa tới những sự việc phi lý trong cái vũ trụ đầu tiên mà từ đó cô đã khởi hành.




      **

      Cái diễn dịch đa thế giới này có vẽ quá xa xỉ và phung phí; cứ mỗi lần đo lường là nhiều nhánh vũ trụ mới lại đươc sinh ra! Và năng lượng cũng lại không được bảo toàn với sự phân nhánh liên tục này.

      Năm 1988 hai nhà vật lý David Albert và Barry Loewer đã đề nghị thay cái “đa thế giới” này bằng cái “đa tâm.” Trong “diễn dịch đa tâm” (Multi Minds Interpretation) mới mẻ này thì mỗi lần đo lường là mỗi lần cái tâm của người quan sát (chứ không phải là cái thế giới vật chất này) lại bị phân nhánh thành nhiều cái tâm, mỗi cái tâm tương ứng với một kết quả có thể có của việc đo lường. Chính mỗi một cái tâm đó đã tạo cho ta cái ảo tưởng là ta đang sống trong một vũ trụ duy nhất. Cốt lõi là mỗi cái vũ trụ cách biệt ngoài kia là do một cái tâm nào đó tạo ra! Cái ngoài kia được thay thế bằng cái trong đây — “thiên tại nội, nhân tại ngoại.”




      **

      Thế thì, cái thế giới ta đang sống ngay lúc này
      • là “hiện thực” trong ngoặc kép,
        hay chỉ là vọng tâm, một ảo vọng của cái tâm bị chia nhánh trong lượt đo lường lần cuối cùng?

      Đâu là thực đâu là hư?

      Thế thì, cái thế giới ta đang sống ngay lúc này có khác chi cái giấc mộng hóa bướm Mộng Hồ Điệp của Trang Tử ngày xưa?
      • “Bước vào mộng Châu biến thành Bướm, Bước ra khỏi mộng Bướm biến thành Châu. Như vậy Bướm là Châu? Hay Châu là Bướm? Đâu là thực đâu là hư? Từ thực biến thành hư, từ hư biến thành thực. Từ Châu biến thành Bướm, từ Bướm biến thành Châu. Trong hư có thực trong thực có hư, Trong âm có dương, trong dương có âm. Đây gọi là sự biến hóa giữa vạn vật. Đó chính là cái Đạo của Lão Tử, Trang Tử.”
        (Quên Đi)








      Kiều Tiến Dũng
      Melbourne, Úc Châu, Tháng 8, 2013



                
    Last edited by Hoàng Vân on Thứ bảy 11/03/17 21:03, edited 2 time in total.
    Hình đại diện
    Hoàng Vân
    Bài viết: 20010
    Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
    Gender:

    Re: Khoa Học Phương Tây và Triết Học Phương Đông – 10 - Thực Thể và Vô Tự Tính

    Bài viết bởi Hoàng Vân »

      • Khoa Học Phương Tây
                  và Triết Học Phương Đông – 10



        Thực Thể
        và Vô Tự Tính

        _______________________________
        Kiều Tiến Dũng








        Cuốn phim mang tựa đề “Sliding Doors” (Những Cánh Cửa Kéo) ra đời vào năm 1998, kể về hai cuộc đời của một cô gái tên là Helen. Vâng, hai cuộc đời hoàn toàn khác biệt xảy ra cùng một lúc, nhưng lại là hai cuộc đời trong hai vũ trụ song hành.

        Helen vừa mới bị đuổi việc và được cho ra về sớm. Trên đường về nhà, cô vừa kịp đến cửa xe điện ngầm thì hai cánh cửa đang từ từ kéo khép lại. Chỉ cái tíc tắc đó đã phân hóa cuộc đời của Helen ra làm hai: Một cuộc đời trong đó cô đã nhảy kịp lên xe trước khi cửa khép kín, và một cuộc đời khác khi cô đã lỡ chuyến tàu.

        • Trong cái vũ trụ cô lên kịp tàu, Helen đã gặp một người đàn ông tên là James bắt chuyện suốt cuộc hành trình. Nhưng chỉ vì được về nhà sớm hơn mọi bữa nên cô đã bắt gặp một sự thật phũ phàng, làm cho đời cô càng thêm xáo trộn. Để dành sự bất ngờ cho những độc giả sẽ tìm xem phim này, tôi chỉ xin tiết lộ là cuối cùng khi James thổ lộ là đã yêu cô thì ngay sau đó, trong lúc trái tim đang tràn ngập với những xúc cảm yêu đương, cô đã bất cẩn để bị xe đụng trong lúc vội vã băng qua đường. Và Helen đã chết trên tay người yêu.

          Trong cái vũ trụ khác nơi cô đã lỡ chuyến tàu, cuộc đời Helen cũng đã phải trải qua bao sóng gió. Nhưng trong một giấc ngủ, cô cũng đã mơ thấy loáng thoáng cuộc đời của chính mình trong cái vũ trụ song hành kia, nơi cô đã bắt kịp chuyến tàu và chết trong một tai nạn xe cộ. Nhưng cũng ở đoạn kết trong cái vũ trụ này, Helen lại tình cờ gặp James lần đầu tiên, y hệt như trong đoạn đầu của cái vũ trụ cô đã lên được tàu điện. Đạo diễn đã kết thúc cuốn phim nơi đây, để dành cho người xem tự suy đoán là Helen và James rồi sẽ đi về đâu ở cái thế giới này.


        Nhắc lại câu chuyện phim thú vị này nơi đây là vì tôi muốn qua đấy nói lên các vấn đề:
        • về sự ngẫu nhiên/bất định,
        • về các vũ trụ song hành,
        • về
          • định mệnh
            và quyền tự quyết
          dưới cái nhìn của vật lý hiện đại.





        **

        Theo “diễn dịch đa vũ trụ” hay “đa tâm” được đề ra trong khuôn khổ của cơ lượng tử, ngay sau mỗi lần đo đạc thì nhiều thế giới được nảy sinh ra, mỗi một thế giới tương ứng với một kết quả có thể có được của việc đo lường. Đấy đã được tiểu thuyết hóa qua hai cái vũ trụ song hành của Helen, một vũ trụ khi cô đã lên được tàu và một vũ trụ khác khi cô đã lỡ chuyến tàu – với những diễn tiến hoàn toàn khác biệt trong hai cái tương lai khởi nguồn từ hai sự việc/kết quả tưởng chừng như vô thưởng vô phạt này.

        Những vũ trụ này
        • có thể là những “hiện thực” – trong ngoặc kép – của thế giới vật chất (như theo thuyết “đa vũ trụ”)
          hay có thể chỉ là những “hiện thực” trong tâm tưởng của người quan sát (như theo thuyết “đa tâm”).





        **

        Vào năm 1964, một nhà vật lý người Ái Nhĩ Lan tên là John Bell đã công bố một định lý toán học, về sau được gọi là Bell’s Theorem (Định lý của Bell). Về mặt toán học thì đây là một định lý có vẻ đơn giản, không cần dùng các phương pháp toán cao cấp để chứng minh. Nhưng về ảnh hưởng trên khoa học thì Định Lý Bell được coi là quan trọng nhất trong lịch sử khoa học từ xưa đến nay. Động lực đã khai sinh định lý này chính là cái “quấn quít bất khả phân” trong hiệu ứng EPR của cơ lượng tử.

        Một mai này, thuyết lượng tử nói riêng và lý thuyết khoa học nói chung có thể sẽ bị loại bỏ khi chúng không phù hợp với thế giới thực nghiệm nữa. Nhưng cái hay của một định lý toán học là nó luôn có giá trị trường tồn trong khuôn khổ luận lý. Như mọi định lý toán học khác, Bell đã bắt đầu từ giả thuyết A để đi đến kết luận B. Cái kết luận B này của Bell lại có thể được kiểm chứng hay bác bỏ qua thực nghiệm.

        Các thí nghiệm vật lý lượng tử sau đó đã đưa đến kết luận là kết luận B là “sai”, là bị bác bỏ bởi hiệu ứng “quấn quít bất khả phân”, là không phù hợp với thế giới vật chất lượng tử của chúng ta.

        Nhưng đấy không có nghĩa là định lý Bell là sai. Theo toán học, một khi A suy ra B thì có nghĩa là trong một thế giới nào đó (tuân thủ theo luận lý toán học) nếu có A thì ắt phải có B. Ngược lại, trong một thế giới nào đó nếu không thể có được B thì chỉ có nghĩa là giả thuyết A là sai. Và đó là giả thuyết gì trong định lý Bell? Giả thuyết A của Bell gồm có hai phần:
        • Một là cái thế giới vật chất này là tự nó tồn tại và có tự tính riêng;
          và hai là không có một tín hiệu nào có thể truyền đi một cách tức thời.


        Nói tóm lại, định lý Bell và sự thành công của thuyết lượng tử đã buộc ta phải đi đến cái kết luận
        • hoặc là cái thế giới vật chất của chúng ta không tự tồn tại, không có tự tính;
        • hoặc là mọi vật trong thế giới này có thể liên hệ tức khắc với nhau, bất kể không gian cách biệt.
        • Hoặc là cả hai điều này!


        Hay là cái thế giới này lại không tuân thủ theo luận lý toán học? Nhưng nếu vậy tại sao các phương trình cơ lượng tử lại được kiểm chứng chính xác?

        Chủ đích của Bell lúc đầu khi nghiên cứu vấn đề này là nhằm chứng minh cơ lượng tử vẫn còn thiếu sót, chưa phải là lý thuyết cơ bản sau cùng của vật chất. Nhưng một cách ngoan cố, cơ lượng tử vẫn tiếp tục đứng vững và đã cho ông và cho chúng ta từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác.




        **

        Nếu những điều trên đây là quá trừu tượng hay khó tin, thì cũng không phải chỉ có chúng ta là bị nhức đầu không thôi đâu. Đến ngay chính cha đẻ của phương trình sóng là Erwin Schrödinger cũng có lúc đã phải bực mình:
        • “Tôi không thích cơ lượng tử, và tôi hối hận là đã từng dính dáng tới nó”
          (“I do not like it, and I am sorry I ever had anything to do with it” ).


        Còn Einstein thì cũng chẳng hơn gì, ông có lần đã thú nhận trong bức thư cuối cùng gởi cho Max Born rằng:
        • “Điều mà tôi muốn nói chỉ như vầy: Trong hoàn cảnh hiện tại, cái nghề duy nhất mà tôi sẽ chọn lựa là một nghề nào đó mà cách kiếm sống không liên quan gì đến công chuyện tìm tòi về kiến thức!”
          (“What I wanted to say was just this: In the present circumstances, the only profession I would choose would be one where earning a living had nothing to do with the search for knowledge”).





        **

        Cơ lượng tử là một lý thuyết vật lý nghịch lý nhất. Không một cá nhân riêng lẻ, tỉnh táo nào mà lại có thể đương không đi tạo dựng ra cơ lượng tử. Và bình thường thì không một ai hiểu biết lại có thể đi tin vào cái thuyết nghịch lý này. Nhưng cuối cùng vật lý đã phải đi đến thuyết này, không phải vì nó hợp lý, mà chỉ là vì hằng hà vô số các thí nghiệm và quan sát đã dẫn chúng ta đến cái thuyết tất yếu, phải có này. Tất yếu là vì trong khoa học hiện nay, duy nhất chỉ có cơ lượng tử là có thể dự đoán được và đã được kiểm chứng chính xác tất cả các kết quả thực nghiệm.

        Nhưng cơ lượng tử càng ngày lại càng kỳ bí. Một thuyết khoa học bắt nguồn từ hiện tượng hay bản thể của vật chất nay lại đi bàn về cái tâm! Chính Einstein thời sinh tiền đã thấy được điều này nên đã cho rằng:
        • “Nếu cơ lượng tử là đúng, thì nó đánh dấu cho sự cáo chung của vật lý như là một bộ môn khoa học”
          (“If [quantum theory] is correct, it signifies the end of physics as a science”.)





        **

        Thật vậy, cái lối “diễn giải đa tâm” của cơ lượng tử lại rất gần gũi với cái vũ trụ quan “vạn pháp do tâm tạo” – trong ngoặc kép – của Phật giáo.

        • Theo Nguyễn Tường Bách, thì Kinh Lăng Nghiêm của Phật giáo nói về một thể tạm mệnh danh là “Chân Tâm”.
          • Chân Tâm là phi hình tướng, phi tính chất, không thể nghĩ tới, bàn tới. Nhưng Chân Tâm lại có thể nhận thức ngay chính mình.

            Xuất phát từ Chân Tâm đó, nếu bỗng có “vọng tâm” nổi lên, thì đó là lúc Chân Tâm sẽ quay qua tự nhận thức chính mình và thấy
            • có một thể bị nhận thức (tướng phần)
              và một thể nhận thức (kiến phần).
            Tức là, với vọng tâm, xuất hiện một lúc hai thể tính:
            • người quan sát
              và vật bị quan sát.

