nhận định mới về Tín Lý và Giáo Lý Công Giáo

Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20038
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

nhận định mới về Tín Lý và Giáo Lý Công Giáo

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  • nhận định mới
    về Tín Lý và Giáo Lý Công Giáo

    ______________________________
    Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ - 2007





    Phần I - Tín Lý
    ______________




              Có thể nói được rằng trong vòng 2000 niên vừa qua Cơ Đốc Giáo (Christianity) đã tung hoành trên thế giới. Chữ Cơ Đốc Giáo bao gồm, Công Giáo, Chính Thống giáo, Tin Lành giáo, vì tất cả đều tin vào Thượng đế, như Tân Cựu Ước đã mô tả; và đều tin Chúa Giê Su là Thiên Chúa giáng trần cứu chuộc thiên hạ. Con số tín đồ đã lên cho đến hơn cả tỉ .

    (....)

    Một nhận xét sơ khởi của tôi là vì các đạo Thiên Chúa Giáo nói trên, tuy có thể có
    • cùng một Thánh kinh (Tin Lành chỉ có 39 quyển Cựu Ước, Công giáo có 47 quyển),
      cùng tin có Thượng Đế,
      cùng nhận Chúa Giê Su là giáo chủ,
    nhưng đi sâu vào các vấn đề tín lý, tìm hiểu cách thức các Giáo hội đó đối đãi với nhau, chúng ta mới thấy tất cả các đạo giáo trên đều là những đạo tương đối, nói là Trời lập ra, nhưng chính thực là người sáng tạo. Có điều Giáo Hội này cho là Chân, thì Giáo hội kia cho là Giả. Giáo Hội nào cũng đề cao tình bác ái, nhưng lịch sử đã cho thấy những giáo hội anh em với nhau nói trên đã luôn luôn coi nhau là thù địch, đã từng bỏ nhau xuống hỏa ngục, đã từng xỉ vả, nguyền rủa lẫn nhau, thậm chí đã từng hưng binh tàn sát lẫn nhau, đã từng dùng những thủ đoạn hết sức ác độc để gieo tai họa cho giáo hữu của đối phương.



    Trong các tôn giáo nói trên, Công Giáo mạnh nhất, có tổ chức nhất, nên tôi sẽ dùng Công Giáo làm đối tượng chính của thiên khảo luận. Tôi làm công chuyện này không có ác ý gì riêng đối với Công Giáo, vì đối tôi bất kỳ đạo giáo nào khi đã đi vào con đường “Công truyền”, cốt thu hút quần chúng, thì cũng đầy dẫy những sai lầm, cũng đầy dẫy những thủ đoạn tàn độc. Chúng ta chỉ có thể mù, hay điếc mới không nhìn thấy, nghe thấy những điều đó.. Tôi chọn Công Giáo, vì Công Giáo có nhiều tín đồ nhất và lâu đời nhất. Công Giáo lâu đời chỉ thua có Do Thái Giáo, một tôn giáo mà Công giáo đặt trọng tâm hủy diệt trong vòng 2000 năm nay, nhưng chung cuộc đã thất bại, như ta sẽ thấy sau này.




    Trước hết, đối với tôi, cái sai lầm lớn lao của con người Tây Phương trong vòng mấy nghìn năm nay là niềm tin vô tận vào quyển Thánh Kinh – Tân lẫn Cựu Ước –
    • và cho rằng chính Thiên Chúa đã mất thì giờ mà đọc cho các tác giả thánh kinh viết,
      cho nên nó phải đúng từng chữ, và tất cả những điều đã ghi chép trong đó là những dữ kiện lịch sử, là “chân lý”.
    • Họ còn cho rằng chân lý
      • chỉ được mặc khải cho các tác giả Thánh Kinh – Tân, Cựu Ước –
        và đã chấm dứt sau các thánh Tông đồ.
    • Cơ quan nắm giữ Chân Lý hiện nay là Giáo hội.
      Con người bình thường không được quyền hiểu Kinh Thánh theo ý mình, mà phải hoàn toàn lệ thuộc vào sự giải thích của Giáo Hội.


    Vì dựa vào Thánh Kinh, nên nhiều người cho đến ngày nay vẫn còn cho rằng trái đất, con người mới được tạo dựng cách đây khoảng 6.000 – 10.000 năm. Niềm tin này đã được mọi người Công giáo tin theo. Phía Tin Lành thì những người tin mạnh nhất là những người được mệnh danh là Bảo Thủ (Fundamentalists).

    Đọc lại Thánh Kinh, thì tất cả những dữ kiện đưa ra trong các chương 1-2 Sáng Thế Ký, đều thuộc loại huyền kỳ, chứ không có chút gì là khoa học, lịch sử.

    Ta dẫn chứng bằng Sáng Thế Ký 1 và 2.

    Theo Sáng Thế Ký 1, Chúa dựng nên trời đất trong 7 ngày theo thứ tự sau:

    1. - Ngày thứ nhất:
      Chúa dựng nên trời đất, và ánh sáng. Chia ánh sáng khỏi tối tăm. Gọi ánh sáng là ngày và tối tăm là đêm.
    2. - Ngày thứ hai:
      Dựng nên vòm trời (firmament, vault) (Gen 1:6).[(The New Jerusalem Bible của Công Giáo dịch là Vault (vòm), và chú rằng người dân Semites xưa coi cái vòm trời có cứng chắc, có thể giữ nước ở phía trên, không cho rơi xuồng trần gian. Nó hình nữa vòng cầu, hoặc như cái chảo úp, như ta thường trông thấy. Nó chắc chắn là phải hết sức cứng vì có thể chứa được một lượng nước khổng lồ bên trên. Vòm trời đó, theo Job, đã được đúc bằng “đồng thau” (Job 37:18). Vòm đó có những cửa. Khi muốn có Hồng Thủy, những “cửa trời” đó sẽ được mở ra cho nước trên trời tuôn xuống (Gen 7:11). Mặt trăng, mặt trời và các vì sao được gọi bằng một danh từ hết sức khiêm tốn là “đèn đóm” (xem Kinh Thánh – Nguyễn Thế Thuấn Gen 1:17)-đều nương vào vòm trời đó (Gen 1:17), y như những ngọn đèn treo trên trần nhà. Những ngọn đèn đó dĩ nhiên là nhỏ xíu, vì lúc thế mạt – mà cách đây 2000 năm – Chúa Giê Su đã chủ trương là: “sắp tới đây”, tinh tú sẽ rụng xuống trần gian nhiều như những quả vả bị dập vùi trong một trận cuồng phong (Rev 6:13). Cung đình Chúa và tòa ngôi Ngài đặt trên vòm trời đó (Psalm 11:4), vì Sáng Thế Ký đã định nghĩa cái vòm đó là “trời” (Gen 1:8).
      Chúa Giê Su cũng xác quyết Chúa Cha ở trên đó, Ngài dạy Cầu xin: Lạy Cha chúng tôi ở trên trời (Mat 6:9). Thánh Joan dạy rằng lúc thế mạt vòm trời đó sẽ bị cuộn lại, cuốn đi như một trang sách (Rev 6:14). Chúng ta cũng nên nhớ rằng vòm trời đó có nhiều cột chống đỡ (Job 27:11); và trái đất cũng có nhiều cột chống đỡ (Job 9:6). Đất đã được Chúa đặt vững trên mặt nước (Psalm 136:6). Đất muôn đời đứng yên một chỗ (Terra in aeternum stabat, Vulgate, Eccl. 1:14)]
    3. - Ngày thứ ba:
      Phân đất ra khỏi nước. Dựng nên cây cối .
    4. - Ngày thứ tư:
      Dựng nên hai ngọn đèn lớn nhỏ và các vì sao, đặt vào vòm trời, để soi cho trái đất, và để tiện cho việc làm lịch, xem ngày.
    5. - Ngày thứ năm:
      Dựng nên các loài dưới nước và trên không.
    6. - Ngày thứ sáu:
      Dựng nên các loài sống trên cạn, dựng nên ông A Dong, bà E Và.
    7. - Ngày thứ bảy nghỉ.


    Trong chương nhất này tên của Chúa là ELOHIM.
    Đến chương hai, Chúa đổi tên là YAHWEH, và tả lại cung cách tạo dựng nên trời đất và muôn loài một cách hoàn toàn khác biệt như sau.

    Đại khái rằng:
    Thoạt kỳ thủy khi Chúa dựng nên trời đất, thì trái đất còn hoang vu, Chúa bèn lấy bụi đất mà dựng nên ông A Đam rồi thổi sinh khí vào lỗ mũi ông cho ông thành người sống động. Sau đó dựng nên một cái vườn cho ông ở, và lúc ấy mới dựng nên cây cối. Sau đó, muốn cho ông có một người bạn xứng đáng nên đã dựng nên các loài vật, và các chim trời, và đem chúng lại cho ông đặt tên. A Đam chê chẳng tìm được bạn nào thích hợp, Chúa bè cho ông ngủ đi và lấy một khúc sườn của ông để tạo dựng nên bà E Và.

    Ta nhận thấy trong chương hai này không có nói dựng nên mặt trời, mặt trăng gì cả, mà lấy con người làm trọng tâm. Trong chương này, Chúa dựng nên con người trước rồi mới dựng nên cây cối và vạn vật sau.


    Sánh hai chương trên, ta đã thấy một sự mâu thuẫn quá lớn lao. Không có lý nào, mà Ngũ Kinh do Chúa đọc cho một tác giả duy nhất là Moses chép, khi mô tả cùng một công chuyện tạo dựng, lại có thể khác nhau đến như vậy.

    Ngày nay các học giả đã chứng minh được rằng: Ngũ Kinh (Genesis, Exodus, Numbers, Deuteronomy, Leviticus) là do nhiều môn phái, nhiều người sống trong nhiều thế kỷ khác nhau viết. Những môn phái đó là:

    • - Phái Yahwistic ( viết tắt là J-J là đầu chữ Jehovah), vì gọi Chúa là Yaweh hay Jehovah,
      viết vào khoảng thế kỷ IX trước kỷ nguyên (BC).
    • - Phái Elohistic (viết tắt là E) vì gọi Chúa là Elohim,
      viết ít lâu sau trường phái trên.
    • - Phái Deuteronomic (viết tắt là D)
      viết vào khoảng 622 (BC) đời Josiah.
    • - Phái Priestly (viết tắt là P)
      viết sau khi dân Do Thái đi lưu đày, tức là sau 500 (BC).


    Như vậy, Moses sống vào khoảng 1250 BC, người mà ta vẫn được dạy dỗ là tác giả Ngũ Kinh – ngay Chúa Giê Su cũng tin vậy (John 5:46 – Luke 24:27 – Luke 16:31) – thực ra lại không phải là tác giả, mà tác giả lại là vô số người viết, cách nhau nhiều thế kỷ (bộ Ngũ Kinh như vậy đã được viết ra trong vòng 400 năm).

    Chương 1 Genesis đã được viết bởi môn phái Priestly (P), còn chương 2 đã được viết bởi môn phái Yahwistic. Cứ so sánh hai chương trên với sự mô tả khác biệt nhau như nước với lửa, ta đã có thể kết luận chắc chắn rằng đó không phải là Chúa phán, hay Chúa viết, Chúa soi, mà là người phàm viết như trăm nghìn huyền thoại khác.


    • Công Giáo như đã ghi rõ rằng trong quyển Martyrologe Romain, cho rằng trời đất đã được tạo dựng vào năm 5199.
    • Tin Lành, theo Tổng Giám mục Ussher, đã cho rằng trời đất đã được tạo dựng nên lúc 9 giờ sáng ngày 23 tháng 10 năm 4004.
    • Các học giả Do Thái đoán rằng trời đất đã được tạo dựng nên ngày 7 tháng 10 năm 3761.
    • Các người theo phái Fundamentalists cho rằng tất cả đã được tạo dựng nên khoảng từ 6.000 đến 10.000 năm nay. Cũng có người cho rằng sự tạo dựng đã xảy ra vào năm 5509 (1).


    Theo khoa học ngày nay, sự diễn biến đã xảy ra như sau.

    • Thoạt kỳ thủy, có một “cái trứng vũ trụ” (cosmic egg) vô cùng nóng hổi.
    • Cách đây khoảng 15 tỉ năm, đột nhiên nổ tung (big bang theory) sinh ra các giải Ngân Hà và tỉ tỉ tinh tú.
    • Cách đây khoảng 5 tỉ năm, thái dương hệ ra đời.
    • Cách đây khoảng hơn 600 triệu năm, các sinh vật li ti dưới biển bắt đầu xuất hiện.
    • Cách đây 450 triệu năm, có cỏ cây.
    • Cách đây khoảng 405 triệu năm, bắt đầu có sinh vật.
    • Các loài phi trùng có cách đây khoảng 400 triệu năm.
    • Thủy tổ loài người – các loại nhân hầu – xuất hiện cách đây khoảng 40 triệu năm.
    • Vật có nhân dạng (hominids) xuất hiện cách đây khoảng 20 triệu năm.
    • Homo sapiens xuất hiện cách đây 150.000 năm.
    • Con người “Modern man” có khoảng cách đây 50.000 năm.


    Sánh các đoạn Thánh Kinh với nhau, sánh Thánh Kinh với các khám phá khoa học ta thấy hai chương 1 và 2 Sáng Thế Ký hoàn toàn mâu thuẫn nhau:

    • Cái vòm trời, cái “trời” bằng đồng thau mà Chúa đã vất vả dùng cả ngày thứ hai xây dựng nên với những cửa có thể mở đóng tùy nghi, đã được chứng minh là hoàn toàn không có. Đó chỉ là một ảo giác của chúng ta mà thôi!
    • Trái đất không thể nào có trước các vì tinh tú và mặt trời, mặt trăng.
    • Cây cối không thể có trước tinh tú và mặt trời, mặt trăng.
    • Adam, Eva không phải là thủy tổ của loài người, vì con người đại khái đã xuất hiện cách đây tối đa khoảng nhiều triệu năm; tối thiểu cách đây khoảng 150.000, chứ không phải là mới cách đây 6004 năm!


    Nếu vậy
    • một là chúng ta phải chấp nhận những chương sách nói trên không phải là “Lời Chúa” mà là “Lời Phàm”.
    • Hai là nếu đúng là lời Chúa, thì lời Chúa hoàn toàn sai lạc, nghịch lại với thực tế.

    Nếu nhận rằng các chương trên là “Lời phàm”, thì lấy gì bảo đảm các chươmg sau là “Lời Chúa”?
    Nếu Adam và Eva không phải là thủy tổ loài người thì làm gì có tội tổ tông?
    Nếu không có tội tổ tông, thì làm gì có chuyện Chúa giáng trần cứu chuộc?


    Nếu vậy, đạo Thiên Chúa Giáo, hoàn toàn đã được xây dựng trên những ảo tưởng.
    Nếu không có chuyện Chúa giáng trần, thì dĩ nhiên Chúa Giê Su không phải là Thiên Chúa, mà chỉ là một con người đã giác ngộ, đã sống phối hợp được với Thượng đế ngay từ ở gian trần này, như trăm ngàn thánh hiền xưa nay đã làm được như vậy.



    Chúa tuyên bố đã nghỉ không còn tạo dựng nên cái gì mới nữa, thế mà thiên văn học luôn luôn cáo tri có những vì sao mới xuất sinh trên vòm trời, kể cũng kỳ lạ thật.

    Ở Mỹ này, nhiều người theo Thiên Chúa Giáo cũng đã nhìn thấy cái nguy cơ. Họ cho rằng Darwin với thuyết Tiến Hóa
    • đã làm giảm thiểu quang huy của Chúa trong sự tạo dựng, đã muốn “hạ bệ Thiên Chúa”,
    • và đã hàm ngụ rằng trong vòng 2000 năm nay, những người theo Thiên Chúa giáo đã bị lừa bịp bởi một lời nói láo vĩ đại(2).


    Những người triệt để theo truyền thống cũ (Fundamentalists) thuộc giáo phái Tin Lành, trong nhiều tiểu bang đã đứng ra bài xích khoa học và thuyết Tiến Hóa trong các trường trung tiểu học công cộng. Họ biết rằng nước Mỹ cấm không cho dạy đạo giáo trong các trường nên từ năm 1960 trở đi, họ kêu gọi những học giả, những khoa bảng thành lập những hội nghiên cứu Thuyết Tạo Dựng theo khoa học.

    Những hội mệnh danh là Tạo Dựng Khoa Học đó có thể liệt kê như sau:

    • The American Scientific Affiliation (ASA),
      thành lập năm 1941, gồm 3000 hội viên.
    • The Creation Research Society (CSR),
      thành lập năm 1963, ở Ann Arbor Michigan. Có khoảng 500 hoạt động hội viên.
      Điều kiện nhập hội tối thiểu
      • phải có Cao Học về một bộ môn khoa học nào đó,
        và phải tin rằng Kinh Thánh hoàn toàn đúng, không hề sai lầm; chuyện Chúa tạo dựng nên muôn loài là có thực như Kinh Thánh đã chép; Hồng Thủy toàn cầu là chuyện có thực(3).
    • The Creation Science Research Center (CSRC),
      có địa chỉ liên lạc với khoảng 210.000 người.
      Trong năm 1970, thường tổ chức những cuộc du ngoạn viếng thăm núi Ararat, để đi tìm lại chiếc tàu Noe. Giá tiền là $1.397 đi từ Nữu Ước.
    • The Institute for Creation Research (ICR)
      thành lập năm 1970, có đại bản doanh ở San Diego.
      Hội này hoạt động rất hăng say. Đã xuất bản 55 cuốn sách; đã có một Nguyệt san là Acts and Facts gửi cho 60.000 độc giả. Họ cũng đã tổ chức nhiều chuyến thám hiểm núi Ararat vào những năm 1972, 73, 74, 75, nhưng hoặc thất bại, hoặc bị chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ ngăn chận. Họ cho rằng đã có đủ bằng chứng để biết tàu Noe có dung tích 567 toa xe lửa và có thể chứa khoảng 50.000 con vật.
    • The Genesis Shool of Graduate Studies
      ở Gainville, Florida.
    • The Bible Science Association.
    • Scientific Creationism Association of Southern New Jersey.
    • The creation Research Science Education Foundation Inc.
      ở Ohio.
    • The Triangle Association for Scientific Creationism in the Research Triangle
      ở gần Raleigh, North Carolina.
    • The Missouri Association for Creation.
    • The Evolution Protest Movement (EPM),
      1932, ở Anh.
    • The Newton Scientific Organisation,
      1973, ở Anh v.v..(4)


    Tuy thất bại liên tiếp, nhưng trong vòng mấy chục năm nay họ cố vận động đem thuyết Tạo Dựng Khoa học vào giảng dạy trong các trường song song với thuyết Tiến Hóa. Cho đến bây giờ họ tuy còn thất bại, nhưng họ thường xuyên vẫn dùng thế lực để kiểm soát các sách giáo khoa, không cho dạy Thuyết Tiến Hóa một cách lộ liễu.

    Chính vì vậy mới có vụ án John Thomas Scopes năm 1925 – mà ta vẫn thường gọi là “vụ án con khỉ” – Tòa đã tuyên án phạt Scopes $100.000 vì đã vi phạm luật tiểu bang Tennessee cấm giảng Thuyết Tiến Hóa trong học đường.

    Từ 1921 đến 1929 họ cũng đã vận động được 37 tiểu bang ban hành những luật chống dạy thuyết Tiến Hóa. Ví dụ luật Mississipi (1926), Arkansas (1928), Texas (1929). Tuy nhiên Tòa Án Liên Bang bao giờ cũng chủ trương Nhà Nước tách rời khỏi Giáo hội, vì thế không cho giảng dạy tôn giáo trong các trường và đã phán quyết các luật tiểu bang cho phép dạy thuyết Tạo Dựng trong các trường trung tiểu học toàn quốc Mỹ là vi hiến.

    Về phía Khoa học, tức là về phía những người có trách nhiệm soạn thảo chương trình giảng huấn, ta có những cơ quan sau:

    • - National Science Foundation (NSF).
      - Biological Sciences Study (BSCS).
      - Man: A Course of Study (MACOS).
      - Education Development Center (EDC).
      - The Amercian Institute of Biological Sciences (AIBS).
      - National Association of Biological Teachers (NABT).
      - Biological Sciences Curriculum Study (BSCS).

    Ngoài ra còn có cơ quan American Civil Liberty Union, bảo vệ người dân Hoa Kỳ.

    Các chương trình, các sách giáo khoa được soạn thảo theo tinh thần khoa học, và đều dựa trên thuyết Tiến Hóa. Đôi bên thường xuyên chống đối lẫn nhau, kiện cáo lẫn nhau. Phe Tiến Hóa nhân danh Khoa Học. Phe Tạo Dựng cũng đội lốt Khoa Học, cũng nhân danh Khoa Học như ai.

    • Tháng 12, 1981, cơ quan American Civil Liberty Union kiện lên tòa Liên Bang xin hủy luật 590 của Arkansas đã cho phép dạy thuyết Tạo Dựng trong các trường. Tòa Án Liên Bang tuyên bố điều khoản 590 là vi hiến.
    • Tháng 8, 1972, William Willoughby (phái thủ cựu) kiện National Science Foundation, bắt cơ quan này cũng phải viện trợ cho chương trình Tạo Dựng, cũng y như đã viện trợ cho chương trình xuất bản sách của Biological Science Study (BSCS). Tòa án Liên Bang Washington miễn tố, vì lẽ các sách của BSCS là sách “phần đời”. Phe Fundamentalists kháng cáo, cũng thua luôn.
    • Năm 1978, Liên Đoàn các Giáo chức giảng dạy Sinh Lý Học (NABT) kiện tiểu bang Tennessee về đạo luật cho phép dạy thuyết Tạo Dựng trong các trường. Năm 1980, tòa Liên Bang xử luật đó là vi hiến.
    • Phái Tạo Dựng lại kiện Hội Đồng Giáo Dục California vì đã vi phạm quyền tự do tín ngưỡng của con cái họ. Họ dắt con, dắt cái họ ra tòa, để trẻ khai là đã được giảng dạy rằng chúng là dòng dõi khỉ. Phía hội đồng giáo dục đã mời được những nhà khoa học thượng thặng ra để bênh vực và để biện minh cho thuyết Tiến Hóa. Quan tòa lúc ấy là ông Irving Pertluss khuyến cáo Hội Đồng Giáo Dục không nên quá cứng rắn giáo điều, và nên tế nhị khi trình bày về nguồn gốc con người trong các sách giáo khoa. Phe Tạo Dựng coi đó là một thắng lợi của họ(5).


    Mới hay, cho đến ngày nay, sự tranh chấp giữa khoa học và tôn giáo còn rất gay cấn. Chính quyền Liên Bang thì luôn chủ trương tôn giáo tách rời chính trị, tách rời học đường, và sẽ không bao giờ cho phép giảng dạy những gì xa gần có liên quan đến vấn đề tôn giáo trong các học đường.




    Cho đến bây giờ, tôi cũng không thể hiểu nổi được tại sao những người mang tiếng là có những bằng cấp khoa học cao như vậy, cho đến nay vẫn tin là có chuyện Hồng Thủy toàn cầu. Một người bình thường nào đó cũng sẽ nhận ra rằng đó chỉ là một vụ lụt lớn trong vùng Sumeria (thuộc Tiểu Á mà thôi).

    The New Jerusalem Bible của Công giáo bản tiếng Anh hay tiếng Pháp trong chú C của Chương 7 Genesis cũng đã thẳng thắng chú thích rằng:
    • đó là một chuyện lụt dựa trên ký ức về một hay nhiều trận lụt tai hại do hai sông Tigris và Euphrates tạo ra, và sau đó truyền thuyết dân gian đã phóng đại thành một trận lụt có tầm kích thế giới(6).


    Lụt cả xảy ra vào khoảng 2348 trước kỷ nguyên, 5 năm sau khi vua Nghiêu lên ngôi.
    Chuyện Lụt Cả kể trong Sáng Thế Ký, tối thiểu, đã được hai tác giả viết ra mà ngày nay gọi là tài liệu J và P, rồi sau đem gọp lại thành một chuyện.

    • Theo P, Chúa truyền ông Noe, đem súc vật vào trong tầu mỗi thứ một đôi. Theo J, Chúa lại dạy ông Noe phân loài vật thành loài sạch và loài dơ (như heo, thỏ, đà điểu, các loại cú vọ v..v..xem Leviticus 11:1-46). Khi ấy chưa có Leviticus, chắc Chúa lại phải mất thì giờ dạy Noe phân biệt thế nào là loài dơ, loài sạch. Sạch thì đem vào trong tầu mỗi thứ 7 cặp. Dơ thì đem vào mỗi thứ hai cặp (Gen 7:2).

      J cho rằng mưa 40 đêm ngày, và lụt 40 đêm ngày (Gen 7:10-11). P cho rằng lụt khi Noe 60 tuổi, ngày 17 tháng 2 (Gen 7:10-11), và lụt 150 ngày (Gen 8:3).

      Con tầu Noe kích thước như sau: dài 450 feet (15 yards hay 135 mét), ngang 75 feet (25 yards hay 22.5 mét), cao 45 feet (15 yards hay 13.5 mét). Tầu có ba tầng (Gen 6:16). Con tầu may ra có một cửa sổ nhỏ, hoặc là kín mít (Gen 6:16).


    Lúc Lụt cả, theo Do Thái, thiên hạ hãy còn vẻn vẹn ở trong vùng các sông Tigris và Euphrates, Tiểu Á. Dĩ nhiên là tác giả Thánh Kinh không hề nghĩ rằng còn có Bắc Âu, Ấn Độ, Tân Cương, Trung Hoa, Nhật Bản, Úc Châu, Mỹ Châu, Bắc Cực, Nam Cực. Đây là thiên hạ khoảng năm 611-547 trước Kỷ Nguyên, tức là khoảng 2000 năm sau Hồng Thủy do Anaximander vẽ, và đã được đăng tải trong quyển The Philosophy of Greece của Robert S. Brumbauch, tr. 22 (thời Hồng Thủy chắc thiên hạ còn nhỏ hơn vậy nhiều).

    Ngày nay, nhờ Khoa học chúng ta biết được có khoảng từ 2 đến 4 triệu sinh linh, từ côn trùng, đến chim muông, cầm thú. Côn trùng chiếm 4/5 của tổng số (7).

    Nếu chỉ là một vụ lụt trong vùng, mà Noe được Chúa báo cho biết trước để chuẩn bị tầu, cùng vợ con được thoát nạn, với ít nhiều bò, lừa, dê, cừu, mèo, chó của ông, thì là, một chuyện hết sức hợp lý. Còn nếu Chúa ra lệnh cho Noe trong một thời gian rất ngắn vừa đóng tầu, vừa đi bắt 5.000.000 x 2 (1 đực, 1 cái) phi cầm, tẩu thú, côn trùng ở khắp nơi, lại vừa phải phân biệt đực cái; đi không biết là bao nhiêu nước, không biết bao nhiêu dặm đường, trải qua gấp trăm ngàn lần những gian khổ của Đường Tam Tạng; dỗ dành, đánh bẫy được hùm beo sư tử, đem được trăm ngàn loại rắn rết, mối kiến theo mình về tàu, thì là một đại họa cho Noe và gia đình vì chắc chắn sẽ bỏ mình đang khi thi hành sứ mạng gian lao.