            “Vọng tâm” được Kinh Lăng Nghiêm so sánh với giấc mộng, trong đó có người có ta, có cảnh vật, có diễn biến thông không gian và thời gian. Nếu tỉnh dậy thì tất cả cảnh vật trong mơ cũng không còn.
            • “Nếu vọng tâm sinh khởi thì các pháp đều sinh khởi,
              vọng tâm diệt đi thì các pháp đều diệt”.

                    
        • Theo Phật giáo, cái thế giới vật chất mà ta đang cảm nhận thật ra được hình thành và duy trì dựa trên vọng tưởng của tâm –
          • vật chất không có một tự tính riêng biệt (pháp vô ngã),
            mà chỉ tồn tại trên cơ sở tương quan đối với người quan sát.
          Đây không có nghĩa là cái tảng đá đằng kia chỉ có trong sự tưởng tượng của ta và luôn đè nặng lên cái tâm tưởng của ta. Nhưng chính là
          • do tâm thức của ta mà vật chất mang một “tính chất” nào đó,
            “hiện hữu” dưới một dạng nào đó,
          như trong thí dụ hạt và sóng.

          Mỗi thế giới như thế tuy chỉ có giá trị đối với mỗi cá thể riêng lẻ, nhưng chúng cũng lại có thể hòa vào nhau, tưởng chừng như thể của chung của nhiều cá thể. Lúc ấy, dường như toàn xã hội, toàn loài người đều có chung một thế giới. Đó được giải thích là vì “cộng nghiệp”, tức là cái nghiệp chung của nhiều cá thể làm cho những cá thể đó thấy chung một thế giới – như thể chỉ có một thế giới duy nhất. Do đó khái niệm cộng nghiệp là hết sức quan trọng để giải thích thế giới hiện tượng “chung” của cái thế giới “riêng” của chúng ta.
                    
                    
        • Điều này còn dẫn đến một triết lý sâu xa hơn nữa, đó là “pháp vô ngã” và “nhân vô ngã”.
          • Pháp vô ngã thì cho rằng không có sự vật nào tồn tại với tự tính riêng của nó cả, tất cả đều chỉ là sự biến hiện làm ta thấy “có” khi đủ điều kiện (nhân duyên sinh) để cho sự vật trình hiện trước mắt ta.
            Nhân vô ngã lại cho rằng con người mà ta tưởng là có một cái “Tôi” đứng đằng sau, thật sự chỉ là sự vận hành vô chủ của ngũ uẩn.
          Triết lý nhân vô ngã và pháp vô ngã cho thấy mặc dù thế giới hiện tượng và thế giới tâm lý vận hành liên tục nhưng đó chỉ là sự vận động nội tại của nó, và không một ai làm chủ chúng cả. Sự vận động đó chủ yếu xuất phát do động cơ tâm lý được gọi là “nghiệp” hay “nghiệp lực”. Nghiệp lực (bao gồm “biệt nghiệp” của cá thể và “cộng nghiệp” của toàn thể) chính là tác nhân làm thế giới vật chất được duy trì, làm cho vũ trụ được sinh ra và phát triển.





        **

        Tóm lại, cái nhìn của nhà Phật là thế giới vật chất chỉ là dạng xuất hiện của tâm, là sự trình hiện của tâm trước mắt người quan sát, mà người quan sát cũng là tâm nốt.
        • Vì có người quan sát nên có vật được quan sát.
          Ngược lại, vật được quan sát không thể tồn tại được nếu không có người quan sát.


        Điều này có thể giải đáp một câu hỏi quan trọng của vật lý là,
        • nếu thực tại bên ngoài là độc lập với ý thức thì tại sao con người có thể nắm bắt được thực tại,
          và tại sao thực tại lại tuân thủ theo những công thức toán học của con người.


        Vì vật chất chỉ là dạng xuất hiện của tâm, không có tự tính riêng, chỉ tùy “duyên khởi” mà trình hiện nên Phật giáo không thấy có mâu thuẫn giữa hai dạng sóng-hạt của vật chất. Cả sóng lẫn hạt đều xuất hiện khi đầy đủ nhân duyên hội tụ thì chúng xuất hiện. Trong vật lý,
        • cái “duyên khởi”
          chính là cách đặt câu hỏi của người quan sát và cách xếp đặt thiết bị đo lường.
        Sự nghịch lý sóng-hạt chỉ có khi ta cho rằng vật chất tự nó phải có một tự tính riêng.

        Tương tự, mọi nghịch lý trong hiệu ứng EPR, quấn quít bất khả phân, cũng có thể giải đáp được bằng vũ trụ quan này của Phật giáo – cũng như cách giải thích qua “diễn dịch đa thế giới” hay “đa tâm” của vật lý lượng tử.




        **

        Mỗi thế giới trong muôn vàn thế giới này của “đa thế giới” cũng có thể được so sánh như một giấc mơ sinh ra từ cái tâm của ta. Trong giấc mơ đó mọi sự đều hài hòa, không tự mâu thuẫn, và vận hành theo những quy luật nhân quả.

        Như trong Hồ Điệp Mộng khi Trang Châu nằm mộng thấy mình hóa bướm vui vẻ bay lượn, mà không biết mình là Châu nữa. Rồi bỗng tỉnh dậy, ngạc nhiên thấy mình là Châu. Không biết phải mình là Châu nằm mộng thấy hóa bướm hay là bướm nằm mộng thấy hóa Châu. Trang Châu với bướm tất có phải là khác nhau không?

        Hay cũng như khi cô Helen ở vũ trụ này mà lại nằm mơ về cái vũ trụ nơi cô đã bước lên được chuyến tàu kia. Với cô thì cái vũ trụ nào thật hơn cái vũ trụ nào?




        **

        Nhân vật tên là Prospero trong kịch bản The Tempest (Cơn Bão) của Shakespeare, trong một cuộc vui để mừng đám cưới con gái mình, đã giải thích cho hai trẻ rằng:

        • “These our actors,
          As I foretold you, were all spirits and
          Are melted into air, into thin air:
          And, like the baseless fabric of this vision,
          The cloud-capp’d towers, the gorgeous palaces,
          The solemn temples, the great globe itself,
          Ye all which it inherit, shall dissolve
          And, like this insubstantial pageant faded,
          Leave not a rack behind. We are such stuff
          As dreams are made on, and our little life
          Is rounded with a sleep.”


          Những kịch sĩ này,
          Như cha đã nói trước với con, đều là những bóng ma và
          Sẽ tan chảy vào không khí, vào hư vô:
          Và, cũng như cái cấu trúc không nền tảng của cái ảo tưởng này,
          Những ngọn tháp cao thấu mây, những hoàng cung tráng lệ,
          Những đền thờ trang nghiêm, và ngay cả trái đất này,
          Tất cả những gì nó thừa hưởng, sẽ tan biến
          Và, cũng như đoàn diễn hành thưa thớt dần dần mờ nhạt
          Không để lại dấu tích gì. Chúng ta là những thứ
          Tạo nên những giấc mơ, và cuộc đời nhỏ bé của chúng ta
          Nằm gọn trong một giấc ngủ.


        Có lẽ Shakespeare muốn nói rằng khi ta chết đi cũng là lúc ta rời cuộc sống mộng mị này để tỉnh dậy trong thực tại. Hay rồi, chỉ để tỉnh dậy lại trong một giấc mộng khác – chẳng thực hơn, chẳng hư hơn giấc mộng này?




        **

        • “Một mai qua cơn mê
          Xa cuộc đời bềnh bồng
          Tôi lại về bên em.

          Ta sẽ thăm từng người
          Sẽ đi thăm từng đường
          Sẽ vô thăm từng nhà.

          Tình người sau cơn mê vẫn xanh
          Dù bao tháng năm đau thương dập vùi

          Rồi đây qua cơn mê
          Sông cạn lại thành dòng
          Xuôi về ngọn quê hương.”

          (Trịnh Lâm Ngân – Qua cơn mê )





        **

        Đo lường là nền tảng cốt lõi của cơ lượng tử, trong đó kết quả của đo lường lại là ngẫu nhiên và bất định trong mỗi lần đo đạc – như sự ngẫu nhiên trong việc Helen đã hay không đã bước lên được chuyến tàu trước khi đôi cánh cửa kéo kín.

        Nhưng chính cái ngẫu nhiên đó (xuất phát từ cơ lượng tử hay từ đâu đi nữa) đã cho sự sống cái cơ hội được hình thành. Vũ trụ vào lúc sơ lập, chính cái giao động ngẫu nhiên trong “nồi súp” khởi thủy đã phá vỡ sự cân bằng hóa học, tạo cơ hội cho các chất hữu cơ được hình thành từ các chất vô cơ trong nồi súp đó. Các chất hữu cơ này bao gồm luôn cả các amino acids là nền tảng của các proteins. Rồi kế đó là sự hình thành của những tế bào có thể tự sinh sản, mặc dù chúng chưa hẳn là sự sống. Và sau cùng là sự xuất hiện của sự sống từ những tế bào đơn sơ này.

        Và khi sự sống đã được hình thành thì sự phát triển đa dạng của sự sống theo thuyết tiến hóa của Charles Darwin lại cũng phải nhờ vào yếu tố ngẫu nhiên. Các thế hệ về sau của sinh vật sẽ có những thay đổi trong các di truyền tử (genes). Sự khác biệt này một phần là do sự kết hợp từ các di truyền tử khác nhau của bố và mẹ, một phần khác là do những biến động ngẫu nhiên, tình cờ gây ra những biến dạng của gene. Môi trường sống sẽ gạn lọc, chỉ những di truyền tử nào thích hợp thì sẽ tiếp nối trong các thế hệ sau, và dần dần loại bỏ những sự sống không thích hợp. Nhất là khi môi trường có những biến động lớn về khí hậu hay điều kiện sống, thì chỉ có những sinh vật nào thích ứng được mới có thể sống còn và phát triển.

        Nếu không có những sự thay đổi ngẫu nhiên, tình cờ trong các di truyền tử thì các thế hệ đi sau sẽ có cấu trúc tương tự như bố mẹ của mình và, do đó, sẽ không thích ứng và sống còn được với những biến đổi to tát của môi trường sống này. Đây là trường hợp diệt chủng của loài khủng long giống máu lạnh hàng triệu năm trước đây trên trái đất này, khi mặt trời đã bị bụi che kín trong một khoảng thời gian dài.




        **

        Nếu sự ngẫu nhiên, tình cờ là không thể thiếu được cho sự nảy sinh và tiến hóa của sự sống, thì nó có vai trò gì trong cái khả năng tự do quyết định (free will) của chúng ta không?

        Theo vật lý cổ điển khởi nguồn từ Isaac Newton thì một khi các điều kiện ban đầu đã được xác định thì mọi tiến trình sau đó sẽ là cố định. Theo thuyết xác định (determinism) này thì mọi việc, nhỏ hay lớn, đều là do định mệnh định đoạt cả:

        • “Nhất ẩm nhất trác mạc phi tiền định” – ăn một miếng, uống một hớp, không gì là không do quá khứ quyết định trước. Theo đó, con người chúng ta thật ra không có cái khả năng tự do quyết định gì cả.

          Cô Helen trong phim “Sliding Doors” dù ở trong cái thế giới nào đi nữa thì cũng đã gặp James, dù sớm hay muộn. Đấy có phải là định mệnh không tránh được của cô ấy hay không?


        Ngược lại, trong một thế giới mà cái gì cũng là ngẫu nhiên bất định thì không thể có định mệnh, vì không có gì có thể định trước được. Nhưng trong thế giới đó thì ta cũng lại không có luôn cả cái khả năng tự do quyết định. Quyết định làm sao được khi những biến cố kế tiếp sau đó lại hoàn toàn là bất định!



        **

        Cơ lượng tử lại nằm giữa hai thái cực này. Vì bản chất ngẫu nhiên trong sự đo đạc, cơ lượng tử không hẳn là một thuyết định mệnh, vì nó còn có chỗ trống cho sự ngẫu nhiên, bất định. Nhưng cái bất định lượng tử này lại bị giới hạn phần nào trước đó qua hàm sóng Schrödinger. Hơn thế nữa, cơ lượng tử cũng lại cho người quan sát cái tự do để chọn lựa tính chất nào, hạt hay sóng, trong việc tương tác với các đối thể bị đo lường.

        Với một cấu trúc như thế, cơ lượng tử
        • chỗ cho cái gọi là định mệnh qua hàm sóng,
          nhưng cũng lại thể dung chứa cái khả năng tự do quyết định trong khuôn khổ của hàm sóng định mệnh này.


        Nhưng đấy chỉ là điều mạn đàm, vì đi từ vật chất vi mô lượng tử đến thuyết định mệnh, đến cái tự do chọn lựa của con người là một bước quá dài. Có lẽ ta đã bước ra ngoài giới hạn của vật lý nói chung rồi.