    Thực ra, nếu muốn làm được công chuyện vĩ đại như vậy, thì dẫu Noe và ba người con ông có tài năng, có thiện chí mấy, và có mất mấy nghìn năm cũng không thể nào làm nổi được. Rồi làm sao mà dỗ cho kiến, cho các cặp uyên ương ruồi nhặng, ếch nhái, cho sên, cho rùa, cho rắn, cho hùm beo, sư tử, cho ngan, cho ngỗng, cho le le, cho phượng, cho mối, cho mọt, ấy là chưa kể đến các loại cào cào, châu chấu, bươm bướm, chuồn chuồn, đến các loại vi trùng vi khuẩn lớn nhỏ, theo nhau xuống một cái tàu nhỏ xíu, tối tăm; rồi ở trong đó được ăn uống hẳn hoi, sống một cuộc sống hòa bình trật tự với nhau trong vòng 150 ngày, mà không có con nào chết đi, thì quả thật là những phép lạ, lớn hơn cả sự tạo dựng nên trời đất nữa.

    Xong rồi, khi thả các loài ra, con nào lại về cư ngụ nơi đất đai con ấy. Con thì sang Phi, con thì sang Ấn, con thì sang Úc. Mỗi khi tôi thấy chỉ có Úc mới có Kangourou, tôi tự hỏi sao giống này lại tài tình như vậy, vì đã làm một cuộc viễn du, vượt trùng dương, sang Úc.

    Trong Sáng Thế Ký có một câu: “..Và nước đã dâng lên rất cao trên mặt đất, và những đồi cao trong thiên hạ đều bị ngập. Nước đã dâng cao 15 xích (22 feet = 7.1 yards = 6.3 mét) và núi non đã bị che phủ..”.

    Nếu hiểu rằng nước chỉ dâng cao có 15 xích, thì dĩ nhiên chẳng che phủ được đồi núi. Nếu hiểu rằng nước dâng cao hơn các đồi núi trong thiên hạ là 15 xích, thì chắc có Chúa chỉ bấy giờ mới đo được, và nếu quả đúng như vậy, thì phải có một số lượng nước lớn hơn số lượng nước hiện tại trong hoàn cầu là ba lần rưỡi. Chúng ta biết Everest cao là 29.028 feet. Như vậy mực nước sẽ là 29.050 feet. Lượng nước lớn như vậy ở đâu ra, và rút đi đâu? Hơn nữa, các cây cối, rau cỏ nếu bị dìm sâu trong nước trong vòng 150 ngày, đều chết hết, là vì chúng cũng hút thở dưỡng khí, thán khí như loài người. Nếu ngày nay, còn có thảo mộc cỏ cây, thì đó là bằng chứng đã không có lũ lụt hoàn cầu.

    Đọc lịch sử Ai Cập, lịch sử Trung Hoa, lịch sử Ấn Độ, ta thấy tất cả đều liên tục. Thời vua Nghiêu (2357-2256), đã có thiên hạ làm bầy tôi, chắc cũng khoảng vài triệu người. Lụt cả xảy ra năm 2348 bên Tiểu Á chẳn làm cho vua Nghiêu và bầy tôi hề hấn gì cả. Các linh mục Âu Châu khi sang giảng đạo bên Trung Hoa rất khổ tâm vì câu chuyện này, và vì muốn bảo vệ Thánh kinh, bảo vệ chuyện Hồng Thủy toàn cầu, đã định viết lại lịch sử Trung Hoa với chủ đề rằng thời Nghiêu, Thuấn là những thời Huyền sử, hoang đường…

    Dẫu sao thì đối với tôi, đó chỉ là một trận lụt lớn trong vùng Mesopotamia mà thôi. Tất cả đã được phóng đại lên. Như trên đã chứng minh, các nhà bình giải Kinh Thánh Công giáo cũng đã công khai chấp nhận quan niệm đó. Đọc câu chuyện lụt cả, tôi càng thấy Sáng Thế Ký gồm toàn là những chuyện thần thoại, từ con rắn biết nói, đến “Cây biết lành, biết dữ”, “Cây hằng sống”, chuyện Noe đi bắt chim, bắt cọp, bắt sên, bắt kiến, nghĩa là bắt 10.000.000 sinh linh (5 triệu x 2, vì có đực có cái) đem về.


    Về phương diện Thiên Chúa, có lẽ nào Ngài đã hối hận vì đã chót dựng nên loài người (Gen 6:6), để đến nỗi phải hạ quyết tâm tiêu diệt tất cả. Và nếu Chúa quả tình vì một cơn giận dữ, mà hủy diệt thiên hạ – từ con người đến muôn triệu sinh linh – thì Ngài hết sức ác độc, hết sức dã man, hết sức bốc đồng, hết sức nhẹ dạ, đến nỗi làm công việc đó rồi lại hối hận, phàn nàn, và lại hứa hẹn sẽ không bao giờ hủy diệt quần sinh nữa. Đọc lời Ngài long trọng hứa với Noe và quần sinh:

    • Bao lâu trái đất còn đây,
      Mùa màng, cấy gặt chẳng thay chẳng rời.
      Hè qua, đông lại tới nơi,
      Ngày đêm, tiếp tục, chẳng ngơi, chẳng ngừng (Gen 8:22).


    Đọc xong lời hứa long trọng này, tôi nghĩ ngay đến
    • những lời đe dọa sắp tận thế trong Tân Ước,
      từ của Chúa Giê Su
      đến các thánh tông đồ, như Matthew, như Peter, như Paul, như John
      (Mat. 24:26-32; Marc 13:24-32; Luke 20:25-32; I Peter 3:7; I Thessalonians 4:15; Rev. 22:10-13),

    tôi thấy lòng bùi ngùi, vì chẳng lẻ Thiên Chúa lại luôn luôn tiền hậu bất nhất như thế hay sao. Và chính vì tin rằng Thượng Đế toàn năng, toàn thiện, nên tôi mới dám đoan quyết rằng trong Kinh Thánh cả cũ lẫn mới, có rất nhiều điều chẳng do Chúa soi sáng, mà là của người phàm viết bậy bạ vào mà thôi. Đúng là “Tận tín thư bất như vô thư”.

    Tóm lại, tôi đã dựa vào những dữ kiện hết sức vô tư, để kết luận rằng Sáng Thế Ký chẳng qua là một bộ huyền sử, và lịch sử của dân tộc Do Thái mà thôi. Giá trị của nó cũng như chuyện Lạc Long Quân và Bà Âu Cơ.

    Tôi đi đến kết luận đó
    • nhờ câu chuyện Vòm Trời,
      nhờ chuyện Hồng Thủy,
      và nhờ những Mâu Thuẫn Nội Tại giữa các mẫu chuyện khác nhau về Hồng Thủy,
      nhờ sự so sánh các niên kỷ của Sáng Thế Ký về Sáng Tạo và của Khoa Học.

    Càng ngày tôi càng không tin
    • Cựu Ước là do Chúa soi sáng để viết ra,
      vì nếu quả thật như vậy, thì những điều Ngài mô tả về chính Ngài hết sức là lẫn thẩn, kỳ quặc, hết sức tàn ác.
      • Ngài rất mơ hồ về Thiên văn.
      • Ngài là Chúa của một bộ lạc, một dân tộc nhỏ, đã vì Israel mà gieo tai giáng họa cho Ai Cập; mà tàn sát các dân trong vùng đất Canaan, khi Do Thái được lệnh vào chiếm đoạt vùng này.
      • Ngài là Chúa có hình dáng một con người, có lưng, mặt, tay chân như người, có lúc đã từng xuống vật nhau với Jacob và điểm huyệt Jacob (Gen 32:3-33).
      • Ngài cũng phàn nàn hối hận, cũng ghen tuông, giận dữ như con người,
      • cũng để cho dân riêng mình bị vua Babylon bắt đi đày, đền thờ mình bị phá hủy,
      • rồi đạo mình lập ra cũng bị chính những người theo đạo con mình phỉ báng và coi là tà đạo…
      • Không có lý nào khi Chúa đã dựng nên vũ trụ này từ 15 tỉ năm nay, mà Ngài lại có thể nói lầm là mới dựng nên cách đây có hơn 6.000 năm.


    Sự mặc khải đối với tôi, được thường xuyên liên tục diễn ra, như là một hồng ân cho tất cả những người có lòng tha thiết tìm cầu.


    Và CHÂN LÝ là của chung nhân loại
    chứ không có ai có quyền sở hữu riêng tư, độc sản về chân lý.






    (... còn tiếp ...)
    nguồn: sachhiem.net
              

              
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20038
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: nhận định mới về Tín Lý và Giáo Lý Công Giáo

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  • nhận định mới
    về Tín Lý và Giáo Lý Công Giáo

    ______________________________
    Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ - 2007





    Phần I - Tín Lý
    ______________




    (... tiêp theo ...)

              
    Sở dĩ các người sáng lập đạo Công Giáo đã đoan quyết rằng Cựu Ước là hoàn toàn đúng, vì họ cần dùng Cựu Ước để chứng minh rằng Chúa Giê Su chính là đấng Cứu Thế đã được các tiên tri trong Cựu Ước tiên tri từng li từng tí. Trong khi viện dẫn các lời Cựu Ước thấy câu nào không hợp với Chúa Giê Su thì thông qua, thấy câu nào có thể dùng được thì lấy ra, thì cắt xén đi hoặc dịch lại cho phù hợp. Thực là cả một công trình tinh vi, tuyệt diệu.

    Một người đã làm được chuyện ấy là thánh Matthew. Phúc Âm Matthew chuyên môn dùng Kinh Thánh cũ để áp dụng vào Chúa Giê Su, để huyền thoại hóa Chúa Giê Su. Khi muốn dùng Thánh Kinh cũ để chứng minh Chúa Giê Su là đấng Cứu Thế đã được tiên tri từ ngàn xưa, tuyệt đối sẽ lượt bỏ qua những câu lớn lao như:

    • “Này đây lời Yahvê, vua Isreal, đấng Cứu Chuộc Isreal, Yahvê các đạo binh. Ta là đầu, là cuối. Ngoài ta ra không có Chúa nào khác. Ai là người giống Ta, hãy đứng lên, nói xem..”
      (Isaiah, 43:6-7).

      “Chính ta, Yahvê, đã làm nên tất cả. Ta một mình đã căng trời, bện đất. Nào có ai giúp Ta?”
      (Isaiah, 44:24).

      “Và các ngươi hiểu rằng chính là Ta. Trước Ta không có Chúa nào, và sau Ta, cũng không có Chúa nào. Chính Ta là Yahvê, không có Đấng Cứu Rỗi nào ngoài Ta. Không ai có thể cứu khỏi tay Ta. Ta làm, thì không có ai có thể kháng cáo.”
      (Isaiah 43:11-13).

      “Ta là Yahvê, chẳng có ai bằng; ngoài Ta ra, không có Chúa nào khác.”
      (Isaiah 45:5).

      “Chính Ta là Yahvê, ngoài Ta ra, không có Chúa nào khác.”
      (Isaiah 45:21).

      “Hãy quay về với Ta, từ mút cùng mặt đất, vì Ta là đấng chẳng ai bằng.”
      (Isaiah 45:22).


    Chắc chắn những câu đó chủ trương Yahvê độc tôn vô đối, duy nhất bất nhị, không bao giờ có Ba Ngôi.
    Thảo nào mà dân Do Thái, không thể nào tin Chuá Giê Su là Thiên Chúa giáng trần, là Ngôi Hai Thiên Chúa được. Đối với họ, Chúa Yahvê là chí tôn, vô đối.

    Không làm gì có thứ tội mà bị phạt cả đến trăm nghìn đời,
    • vì Chúa chỉ phạt tối đa là ba đời (Deuteronomy 5:9);
      sau Ngài lại đổi ý, chỉ phạt một đời, ai làm tội, người ấy chịu mà thôi (Ezechiel 18:3-4).


    Đấng Cứu Thế mà dân Do Thái chờ mong (...) sẽ có nhiệm vụ đem vinh quang lại cho dân Do Thái,
    chứ không là Chúa Giê Su đã đem thống khổ (...) lại cho dân Do Thái từ mấy nghìn năm nay.
    Họ nói không phải là không có lý.



    Khi Matthew muốn chứng minh là Chúa Giê Su đã được sinh ra do Đức Mẹ đồng trinh, ông đã viết như sau:

    • “… Bà sẽ sinh ra một người con và sẽ đặt tên là Giêsu: vì chính người sẽ cứu dân người cho khỏi tội khiên; mà tất cả để thực hiện lời tiên tri của Chúa: “Này đây có một người nữ đồng trinh sẽ mang thai và sẽ sinh con, đặt tên là Emmanuel, nghĩa là Chúa ở cùng chúng ta” (Mat. 1:21-23).


    Dở Isaiah ta thấy câu chuyện như sau:

    • “Lúc ấy vua Achaz đang bị hai vua Syria và Ireal uy hiếp. Chúa mới dùng tiên tri Isaiah đến trấn an vua Achaz, rằng hai vua kia sắp sửa bị tiêu diệt rồi, chỉ trong vòng ít năm nữa mà thôi. Isaiah nói như sau: “Ví thử có một người nữ, mà bây giờ có mang, và sẽ sinh ra một người con. Con trẻ này sẽ được đặt tên là Emmanuel. Nó sẽ ăn sữa và ăn mật ong. Đến khi nó phân biệt lành dữ, thì đất đai của hai vua mà Ngài sợ sẽ hoang, quạnh quẽ…” (Isaiah 7:14-17).


    Isaiah vâng lệnh Thiên Chúa đến nói với Achaz câu chuyện đó có một mục đích hẳn hoi, có một ý nghĩa hết sức rõ ràng. Chắc Isaiah cũng không thể ngờ được rằng câu nói của mình lại có thể biến hóa được đến như vậy. Và có thể Chúa Yahvê cũng không ngờ được là sẽ có chuyện kỳ dị như vậy. Nguyên bản là NGƯỜI NỮ.
    • Thánh Jerome dịch thành NGƯỜI NỮ ĐỒNG TRINH (Virgo),
      là vì Matthew đã chót hiểu như vậy.

    Ngày nay, ai cũng cho rằng thánh Jerome đã dịch sai, và các bản Kinh Thánh mới dịch lại là “người nử”. Tôi không nghĩ rằng đã dịch sai, mà chính là cố ý ngụy tạo nguyên bản.

    Ví dụ Kinh Thánh cũ có câu:
    • “Khi Israel còn nhỏ, ta yêu thương nó, và ta gọi con ta từ Ai Cập trở về, nhưng ta càng gọi chúng càng xa ta, và chúng đã tế lễ thần Baal (Osea 11:12).


    Câu này dĩ nhiên là Chúa nhớ lại chuyện đã đem dân Israel từ Ai Cập trở về.
    • Matthew chỉ cần lấy ra câu “Ta gọi con ta từ Ai Cập trở về”, và nhân đó bày ra chuyện Chúa đã trốn sang Ai Cập mấy năm, sau đó trở về (Mat. 2:15),
      một chuyện mà theo Luke, chắc chắn không thể nào có (Luke 2:30).


    Thật ra, tôi phục nhất là Matthew đã biết dùng Kinh Thánh cũ để chứng minh rằng nhất cử nhất động của Chúa Giêsu đã được tiên tri, tiên đoán trong Cựu Ước.

    Trong Mat. 2:23, Matthew cho rằng người ta gọi Chúa Giêsu là dân Nazareth, để làm trọn các lời tiên tri xưa.
    Tôi cho các nhà bình giải kinh thánh đã cố đi tìm xem câu tiên tri đó ở sách nào trong Cựu Ước, nhưng cho đến bây giờ cũng không tìm ra ... Chuyện đó có sao đâu!

    (...) Giáo Hội Công Giáo, đã biết dùng Cựu Ước để củng cố đạo Công Giáo. Giáo Hội Công Giáo đã long trọng tuyên bố rằng Cựu Ước chẳng qua cốt là để dọn đường cho sự quang lâm của Chúa Kitô. Hiến chế lời Thiên Chúa, số 15 viết:

    • “Nhiệm vụ Cựu Ước có được ấy cốt là để dọn đàng cho cuộc quan lâm của Chúa Kitô, Đấng cứu chuộc muôn loài, và Nước cánh chung của Người, bằng lời tiên tri loan báo, và bằng các hình bóng nhiều kiểu”
      (Kinh Thánh, Nguyễn Thế Thuấn, tr. XI).


    Sau khi đã dùng Kinh Thánh cũ và Kinh Thánh mới để ngụy xưng
    • Chúa Giêsu chính là Thiên Chúa giáng trần,
      đạo Công Giáo chính là đạo thật duy nhất,
      và Giáo Hoàng chính là đại diện của Chúa Giêsu, người nắm quyền sinh sát thực sự ở gian trần này,

    thì đạo Công Giáo bắt đầu tuyên bố
    • các luật đạo Do Thái là luật Maisen (chứ không phải của Đức Chúa Cha);
    • đạo Do Thái là đạo Maisen, chứ không phải là đạo của Đức Chúa Cha, nên đã lạc hậu, đã lỗi thời.
    • Người Công Giáo từ nay không phải theo các lề luật cũ của đạo Do Thái.
    • Thậm chí mười điều răn Thiên Chúa, Công Giáo cũng vất đi hai.
      • Chúa tuyệt đối cấm thờ ảnh tượng.
        Chúa dạy giữ ngày thứ bảy, Công Giáo dạy giữ ngày Chủ Nhật.



    Chúa dạy rằng dân Do Thái là dân riêng của ngài mãi mãi, trừ khi nào mặt trời mọc ban đêm, mặt trăng mọc ban ngày lúc ấy mới thôi (Jeremiah 33:24-26). Các Giáo Hoàng dần dần dùng chữ Tà đạo “Perfidia” để chỉ đạo Do Thái(8). Đặc biệt nhất là mấy chữ "Pro Perfidis Judaeis" đã được chép vào Kinh Thánh Lễ Công Giáo ngày Thứ Sáu Tuần Thánh
    • để cầu cho bọn tà đạo – bọn theo đạo đức Chúa Cha
      sớm trở về với đạo Công Giáo – đạo Đức Chúa Con.

    Ba chữ vàng son đó, sau khi đã ngự trị trong sách Thánh Lễ Công Giáo cả nghìn năm, dến thời Công Đồng Vatican II, tức là khoảng năm 1965 mới được bỏ đi…(9).

    • Rồi dần dần Giáo Hội công khai tuyên bố rằng dân Do Thái là dân hèn hạ, vô tín ngưỡng, thứ dân giết Chúa, cần phải đọa đày, hành hạ cho sánh danh Thiên Chúa, và đạo Do Thái là thứ đạo lầm lạc.
    • Trong nhiều thế kỷ, các Giáo Hoàng và các vua chúa Công Giáo đã dùng võ lực bắt buộc người Do Thái phải bỏ đạo mình mà theo đạo Công Giáo, nếu không sẽ bị trăm điều khốn nạn.
    • (...) Đạo Đức Chúa Cha lập ra, sau này lại bị những người theo đạo Con Ngài phỉ báng cho là tà đạo. (...)




    Dẫu sao thì ai theo đạo Do Thái hay theo đạo gì ngoại đạo Công Giáo cũng sẽ xuống hỏa ngục!
    Điều này đã được giảng dạy từ mấy nghìn năm nay, và nếu không còn giảng dạy như thế nữa họa chăng từ 1965, nghĩa là sau Công Đồng Vatican 2.

    (...) các Giáo phụ Công Giáo như Augustine, Origen, Cyprian đã nhất mực tuyên bố:
    • Ngoài Giáo hội, không được cứu rỗi (Extra Ecclesiam, nulla salus).

    Augustine viết:
    • “Ai sống ngoài Giáo hội sẽ phải chịu hình phạt đời đời, dẫu người đó tự thiêu nhân danh Chúa Kitô”(10).

    Công đồng Florence (1442) đã dõng dạc tuyên bố:
    • “Thánh Giáo hội La Mã tin chắc, tuyên xưng và công bố rằng
      ngoài Giáo Hội Công Giáo, không một ai có thể được sống đời đời,
      dù nó là ngoại đạo, là Do Thái giáo, vô thần, hay tách rời khỏi Giáo Hội:
      Nó sẽ làm mồi cho lửa đời đời dành cho ma quỷ và thủ hạ ma quỷ, nếu nó không trở về với Giáo hội Công Giáo trước khi chết”(11).

    Giáo hoàng Pius IX, trong tập tà Thuyết Kỷ Yếu (Syllabus of Errors), công bố vào tháng 12, 1864 cũng phi bác
    • không chấp nhận rằng bất kỳ sống trong đạo giáo nào, con người cũng có thể tìm được sự sống đời đời
    • và không chấp nhận rằng con người có thể tùy thích chọn tôn giáo mình ưng để mà theo(12).


    Công Đồng Chung Vatican I, năm 1870 tuyên xưng như một “tín lý” rằng

    không ai có thể cứu rỗi, ngoài Giáo Hội(13).


    Tới Công Đồng Chung Vatican II (1962-1965), ta thấy Giáo Hội Công Giáo đã đổi chiều và trở nên khiêm tốn, dè dặt hơn. Trong thông điệp Lumen Gentium, Giáo hội Công Giáo bắt đầu phân biệt Giáo Hội Chúa Kitô và Giáo hội Công Giáo. Thông điệp viết:

    • “Đó là Giáo hội Chúa Kitô duy nhất, mà chúng ta tuyên xưng là duy nhất, thánh thiện, công cộng và do các Tông đồ, mà Chúa Cứu Thế chúng ta sau khi Ngài sống lại đã gửi gấm cho Peter cùng các Tông Đồ khác quảng bá và chủ trì .. Giáo hội này, được sáng lập và tổ chức thành một cộng đoàn ở trong thế giới hiện nay, hiện TIỀM TÀNG trong Giáo Hội Công Giáo. Giáo Hội Công Giáo đã được cai trị bởi đấng kế thừa thánh Peter, và bởi các Giám mục đồng tâm, đồng chí với Ngài. Tuy nhiên có nhiều yếu tố thánh thiện và chân lý đã thấy được ngoài giới hạn, phạm vi hữu hình khả kiến của Giáo hội đó. Vì đó là những ân sủng thuộc Giáo hội Chúa Kitô, nên đó là những hoạt lực thúc đẩy tiến tới sự hợp nhất Công Giáo”(14).


    Ta đọc văn bản trên, thấy giọng điệu quanh quất, úp mở, tuy nhiên đã bớt có vẽ độc tôn. Giáo hội đã hữu ý dùng chữ SUBSISTS IN thay vì chữ IS tức là đã không dám coi mình là giáo hội duy nhất nắm giử chân lý, và đã muốn mở một con đường mới để đi đến chổ cộng tác với Tin Lành và Chính thống giáo. Thực ra đó cũng là một sự nhượng bộ, một sự thay chiều đổi hướng rất lớn lao của Giáo Hội La Mã rồi.





    Như vậy đà diễn tiến từ Do thái giáo đến Công giáo đã được thi triễn như sau :

    1.
    Chấp nhận Thánh Kinh Do Thái Giáo là chân lý.

    2.
    Dùng Thánh Kinh Do Thái để chứng minh Chúa Giê Su chính là Thượng Đế giáng trần.

    3.
    Trong khi Chúa Giê Su tuyên xưng chỉ giảng dạy cho dân Do Thái và không hề có ý đổi một lề luật nào của Do Thái,
    thì Thánh Paul làm một cuộc đảo chính đầu tiên. Ngài tuyên bố Chúa Giê Su giáng trần chịu chết để chuộc tội tổ tông. – một thứ tội mà cả ngàn năm qua người Do Thái không hề bận tâm đến.

    4.
    Thánh Paul tuyên bố các lề luật Do Thái vô giá trị đối với người Công Gíao.
    Bỏ hết từ phép cắt bì cho đến các lề luật chi phối đời sống gia đình, xã hội của người Do Thái.

    5.
    Ngài tuyên xưng đạo cần phải giảng cho dân ngoại.

    6.
    Ngài thẳng thừng tuyên bố không thèm học hỏi với các Tông Đồ Chúa. Ngài chính là hiện thân của Chúa Giê Su, và những điều ngài giảng dạy mới là chân lý, ai không theo Ngài sẽ là những kẻ rối đạo. Mới đầu các tông đồ chống đối, rồi sau cũng bó giáo quy hàng.
    Như vậy nói cho đúng thánh Paul mới là người sáng lập ra đạo Công Gíao, chứ không phải Chúa Giê Su và các Tông đồ.

    7.
    Từ khi vua Constantine công nhận đạo Công Giáo là quốc giáo, thì Giáo Hội bắt đầu củng cố quyền hành của mình, bắt tay với chính quyền để hủy diệt các đạo giáo khác.

    8.
    Do Thái Giáo được Công Giáo chiếu cố đặc biệt nhất.
    Công Giáo bắt đầu coi Do Thái Giáo là tà giáo, và tìm đủ mọi cách để hành hạ, báo thù người Do Thái vì tội giết Chúa.
    Thực ra người lên án từ hình Chúa Giêsu là Pilate, toàn quyền La Mã, chứ đâu phải Do Thái. Vả lại Chúa giáng trần chỉ có một mục đích là chịu chết để chuộc tội, thì ai giúp Chúa làm tròn sứ mạng của mình, người ấy phải được phong thần, phong thánh mới phải, vì đã "đồng công" chuộc tội thiên hạ, chứ sao lại hờn giận họ, căm thù họ, nhất là mình lại rao giảng tình yêu và sự nhẫn nhục, tát má này, giơ má kia.

    9.
    Khi đã coi Do Thái giáo là tà giáo, Công Giáo ra sức dùng võ lực thủ đoạn bắt họ phải chịu phép rửa tội bỏ đạo Đức Chúa Cha, mà theo đạo Đức Chúa Con.
    Đó là một con đường duy nhất để người Do Thái thoát cảnh hiếp tróc, tù đày, trục xuất, phát lưu, tịch thu tài sản, cấm làm nghề nghiệp để sinh nhai. Có những thời kỳ họ phải mặc áo dấu riêng biệt, đội mũ nhọn cao nghệu, ở trong những khu ghetto chật chội riêng biệt, chết thì chôn trong những khu chật chội, đến nỗi các mộ bia san sát nhau như gạch vỉa.

    Các đại thánh Công Giáo như Augustine, Thomas, Aquinas , Bernard;
    các Giáo Hoàng qua các thời đại như Gregory I (590-604); Alexander II (l061-1073); Innocent III (1198-1216); Clement IV (1265-1268); Nicholas III (1277-1280); Martin IV (1281-1285); Honorius IV (1285-1287); Nicholas IV (1288-1292); Clement V (1305-lSi4); Martin V (1417-1431); Eugene IV (1431-1447); Alexander VI (1492-1503) v v ;
    các Công Đồng như Công Đồng Toledo thứ XVI (694); Công Đồng Nicea (787); Công Đồng Lateran III (1179); Công Đồng Lateran IV (1215-1216) v.v..;
    tất cả những khối óc này (...) góp sức nhau lại để bày mưu tính kế, hạ nhục, hành hạ, giết sát người Do Thái, thì dĩ nhiên đó phải là những thủ đoạn hết sức tinh vi, hết sức độc đáo. (...)