        **

        Dịch học là một triết học bàn về đạo lý thịnh suy, lành dữ, hạnh và bất hạnh của cá nhân và xã hội, đất nước. Nhưng tinh thần của dịch học là “đức năng thắng số” chứ không hẳn con người là phải phục tùng số mệnh. Nghĩa là dù gặp phải cảnh ngộ khó khăn, gian khổ, nhưng nếu biết giữ đức hạnh, sống chính đáng thì dữ biến thành lành, hung biến thành cát:
        • “Tích thiện chi gia tất hữu dư khương, tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương”
          – nhà nào tích chứa nhiều điều thiện thì sẽ có thừa điều lành, nhà tích chứa nhiều điều ác thì sẽ gặp nhiều chuyện dữ.


        Gia đình như vậy, cá nhân cho tới xã hội, đất nước cũng đều như vậy. Trị nước mà tàn bạo, hà hiếp, bóc lột dân quá đáng thì trước sau gì dân cũng sẽ phải nổi dậy, phá bỏ gông xiềng.




        **

        Phật giáo, vì được xây dựng trên thuyết nhân quả, nên cho rằng định mệnh không nằm trong bàn tay quyết định của thần linh hay người nào khác, mà nó tuỳ thuộc ở ngay hành động và ý tưởng của chính người ấy, thường được gọi là nghiệp. Nghiệp được tạo
        • mỗi khi có dụng tâm,
          dù đó chỉ là ý nghĩ, lời nói hay hành động.


        Kinh “Tiểu Nghiệp Phân Biệt” có câu:
        • “Người là chủ nhân của nghiệp, cũng là thừa tự của nghiệp.”
        Nghiệp do chính mình tạo ra và nghiệp trở lại chi phối mình:
        • “Đã mang lấy nghiệp vào thân
          Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa”
          (Nguyễn Du – Kiều )

        Phật giáo khẳng định rằng định mệnh chỉ là hình bóng của nghiệp, và không hẳn là bất di bất dịch, không thay đổi được. Định mệnh có hay không là do ta. Nếu ta thụ động đổ thừa cho số mạng, hay ngồi đó chờ một phép lạ xảy ra thì lúc đó định mệnh là có thật, vì ta đã không tận dụng khả năng thay đổi cuộc sống của ta. Con người chúng ta lúc nào cũng có cái quyền, cái tự do chọn lựa, ít nhất là trong thái độ của ta đối với những biến cố trong đời sống.




        **

        Cái quan trọng không phải chỉ ở những gì đã và sẽ đến với ta, không phải là có hay không có định mệnh. Mà quan trọng cũng ở chỗ ta đã học được những gì trong quá khứ và sẽ phản ứng ra sao trong tương lai. Quan trọng là cái nhìn, cái suy nghĩ và phản ứng của ta. Hay nói cách khác, quan trọng là ở cái tâm của ta. Cái tâm của ta có thể không hoàn toàn đồng nghĩa với thế giới gọi là hiện thực ngoài kia, nhưng cái tâm này đã góp phần nào tạo nên cái thế giới đó. Chính cái tâm này ít nhất đã gán ép cho cái thế giới ngoài kia giá trị và ý nghĩa của nó.

        Trong muôn vàn điều ngẫu nhiên và bất định của cuộc sống, chính cái tâm của ta lại là chủ thể của sự chọn lựa trong một giới hạn nào đó.
        • Nếu như người làm thí nghiệm có sự lựa chọn
          • để đo tính hạt
            hay tính sóng
          của vật chất, mặc dù cuối cùng hạt đó nằm ở đâu lại là một sự hoàn toàn ngẫu nhiên,
        • thì ta cũng có thể chọn lựa để nhìn cuộc sống dưới nhãn quan nào,
          • như một ly nước vơi một nửa
            hay đầy một nửa,
          cho dù cái kết cuộc sau cùng có bất định ra sao đi nữa.





        **

        Ca nhạc sĩ Bob Dylan cũng đã từng hỏi:

        • “Yes, how many years can some people exist
          Before they’re allowed to be free?
          Yes, how many times can a man turn his head
          Pretending he just doesn’t see?”

          Vâng, một dân tộc phải tồn tại bao lâu
          Trước khi họ “được phép” tự do?
          Vâng, một người phải ngoảnh mặt đi bao lần
          Để giả vờ không trông thấy gì?


        Và:

        • “Yes, how many times must a man look up
          Before he can see the sky?
          Yes, how many ears must one man have
          Before he can hear people cry?”

          Vâng, con người phải ngẫng lên bao lần
          Thì mới có thể thấy được bầu trời kia?
          Vâng, một người phải có bao nhiêu tai
          Thì mới nghe được tiếng kêu gào của con người?

          “The answer my friend is blowin’ in the wind
          The answer is blowin’ in the wind.”

          Câu trả lời, bạn hỡi, đang bay trong gió
          Câu trả lời đang bay bay trong gió.





        **

        • Cho dù tương lai của bản thân mình ra sao, ta không thể không cố sức trong hiện tại.
        • Cho dù thất bại hay thành công, ta không thể không góp gió cùng với dân tộc.
        • Ta không thể giả điếc không nghe tiếng kêu gọi đánh thức lương tâm của tuổi trẻ, của người dân Việt Nam.
        • Ta không thể giả đui không thấy nguy cơ mất nước, khi giặc ngoại xâm đã xiết chặt từ bên ngoài, nghênh ngang ngay ở bên trong.


        Định mệnh của đất nước, của dân tộc Việt
        là ở

        sự chọn lựa ở mỗi cá nhân
        trong chúng ta.








        Kiều Tiến Dũng
        Melbourne, Úc Châu, Tháng 8, 2013



                  
      Hình đại diện
      Hoàng Vân
      Bài viết: 20010
      Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
      Gender:

      Khoa Học Phương Tây và Triết Học Phương Đông – 11 - Vòng Thời Gian

      Bài viết bởi Hoàng Vân »

        • Khoa Học Phương Tây
                    và Triết Học Phương Đông – 11



          Vòng Thời Gian

          _______________________________
          Kiều Tiến Dũng








          Ngay từ lúc sinh ra đời, tôi đã bị một chứng bệnh nan y, đến nỗi cả hai nhà thương Grall của Pháp và nhà thương Cơ Đốc của Mỹ ở Sài Gòn vào lúc bấy giờ đã từ chối chữa trị, khuyên bố mẹ tôi đem thằng bé sơ sinh về lo hậu sự. Nhưng tôi đã sống sót, nhờ tình cờ gặp được người mách bảo cho dùng thuốc Nam. Khi lớn lên, có lẽ nhờ câu chuyện ấy mà tôi lại càng thêm trân quý thời gian mình còn đang hiện hữu nơi cuộc sống này.

          Về sau tôi cũng đã suýt chết đôi ba lần. Một trong những lần ấy là khi vượt biên thất bại vào năm 1977. Vào khoảng 2 giờ sáng một đêm không trăng không sao, một mình tôi phải gắng sức bơi tìm đường vào bờ từ ngoài khơi Nha Trang. Quanh tôi chỉ là sóng nước mênh mông, không biết đâu là bờ bến. Hoảng hốt, tôi cứ loay hoay đứng nước mãi không biết phải làm gì. Thời gian như ngừng trôi. Cuối cùng, không thể chần chừ mãi vì đã bắt đầu kiệt sức, tôi đã phải chọn đại một hướng bơi, dù biết rằng mình có thể đang bơi mãi ra khơi để rồi phải chết đuối ở ngoài ấy.

          Ngụp lặn trong một biển nước mênh mông, đâu đâu cũng như nhau, không một cột mốc định hướng, không gian trở thành vô nghĩa. Thời gian cũng vậy, nó cũng sẽ không mang một ý nghĩa gì cả khi không có một biến động nào để đánh dấu cho sự đổi thay. Một khi tâm tưởng đã bị đông cứng lại trong sự sợ hãi, khái niệm thời gian cũng sẽ không còn nữa.

          Khái niệm thời gian có được là do những thay đổi của thế giới vật chất hay những biến động ngay chính trong tâm tưởng của ta.




          **

          Vật lý hiện đại định nghĩa một giây trong đơn vị của thời gian khách quan là khoảng thời gian của 9.192.631.770 lần giao động giữa hai mức năng lượng của nguyên tử cesium 133.

          Còn cái thời gian chủ quan thì khỏi nói.

          • “Mon âme a son secret, ma vie a son mystère. Un amour éternel en un moment conçu”
            – Lòng ta chôn một khối tình, Tình trong giây phút mà thành thiên thu
            (Khái Hưng dịch).

          Trong cái thời gian chủ quan, một đêm ân ái sẽ mãi là thiên thu:

          • “Ta có nhau đời tựa chiêm bao
            Có trong dạ khúc lời tiêu dao
            Mai sau trời có làm dâu biển
            Vẫn hát thiên thu khúc ngọt ngào

            Nhớ mãi đêm vàng như đêm qua
            Vầng trăng tình sử, gió khoan hòa
            Khắc trong tâm cảm thâm tình ấy
            Trăng ở lòng em, gió ở ta

            Hừng sáng chim muông thức gọi bầy
            Tay còn quấn quýt ở trong tay
            Níu nhau từng phút trong mê hoặc
            Rượu ở môi người, trời đất say”

            (Hà Huyền Chi)





          **

          Thời gian vẫn còn là một bí ẩn trong khoa học ngày nay, dù nó đã đi từ cái tuyệt đối, độc lập với không gian trong cơ học Newton đến cái tương đối, hòa lẫn với không gian trong thuyết của Einstein. Ngay cả trong cơ học lượng tử, thời gian vẫn là một ngoại thể xa lạ được áp đặt từ bên ngoài, không như một cấu trúc được tạo dựng từ bên trong như trường hợp của thuyết Tương Đối Rộng. Nhưng cho tới nay mọi cố gắng để thống nhất cơ lượng tử và thuyết Tương Đối Rộng trong lý thuyết Trọng Trường Lượng Tử (Quantum Gravity) đã đi từ thất bại này đến thất bại khác, chủ yếu là do ta không biết làm cách nào để giải quyết hay diễn dịch những số lượng vô hạn trong lý thuyết này. (Ở nơi đây, ta chưa vội bàn đến “thuyết sợi” [string theory]).

          Điều khó hiểu là những định luật vật lý ở mức cơ bản nhất, trừ một vài hiện tượng riêng lẻ, đều có thể đi ngược lại dòng thời gian – thời gian dường như có hai chiều. Thí dụ, một phân tử mực màu đen bắt đầu từ điểm A đi đến điểm B trong một ly nước, thì sau đó nó cũng có thể đi từ B ngược trở lại A — không có một định luật vật lý nào cấm cản điều đó cả. Nhưng khi ta nhỏ một giọt mực đen, gồm nhiều phân tử mực, vào ly nước trong thì dần dần các phân tử đó sẽ tỏa ra nhuộm màu cả ly nước. Và chưa bao giờ ta thấy từ một ly nước nhuộm màu, các phân tử bỗng dưng tụ lại thành giọt mực ban đầu, trả lại cho ta một ly nước trong vắt.

          Để giải thích những sự kiện như trên, vật lý đã cần tới khái niệm gọi là entropy, là một khái niệm áp dụng cho nhiều phần tử trong một hệ thống, như những phân tử mực trong giọt mực kia. Cái dòng chảy một chiều của thời gian – đi từ sanh, trụ, hoại, đến diệt – được giải thích qua một định luật là tổng lượng entropy của một hệ kín không thể giảm đi. Nó chỉ có thể tăng lên khi hệ đó bị lão hóa; hay cuối cùng là không thay đổi nữa ở cái quân bằng và cũng là ở cái chết sau cùng.

          (Xin mở ngoặc ở đây là ngày nay khái niệm entropy còn được dùng trong ngành tin học và việc mật mã hóa các tín hiệu). Định luật không giảm thiểu của entropy có thể giải thích nôm na như sau : Khi các phân tử mực tỏa đều trong ly nước thì entropy của nó lớn hơn là khi các phân tử này tụ lại trong một giọt mực ở một góc của ly nước. Mặt khác, nói về xác suất thì trạng thái mực hòa đều trong nước lại dễ xuất hiện hơn vì có nhiều cách để bố trí các phân tử mực khắp cùng ly nước, hơn là số cách để bố trí các phân tử này trong một giọt mực. Do đó entropy sẽ đi dần từ lượng nhỏ đến lượng cao, rồi đến mức nào đó thì không tăng được nữa.

          Cũng từ định luật entropy không thuyên giảm này đã nảy sinh ra nhiều tranh cãi là vũ trụ của chúng ta đang hiện hữu nơi đây, như một hệ kín, rồi cũng sẽ phải đi đến một cái chết sau cùng (gọi là heat death) hay không. Hy vọng sẽ có dịp trở lại vấn đề này trong đề tài về nguồn gốc và cấu trúc của vũ trụ trong một lần khác.




          **

          Các định luật cơ bản của từng phần tử riêng lẻ có thể đi ngược thời gian như thế thì có gì mâu thuẫn với cái định luật entropy không bao giờ giảm thiểu hay không, mặc dù entropy chỉ áp dụng cho hệ có rất nhiều phần tử?