    Giáo hoàng Innocent III (1198-1216),
    (...) đã nhận định về đạo Do Thái do Đức Chúa Cha sáng lập như sau:
    • Nói chung, thì luật Moses chứ không phải luật của Đức Chúa Cha, hứa hẹn những lạc thú tạm bợ, vật chất, một xứ sở chảy ra sữa và mật, lập ra lề luật hại ai sao sẽ bị trả báo lại như vậy , đề cao hạnh phúc lứa dôi, chủ trương đông con nhiều cái.
      Ngược lại với những điều ấy, luật Phúc âm đề cao sự khó nghèo, dạy lấy ân để trả oán, trọng vọng trinh tiết độc thân, đó tuy là những gánh nặng, nhưng đối với những kẻ có tình yêu thúc đẩy. chúng lại nên nhẹ nhàng. Luật cũ đặc biệt là nêu cao đời sống hoạt động. chi phối bởi ngũ quan: "Đó là những quân Do Thái sống theo xác thịt, giác quan, là chỉ biết thú vui nhục thể mà thôi, và như vậy, mặc dầu các tiên tri của họ nói về tinh thần chứ không phải xác thịt"(15).


    (...)

    Tuy nhiên tôi lại hơi thắc mắc là
    tại sao Giáo Hội Công Giáo luôn luôn long trọng tuyên bố Cựu ước cũng chính là lời Chúa?


    Cái thắc mắc khác của tôi, là một Giáo Hội đầy ơn Chúa, đầy chân lý và tình thương như vậy, khi thực sự đã cai trị Âu Châu, lại làm cho Âu Châu run sợ vì tàn ác . Linh mục Công Giáo Edward A. Synan, tác giả quyển "The Popes and The Jews in the Middle Ages" cũng (...) công nhận rằng: khi âu Châu được đặt dưới quyền thống trị của các Giáo Hoàng thời Trung cổ đã không biết chuyện bình đẳng và công bằng; luật pháp thì dã man từ ý hướng đến hình phạt, và đã chĩa mũi dùi vào dân chúng Do Thái (...)

    (...) Giáo Hoàng Innocent III vì đã coi dân tộc Do Thái ngang hàng với "Bò", với "Súc Vật " , và Ngài còn cho thế là lịch sự tử tế, vì theo Ngài, tiên tri Isaiah đã coi dân Do Thái thua bò, thua giống vật nữa. Nếu Nostradamus, Marx, Einstein (các vị này đều là gốc Do Thái) mà đọc được những lời của Giáo Hoàng Innocent III, chắc phải khiếp vía (...). Khi đã coi rẻ Do Thái đến như vậy, đã coi đạo Do Thái tầm thường đến như vậy, thì tịch thu các sách Talmud - thánh thư của Do Thái giáo - chất lên nhiều xe, đem ra đốt giữa thành phố Paris năm 1242, theo lệnh của vua thánh Louis và được sự chúc phúc tán đồng của Giáo Hoàng Gregory IX là một chuyện rất tầm thường đối với Công Giáo, vì những "thánh thư Do Thái" đồi bại như vậy, giữ nó làm cái gì (18).

    • (...) những thế kỷ từ 11 đến 15 huy hoàng như vây, đối với người Do Thái lại là 4 thế kỷ kinh hoàng (19)
    • (...) người Âu Châu (...) đánh giá những thế kỷ trung cổ (476-1453) đầy ánh sáng Thiên quốc và Phúc âm ấy là "Thời đại Hắc ám " (The Dark Ages).
    • Và khi phong trào khảo cứu lại nền văn minh Hi Lạp nảy sinh ra, họ (...) gọi đó là thời Kỳ Phục Sinh (Renaissance - thế kỷ 14-16);
    • và khi phong trào đề cao Lý Trí con người được khởi xướng, họ (...) gọi đó là Thời Kỳ Phát Quang (Enlightenment - thế kỷ 18). (...)




              
    10.
    Chúng ta cũng không thể nói rằng Giáo Hội chỉ nghiêm ngặt, tàn ác với Do Thái Giáo và các giáo phái khác mà thôi. Ngay đối với con chiên bổn đạo mình, Công Giáo cũng đã dùng máu lửa, sắt thép để giữ gìn cho đoàn chiên được ngoan ngoãn, thuần thành:
    • Năm 1229, Công Đồng Toulouse cấm không cho giáo dân được giữ Kinh Thánh, ngoại trừ những Thánh Vịnh (Psalms), và những đoạn đã có trong Kinh Nhật tụng của Linh mục, và cấm chỉ các bản dịch ra thổ âm của mỗi nước. cho rằng đó là cách ngăn chặn cá bè rối từ gốc rễ.


    Tôi mới đầu không hiểu tại sao Giáo Hội cấm không cho giáo dân có Kinh Thánh hay đọc Kinh Thánh, nhất là bằng quốc ngữ. Dần dà tôi mới thấy sự cấm đoán đó hết sức là hữu lý, vì nếu cứ để cho giáo dân đọc Kinh Thánh, dần dà họ sẽ bới ra được những cái dở của Kinh Thánh, những chỗ dịch sai, dịch bậy của Kinh Thánh, những chỗ thêm, bớt vào Kinh Thánh. Và quả nhiên từ khi Luther dịch Kinh Thánh ra Đức ngữ, dần dà người ta dịch Kinh Thánh ra các thứ tiếng hoàn cầu, (...) Kết quả là ngày nay người ta bới móc ra rằng Kinh Thánh có nhiều đoạn mâu thuẫn nhau;
    • năm quyển Cựu ước đầu tiên không phải do Mai sen viết mà do nhiều người viết về sau này;
      Jeremiah, Daniel cũng do nhiều người viết ở nhiều thế kỷ khác nhau;
    • Thánh thư cho giáo đoàn Hebrews, Thánh thư Thessalonians II, Thánh thư Peter II
      không phải do Paul và Peter viết ra. (...) ...
    • Rồi Do Thái, rồi Tin Lành không nhận nhiều quyển Kinh Thánh Công Giáo như
      Tobias, Ecclesiasticus, Sách Khôn Ngoan, sách Maccabeus, sách Judith,
      ... là Kinh Thánh. (...) ...


    Từ khoảng thế kỷ XI trở về sau, Giáo Hội bắt đầu kiểm soát tư tưởng, hành vi của các con chiên bổn đạo, kiểm soát sự ấn loát, lưu hành tàng trữ sách vở trong nước; lập các tòa Hình án để khủng bố tín đồ, miễn sao giữ được sự vâng phục hoàn toàn bên ngoài.

    Các tòa Hình án (Inquisition) được Giáo hoàng Gregory IX (1227-1241) và Công đồng Toulouse năm 1229 thiết lập. Nó có mục đích sưu tra, và tiêu diệt hoặc trừng phạt những tín đồ Công Giáo có những tư tưởng phản lại với Giáo quyền, và đã được duy trì trong nhiều thế kỷ. Sau này nhờ sự can thiệp của Napoleon đại đế, Tòa Hình án đã bị dẹp bỏ năm 1810, nhưng đến năm 1814 lại được tái thiết ở Tây Ban Nha.

    Tòa Hình án có quyền hết sức rộng rãi, tha hồ tra tấn những kẻ tình nghi để bắt buộc họ phải cung khai những tội họ đã bị tố cáo hoặc vu cáo. Hình phạt tối hậu có thể là thiêu sinh. Nguyên thời Tomás de Torquemada làm Chánh án trong vòng mấy chục năm trường, có khoảng 20,000 người đã bị ông cho lên giàn hỏa, hoặc bị tra tấn, tù đày, vong gia bại sản. Sử ký Hội Thánh chép rằng tuy nhiên sau khi Torquemada chết vào năm 1498, ông cũng đã không được Giáo Hội phong thánh (21). (...)

    Trong thời kỳ các Tòa Hình án hoành hành ở Âu Châu, những người xấu số, khốn nạn nhất vẫn là dân Do Thái. Họ bị cưỡng bách theo Công Giáo nếu sau này họ bị nghi ngờ rằng đã lén lút trở lại giữ đạo Do Thái, thì chắc chắn sẽ bị bắt, bị tra khảo, tù đày, lên giàn hỏa, và toàn bộ gia sản bị tịch thâu... Những người thừa hưởng gia sản đó là Giáo Hội, Chính quyền và người đứng ra tố cáo, chỉ điểm. Nếu chúng ta tò mò, khi nào lên San Francisco, đền Cliff House ở bờ biển, sẽ thấy một viện bảo tàng nhỏ nhan đề "Believe it or not" trưng bày các dụng cụ mà giáo quyền xưa đã dùng để hành hạ, tra tấn các tín đồ của mình.

    Nhiều người có danh tiếng đã phải lên giàn hỏa như Girolamo Savonarola (1452-1498), Bruno Giordano (1548-1600), Jan Hus (1372-1415) v.v.. Sau này Calvin, cũng đã bất chước. Công Giáo ra lệnh thiêu sinh Michael Servetus (1511-1553) tại Geneva vì tội không chấp nhận Chúa có Ba ngôi. Cũng nên nhớ rằng trong công cuộc này, giáo quyền bắt tay hết sức chặt chẻ với các chính quyền địa phương..

    Sau này cả Công Giáo lẫn Tin Lành đều rất sính đi săn lùng và tiêu hủy những người mà họ cho là những phù thủy, pháp môn để tận diệt, để áp dụng đúng lời Kinh Thánh ghi trong Exodus 22:18: "ngươi không dược để cho phù thủy được sống". Và cuộc truy lùng này cũng đã được kéo dài ở Âu Châu và Mỹ Châu từ 1445, do sự đề xướng của Giáo Hoàng Eugene IV, và được kéo dài nhiều thế kỷ. Ngay ở Mỹ cũng có vụ án truy lùng phù thủy ở Salem Massachusetts vào năm 1692 (23).




    11 .
    Còn như khi phải đối đầu với những phong trào mạnh hơn có đông người theo hơn, thì Giáo Hội hô hào hưng binh tiêu diệt.

    Trong quá khứ Giáo Hội Công Giáo đã hưng binh tiêu diệt các giáo phái Albigenses (Cathari) và Waldenses tại miền Nam nước Pháp. Công đồng The Third Lateran Council và Giáo Hoàng Innocent III ra lệnh hưng binh năm 1179, và từ đó trong vòng một phần tư thế kỷ, giáo phái Albigenses nhiều phen đã bị chinh phạt .

    Đối với Tin Lành, thì đã có chiến tranh thật sự giữa hai phe . Chiến tranh tôn giáo bùng nổ ở Pháp vào năm 1562 và kéo dài đến năm 1594. Nguyên đêm lễ thánh Bartholomew, vào tháng 8, năm 1572, có cả vạn người Tin Lành bị Công Giáo phục kích chết. Rồi lại có chiến tranh tôn giáo 30 năm ở Đức (Saxony, Moravia).

    Đối với Hồi giáo (Islamism), thì có Lục Đại Thánh Chiến:

    • · Đệ Nhất Thánh Chiến (1096-1143).
      · Đệ Nhị Thánh Chiến (1147-1149).
      · Đệ Tam Thánh Chiến (1189-1192).
      · Đệ Tứ Thánh Chiến (1202-1204).
      · Đệ Ngũ Thánh Chiên (1216-1217).
      · Frederic II Thánh Chiến (1228-1229).
      · Đệ Lục Thánh Chiến (1248-1254).


    Các Thánh Chiến thực ra cốt là để làm một công đôi việc, trong nước thì tiêu diệt Do Thái; nơi đất thánh Jerusalem thì cốt tiêu diệt Hồi Giáo. Đáng thương thay cho những người Do Thái vì trong những trận thánh chiến đó, họ đã bị quân binh Công Giáo giết hại vô số kể nhất là vào những năm 1096 và 1146. Những người Do Thái bị giết tập thể tại nhiều tỉnh Âu Châu:

    • Vào năm 1096:
      bị giết tại Spyer ngày 3 tháng 5, tại Worm ngày 24 và 25 tháng 5, tại Mayence ngày 27 tháng 5, tại Cologne ngày 1 tháng 7.
    • Vào năm 1104:
      tại các tỉnh bên Pháp: Orleans, Blois, Loches, Paris, Sen, Tours.
    • Vào năm 1146-1147:
      người Do Thái cũng bị giết trong nhiều tỉnh ở Âu Châu.


    Sử chép:
    trong tất cả các tỉnh mà Nghĩa Binh Thánh Chiến Công Giáo đi qua, họ dã tận diệt những hậu duệ Do Thái còn sót lại, vì coi họ là kẻ nội thù của Giáo Hội, hoặc bắt họ phải chịu phép rửa tội nhưng nhiều tên Do Thái sau đó lại trở lại đạo của họ, như những con chó đã mửa đồ ăn ra rồi lại ăn lại.. (25)

    12.
    Sau này cũng chính vì lòng bác ái đối với nhân loại mà trong khi đi xâm chiếm thuộc địa, người Âu Châu - nhất là những người Tây Ban Nha - vì muốn đem “chân lý” giảng dạy cho nhân loại, nên đã hoặc là dùng võ lực, hoặc là dùng thế lực, để khiến dân bị trị theo đạo.
    • Thành công hoàn toàn là Tây Ban Nha. Bất kỳ là họ đi đến đâu cũng đã dùng mọi thủ đoạn để cưỡng bách dân chúng theo Công Giáo, cho nên Phi Luật Tân, Mễ Tây Cơ, các nước Trung Mỹ, Nam Mỹ đều theo Công Giáo hầu như toàn tòng.
    • Còn những nước mà người Pháp chiếm cứ, thì số người theo Công Giáo cũng khá, nhưng không được bao nhiêu so với tổng số dân chúng.
    • Ngược lại chỗ nào mà người Anh chiếm cứ thì đều có người theo Tin Lành.


    World Almanach 1988 cho biết hiện nay trong toàn thế giới có:
    • · 900,545,840 người theo Công Giáo.
      · 326,521,820 người theo Tin Lành.
      · 158,352,650 người theo Chính Thống Giáo.
      · 805,895,880 người theo Hồi Giáo.
      · 647,894,950 người theo Ấn Giáo.
      · 220,541,590 người theo Phật Giáo.
      · 16,160,910 người theo Do Thái Giáo.
      · 307,416,030 người vô thần.
      Tổng số dân chúng hoàn cầu là 4,923,334,680.


    Thống kê trên cho thấy sự thành công của Công Giáo thật là vượt bực. Và có (...) mưu lược, có kế hoạch, có ngoại giao, có chính trị mới mong có thành công.

    (...) càng ngẫm nghĩ càng thấy chủ trương của thánh hiền Trung Quốc như Bá di, Y Doãn, Khổng tử hết sức là không tưởng, vì đã cho rằng:
    • Nếu phải làm một chuyện bất nghĩa, giết một người vô tội, mà được thiên hạ thời cũng không làm
      Hành nhất bất nghĩa, sát nhân bất cô, nhi đắc thiên hạ, giai bất vi dã
      – Mạnh Tử, Công Tôn Sửu Chương Cú Thượng

    Mới hay:
    • "Vô độc bất trượng phu"
      (Muốn thành công phải bất chấp thủ đoạn).





    (... còn tiếp ...)
    nguồn: sachhiem.net
              

              
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20038
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: nhận định mới về Tín Lý và Giáo Lý Công Giáo

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  • nhận định mới
    về Tín Lý và Giáo Lý Công Giáo

    ______________________________
    Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ - 2007





    Phần I - Tín Lý
    ______________




    (... tiếp theo ...)

    Có thể nói được rằng Thiên Chúa Giáo nói chung là một thiên anh hùng ca mà đề tài là
    "Nhân chi sơ tính bản ác".

    • Con người là thứ con người tội lỗi sa đọa.
      Thế gian này là thế gian xấu xa, dưới quyền Sa tan chúa quỷ v..v..
      Chỉ có tận thế hay chỉ có Chúa đích thân tái lâm mới có thể sứa sang, đem trật tự lại cho loài người hư đốn này.
    • Thế nhưng, đùng một cái Jean Jacques Rousseau chủ xướng: Con người vốn thiện.
    • Rồi Cách Mạng Pháp bùng lên phất cờ: Tự Do, Bình Đẳng, Huynh Đệ.
    • Rồi các nền hành chánh, các chính phủ dân chủ tuyên xưng xây dựng trên nhân quyền, trên lá phiếu hứ không còn dựa vào Thiên quyền.
    • Rồi những người theo chủ nghĩa Tự Do Khai Phóng (Liberalists) hiên ngang chủ trương: các tệ đoan xã hội phát xuất từ ngu dốt của con người, và như vậy đều có thể sửa sang được.
    • Rồi các nước Âu Châu tuyên bố đạo giáo và chính quyền cần phải được tách biệt nhau ra.
    • Rồi nhân loại chủ trương tự do tín ngưỡng.
    • Rồi đột nhiên Công Giáo cũng phụ họa theo trào lưu mới, cũng tin vào thuyết Tiến Hóa.
      Công Đồng Vatican II giải tội giải vạ cho các đạo giáo thù nghịch.
      Giáo Hoàng John XXIII tiếp phái đoàn Do Thái với câu tình nghĩa: em là Giu Se đây (26). Dân tộc Do Thái từ nay được coi là Con Cháu Abraham hết còn là Dân giết Chúa. Mấy chữ Pro Perfidis Judaeis được xóa khỏi Sách Lễ.
      Và Công Giáo lại là người chủ xướng Tự Do Tín Ngưỡng, Huynh Đệ đại đồng nhất thiên hạ.
      Các linh mục dòng Tên ở Nam Mỹ cũng đang lao mình vào các vấn đề xã hội gia trần, tranh dành ảnh hưởng với Cộng Sản.

    Thật là tuyệt vời.


    Tôi lại học được một bài học hết sức là thâm thúy:

    "Muốn thành công cần phải lá mặt, lá trái, biến hóa, quay cuồng như con thò lò" .

    • Trong khi ở những nước xa xăm, như Việt Nam, thì người Pháp đem quân sang chinh phạt, xâm chiếm vì lẽ vua chúa đã cấm dân không cho tự do tín ngưỡng trong những năm từ 1860 đến 1884,
      thì ở Âu Châu, năm 1864, Giáo Hoàng Pius IX, trong Syllabus Errorum (Kỷ Yếu Tà Thuyết) vẫn còn phi bác những ai cho rằng con người được tùy nghi theo và giữ cái đạo mà mình cho là hay, là đúng (27) .

      Trước thời Galileo, thì chắc chắn trái đất là trung tâm vũ trụ, và mặt trời xoay quanh, vì Thánh Kinh đã dạy thế.
      Đến bây giờ thì cãi rằng Thánh Kinh không có dạy Khoa Học , và nhưng điều nói trên là những kiểu nói bóng bảy, dân gian.

      Trước kia, thì các Giáo Hoàng không lo về những chuyện nhân sinh, nhân quyền, nhưng từ khi Karl Marx ra đời, từ khi Cộng Sản ra đời, từ khi Cộng Sản chủ trương diệt cường hào ác bá, nâng đỡ người nghèo, lo lắng cho người nghèo, và tung ra khẩu hiệu "Một người vì mọi người, mọi người vì một người".
      Thì các Giáo Hoàng cũng bắt đầu lo thế sự, và không thiếu gì Thông điệp danh tiếng về các vấn đề xã hội ra đời như Rerum Novarum (1891); Quadragesimo Anno (1931); Divini Redemptoris (1937); Summi Pontificatus (1939); Mater Magistra (1961); Paem in Terris (1963) Progresio popularum (1968); Gaudium et Spes (1965)


    Các thông điệp xã hội nói trên sở dĩ ra đời, vì các Giáo hoàng trong thời đại gần đây như Leo XIII, Pius IX, Pius XII, John XXIII, Paul VI thấy bắt buộc phải bàn về những vấn đề công bằng xã hội, hòa bình thế giới, nâng cao đời sống dân nghèo. Chỉ có cái lạ là trong ngót hai nghìn năm nay Giáo Hội La Mã luôn luôn ca tụng cái nghèo, dung dưỡng các bất công xã hội, dung dưỡng chế độ nô lệ, luôn luôn khuyên chịu đựng cái khổ, chịu đựng các bất công xã hội, vì đó là những đức tính Phúc âm, vì đó là những thánh giá mà Chúa gửi đến cho những con cái người. Trước kia Giáo Hội luôn coi trần gian là chốn khách đầy, là thung lũng châu lệ, dạy giáo dân suốt đời chỉ mơ lai sinh và thiên quốc. Đùng một cái, Giáo Hội lại lo lắng muốn nâng cao thân phận hẩm hiu của người nghèo. Như vậy phải chăng đó là khấu quyết "Tùy gió phất cờ", hay là chiêu thức "Song thủ hổ bác" của Kim Dung, hay là chủ trương "quân tử kiến cơ như tác", hay "Tùy thời chi nghĩa đại hĩ tai" của Dịch Kinh?

    Chẳng lẽ chân lý trên đời này, các giá trị trên đời này lại giống như dòng điện hai chiều, biến hóa không ngừng, cái gì cũng là đúng cả?

    Viện nghiên cứu về quản trị của Mỹ (The American Institute of Management) đã bái phục tổ chức quản trị, điều hành của Giáo Hội Công Giáo và cách thức đương đầu và giải quyết các vấn đề khó khăn của Giáo Hội trong 19 thế kỷ qua. Sau tám năm thâu lượm và nghiên cứu tài liệu Viện trên đã phải công nhận rằng Giáo Hội Công Giáo đã có một phương pháp điều hành tổ chức bậc nhất ở phương trời Âu Mỹ .

    Công Giáo sở dĩ có sự thành công vượt bực là vì biết bắt tay với Chính quyền, thao túng được các Chính quyền Âu Châu trong vòng hơn 1000 năm. Đưa ra được mấy Tín Lý hết sức hữu hiệu như sau:

    • Chúa phép tắc vô cùng làm gì cũng được.
    • Thiên chúa chỉ mặc khải cho một số tiên tri Do Thái, một số tác giả Tân Cựu ước, và các Tông Đồ.
    • Chúa Thánh Thần chỉ đặc biệt soi sáng cho các Giáo Hoàng, các Công Đồng.
      Ngoài ra, trong thiên hạ không còn ai có được cái diễm phúc ấy.
    • Kinh thánh là Lời Chúa, là Chân lý.
    • Giáo hội có độc quyền giải thích Kinh Thánh.
    • Giáo Hội dạy làm sao, con chiên phải vâng phục như vậy, không được cãi.
    • Đức tin vượt trên lý trí con người.


    Chỉ có vậy mà ứng dụng thì vô biên.

    Ví dụ nói rằng
    • tàu Nôe (100m x 17 x 10: to già lắm là bằng 30 căn apartment 2 buồng theo tiêu chuẩn Mỹ) có thể chứa được 10 triệu (5 triệu x 2 đực và cái) các giống vật lớn nhỏ trong trời đất mỗi thứ hai con, đã được Nôe bắt đem về trong một thời gian kỷ lục – chắc không tới một năm -
    • Và nói rằng vài trăm tỉ tỉ người từ tạo thiên lập địa đến tận thế sẽ sống lại chịu phán xét chung ở trong cánh đồng Josaphat - rộng giỏi lắm là ngàn mẫu tây- ở nước Do Thái.


    Nếu có ai nêu lên nghi vấn rằng tàu Nôe hay cánh đồng đó quá chật, không thể chứa được nhiều như vậy, thì sẽ được trả lời: Chúa phép tắc làm gì chẳng được.

    • Mặc dầu Matthew chép:
      "Đức Mẹ không đi lại với thánh Giuse cho đến khi sinh con đầu lòng
      (Mat. 1:18: Et non cognoscebat eam donec peperit filium suum primogenitum. )
      Các bản dịch sau này dịch trại đi là:
      trước khi ông bà về chung sống với nhau;

      mặc dầu Matthew và Luke chép rõ là
      Đức Chúa Giê Su có nhiều anh chị em (Mat. 13:55-56; Mat. 1246; Marc 6:3)
      mặc dầu dân làng Chúa Giê Su công nhận Chúa là con ông thánh Giuse (Marc 6:3; Mat. 13:55; John 6:42; Luke 33:23),
      mặc dầu Tin Lành ngày nay không tin Đức Mẹ đồng trinh trọn đời,
      Công Giáo vẫn công bố Đức Mẹ đồng trinh trọn đời.

      Mặc dầu Chúa phán Ngài sẽ xuống lại rất mau.
      Chưa đi hết một vòng các tỉnh Do Thái, Ngài đã tái lâm (Mat.10:23).
      Hoặc Ngài sẽ xuống, khi nhiều người đương thời còn chưa chết (Marc 9:1; 13:2; Luke 9:27),
      Giáo Hội đoan quyết Chúa không hề nói như vậy.

      Mặc dầu Chúa long trọng tuyên bố
      không đem hòa bình xuống cho thế gian
      mà là đem gươm đao, đem sự chia rẽ đến cho thế gian (Luke 12:51; Mat. 10:34),
      Chúa vẫn được coi như là Đấng mang lại Hòa Bình cho nhân loại.

      Mặc dầu Chúa Giê Su lúc nào cũng gọi Chúa là Cha,
      xưng Chúa Cha hơn mình, và gọi Ngài là Chúa mình (John, 14:28; John 20:17);
      mặc dầu thánh Paul dạy rằng Chúa Giê Su chỉ là một con người
      đứng ra làm môi giới giữa Chúa và Loài người (I Con. 15:21 - I Tim. 2:5 - Rom. 5:15);
      chỉ là một người đã được tiền định để làm con Thiên Chúa (Rom. I:3-4 - Bản Vulgate đã dùng chữ: Praedestinatus);
      hay là TẠO VẬT Đầu TIÊN Trưởng Tử giữa mọi thụ sinh (Bản dịch Nguyễn Thế Thuấn)- (Colossians 1: ~5);
      mặc dầu Chúa Giê Su sinh ra là do sự Chúa Thánh Thần "ấp ủ' Đức Mẹ theo lời Phúc âm (Luke 1:35),
      Giáo Hội đã đoan quyết Chúa không hề thua sút Đức Chúa Cha.


    Nói thực ra thì Giáo Hội cũng phải mất mấy trăm năm,
    và sau biết bao là những cuộc cãi vã kéo dài hằng nhiều trăm năm
    • giữa các Giám mục như
      Arius (256-336), Apollinaris (chết 390); Cyril (chết 441); Nestorius (khoảng 430); Eutyches (bị vạ tuyệt thông năm 451); Severus of Antioch; Julian of Hallicarnassus; Gaianus of Alexandria, Theodosius v v .
    • và sự phán quyết và phi bác lẫn nhau của nhiều Công Đồng
      (Synod of Antioch 264; First Council of Nicaea 325; Council of ephesus 431; Council of ephesus 449; Council of Chalcedon 451),

    mới xác định được thân thế và liên lạc giữa Ba Ngôi, mới tìm ra được những công thức chính xác về Chúa Ba Ngôi.

    Có một điều hết sức quái lạ là trong Kinh Tin Kính do Công Đồng Nicea soạn thảo năm 325 mà cả hai Giáo Hội miền Đông (Chính Thống) và miền Tây (La Mã) đều chấp nhận thì lại không có chữ Filioque (và bởi Con). Chữ này không biết có bàn tay bí mật nào sau này đã thêm vào. Sự thêm thắt này có lẽ phát xuất ở Tây Ban Nha, rồi truyền sang Pháp, sang Đức, sang Ý. Mới đầu các Giáo Hoàng phản đối. Giáo Hoàng Leo II (795-816) còn bắt khắc Bản Kinh Tin Kính chính tông (không có chữ Filioque) vào những tấm thuẫn bằng bạc và treo trong Vương Cung Thánh Dường thánh Phêrô. Nhưng sau vì quyền uy của vua Charlemagne và các vua kế vị nhất quyết giữ chữ Filioque để có cớ buộc tội Giáo Hội miền Đông là rối đạo, và có cớ xâm chiếm các nước miền Đông, nên đến ngày lễ phong vương cho vua Thượng Vị Henry II (lO02-l024) vào năm 1014, Giáo Hội La Mã mới long trọng hát kinh Tin Kính có thêm phụ bản Filioque! (29).