          Henri Poincaré, nhà toán học người Pháp, đã chứng minh qua toán học được rằng là nếu ta kiên nhẫn chờ đợi thì các phân tử mực nhuốm đen ly nước sẽ có lúc tự tụ ngược trở lại vào giọt mực ban đầu! Định luật không giảm thiểu entropy do đó chỉ có thể trì hoãn, chứ không thể, theo các lý luận toán học, mãi mãi cản ngăn cái vòng trở lại của thời gian. Nhưng chu kỳ tuần hoàn Poincaré (Poincaré cycle) này lại rất dài; chỉ với một giọt mực nhỏ bé ta đã phải chờ một chu kỳ dài hơn cả cái tuổi của vũ trụ này!

          Dĩ nhiên, ngay cả ly nước cũng không thể tồn tại lâu dài đến thế để ta có thể chứng kiến việc hội tụ trở lại giọt mực ban đầu. Trừ phi, trừ phi thay vào giọt mực đó lại là tình yêu. Vì có người, nhất là những kẻ đang yêu, cho rằng tình yêu là thiên thu. Và nếu tình yêu tồn tại mãi thiên thu thì chàng sẽ có cơ hội trở lại cái:

          • “Phút đầu gặp em, tinh tú quay cuồng
            Lòng đang giá băng, bỗng ngập tràn bao tia nắng
            Nghe bao xót xa vụt bay theo cánh chim ngàn”
            (Tùng Giang)


          Nhưng không biết là chàng lúc ấy, sau một thiên thu dài đăng đẳng, còn muốn, hay còn dám, trở lại giây phút ban đầu “dại dột” ngày xưa ấy nữa chăng?




          **

          Chu kỳ Poincaré có thể đem so sánh với chuỗi ngày lập đi lập lại trong cuốn phim “Groundhog Day” ra đời vào năm 1993. Phim kể về một người đảm trách mục khí tượng tên là Phil trên một đài TV. Trong một dịp tường trình về ngày lễ mang tên Groundhog Day ở một ngôi làng xa xôi, thì vì một lý do nào đó Phil đã bị mắc kẹt vào một vòng thời gian, ngày hôm sau cũng bắt đầu lại cái ngày hôm trước đã sống qua. Như thế, một ngày là một chu kỳ Poincaré.

          Lúc đầu ông đã lợi dụng sự kiện này để sống hưởng thụ và làm bất cứ điều gì mà không sợ đến hậu quả, vì ngày mai ông lại có thể bắt đầu lại từ đầu của ngày hôm nay. Nhưng cứ thế dần dà cuộc sống, và cả thời gian nữa, trở nên không còn ý nghĩa. Sau cùng, Phil đã thay đổi cuộc sống và tìm ra được ý nghĩa cho nó. Và chỉ khi đó Phil mới phá vỡ được cái vòng thời gian ác nghiệt này.

          Nếu so sánh một cách xa xôi hơn, thì mỗi ngày lập đi lập lại của Phil có thể ví như một kiếp sống trong vòng tái sinh luân hồi. Và con người chỉ có thể thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn này khi ta nhận thức được nó và sống sao cho có ý nghĩa đích thực – ngay trong lúc này.

          Năm 2006, cuốn phim Groundhog Day đã được Cơ quan Lưu Ký Phim Ảnh Quốc Gia Hoa Kỳ (United States National Film Registry) chính thức công nhận là một cuốn phim đáng kể về văn hóa, lịch sử và có giá trị thẩm mỹ.




          **

          Cái vòng thời gian đã được ghi nhận từ ngàn xưa từ Đông sang Tây với sự tuần hoàn thể hiện đầy rẫy quanh ta: ngày nối ngày; thủy triều lúc dâng lúc rút; mùa cứ tiếp mùa; tinh tú cứ vần xoay rồi lại xoay vần. Ngay chính chúng ta cũng từ cát bụi mà ra, và cũng đến bụi cát mà về. Dường như mọi sự vật đều diễn biến theo một phương hướng nào đó, khi tới mức cùng tột không thể tiến triển được nữa thì lại chuyển biến mà quay trở lại theo chiều nghịch với phương hướng cũ. Cứ như thế mãi, không bao giờ thôi.

          Người Ai Cập cổ đã dùng hình ảnh gọi là Ouroboros của một con rắn ngậm cái đuôi của chính mình để nói lên các chu kỳ sinh-tử, đến-đi, tự sáng tạo rồi hủy hoại của vạn vật. Ouroboros còn nói lên hình tượng của những gì có từ khởi thủy và sẽ tồn tại mãi không bao giờ dập tắt được. Trong cái biến là cái bất biến.

          Những cái không thể dập tắt được cũng chính là cái nguyên động lực thúc đẩy sự biến chuyển của vũ trụ và được Kinh Dịch gọi là các nguyên tố âm và dương. Kinh Dịch, dù đấy là biến dịch, giao dịch hay bất dịch, đã nói lên sự đổi thay và những gì lại không bao giờ thay đổi sau những đổi thay đó. Mà nói đến thay đổi là phải nói đến thời gian.

          Do đó, nếu phải tóm gọn toàn bộ Kinh Dịch bằng một chữ thì đấy phải là chữ Thời. Thật vậy, 64 quẻ Dịch là 64 Thời, 384 hào cũng lại là 384 thời nhỏ nằm trong 64 thời lớn. Mỗi thời nhỏ ấy, của mỗi hào đi từ dưới lên trên trong mỗi quẻ, lại nằm trong những hoàn cảnh, tình huống tạo nên các thời thế, và thời cơ khác nhau của cá nhân và tập thể, đất nước và luôn cả thế giới loài người.

          Nói về chữ Thời thì tiếng Hy Lạp phân biệt rất rõ ràng hai nguyên tắc được gọi là Chronos và Kairos. Chronos nói về lượng thời gian ; trong khi đó Kairos lại chỉ về phẩm, tức là thời cơ – tốt hay xấu, đúng hay sai. Chữ Thời trong Kinh Dịch phải được hiểu theo cái ý nghĩa của thời cơ như cái khái niệm Kairos này.

          Theo cái nhìn của dịch học thì vì có âm dương tương sinh, tương diệt, tương xung, tương khắc, lưỡng phân, lưỡng hợp mà vạn thể mới có thể chuyển vận. Cũng vì chỉ có cái nhị thể âm dương song hành này, và không thể chỉ có độc dương hay cô âm, mà mọi vật đều động chuyển; và một khi đã đi đến mức cùng cực thì chỉ có một đường là quay trở lại mà thôi. Đấy là một định luật bất biến: Cực thịnh tắc suy, vật cùng tắc biến, mà biến là phản phục. Nhờ luật phản phục này mà sự vật trong vũ trụ không bị tắc, bị cùng, mới thông được, mới sinh hóa hoài hoài được.

          Thời phản của dương là thời phục của âm, thời phục của dương là thời phản của âm. Cứ một lần phản, một lần phục, phục rồi lại phản, như vậy thành luật tuần hòan.

          • “Vô bình bất pha, vô vãng bất phục”
            – Không có gì bằng mãi mà không nghiêng, đi mãi mà không trở lại.

            “Phản phục kì đạo, thất nhật lai phục”
            – Vận trời tráo đi trở lại, cứ bảy ngày thì trở lại.
            Chữ ngày (nhật) ở đây thay cho chữ hào, mỗi ngày là một hào, một lần biến; cứ bảy ngày thì trở lại vì mỗi quẻ có 6 hào.
            Có lẽ do câu này mà y học Trung Hoa cho rằng khí huyết người ta bảy ngày thì thay đổi.
            Về khí tiết trong một năm thì là bảy tháng, từ tháng năm tới tháng mười một âm lịch ở Bắc bán cầu, là có sự đổi thay.

          Từ sự vận hành của mặt trời mặt trăng:
          • “Nhật trung tắc trắc, nguyệt doanh tắc thực”
            – Mặt trời tới đỉnh đầu rồi thì xế, mặt trăng đầy rồi thì khuyết,

          Kinh Dịch cũng đã kết luận:
          • “Chung tắc hữu thủy, thiên hành dã”
            – Hết rồi thì bắt đầu lại, đó là sự vận hành của trời.


          Bắt đầu từ quẻ thuần dương có 6 vạch hào dương là quẻ Càn, thì khi suy hóa đến cùng sẽ biến thành quẻ thuần âm với sáu vạch hào âm đứt đoạn được gọi quẻ Khôn.
          Nhưng tiếp theo quẻ Khôn là quẻ Phục, một hào dương lại sinh.
          Khôn là âm cực thịnh, từ đó lại suy lần, khi suy hóa tới cùng, 6 hào âm bị 6 hào dương chiếm ngôi hết thì lại trở thành quẻ Càn.
          Rồi tiếp theo quẻ Càn là quẻ Cấu, một hào âm lại sinh, v.v.

          Hình ảnh
          Càn
          Hình ảnh
          Cấu
          Hình ảnh
          Khôn
          Hình ảnh
          Phục


          Trong kinh Dịch, luật phản phục được tượng trưng bằng quẻ Phục. Quẻ này gồm năm hào âm ở trên và một hào dương ở dưới. Khi khí âm đã phát đến cực điểm (sáu hào cùng là âm cả, tức tháng 10 âm lịch là lúc lạnh nhất) thì một hào dương xuất hiện ở dưới, nghĩa là khí dương bắt đầu sinh trở lại. Do đó mà quẻ có tên là Phục (trở lại), biểu hiện cho tháng 11 âm lịch, ngày đông chí (tức là ngày ngắn nhất trong năm ở Bắc bán cầu, cũng là lúc mà mặt trời xuống tới điểm thấp nhất về phía nam trên bầu trời để sau đó bắt đầu quay trở lại phía bắc).

          Vì vậy
          • “Phục kì kiến thiên địa chi tâm”
            – Xét quẻ Phục mà biết được lòng hiếu sinh của trời đất.




          **

          Đạo Đức Kinh ra đời sau Kinh Dịch và cũng đã tiếp nối cái nguyên lý âm dương và quy luật phản phục, cũng là quy luật quan trọng nhất của Đạo.

          Sau Kinh Dịch thì cuốn sách nói nhiều đến phản phục phải là Đạo Đức Kinh của Lão tử:
          • “Vật cực tắc phản”; “Đại viết thệ, thệ viết viễn, viễn viết phản”
            – ([Đạo] lớn (vô cùng) thì lưu hành (không ngừng), lưu hành (không ngừng) thì đi xa, đi xa thì trở về).
          Và thêm nữa:
          • “Phản giả, đạo chi động”
            – Luật vận hành của đạo là quay trở về.

          Ngoài chữ phản, Lão Tử còn dùng thêm chữ phục:
          • “Vạn vật tịnh tác, ngô dĩ quan phục”
            – Xem vạn vật sinh trưởng, chúng ta thấy được qui luật phản phục.
          Phản hay phục thì nghĩa cũng như nhau, đều là quay trở về cả.
          • “Đạo trời giống như buộc dây cung vào cây cung chăng? Dây cung căng quá thì hạ nó xuống, chùng quá thì nâng nó lên; dài quá thì bỏ bớt đi, ngắn quá thì thêm vào.
            Đạo trời bớt chỗ dư, bù chỗ thiếu”
            – Thiên chi đạo, tổn hữu dư, nhi bổ bất túc.

          Đối với Đạo, vật nào cũng ngang nhau, không có quí-tiện, không có họa-phúc vì
          • “hoạ là chỗ dựa của phúc, phúc là chỗ nấp của hoạ”
            (hoạ hề phúc chi sở ỷ, phúc hề hoạ chi sở phục),
            “chính có thể biến thành tà, thiện có thể thành ác”
            (chính phục vi kì, thiện phục vi yêu).
          Tất cả chỉ là tuỳ thời biến hoá, lúc này là quí, là phúc, là chính, là thiện thì lúc khác là tiện, là hoạ, là tà, là ác. Tất cả những thứ đấy đều là tương đối.

          Vạn vật từ “không” mà sinh ra, mới đầu còn nhỏ, yếu (như vậy là bất túc), lần lần lớn lên, mạnh lên – tức là được bồi bổ. Khi lớn, mạnh tới cực điểm rồi (như vậy là hữu dư ) thì trở ngược lại, nhỏ đi, yếu đi – tức là bị giảm, tổn đi; giảm lần, suy lần cho tới khi trở về “không”. Thế là xong một vòng.




          **

          Tôi rất thích những bức tranh của họa sĩ nổi danh Maurits Escher, người Hòa Lan. Trong một bức tranh, Escher lồng một tấm tranh hai chiều khác được vẽ nằm trên mặt bàn. Trên hình vẽ hai chiều làm nền cho bức tranh chính đó lại là hình ảnh những con cá sấu xen kẽ lẫn nhau, khít rịt. (Xin mở ngoặc, tấm tranh hai chiều làm nền này cũng là phác họa của một bức tranh nổi tiếng khác của Escher.) Từ tấm tranh phẳng lì hai chiều này, một nửa thân trên của một con cá sấu bắt đầu nhú lên trong không gian 3 chiều. Rồi con cá sấu đó hiện nguyên hình 3 chiều, bò dần lên một cuốn sách đặt bên cạnh chai rượu whiskey. Con cá sấu cứ tiếp tục bò đi lên những đồ vật trên bàn; tới điểm cao nhất thì nó có vẻ hung hãn nhất, khói xì ra cả hai lỗ mũi. Sau đó, nó bắt đầu bò xuống bao thuốc lá; rồi đi dần xuống thấp. Cuối cùng, nó trở về lại tấm tranh hai chiều lúc ban đầu, từ không gian 3 chiều để tan biến vào một mặt phẳng hai chiều.