    Thực là kỳ dị khi thấy rằng trong công chuyện tuyên xưng Tín Lý, mà sự ngụy tạo văn bản như trên còn có thể xen vào được.

    • Khi đã làm cho mọi người tin rằng Chúa Giê Su là Thượng đế giáng trần,
      và Giáo Hoàng là Đại diện Ngài,

    thì cái lợi nhãn tiền, cái quyện nhãn tiền thuộc về Giáo Hoàng chứ không thuộc về chúa GiêSu. Cái tuyệt diệu chính là ở điểm này.

    Giáo Hội nhờ ở sự "tin lưỡng", "nói lưỡng" nên có thể giải thích được mọi vấn đề, có thể biện minh được mọi thái độ mình.

    • Chúa vừa ở trên thiên dàng, vừa ở khắp nơi.
    • Vừa ở khắp nơi vừa không ở trong tâm hồn mọi người.
    • Chúa vừa nhân từ vừa công thẳng.
    • Chúa Giê Su vừa là Thượng Đế toàn năng, vừa là Tạo Hóa, vừa là "Trưởng tử giữa mọi thụ sinh".
    • Con người vừa cao siêu vì là ảnh tượng Chúa, vừa là hết sức xấu xa vì đã sa đọa.
    • Chúa vừa cai trị thế gian, nhưng Satan lại là vua của trần thế này.
    • Chúa GiêSu vừa là Chúa, vừa là Người.
    • Tận thế sắp sửa tới nơi, tận thế còn lâu nữa mới xảy ra.
    • Nước Trời không đến một cách lộ liễu. Nước Trời sẽ đến trong rầm rộ, huy hoàng.
    • Nước Trời ở trong tâm. Nước Trời ở ngoài xã hội.
    • Ngũ Kinh là của Maisen viết. Ngũ Kinh không phải là của Maisen viết v.v.
    • Từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XX nghiêm cấm không được tôn thờ tổ tiên. Ngày nay được tôn thờ tổ tiên (nhang đèn, cúng kỵ v..v..).
    • Có lúc nghiêm cấm ăn thịt thứ Sáu, có lúc cho ăn thịt thả giàn. Tất cả đều tùy Giáo Hoàng.
    • Thánh Kinh vừa đúng từng chữ, vừa là Chân Lý tuyệt vời, vừa không có ý dạy, vì khoa học nên có nhiều điều không chính xác;
    • vừa tin chắc chắn rằng mọi người ngoài Giáo Hội đều xuống hỏa ngục, vừa tuyên bố mọi người sống ngoài Giáo Hội có thể lên thiên đàng.
    • Khi cần dịu ngọt, thì Giáo Hội đề cao sự nhân từ bác ái của Phúc âm; khi cần tàn nhẫn thì khoe đang thi triển sấm sét của hai thánh Peter và Paul;
    • vừa chủ trương Chúa luôn nổi cơn thịnh nộ oán phạt loài người, vừa tuyên bố đó chỉ là những kiểu "nhân cách hóa" Thiên Chúa.


    Tất cả các văn kiện viết ra phải được đắn đo, viết lách làm sao để có thể giải thích xuôi ngược được. Thật là biến hóa tuyệt vời. Chẳng những thế lại còn có cả một đạo binh văn học chỉ có nhiệm vụ bào chữa cho Công Giáo, bảo vệ Thánh Kinh mà ta gọi là những nhà Thần Học, những nhà Bảo Vệ Tín Lý (Apologetists).
    Các nước Cộng Sản ngày nay cũng có các văn gia chuyên môn tâng bốc chính quyền Cộng Sản, chuyên môn tâng bốc chủ nghĩa Mác Xít. Cộng Sản hết sức đề cao họ. Những người ngoài Cộng Sản trái lại tặng cho họ danh từ "Bồi Bút" .

    Chuyện đời quả tình hết sức phức tạp.

              



              
    Dấu hiệu rạn nứt bắt đầu hiện ra là trong khoảng 100 năm gần đây đã có nhiều Giáo phái mới xuất hiện ra ở Âu Mỹ.
    Các giáo phái mới này như:
    • Chứng nhân đấng Jehovah, Mormons, Christian Science, Unitarianism, Spiritism, Swedenborgianism, Armstrongism, Seventh-day Adventism, The Theosophical Philosophy, The Rosicrucian Fellowship v. v.
    đều có những điểm bất đồng về phương diện giáo lý với Công Giáo cũng như với Tin Lành.
    • Thường là họ không chấp nhận một Chúa mà có Ba Ngôi.
      (Jehovah Witnesses, Christian Science, Mormonism, Swedenhorgianism, The Unity School of Christianity v.v.. )
      (Xem “The Kingdom of The Cults”, Walter R. Martin, Bethany House Publishers, 1982, pp 50, 126, 178, 246).
    • Nhiều Giáo phái không tin rằng Thượng Đế là hữu Ngã, mà tin Thượng Đế là vô Ngã, nguồn sinh muôn vật bản thể muôn vật, tiềm ẩn trong lòng sâu con người và vạn vật.
      (Christian Science, The Unity School of Christianity, The Theosophical School.. )
      (Sách trích dẫn tr. 126, 222, 279).
    • Không tin rằng chúa Jesus là Thiên Chúa mà chỉ là Con Thiên Chúa, không thể bằng Thiên Chúa.
      (Mormonism, Jehovah Witnesses, The Unity School of Christianity... )
      (Sách trích dẫn tr. 47, 112, 280).
    • Không tin rằng Chúa từ nhân, lân tuất lại có thêm thâm thù nhân loại, và cần phải chứng kiến sự tử nạn của Con Mình - của Chính Mình - mới có thể làm hòa với nhân loại
      (Swedenborgianism: )
      (Sách trích dẫn tr. 247).
    • Nhiều Giáo phái tin rằng Con người sẽ trở thành Thượng đế trong tương lai
      (Mormonism: A man is, God one was; as God is, man may become.)
      (- Ib. p. 178).


    Tiếp đến là ngay trong nội bộ Công Giáo hiện nay cũng có nhiều điều bất ổn. Dĩ nhiên là những bất ổn sẽ phát sinh ở Âu Châu và Mỹ Châu chứ không phải ở các nước tân tòng Á Phi hoặc Trung, Nam Mỹ.

    • Gần đây, Tổng Giám mục Le febvre ở Thụy Sĩ đã tách khỏi Giáo Hội La Mã, vì cho rằng Giáo Hội La Mã và Công Đồng Vatican II đã đi quá trớn trong đà canh tân.

      Các nhà thần học như Alfred Loisy (1857-1940), như Hans Küng đòi nghiên cứu lại tất cả các tín lý Công Giáo, và sửa sai nếu cần.

      Giáo Hội Hòa Lan với hơn 6 triệu tín đồ cũng đang muốn tách rời khỏi quyền điều khiển của Giáo Hoàng.

      Ở Mỹ, đã có những Giám Mục, và hàng vạn linh mục đã rời khỏi hàng giáo phẩm. Các trường Đại học Công Giáo Mỹ đòi hưởng qui chế độc lập, không chịu sự điều khiển của Giáo Hội. Các nhà thần học Công Giáo đòi quyền được bất đồng ý kiến với Giáo Hội về những vấn đề luân lý : như tình ái giữa nam nữ, như ngừa thai cai đẻ, như phá thai, như đồng tình luyến ái v.v. . Linh mục kiêm thần học gia, kiêm Giáo sư Đại Học Charles Curran là người đã phát cờ chống đối. Trong phong trào này Linh mục đã kéo theo được hàng trăm nhà thần học khác ở Mỹ.


    Các bổn đạo cũng không còn tuyệt đối phục tùng Giáo hoàng nữa.

    • Tuy các Giáo hoàng cấm dùng thuốc ngừa thai:
      năm 1955 có 30% phụ nữ Công Giáo dùng thuốc ngừa thai.
      Năm 1965 có 55%.
      Năm 1970 tăng lên 70%.

      Rồi dẫu dùng thuốc ngừa thai, phụ nữ Công Giáo vẫn đi chịu lễ đều đều.
      Năm 1965, số đó là 33%.
      Năm 1970, số phụ nữ ngừa thai mà vẫn chịu lễ hàng tháng là 53% .

      Một cuộc thăm dò khác cho thấy:
      Cứ bốn người được phỏng vấn, thì ba người chấp thuận cho trai gái được đi lại với nhau sau khi ăn hỏi. Cứ 10 người thì có 8 người chấp thuận cho uống thuốc ngừa thai. Cứ 10 người thì 7 chấp thuận sự phá thai hợp pháp. Cứ 10 người thì 4 người cho rằng Giáo hoàng vấn sai lầm (30) .


    Hans Küng cho rằng
    • hàng Linh mục đã dần dần được thành lập vào khoảng thế kỷ thứ 6, chứ thời các Tông đồ chưa có.


    Nhà văn Công Giáo Mỹ , Gay Wills, cho rằng: Công Giáo tuổi nhỏ của ông là tổng hợp
    • của những câu kinh kệ; những cái đầu cúi theo nhịp chung; làm dấu; ca hát; làm phép rửa tội; làm dấu lúc ăn; lần chuỗi; xông hương; thắp nến;
      các bà dòng trong lớp lúc nghiêm, lúc khoan; các linh mục mặc đồ đen khi đi ngoài đường; mặc lộng lẫy khi hành lễ;
      thánh đường lúc sáng, lúc tối; lúc thì trang hoàng, bày biện; lúc thì trần trụi trống trơn, tùy theo nhịp điệu của các mùa lễ nghi; bày máng cỏ vào mùa Đông; mang màu tím vào tháng Hai trưng hoa huệ mùa xuân;
      xưng tội để nghe đe dọa và nghe an ủi v.v..


    Nhà tâm lý học Gordon Alport cho rằng
    • 9/10 Công Giáo Mỹ chỉ có cái vỏ Công Giáo, chỉ đạo đức ngoài mặt.
      Nghĩa là họ dùng đạo như cái bình phong để che đậy lối sống thực của họ,
      và họ có thiên kiến đối với người da đen và người Do Thái còn nhiều hơn các người vô tôn giáo.


    ông Eugene Kennedy cũng khen rằng
    • trước kia, tức là trước Vatican II,
      người Công Giáo giữ cái đạo bên ngoài gồm lễ nghi, luật lệ, giáo điều.
      Sau Vatican II
      họ quay về cái tôn giáo nội tại tâm linh, cố đi tìm hiểu sâu xa về con người mình (33).


    Riêng tôi, tôi nhận thấy người Công Giáo sau Vatican II cởi mở hơn, rộng dung hơn.
    Còn trước hình thức lễ nghi vụ ngoại ra sao, thì nay vẫn y thức như vậy. Đạo giáo đã là công truyền, tất nhiên phải vụ ngoại, phải là ngoại giáo, không thể nào là nội giáo được.





              
    Từ 1908 trở đi, các Giáo Hoàng ghét nhất là Phải Tân Tiến (Modernism).
    Thông điệp Lamentabili sane exitu (3 tháng 7, 1907) của Pius X phi bác 65 nhận định mà Giáo Hội cho là lầm lạc. Ví dụ:

    • Điều 16:
      Phúc âm John không phải kể chuyện thật về đời sống Chúa,
      mà là những suy nghiệm huyền đồng về đời sống Chúa.
    • Điều 21:
      Sự mặc khải làm cơ sở cho đức tin Công Giáo chưa hoàn bị thời các Tông Đồ.
    • Điều 27:
      Phúc âm không chứng minh Chúa Giê Su là Thiên Chúa.
      Đó là một tín điều mà ý thức Công Giáo suy diễn ra từ ý niệm Đấng Cứu Thế.
    • Điều 35:
      Đấng Ki tô không phải luôn luôn ý thức được mình là đấng Cứu Thế.
    • Điều 47:
      Công đoàn công Giáo cho rằng Phép Rửa Tội là bắt buộc, cộng vào với sự tuyên xưng Công giáo.
    • Điều 47:
      Mấy lời của Chúa trong John 20:22-23 chẳng có liên quan đến Phép Giải Tội,
      mặc dầu các giáo phụ trong Công Đồng Trent thích nói vậy.
    • Điều 55:
      Thánh Peter không bao giờ ngờ rằng Chúa đã phong cho mình làm Giáo Chủ Giáo Hội.
    • Điều 59:
      Chúa Giê Su không có dạy một toàn bộ giáo lý khả dĩ áp dụng cho mọi nơi, mọi người,
      mà chỉ tạo ra một phong trào đạo giáo có thể chuyển biến, linh động để thích ứng tùy nơi, tùy người .



    Thông điệp Pascendi dominici gregis của Giáo Hoàng Pius X ra ngày 8 tháng 9 năm 1907 kết tội những người Công Giáo thuộc phái Tân Tiến như sau:

    • - Nếu là triết gia, thi họ chủ trương "bất khả tri". Họ cho rằng lý trí chỉ hoạt động trong vòng hiện tượng, nên con người không thể biết Thiên Chúa bằng lý trí hay bằng sự mặc khải.

      - Nếu là giáo hữu, thì họ đến với đức tin một cách kỳ quặc. Họ lý luận rằng lý trí không thể biết Thiên Chúa, thế thì tại sao tôn giáo lại là một hiện tượng phổ quát. Họ cho rằng sở dĩ con người cần Thiên Chúa chính là vì Thiên Chúa đã ở sẵn trong lòng con người. Thiên Chúa mà ở ngoài tâm hồn, con người sẽ không sao có thể biết được. Con người vẫn tin, nhưng đức tin không có cơ sở trên lý trí. (Tôi cũng tin rằng Thiên Chúa đã ngự sẵn trong tâm khảm con người, và con người nhận biết Thiên Chúa bằng trực giác, và bằng sự cảm nghiệm tâm linh).