          Thành, trụ, hoại, không, được gói ghém trọn vẹn trong một bức tranh!






          **

          • “Vành vũ trụ khép khung trời xa tít
            Thắp ngàn sao nhấp nháy dệt tầng không
            Một mình ta phiêu bạt giữa mênh mông
            Ôm hư vô thả xuống bờ băng giá

            Vọng âm vang, vẳng nghe hồn sỏi đá
            Tấm hình hài xơ xác mảnh hồn đau
            Ta vẳng nghe tiếng nói của thiên thu
            Gõ khoan nhặt trên nhịp cầu còn-mất

            Cát bụi bay trả về cho đất
            Sương gió bay trả lại cho trời
            Một mình ta độc lữ không thôi
            Đi đi mãi con đường không sắc

            Không, ta trả về cho sắc
            Sắc, ta trả về cho không
            Tử sinh hai nẻo bềnh bồng
            Chân thân hồi quan tự kỷ

            Vành vũ trụ khép khung trời vô thủy
            Nẻo hư vô khép cánh cửa vô chung
            Ta cứ đi, không có điểm cuối cùng
            Gói hành trang là Ưu Đàm vô nhiễm”

            (Mặc Giang)


            [Tương truyền Ưu Đàm là loài hoa quý, ba ngàn năm mới nở một lần.]





          **

          Hình ảnh
          Ký Tế
          Hình ảnh
          Vị Tế


          Sau quẻ thứ 63 là quẻ Ký Tế (nghĩa là đã xong việc) thì Kinh Dịch được kết thúc ở quẻ thứ 64 là quẻ Vị Tế (nghĩa là chưa xong việc). Ý nghĩa của người xưa muốn nhắn gởi ở đây là mọi sự việc tưởng chừng như đã kết thúc nhưng thực ra thì không bao giờ thật sự kết thúc. Sự chuyển động, thay đổi nói chung là không có đầu mà cũng chẳng có cuối. Một cánh cửa khép lại cũng là lúc một cánh khác mở ra; kết thúc của một sự việc lại là mở đầu cho một sự việc khác; ngày tiếp ngày; con nối cha; ngay cả vũ trụ cũng không thoát khỏi vòng tử sinh.

          Từ đó dịch học có cái luật tuần hoàn, từ cực thịnh qua suy vi, tới diệt vong, từ diệt vong lại phát sinh để tiến triển đến chỗ cực thịnh. Hết cơn bĩ cực tới hồi thái lai.

          Nhưng ta cũng không cần đến Kinh Dịch để ý thức được rằng tình trạng hiện tại khốn cùng của dân tộc, nguy cập của đất nước không thể được phép tồn tại như thế mãi được.


          Chỉ còn hai con đường đi tới:
          • một là chấp nhận diệt vong,
          • hai là tranh đấu để sống còn và được sống còn như thế nào.


          Sự chọn lựa là quá rõ ràng –
          nhưng sẽ đòi hỏi biết bao công sức, hy sinh.

          “Freedom is not free” –
          Vâng,
          sự tự do không phải là miễn phí!








          Kiều Tiến Dũng
          Melbourne, Úc Châu, Tháng 8, 2013



                    
        Hình đại diện
        Hoàng Vân
        Bài viết: 20010
        Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
        Gender:

        Khoa Học Phương Tây và Triết Học Phương Đông – 12 - Chỉ là một khoảnh khắc

        Bài viết bởi Hoàng Vân »

          • Khoa Học Phương Tây
                      và Triết Học Phương Đông – 12



            Chỉ là                               một
            khoảnh khắc

            _______________________________
            Kiều Tiến Dũng








            • “Năm nay đào lại nở
              Không thấy ông đồ xưa.
              Những người muôn năm cũ.
              Hồn ở đâu bây giờ?”
              (Vũ Đình Liên)


            Hoa anh đào hồng-trắng, đơn-kép đã bắt đầu chớm nở ở Melbourne. Dù đây là những cánh hoa trên đất Úc nơi tôi đang sống, hay dọc theo bờ sông Potomac ngay giữa Washington DC, nơi tôi đã say ngất ngưởng trong những quán nhạc jazz, hay viền theo lối mòn mang cái tên thơ mộng là Philosopher’s Path (lối mòn của triết gia) ở Kyoto, nơi tôi đã có bao kỷ niệm; dù đây là cuối tháng 8 ở Melbourne hay cuối tháng 3 ở Bắc bán cầu, thì đấy cũng là những cánh hoa biểu hiện cho sự tuần hoàn của thời gian qua cái đi-lại của bốn mùa.

            Xuân đến, xuân đi, và rồi xuân sẽ lại trở về. Nhưng người thân của ta hay chính chúng ta có còn ở đây để được nhìn thấy một mùa hoa anh đào kế tiếp nữa hay không?

            • “Khứ niên kim nhật thử môn trung
              Nhân diện đào hoa tương ánh hồng
              Nhân diện bất tri hà xứ khứ
              Đào hoa y cựu tiếu đông phong”
              (Thôi Hộ)


              Qua lời dịch của Tản Đà:

              Cửa đây năm ngoái cũng ngày này
              Má phấn, hoa đào ửng đỏ hây
              Má phấn giờ đâu, đâu vắng tá
              Hoa đào còn bỡn gió xuân đây
              (Tản Đà)


            Thời gian dường như cứ mãi miệt mài, không chờ, chẳng đợi một ai – dù cho Hàn Mặc Tử có khẩn khoản, van nài:

            • “Tôi lạy muôn vì tinh tú nhé
              Xin đừng luân chuyển để thời gian
              Chậm đi cho kẻ tôi yêu dấu
              Vẫn giữ màu tươi một mỹ nhân”
              (Hàn Mặc Tử)





            **

            Cái tuần hoàn của ngày đêm, của bốn mùa cũng đã được Phật giáo nới rộng ra trong thuyết luân hồi, sinh-tử, tử-sinh. Thật ra, khái niệm luân hồi đã có trong Ấn Độ Giáo từ trước Thích Ca; song cái khác biệt là Phật giáo không tin vào cá thể linh hồn riêng biệt tồn tại từ kiếp này sang kiếp khác. Cái vận hành của sự luân hồi, theo Phật giáo, chỉ là dựa trên nguyên tắc nghiệp lực và duyên khởi. Cái nghiệp chính là cái nhân; rồi cái nhân chỉ có thể sinh ra cái quả khi có đầy đủ những duyên tố hội tụ. Cũng qua lý luận này, Phật giáo cũng không tin là có một đấng tối cao, sáng tạo nên muôn loài. Đây là một điều khác biệt với tất cả các tôn giáo khác, dù đa thần hay độc thần.

            Nhưng đấy lại thuộc về bộ môn thần học, ở xa ngoài tầm hiểu biết hữu hạn của người phàm làm khoa học như tôi.

            Qua việc nguyên nhân sẽ dẫn đến hậu quả nói chung, không hẳn là chỉ giới hạn trong cái nhân-quả của Phật giáo, ta có cái khái niệm dòng chảy một chiều của thời gian. Thời gian dường như chỉ bị ràng buộc bởi cái thứ tự đi trước của cái nhân và đi sau của cái quả. Ngoài điều ấy ra,
            • cái trước,
              sau,
              hay là cùng lúc trong thời gian
            cũng chỉ là tương đối.




            **

            Theo cả hai Thuyết Tương Đối HẹpRộng của Einstein,
            • thời gian chỉ là tương đối
              không thể tách biệt ra khỏi không gian.

            • Một quan sát viên càng đi nhanh gần tới vận tốc ánh sáng thì thời gian càng chậm lại. Cuối cùng thì thời gian sẽ ngừng trôi ở vận tốc ánh sáng: người ấy sẽ trẻ mãi không già.
            • Nhưng về mặt kích thước không gian thì người ấy cũng không còn là người ấy nữa, vì khi đó thân thể sẽ bị dẹp lại với kích thước zero, đằng trước cũng chính là đằng sau!
            • Đó là chưa kể người ấy bỗng trở nên vô cùng nặng ký, và cái khái niệm béo phì obesity lúc đấy sẽ mang một ý nghĩa hoàn toàn mới!


            Thời gian cũng sẽ trôi chậm hơn lại ở những nơi có trọng trường lớn hơn. Thí dụ, đồng hồ ở mặt đất sẽ chạy chậm hơn so với đồng hồ ở trên không gian, vì trọng lực ở mặt đất lớn hơn ở trên cao. Hay khi một phi hành gia từ từ tiến đến một “hố đen” (black hole) thì thời gian từ từ trôi chậm lại; rồi sẽ ngừng trôi hẳn khi người ấy bước vào “vòng chân trời sự kiện” (event horizon) của hố đen đó. Nhưng cùng lúc ấy thì phi hành gia đó không còn gì là hình hài nữa, vì sẽ bị trọng lực mạnh mẽ của hố đen xé tan xác!

            Hố đen (black hole) là một loại thiên thể có sức hút trọng lực vô cùng lớn, một khi ánh sáng bị hút vào thì cũng không có đường ra. Do ánh sáng không tỏa ra được nên ta không thấy được chúng, vì vậy chúng mới có tên là hố đen. Cấu trúc vật lý của các hố đen vẫn còn nhiều tranh cãi, nhưng lại có thể sinh ra những hiện tượng vô cùng lý thú trong các trường trọng lực vô cùng lớn mạnh như thế.




            **

            Cũng xin bàn thêm ở đây là cái trôi chậm lại của thời gian theo thuyết tương đối cũng có thể là nền tảng khoa học cho câu truyện ông Từ Thức đời nhà Trần lạc lên thiên thai với nàng Giáng Hương chỉ trong vài ngày, nhưng đến khi ông về lại làng cũ thì ở đấy đã trải qua cuộc bể dâu trên trăm năm! Lúc ấy Từ Thức có muốn quay trở lại thiên thai thì cũng không được nữa, chỉ còn vỏn vẹn trong tay vài câu từ biệt của Giáng Hương:
            • “Kết loan lữ ư vân trung, tiền duyên dĩ đoạn – Phỏng tiên sơn ư hải thượng, hậu hội vô nhân”
              – kết lứa phượng ở trong mây, duyên xưa đã hết; tìm non tiên ở trên bể, dịp khác còn đâu!


            Theo Phùng Ngọc Quang thì biết đâu đó là Từ Thức đã bị người ngoài hành tinh bắt cóc lên phi thuyền UFO. Vì phi thuyền UFO bay rất nhanh nên thời gian trên phi thuyền sẽ trôi chậm hơn nhiều so với trái đất – vài ngày so với trăm năm. Và trong lúc bị bắc cóc Từ Thức cũng lại có thể bị cho say thuốc, nên cứ tưởng là gặp “nàng tiên Giáng Hương” trong ngoặc kép.

            Hơn thế nữa, giả thuyết UFO này lại cũng có vẻ phù hợp với sự kiện là có nhiều dân tộc khác trên thế giới cũng có những câu chuyện cổ tích tương tự với chuyện của Việt Nam ta! Phải chăng các nhân vật cổ tích đó cũng đã bị bắt cóc như Từ Thức nhà mình?




            **

            Một điều có vẻ nghịch lý khác trong Thuyết Tương Đối là cả cái khái niệm trước-sau trong thời gian cũng lại là tương đối!

            • Với một người quan sát thì một tai nạn xe cộ ở London đã xảy ra trước một tai nạn khác ở New York.
            • Nhưng với một người quan sát khác di chuyển với một vận tốc khác thì New York lại đã xảy ra trước London!
            • Việc đảo lộn trước-sau này chỉ có thể được cho phép với hai biến cố độc lập, không có liên hệ nhân quả với nhau.


            Nhưng một khi đã có liên hệ nhân quả với nhau thì cái nhân dường như luôn phải đi trước cái quả. Không có lối quan sát nào mà có thể chuyển hóa để đưa cái quả đi trước cái nhân. Đây là cái hay của toán học trong thuyết tương đối. Nếu không thì, trước khi cuộc sổ xố lotto được bắt đầu, ta đã tìm cách để biết được là các con số nào “sẽ” được xổ!

            Nhưng có phải cái nhân phải luôn luôn đi trước cái quả chăng?
            Thuyết cơ lượng tử, không như thuyết tương đối, đã đặt vấn đề và nêu lên cái nghi vấn về sự kiện nhân-trước-quả-sau này. Một thí nghiệm cơ lượng tử dường như cho phép cái quả hiện ra trong thời gian trước cái nhân!




            **

            Quasar được viết tắt từ chữ quasi-stellar radio source, nghĩa là nguồn thiên thể giống như một ngôi sao phát sóng radio. Nó gần giống như một ngôi sao vì quasar có kích thước tương đối nhỏ hơn nhiều so với một thiên hà, nhưng lại có thể tỏa ra một năng lượng, dưới dạng ánh sáng hay sóng radio và ngay cả dạng X-ray, tương đương với năng lượng của cả một thiên hà có tới hàng trăm tỷ ngôi sao.

            Hình ảnh
            Đặc biệt có một quasar có tên khoa học là QSO 0957+561, ở cách chúng ta đến hơn 10 tỷ năm ánh sáng. Nghĩa là những tia sáng hay tín hiệu phát đi từ đấy mà ta nhận được ngày hôm nay là đã được phát đi trên 10 tỷ năm về trước. Và có thể ngay trong lúc này thì quasar đó đã không còn tồn tại nữa. Nói chung, những tia sáng từ các thiên thể càng xa xôi trong không gian lại mang theo những hình ảnh càng xa xưa trong dĩ vãng! Do đấy khi ta nhìn qua viễn vọng kính càng sâu vào cái không gian của vũ trụ thì ta lại càng đi ngược vào cái quá khứ của vũ trụ!

            Các tia sáng từ quasar này khi đi qua không gian của những thiên hà trên đường tới ta đã bị trọng trường của những thiên hà này uốn cong tia sáng. Kết quả là ta nhận được hai tia sáng, một tia bên trái và tia kia bên phải đến từ cái quasar nằm khuất đàng sau thiên hà cản lối kia. (Hiện tượng này được gọi là sự hội tụ ánh sáng do sức hút trọng lực – gravitational lensing.) Đấy chẳng khác gì một cấu trúc thí nghiệm khi ánh sáng đi qua hai khe hở bên trái và bên mặt; và người ta đã thành công lập lại thí nghiệm hạt-sóng với ánh sáng phát ra từ quasar này.

            Kết quả đạt được cũng như các thí nghiệm lượng tử đã bàn tới trước đây. Nghĩa là khi ta đặt một màn hình nơi hai tia sáng từ quasar hội tụ thì ta cũng sẽ có hiện tượng giao thoa do tính sóng của ánh sáng. Nhưng nếu ta quyết định đặt máy dò tính hạt thì sẽ có kết quả là ánh sáng đó đến từ bên trái hay từ bên phải.

            Khi không đặt máy thì có giao thoa, tức là ánh sáng “cùng lúc” đi qua bên phải và bên trái, như là sóng. Khi đặt máy thì ánh sáng chỉ có thể đi qua hoặc là bên trái, hoặc là bên phải như là hạt mà thôi. Thế thì cái quyết định ngẫu hứng của ta ngay lúc này để đặt hay không đặt máy đo lại ảnh hưởng đến quỹ đạo của ánh sáng đã phát ra từ 10 tỷ năm về trước! (Hay ít nhất là hàng triệu năm ánh sáng vì đây là khoảng cách giữa hai quỹ đạo bên phải và bên trái.) Cái hành động của ta nằm trong hiện tại tại sao lại có thể là cái nguyên nhân cho một hậu quả đã nằm trong quá khứ?

            Hay là cái gọi là quyết định ngẫu hứng của ta trong hiện tại thực ra không phải là ngẫu hứng chút nào? Hay những quyết định của ta trong hiện tại và cả trong tương lai lại được định đoạt từ hơn 10 tỷ năm về trước, lúc ánh sáng bắt đầu cuộc hành trình xuyên vũ trụ?

            Nếu ta không chấp nhận điều vừa nêu trên cho một định mệnh đã được an bày trước đây trên 10 tỷ năm – nên nhắc lại rằng trái đất chỉ có vào khoảng năm tỷ năm trở lại mà thôi, còn con người thì trên dưới hai trăm ngàn năm là cùng. Thế thì cái quyết định của ta ngay lúc này để đặt hay không đặt máy đo lại ảnh hưởng đến quỹ đạo của ánh sáng đã phát ra từ 10 tỷ năm về trước! Đó là: hành động của ta trong hiện tại lại là nguyên nhân cho cái hậu quả nằm trong quá khứ!




            **

            Ta vẫn thường có thể chấp nhận và sống được với cái nhân trong quá khứ và cái quả trong hiện tại hay trong tương lai. Nhưng làm sao thứ tự nhân-quả lại có thể đảo lộn thời gian như trên? Vô cùng nghịch lý! Vì đây chẳng khác gì chuyện cô nàng quyết định nhận lời cầu hôn ngày hôm nay với chàng lại có thể định đoạt việc chàng đã hay không đã bước lên thuyền vượt biên năm nao!

            Toàn là nghịch lý nhưng đấy lại là kết quả của những thí nghiệm vật lý!

            Khi Albert Einstein cho rằng:
            • “The distinction between the past, present and future is only a stubbornly persistent illusion”
              – sự khác biệt giữa quá khứ, hiện tại và tương lai chỉ là một ảo tưởng dai dẳng đến ngoan cố –
            ông chỉ có ý định nói về thuyết tương đối của mình. Nhưng có lẽ ông cũng không ngờ rằng cái ảo tưởng này dường như cũng áp dụng, trong cơ lượng tử, cho cái thứ tự trước-sau của nhân và quả!




            **

            Ta cảm nhận và định nghĩa được thời gian qua những sự việc trong đó cái nhân đi trước dẫn đến cái quả theo sau. Thời gian, ta đã luôn cứ tưởng, là đồng nghĩa với thứ tự trước sau của nhân và quả. Nhưng nay ánh sáng phát đi từ một quasar xa xôi lại cũng có thể cho ta cái quả đi trước cái nhân! Nhất là cái nhân đó dường như là ở ngay chính quyết định ngẫu hứng của chúng ta, ở việc đặt hay không đặt máy dò!

            Xin nói rõ là ta không thể dùng hiện tượng này để truyền tín hiệu mang ý nghĩa (information) ngược về trong quá khứ, tương tự như việc ta không thể dùng hiện tượng quấn quít bất khả phân để truyền tín hiệu mang ý nghĩa (information) ngay tức khắc tới hai đầu của vũ trụ. Cái ngẫu nhiên trong sự đo lường của cơ lượng tử không cho phép những việc truyền tín hiệu như thế, và sẽ xóa đi những ý nghĩa được chứa đựng trong các tín hiệu này.

            Nói một cách khác, vì cái kết quả ngẫu nhiên trong việc đo lường nào đó vào lúc này, ta không thể khẳng định được kết quả đó thật sự là ngẫu nhiên, hay lại là hậu quả của một nguyên nhân nào đó trong tương lai.

            Tuy vậy, thời gian như thế có còn mang một ý nghĩa gì nữa không?
            Hay quá khứ, tương lai chỉ là ảo ảnh? Và hiện tại chỉ là những gì chúng ta thật sự có mà thôi? Đây cũng lại là cái nhìn của Phật giáo Nguyên thủy.




            **

            Thích Ca hỏi một vị sư:
            • “Mạng người được bao lâu?”

            Đáp rằng:
            • “Thưa, trong khoảng vài ngày.”

            Thích Ca im lặng mỉm cười, quay qua hỏi vị sư khác:
            • “Mạng người được bao lâu?”

            Đáp rằng:
            • “Thưa, trong khoảng một bữa ăn.”

            Thích Ca cũng lại im lặng mỉm cười, rồi lại hỏi một vị Sa-môn khác:
            • “Mạng người được bao lâu?”

            Đáp rằng:
            • “Thưa, trong khoảng một hơi thở.”

            Thích Ca cười:
            • “Lành thay! Ông đã hiểu được Đạo rồi vậy!”



            **

            Làn ranh sinh tử là chỉ ở trong khoảnh khắc của một hơi thở. Phải ôm người thân trong tay mình khi người ấy thở hắt ra hơi cuối cùng thì có lẽ ta mới thật sự nghiệm được sự sống mong manh đến chừng nào. Thì mới hiểu được ta cũng đã phần nào chết theo, khi người chết đã mang đi một phần sự sống của ta.

            Thiền tông của Phật giáo không bàn nhiều về cái quá khứ đã chết, hay cái tương lai có thể hay không có thể xảy ra, mà chỉ nhấn mạnh về cái giây phút hiện tại, và những suy niệm và cảm nhận trong giây phút này. Đó là cái phi thời gian của Phật giáo.

            Hay nói như lời của Swami Vivekananda:
            “Thời gian, không gian và mối liên hệ nhân quả giống như một tấm kính
            ta nhìn xuyên qua nó để thấy cái tuyệt đối
            Trong tuyệt đối
            thì không có thời gian, lẫn không gian, lẫn quan hệ nhân quả.”


            Cái vòng thời gian phải chăng chỉ là ảo ảnh? Tồn tại tuyệt đối phải chăng chỉ là tâm điểm của cái vòng lẩn quẩn ấy?




            **

            • Nhà sư Đức Sơn người Nhật Bản, trên đường đi tới Đài Sơn dừng chân bên quán nhỏ gọi điểm tâm ăn sáng. Bà lão bán quán thử thách nhà sư bằng một câu hỏi, nếu nhà sư trả lời được thì bà mới dọn điểm tâm:
              • “Thưa thầy, Kinh Kim Cương có viết:
                • “Quá khứ tâm bất khả đắc, Hiện tại tâm bất khả đắc, Vị lai tâm bất khả đắc”

                Cái tâm trong quá khứ là không thể có được, cái tâm trong hiện tại là không thể có được, và cái tâm trong tương lai cũng lại không thể có được. Vậy thầy muốn điểm cái tâm nào đây?”

              Ở đây bà đã chơi chữ điểm tâm với cái nghĩa là điểm chỉ vào cái tâm. Không trả lời được câu hỏi hóc búa đó, nhà sư đành nhịn đói ra đi.


            Trong kinh Kim Cương không có thời nào cả. Quá khứ-tương lai, hữu hạn-vô hạn là đồng nhất trong từng khoảnh khắc của đời sống hiện tại.
            • Cái lưu chuyển vô thường
              và cái bất tử vĩnh hằng
              cũng chỉ là một
            trong tâm người đã giải thoát.
            • “Bất sinh diệc bất diệt
              Bất thường diệc bất đoạn
              Bất nhất diệc bất nhị
              Bất lai diệc bất xuất”
              (Long Thọ — Trung Quán Luận)


              Không sinh cũng là không diệt
              Không lâu dài cũng là không ngắn ngủi
              Không một cũng là không hai
              Không đến cũng là không đi


            Khi hướng vào tâm để tìm giải thoát,
            • gạt bỏ đi những phân biệt sinh-tử, thường-đoạn, một-hai, đến-đi,
              thì không còn cách biệt giữa ta và tha nhân, quá khứ và tương lai.
            Chỉ còn đấy một sự đồng nhất tuyệt đối của cái “Không” tĩnh lặng đến vô cùng trong tâm người giải thoát.




            **




            Họa sĩ Escher cũng đã vẽ một bức tranh với hai đoàn tu sĩ dòng kín, đầu phủ mũ kín xếp hàng đi lên một cầu thang, và một đoàn tu sĩ khác đi ngược chiều xuống cũng trên cùng cái cầu thang đó. Cái ảo ảnh là ở chỗ cái cầu thang đó, và hai đoàn tu sĩ lên-xuống ấy, lại có thể khép kín lại thành một vòng tròn. Vâng, một vòng tròn chứ không phải là một vòng xoắn ốc đi lên!

            Làm sao ta có thể có một cái cầu thang với các bậc thang cứ mãi đi lên, nhưng sau đó lại đi vòng ngược trở lại chính mình? Nếu ta đánh dấu một bực thang là A, thì làm sao ta có thể có một cái cầu thang với bực A này thấp hơn bực sau, bực sau thấp hơn bực sau nữa v.v. Nhưng rồi đi một lúc thì vì cái cầu thang lại khép kín nên rồi một bực thang sau đó lại thấp hơn bực A khởi đầu này?

            Cái ảo ảnh đó trong tranh vẽ này của Escher cũng chẳng khác gì nghịch lý nhân-quả. Nghịch lý ở chỗ là, từ quyết định đặt máy dò thì ta có được kết quả là ánh sáng đã đi qua con đường nào; nhưng cái quả này cũng lại là cái nguyên nhân cho ánh sáng đã được phát ra như thế nào từ quasar trước đó vào 10 tỷ năm trước đây. Và cuối cùng là cái quả ánh sáng đã phát ra như thế nào vào 10 tỷ năm trước này lại góp phần vào nguyên nhân cho sự hiện hữu của chúng ta lúc này, để rồi từ đó ta có thể quyết định làm thí nghiệm ra sao!

            Cái vòng thời gian đúng là luẩn quẩn và cũng lại vô cùng ác nghiệt!




            **

            Một nhà thơ đã ví von rằng:

            • “Mời em vào quán thời gian
              Khuấy ly ký ức uống làn hương xưa
              Mời em vào quán không mùa
              Ta chia nhau ngọn gió lùa rét căm
              Mời em vào quán không năm
              Để nghe nhớ khóc ướt đầm ngón tay
              Mời em vào quán không ngày
              Để xem trời thả heo may, để buồn
              Đắng lòng môi chạm yêu thương
              Thời gian quên bỏ muỗng đường đó em!”




            **

            Cái tổng thể không phải đơn thuần là một tập hợp rời rạc của những cá thể. Đành rằng các cá thể là phần tử của tổng thể, nhưng chính cái tổng thể đã định nghĩa nên các cá thể đó. Vũ trụ này tuy rộng lớn nhưng dường như không thể phân chia ra được. Tất cả các sự vật trong vũ trụ này đều liên hệ và phụ thuộc chặt chẽ vào nhau, trong không gian lẫn thời gian. Khoảng cách gần-xa, quá khứ-tương lai, luôn cả nhân-quả không những là tương đối mà dường như chỉ là ảo ảnh.

            • Những gì chúng ta thật sự có chỉ là khoảnh khắc của một hơi thở. Sau hơi thở này, chưa chắc sẽ có cái kế tiếp.
            • Nên điều quan trọng là hãy sống sao cho trọn vẹn, vì chưa hẳn một người chết là một người đã từng sống trọn vẹn.
            • trọn vẹn là chỉ khi nó có ý nghĩa.
            • có ý nghĩa không phải là chỉ sống cho riêng ta, mà còn là cho cái tổng thể từ đó ta đã được sinh ra.

            Đời người được đo
            không phải chỉ bằng thời gian
            mà còn
            bằng tư tưởng và hành động.
            Hãy sống, và chết, ra sao
            để dân tộc vẫn mãi mãi bất diệt
            như hoa đào vẫn mãi trở về trong gió xuân.







            Kiều Tiến Dũng
            Melbourne, Úc Châu, Tháng 9, 2013



                      
          Hình đại diện
          Hoàng Vân
          Bài viết: 20010
          Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
          Gender:

          Khoa Học Phương Tây và Triết Học Phương Đông – 13 - Lời Kết

          Bài viết bởi Hoàng Vân »

          • Khoa Học Phương Tây
                      và Triết Học Phương Đông – 13



            Lời kết

            _______________________________
            Kiều Tiến Dũng








            • “Tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri”
              (Đạo Đức Kinh)

              Người biết thì không nói, còn kẻ nói thì không biết (tới nơi tới chốn).

            Đã vậy mà còn dám lạm bàn về một đề tài vô cùng rộng lớn, khó khăn gồm bao cả khoa học phương Tây và triết lý phương Đông! Tuy biết vậy, nhưng chúng tôi chỉ mong cố gắng trình bày cái hiểu biết nông cạn của mình để chia sẻ với mọi người, trong cùng một tâm tình như của cụ Sào Nam Phan Bội Châu:
            • “Nếm máu cũ của tiên nhân mà không dám quên
              Phơi tấm lòng với anh em mà không dám giấu”


            Lúc khởi đầu, tôi dự định loạt bài sẽ chỉ có 5 bài mà nay đã lên đến trên cả chục 12 rồi. Càng viết thì càng thấy thiếu sót, như mình càng già thì mới hay mình càng biết ít – chẳng bù với thời trai trẻ, cái gì mình cũng tưởng là biết! Nhưng có viết bao nhiêu đi nữa thì sẽ vẫn mãi còn thiếu sót. Và cũng để tránh nhàm tai người nghe, mỏi mắt người đọc, nay tôi xin dừng ở bài cuối đây cho chủ đề khoa học và triết lý này.

            Người xưa có câu:
            • “Thiên hạ thùy nhân tri kỷ?
              Hận nhất dạ.
              Thiên hạ vô nhân tri kỷ!
              Hận thiên thu”.

              Còn hỏi được trong thiên hạ ai là người tri kỷ thì chỉ “hận” một đêm.
              Nhưng một khi đã biết dưới gầm trời này không còn người tri kỷ nữa thì có lẽ phải “hận” đến nghìn thu.
            Người viết xin chân thành cảm ơn người nghe và người đọc đã theo dõi, góp ý, và cũng đã lượng thứ cho sự thô thiển và kém hiểu biết của người viết. Như vậy là người viết không những khỏi phải “hận” thiên thu, mà cũng không cần “hận”, dù chỉ một đêm!




            **

            Chuyện bên lề, nhắc đến hai chữ “tri kỷ” thì một bạn trẻ ở Việt Nam đã giải thích trên một trang mạng như sau, trích:

            Hết trích. Và cũng thật hết biết luôn!
            Nếu biết người đời sau cho “tri kỷ” là biết nhau qua cái giường, thì ôi thôi Bá Nha / Tử Kỳ có lồng lộn dưới đáy mồ không?




            **

            Ca dao ta có câu:
            • “Mình với ta tuy hai mà một
              Ta với mình tuy một mà hai”

            Khoa học phương Tây và triết học Đông phương
            • tuy là hai
              nhưng lại là một
              trong việc cùng đi tìm cái gọi là sự thật tuyệt đối sau cùng; và tuy cùng chung một cứu cánh nhưng lại đi bằng hai con đường khác nhau.


            Khổng Tử cũng cho rằng:
            • “Thiên hạ đồng qui nhi thù đồ,
              nhất trí nhi bách lự”

              – Thiên hạ tuy có thể đi bằng nhiều đường khác nhau, nhưng sẽ cùng quy về một mối;
              thiên hạ có thể suy nghĩ nhiều cách khác nhau nhưng sẽ cùng đi đến chỗ nhất trí.


            Cũng thế, sách Trung Dung lại có câu:
            • “Đạo tịnh hành, nhi nhất tương bội”
              – trên đường Đạo, tất cả đều đi mà chẳng chống nhau.


            Trong khi đó ở phương Tây, Niels Bohr lại cho rằng:
            • “Đối nghịch với lời đúng là lời sai.
              Nhưng đối xứng với một sự thật sâu xa cũng lại là một sự thật thâm thúy khác”
              “The opposite of a correct statement is a false statement.
              But the opposite of a profound truth may well be another profound truth.”


            Thật vậy, mặc dù với những điểm khởi đầu xa cách,
            mặc dù với những phương pháp khác biệt giữa khoa học Tây phương và triết học Đông phương,
            chúng ta đã điểm qua trong loạt bài này không ít những tương đồng sâu sắc.

            Nhưng tại sao lại có sự tương đồng? Hệ quả của sự tương đồng này là gì? Phải chăng, chính các điểm tương đồng trong hai hướng đi vô cùng dị biệt này đã nói lên, đã ám chỉ
            sự hiện hữu của một, và chỉ một, sự thật tuyệt đốisau cùng?





            **

            Không những thế, sự tương đồng có lẽ còn khẳng định cái thống nhất toàn thể, cái bất khả phân của mọi hiện tượng trong vũ trụ này, dù chúng có cách thời gian hay biệt không gian. Và vì mọi vật đều phụ thuộc vào nhau nên ta không thể định nghĩa một sự vật chỉ bằng những “thuộc tính” của nó mà còn bằng những gì không phải là nó. Đấy là vì bản chất của sự vật không phải tự có mà còn phải tùy thuộc vào sự tương quan với các vật thể khác; cũng như chính việc quan sát đo lường mới định nên được cái tính chất của vật được đo lường. Như cái được gọi là “ta” thật ra lại phải được định nghĩa bởi chính những mối quan hệ với “người”; vậy cái “ta” đâu phải là tự có, và cái “ta” cũng đã phải mang cái “người” trong đó rồi!

            Ở đâu đó có một câu ví von rằng:
            • Nếu phép chia cho zero trong toán học là vô nghĩa,
              thì trong cuộc sống, nếu không chia sẻ cho một ai cả thì cuộc sống ấy cũng chẳng có ý nghĩa gì cả.





            **

            Thiền sư Khánh Hỷ, đức Tăng Thống của Phật giáo Đại Việt ta vào thế kỷ thứ 11 có câu:
            • “Càn khôn tận thị mao đầu thượng
              Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung”

              Tất cả trời đất có thể đặt gọn trên một sợi tóc,
              và cả mặt trời mặt trăng có thể nhét vào trong một hạt cải.
            Cái vô cùng lớn nằm trong cái vô cùng nhỏ, và cái thiên thu nằm trong cái khoảnh khắc.

            Thi sĩ và cũng là họa sĩ tài hoa người Anh tên là William Blake vào thế kỷ thứ 19 cũng có những vần thơ:
            • “To see a world in a grain of sand
              And a heaven in a wild flower,
              Hold infinity in the palm of your hand,
              And eternity in an hour”.
              (William Blake)


              Tạm dịch:
              Nhận thấy một thế giới trong một hạt cát
              Và một thiên đàng trong một đóa hoa dại,
              Nắm gọn cái vô cùng trong lòng bàn tay
              Và cái vĩnh cửu trong một giờ đồng hồ.


            Tất cả mọi vật trong vũ trụ đều liên đới; quá khứ và tương lai trong thời gian chẳng qua cũng chỉ nằm trong một khoảnh khắc.




            **

            Vì chỉ có một, và chỉ một, sự thật tuyệt đối nên có lẽ ta cũng không lấy gì làm ngạc nhiên khi mọi con đường đi tìm sự thật và bản chất của vạn hữu đều dẫn về cái tuyệt đối ấy. Nhưng chính sự hiện hữu của các con đường khác biệt này cũng là điều cần thiết để từ đó “nói” lên được (chữ nói trong ngoặc kép) cái tuyệt đối – vì cái tuyệt đối này không thể định được chỉ bằng một phương cách riêng lẻ, không thể gọi tên hay diễn tả được bằng ngôn từ loài người, kể luôn cả ngôn từ toán học:
            • “Đạo khả Đạo phi thường Đạo;
              Danh khả Danh phi thường Danh”
              (Đạo Đức Kinh).


            Các con đường khác nhau, tương khắc mà cũng lại tương xung, dù đấy là khoa học hay triết lý, đều là cần thiết – như sự cần thiết của hạt và sóng, của âm và dương – để nói lên bản chất luôn động chuyển của sự vật.

            Âm-Dương là nguyên lý, là động cơ, là nguồn năng lượng cho sự biến dịch của vạn vật:
            • “Vạn vật phụ Âm nhi bão Dương,
              xung khí dĩ vi hòa”

              – Trong vạn vật không có vật nào không cõng đèo Âm và bồng bế Dương,
              nhưng ở giữa là nguyên khí dung hòa
              (Đạo Đức Kinh).


            Kinh Dịch cũng khẳng định:
            • “Nhất Âm, nhất Dương
              chi vị Đạo.”

              Trong sự biến dịch, giao dịch
              lại là cái bất dịch

              – như các định luật bảo toàn của vật lý,
              hay cái chân không lượng tử,
              hay cái Đạo của Đạo Đức Kinh,
              hay cái vô cực của Dịch,
              hay cái gọi là “không” trong trung đạo của nhà Phật.


            Cả khoa học hiện đại và triết học cổ xưa nay cùng hội tụ về quan điểm là
            • bản chất của sự vật không phải là “đang là” (being)
              mà chỉ là “đang thành” (becoming).
              Vì là “đang thành”
              nên sự vật không cố định mà luôn biến đổi cùng với vũ trụ ngoài kia.





            **

            Một điểm hội tụ quan trọng khác giữa triết học phương Đông và khoa học hiện đại
            • là ở vị trí và vai trò của con người,
              hay đúng hơn là ở cái tâm thức (consciousness) của chúng ta.


            Khoa học cơ bản nhìn ra bên ngoài để tìm hiểu cái vũ trụ vật lý “khách quan” ngoài kia. Nhưng cuối cùng cơ lượng tử lại đi đến kết luận là cái hiện hữu và cấu trúc của chúng lại tùy thuộc vào cái tâm thức nằm ngay trong chúng ta! Qua chính sự khảo sát chủ quan của mình, chúng ta đã góp phần tạo nên, cả về mặt không gian lẫn thời gian, của cái gọi là vũ trụ khách quan đó!

            Eugene Wigner, nhà vật lý và toán học người Hungary, giải Nobel vật lý năm 1963, đã cho rằng:
            • “Càng nghiên cứu về thế giới bên ngoài, càng dẫn tới cái kết luận rằng chính tâm thức lại là thực tại tối hậu. Các hạt chỉ hiện hữu khi được quan sát, và như thế thực tại của hạt bắt buộc rằng tâm thức phải là yếu tố cơ bản của thực tại”
              – “The very study of the external world led to the conclusion that the content of the consciousness is an ultimate reality. Particles only exist when observed, and so the reality of particles entails that consciousness is a fundamental element of reality.”


            Sir Arthur Eddington, người đầu tiên kiểm chứng thành công Thuyết Tương Đối Rộng của Albert Einstein, cũng đã đồng ý rằng:
            • “Bộ môn vật lý là ngành nghiên cứu về cấu trúc của tâm thức.
              Mọi sự vật trong vũ trụ đều từ tâm thức mà ra”
              – “Physics is the study of the structure of consciousness.
              The stuff of the world is the mindstuff.”





            **

            Điều đấy lại càng kỳ lạ hơn nữa vì chính khoa học cũng lại cho rằng con người cùng với tâm thức của mình chỉ là sản phẩm ra đời sau khi vũ trụ vật lý này đã được hình thành. Có lẽ sau cái khởi đầu bằng một cái “Nổ Lớn” Big Bang từ một không gian vô cùng nhỏ bé thì vũ trụ đã giãn nở rất nhanh chóng. Khi nhiệt độ nguội xuống thì vật chất từ từ tụ lại thành các thiên thể do sức hút của trọng lực. Một khi môi trường thích hợp được hình thành thì sự sống bắt đầu xuất hiện, rồi phát triển và tiến hóa qua sự chọn lọc tự nhiên của môi trường – cho đến khi, ở trái đất này hay trên nhiều hành tinh thích hợp khác trong vũ trụ, tâm thức được hình thành qua loài người hay các sinh vật nào khác.

            Giờ đây với cái nhìn là vũ trụ chỉ hiện hữu trong tâm thức, phải chăng con người lại là nguyên nhân trong hiện tại của sự hình thành của một vũ trụ trong quá khứ? Phải chăng chúng ta ngày nay cũng lại một lần nữa đem đặt con người vào vị trí trung tâm của vũ trụ – như Tòa Thánh La Mã đã làm khi xưa, để rồi dẫn đến việc họ xử tội Bruno và Galileo khi những người này dám cho rằng trái đất và con người chúng ta đâu phải là cái rốn của vũ trụ?

            Cái khác biệt ở đây là khoa học hiện đại không nói đến, và cũng không cần đến, một thượng đế đầy quyền năng. Và loài người có lẽ không phải là sinh vật duy nhất trong vũ trụ có được cái gọi là tâm thức.

            Tâm thức và sự sống có lẽ đã và sẽ xuất hiện rất nhiều nơi trong vũ trụ bao la ngoài kia. Nhưng, ngược lại, nếu không có một ai quan sát thì mặt trăng đó, vũ trụ này có thật sự hiện hữu hay không?

            Cũng như, cũng như nếu không có em thì gương kia có đó hay không, để ai soi trang điểm cho đời thêm tươi? Hay là, hay là lại bắt:

            • “Anh làm chiếc gương soi
              Để em điểm trang trước giờ đến sở
              Em vô tình đứng trước gương thay áo
              Anh bị bất ngờ tim đập nhịp lung tung”
              (Quan Dương)





            **

            Đạo Đức Kinh cũng nhấn mạnh về vai trò quan trọng của con người:
            • “Đạo sinh nhất, Nhất sinh nhị, Nhị sinh tam, Tam sinh vạn vật”
              – Đạo sinh một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh vạn vật.
            Có người giải nghĩa là
            1. khởi đầu từ Đạo rồi sinh ra cái nhất, là thái cực.
            2. Từ cái nhất thái cực này lại sinh ra cái nhị của lưỡng nghi.
            3. Và rồi hai lưỡng nghi lại sinh ra tam tài là trời, đất và con người.
              Cuối cùng tam tài sinh ra vạn vật.


            Hay là ta cũng có thể diễn giải song song với lý thuyết vật lý rằng:
            1. Đạo là chân không lượng tử sinh ra trời ở dạng khí
              (với con số 1 cũng được Kinh Dịch dùng cho trời, thuần dương);
            2. sau đó các khí này tụ lại thành đất
              (với con số 2 cũng được Kinh Dịch dùng cho đất, thuần âm);
            3. rồi sau đó là loài người, được ám chỉ bằng con số 3, được sinh ra trong trời-đất.
              Với tâm thức của mình, loài người sau cùng đã góp phần “sinh ra” (trong ngoặc kép) tất cả những thực thể ngoài kia – như theo một lối diễn giải của cơ lượng tử.


            Địa vị của con người cũng được đề cao trong Kinh Dịch,
            • và đã được tượng trưng bằng hai vạch (hai hào) đứng giữa trong sáu vạch của mỗi quẻ,
            • với hai vạch ở dưới tượng trưng cho đất,
            • và hai vạch trên cùng tượng trưng cho trời.
            Tức là làm người thì đầu đội trời, chân đạp đất.

            Riêng trong Phật giáo thì mệnh kiếp con người cũng được coi là đặc biệt và vô cùng quý giá.




            **

            Tóm lại, những tương đồng quan điểm chính giữa Đông và Tây là ở chỗ
            • sự vật trong vũ trụ này tuy thể hiện khác nhau và luôn biến dịch,
            • nhưng chúng lại liên hệ chặt chẽ với nhau và có cùng một bản chất thống nhất, “có” mà cũng “không có”.
            • Trong đó vai trò trọng yếu, quyết định là con người hay đúng hơn là cái tâm thức (consciousness) của chúng ta.


            Còn nói về sự khác biệt thì dĩ nhiên khoa học phương Tây và triết lý Đông phương còn rất nhiều điều xa cách nhau.

              • Nền móng của khoa học là nghi vấn và cái quyền được đặt nghi vấn,
              • phương thức của khoa học là lý luận và toán học,
              • và sức mạnh của khoa học là khả năng kiểm chứng những hệ quả của lý luận với hiện tượng được khảo sát.
                • Mọi lý thuyết đều phải chịu sự kiểm chứng; một thuyết không nêu được một kết luận mà có thể kiểm chứng được thì đấy không phải là khoa học.
                • Và vì ta không thể bao giờ kiểm chứng được với tất cả các hiện tượng có thể có nên các thuyết khoa học không thể bao giờ đúng tuyệt đối. Có đúng chăng chỉ là đúng trong phạm vi nào đó, trong giai đoạn nào đó. Vì thế mọi kết luận trong khoa học đều mang tính chất tương đối và tạm bợ.
                • Lý thuyết khoa học luôn mang sẵn ngay trong chính nó mầm mống của sự nghi ngờ: ta có thể chứng minh được một thuyết khoa học là sai nếu khám phá ra một hiện tượng không phù hợp, nhưng không bao giờ ta có thể chứng minh được nó là đúng tuyệt đối.
                • Cái đúng-sai trong khoa học không tùy thuộc vào ai là người, dù người đó quyền uy bao nhiêu, hay là bao nhiêu người, dù có đông đảo bao nhiêu, đã đưa ra một lý thuyết nào đó.

                        
              • Trái ngược lại, triết học phương Đông chỉ đưa ra những kết luận được cho là chân lý tuyệt đối,
              • nhưng lại không trình bày một cách sáng tỏ các phương cách khảo cứu để đi đến những kết luận này.
                          
              • Phật giáo, hơn thế nữa, không những là một triết lý mà còn được coi là một tôn giáo, mặc dù Phật giáo đặt nặng sự suy luận, cảm nhận và kiểm chứng bằng kinh nghiệm và trực giác. Nhưng đã là một tôn giáo thì nó cũng đòi hỏi một niềm tin nào đó ở ta, dù nhiều hay ít.
                Khác với nhiều tôn giáo khác là đức tin trong Phật giáo chỉ được coi là một phương tiện. Trí tuệ cũng chỉ là phương tiện, nhưng lại là phương tiện cốt yếu. Trong khi đó đức tin lại là một phương tiện thứ yếu, tạm thời. Mục đích tối hậu và duy nhất của Phật giáo là giải thoát, là giác ngộ.




            **

            Dù cho triết lý Đông phương có hướng về bên trong nội tâm của ta, hay khoa học phương Tây có nhìn ra thế giới bên ngoài, thì cả hai đều là đi tìm sự thật để giải thoát chúng ta ra khỏi sự tăm tối, vô minh. Vô minh có thể không có bắt đầu nhưng lại được kết thúc khi chúng ta có được ý thức về sự kiện. Và một khi ý thức đã thành hình rồi thì sẽ không mất đi được.

            Cũng vì lo sợ cái ý thức sẽ tước đi ngôi vị độc tôn của mình, nên trong lịch sử loài người biết bao chủ nghĩa, đảng phái và triều đại
            • đã tìm đủ mọi cách để ru ngủ con người,
              đã viện dẫn bao lý lẽ để ngăn chặn ý thức của con người,
              đã sử dụng bao thủ đoạn để không cho con người được quyền đặt nghi vấn.
            Nhưng chúng đã và sẽ thất bại
            • vì bàn tay không che được mặt trời,
              giấy không gói được lửa,
              bóng đêm không thể bao trùm được sự thật.
            Thân xác có thể bị cầm tù, nhưng nào ai giam nhốt được tư tưởng và ý chí của con người?
                      
            “Everything that kills me
            Makes me feel alive
            Everything that drowns me
            Makes me want to fly”
            (OneRepublic – Counting Stars)
            (Tạm dịch lời của những câu hát này:)
            Những gì cố giết tôi
            Lại càng làm tôi thêm sức sống
            Những gì cố nhận chìm tôi
            Lại càng làm tôi muốn bay bổng

                      

                      
            Người ta có thể lừa gạt một người mọi lúc,
            cũng có thể lừa gạt nhiều người một lúc,
            nhưng không ai có thể lừa gạt tất cả mọi người trong mọi lúc.
            Do đó, rồi sẽ có một ngày:
            “Sẽ có một ngày con người hôm nay
            Vất súng
            Vất cùm
            Vất cờ
            Vất Đảng
            Đội lại khăn tang
            Đêm tàn ngày rạng
            Quay ngang vòng nạng oan khiên
            Về với miếu đường, mồ mả gia tiên
            Mấy chục năm trời bức bách lãng quên
            Bao hận thù độc địa dấy lên
            Theo hương khói êm lan, tan vào cao rộng
            Tất cả bị lùa qua cơn ác mộng
            Kẻ lọc lừa
            Kẻ bạo lực xô chân
            Sống sót về đây an nhờ phúc phận
            Trong buổi đoàn viên huynh đệ tương thân
            Đứng bên nhau trong mất mát quây quần
            Kẻ bùi ngùi hối hận
            Kẻ bồi hồi kính cẩn
            Đặt vòng hoa tái ngộ trên mộ cha ông
            Khai sáng kỷ nguyên tã trắng thắng cờ hồng!”

            (Nguyễn Chí Thiện – 1971)

            Bao giờ ngày ấy về với quê hương ta,
            sớm hay muộn
            là do ở

            nỗ lực của
            mỗi một người trong chúng ta
            .







            Kiều Tiến Dũng
            Melbourne, Úc Châu, Tháng 9, 2013



                      
          Hình đại diện
          Hoàng Vân
          Bài viết: 20010
          Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
          Gender:

          Kiều Tiến Dũng

          Bài viết bởi Hoàng Vân »

          •           



                      
            Về tác giả
            Kiều Tiến Dũng
            _______________________________



            •           
            • sinh 1961 - Sài Gòn
                        
            • 1980 - tị nạn Úc
            • 1984 - cử nhân vật lý - đại học Queensland (Úc)
            • 1988 - tiến sĩ vật lý - đại học Edinburgh (Anh)
              ...........hậu tiến sĩ, nghiên cứu gia - đại học Edinburgh, Oxford (Anh)
              ...........viện công nghệ MIT, viện nghiên cứu IAS, đại học Columbia (Mỹ)
            • 1997 - nghiên cứu gia & trưởng dự án - cơ quan liên bang nghiên cứu khoa học Úc (Csiro)
            • 2001 - giáo sư nghiên cứu gia - đại học Swinburne (Úc)

              _ sáng lập viên & giám đốc đài truyền hình VNTV
              _ đồng sáng lập & đồng giám đốc đài truyền thanh Hồn Việt Radio
              _ thành viên quản trị ủy ban giao thông Victoria (TAC)
              _ thành viên viện vật lý học Úc (AIP)
                        
                      
          Last edited by Hoàng Vân on Thứ hai 13/03/17 19:07, edited 1 time in total.
          Hình đại diện
          Hoàng Vân
          Bài viết: 20010
          Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
          Gender:

          Khoa Học Phương Tây và Triết Lý Phương Đông – Sách xuất bản bởi Người Việt

          Bài viết bởi Hoàng Vân »

          •           




                      
            Về tác phẩm
            KHOA HỌC PHƯƠNG TÂY
            và TRIẾT LÝ PHƯƠNG ĐÔNG
            _______________________________
                      



                                 
                      
                      
                      
                      
                      
                      


                      
          Last edited by Hoàng Vân on Thứ ba 14/03/17 08:16, edited 2 time in total.
          Hình đại diện
          Hoàng Vân
          Bài viết: 20010
          Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
          Gender:

          Ra mắt sách tại Sydney ...

          Bài viết bởi Hoàng Vân »

          •           





                      
            Buổi ra mắt sách


            với cộng đồng người Việt tại Sydney
            ___________ngày 05-03-2017
            _______________________________





                      


                      
            . :flower:
                      
          Last edited by Hoàng Vân on Thứ ba 14/03/17 12:27, edited 2 time in total.
          Trả lời

          Quay về “Tổng hợp”