      - Nếu họ là các nhà Thần học, thì những người theo phái Tân Tiến cũng cho rằng Mặc Khải chính là sự cảm nghiệm nội tâm. Mặc khải là khi con người cảm nghiệm thấy Thiên Chúa trong lòng mình. Chính Giáo Hội cũng phải kinh qua sự thử thách của ý thức tập thể của nhân quần; mà ý thức này luôn chuyển dịch biến hóa theo lịch sử.
      (Hỡi anh em khả kính, đây không phải là những lời bập bẹ quàng xiên của những kẻ vô tín ngưỡng, mà chính là của những người Công Giáo, hoặc những linh mục, và họ khoe khoang rằng họ sẽ cải tổ, sẽ canh tân giáo hội bằng những lập luận quàng xiên đó của họ).

      - Nếu là sử gia, họ cho rằng khi giải thích các vấn đề cần phải cho khoa học, chứ không phải là để bao che, để nắm giữ quần chúng. Và với tư cách là những nhà khoa học họ thường khinh khi giáo lý Công Giáo, khinh khi các Thánh Giáo phụ, các Công đồng, và sự dạy dỗ.


    Khi đọc những lời Giáo Hoàng chê trách, phê phán những người Giáo Hữu Tân Tiến, tôi thấy thương họ, vì thật ra họ nhìn đúng, nghĩ đúng, nói đúng, hành đúng.

    Người Á Đông phân biệt tiểu trí và đại trí. Tiểu trí để thích ứng với hoàn cảnh, nên chỉ biết được hiện tượng bên ngoài, nên không thể nào hiểu được Thiên Chúa là bản thể con người và vũ trụ...

    Cái mà Âu Châu gọi là Mặc Khải chính là Đại trí khi đã khai mở. Con người sinh ra ở đời vì có căn cốt thần linh, có căn Trời, nên luôn luôn khát khao đi tìm Đạo, tìm Trời.

    • Mới đầu thời còn u muội, ngu dốt, nên đi tìm Đạo tìm Trời bên ngoài mình; chịu sự hướng dẫn, sự chi phối bên ngoài của các Giáo Hội bên ngoài, của các người tự xưng mình là hướng đạo viên nhân loại.

      Nhưng khi con người đã trưởng thành về ý thức tâm linh, sẽ cảm nghiệm được một cách mãnh liệt rằng Thiên Chúa chẳng có ở đâu xa mà đã ngự trị ngay trong tâm khảm con người. Sự giác ngộ tâm linh ấy chính là sự Mặc Khải.


    Nếu ta hiểu Revelation là "Mặc Khải", thì đó là một sự khai mở tâm linh đã được diễn biến ra một cách âm thầm trong lòng con người.

    Nếu hiểu "Revelation" là "Mạc Khải", thì lúc Giác Ngộ chính là lúc "bức màn Vô minh", "bức màn Ngu dốt" được xé mở ra, làm hiển lộ ra Thiên Tính con người, làm hiển lộ Thượng đế nội tại - vừa là Thượng Đế, vừa cũng chính là Bản Thể hằng cửu, bất biến của con người.

    Lúc ấy, với tầm nhìn lối nghĩ hoàn toàn thay đổi, con người hoàn toàn được giải phóng, con người
    • mới thấy rằng có nhiều người xưa kia coi mình là thượng trí, thượng nhân, thực ra chỉ là những người khéo xu thời, xu thế;
    • mới nhận ra rằng con người đã sai lầm tập thể về nhiều vấn đề, từ sự khai thiên, lập địa, đến thân thế con người, đến những công trình cải tạo con người và ngoại cảnh, đến đường hướng thăng hoa của con người .


    Lúc ấy con người sẽ thành khẩn dùng cuộc đời mình để truy tầm chân lý, chứ không phải để bao che, lấp liếm những điều mà cha ông mình đã nghĩ sai, viết bậy trong quá vãng. Mình không nhìn ra trước, không chịu sửa sai trước, thì người sau sẽ tìm ra, sẽ sửa sai sau. Tất cả chỉ là vấn đề thời gian, và trên con đường tiến hóa của nhân loại, chắc chắn sự việc sẽ xảy ra như vậy. Mà khi một tư tưởng đã thay thi cả tòa tư tưởng cũng thay theo, như kiểu những con Dominos.

    Sách the Battle for The American Church viết:

    • “Giả sử Chúa Giê Su không phải là Chúa giáng trần.
      Giả sử trong cuộc dời ngắn ngủi của Ngài, Ngài đã không truyền dạy, mặc khải được đủ những giáo lý căn bản.
      Giả sử chúa lập ra Giáo hội như kiểu một hội ái hữu.
      Giả sử mọi tín hữu dều bình đẳng nhau trước mặt Chúa Cha.
      Giả sử mọi người đều phải nỗ lực để tùy nghi đi tìm Thiên ý, họ có thể nhờ các linh mục làm cố vấn, nhưng không phải tùng phục linh mục.
      Giả sử các cơ cấu tổ chức như Giáo hoàng, linh mục, giáo luật tỉ mỉ, hay tòa giải tội chỉ là những phát minh của con người.
      Chúng ta sẽ có một quan niệm khác hẳn về Giáo hội, không giống những định nghĩa của Giáo Hội."(36)


    Như vậy trong tương lai chắc chắn nhân loại sẽ có rất nhiều thay đổi về tôn giáo. Giáo Hoàng Paul VI ngày 11 tháng 9, 1974 đã than thở: "Giáo Hội hình như có khuynh hướng tự thiêu hủy mình"(37). Riêng tôi, tôi tiên đoán trong tương lai nhân loại sẽ thay đổi như sau về phía tôn giáo:

    • Chúa sẽ không còn là một Chúa riêng của một dân tộc, không còn là một Chúa ngự trị trên Thiên Đình, mà sẽ được nhìn nhận là nguồn sinh của vũ trụ , ở khắp vũ trụ, là bản thể của vũ trụ muôn loài, và như vậy vũ trụ và muôn vật chỉ là những hình tướng biến thiên, những phân từ nhỏ nhoi của Đại Thể vô biên ấy.

      Giác ngộ, mặc khải, là một hiện tượng phổ quát, siêu không gian thời gian, là sở hữu của Thánh hiền, Đông Tây kim cổ, chứ không dành cho riêng ai.

      Thánh Thư là của thánh hiền hay của các cao nhân các đạo giáo viết ra. Đạo nào cũng có Thánh Thư, chứ không phải chỉ riêng có Do Thái hay Công Giáo mới có. Chúng là sở hữu chung của nhân loại. Nó cũng rất tương đối có chỗ hay có chỗ dở. Cái gì hay thì ta theo, cái gì dỡ thì ta bỏ.

      Các thánh thư có thể có những huyền thoại xen lẫn với những chứng tích lịch sử. Huyền thoại thì ta coi là không có thực. Ví dụ chuyện khai thiên lập địa, Adam Evà ăn trái cấm, hồng thủy tiêu diệt thiên hạ, chắc chắn là huyền thoại.

      Nếu Adam Eva thực sự không phải là thủy tổ loài người như khoa học đã chứng minh, thì chắc chắn chuyện Thiên Chúa giáng trần chuộc tội thiên hạ chỉ là chuyện mà thánh Paul, thánh Augustine và Giáo Hội sau này nghĩ ra mà thôi.

      Chúa Giê Su chỉ là một người Giác Ngộ sống phối hợp với Thượng Đế ngay từ khi còn ở gian trần này.

      Xưa nay đã có vô số hiền thánh muôn phương liễu đạt được trình độ đó.

      Phúc âm viết về Ngài có rất nhiều huyền thoại.

      Các Giáo Hội chẳng qua là những hội ái hữu, cốt là để khuyến khích lẫn nhau, nâng đỡ lẫn nhau, chứ không phải là những nhà tù, những phòng tra tấn, những lò sát sinh, hay những cơ quan dùng để khống chế, hành hạ con người về phương diện tinh thần, hay vật chất mỗi khi có điều kiện thuận tiện.

      Tất cả những chuyện bất công xã hội, những tệ đoan xã hội, những bệnh hoạn tật nguyền, những sự cơ cực nghèo đói, những chiến tranh sẽ không còn nếu nhân loại thực tình thương yêu lẫn nhau, giúp đỡ lẫn nhau, cộng tác với nhau.

      Con người sẽ phải được dạy dỗ rằng con người đích thực là những con cái Thượng Đế , hay nói cách khác đều có Bản thể thần minh, có Phật tánh. Cho nên con người phải được khuyến khích tiến bước mãi trên đường nhân nẻo đức trên đường hoàn thiện, sống đồng nhất, hợp nhất với Thượng Đế ngay từ khi còn ở gian trần này.




    Chúng ta học lịch sử, vì lịch sử sẽ cho chúng ta thấy những sai trái của các đạo giáo. Có vậy ta mới biết đàng sửa sai.

    Đạo giáo có nhiều trình độ, nhiều hình thức.
    • Hình thức thấp nhất là Lễ Nghi (hương hoa, chuông trống, van vái).
      Rồi đến hình thức Tín Lý, Tín Điều.
      Rồi đến Luân Lý.
      Rồi đến một đời sống nghệ thuật, đẹp tươi, thuần phác, hồn nhiên.
      Cao hơn hết là đời sống hoàn thiện, sống phối hợp với Thượng Đế, hòa hài với tha nhân, với quần sinh và vũ trụ.


    Con người không thể tiến ngay đến chỗ cao, nhưng cần phải tiến tới, cần phải tinh luyện tâm thần.

    Đạo giáo thực ra có hai loại: Ngoại giáo và Nội giáo.
    • Chạy theo những hình thức lễ nghi bên ngoài là theo ngoại giáo, ngoại đạo.
    • Đi sâu vào tâm linh mà tìm Đạo tìm Trời, ấy là Nội Giáo, Nội Đạo, ấy là Chân Đạo, Thiên Đạo, Đại Đạo.

    Đại Đạo cũng rất là giản dị.

    Nó bắt nguồn từ sự nhận biết mình có Thiên Tính,
    rồi ra sẽ dùng cả đời mình để phát triển Thiên Tính đó


    cho đến chỗ tinh hoa cùng cực
    Phát triển mọi khả năng còn tiềm ẩn nơi mình để cải tạo tha nhân và ngoại cảnh.
    Biến thế giới thành một đại gia đình,
    biến ngoại cảnh thành Bồng Lai Tiên Cảnh,
    để cuối cùng sống hợp nhất với Trời,
    nên vẻ sáng của Trời ngay từ khi còn ở gian trần này…






    Costa Mesa 2/1/89


    _________________
    GHI CHÚ

    • (1) Martyrologe Romain, Traduction francaise par Dom Albert M. Schmitt, Casterman, 1959, p. 469
      - Isaac Asimov, In the Beginning, A Stonesong press Book, Crown Publishers, Inc. New York, 1981, p. 9.

                
    • (2) Religious traditionalists accused Darwin of "limiting God's glory in creation," of "attempting to dethrone God," of "implying that Christians for nearly 2000 years have been duped by a monstrous lie"
      Dorothy Nelkin, The Creation Controversy, W.W. Norton & Company, New York, London, 1982, p. 28.
                
    • (3) The founders of The Creation Research Society (CRS) call themselves "scientific creationists". To attain the status of membership in the organisation, members must meet two requirements: a postgraduate degree in science and belief in the literal truth of the Bible. Applicants for memberships must sign a statement of belief: that the Bible is the written word of God and that its assertions are historically and scientifically true; that all basic types of living things including man, were made by direct creative acts of God as described in Genesis; and that the Noachian Deluge was a historical event.
      Dorothy Nelkin, The Creation Controversy, W.W. Norton & Company, New York, London, p. 79.
                
    • (4) lb. p. 77-83.
                
    • (5) Dorothy Nelkin, The Creation Controversy, pp. 100-102.
                
    • (6) The final editor has left unchanged the two traditional accounts without attempting to smooth out their divergences of details. There are several Babylonian stories of the Flood which are in some respects remarkable similar to the biblical narrative. This last does not derive from them but draw on the same source, namely on the memory of one or more disastrous floods in the valley of the Euphrates and Tigris which tradition had enlarged to the dimension of a worldwide catastrophe..
      The New Jerusalem Bible, Double Day & Company, Inc. Garden City New York, 1985, p. 25; Gen 6:1, note c.
                
    • (7) Isaac Asimow, In The Beginning, A Stonesong Press Book, Crown Publishers, Inc. New York, 1981, p. 156-157.
                
    • (8) One of the early documents in the tragic history of Judeo-Christian relations in Spain is a letter from Pope Gregory to Reccared The Visigoth, commending him for a law, a "constitution", enacted against the infidelity, perfidia of the Jews, despite their efforts to block its promulgation with a bribe.
      Edward A. Synan, The Popes and The Jews in the Middle Ages, The MacMilan Company, New York; Collier - MacMillan Limited, London, 1965, p. 41. Cf. ibidem pp. 8, 37, 92, 122.
                
    • (9) In the case of the Jews, does the Church not triumph more when, day after day, she persuades them, or converts them, than if on a single occasion and all at once, she should devour them with the maw of the sword? Else would not that prayer of the universal Church, which is offered for the unbelieving Jews - pro perfidis judaeis - be established to this purpose ?
      lb. p. 78.
                
    • (10) Foris ab ecclesia constitutus, aeterno supplicio punieris, etiamsi pro Christi nomine virus incendiaris.
      Marcello Craveri, The Life Jesus, Grove Press, Inc. New York, 1967, p. 252.
                
    • (11) La position catholique traditionnelle - exprimee des les premiers siecles du christianisme par Origene, Cyprien et Augustin - est bien connue:
      Extra Ecclesiam nulla salus! Hors de I'Eglise, point de salut!
      D'ou aussi, pour tout le temps a venir:
      Extra Ecclesiam, nullus propheta! Hors de I'Eglise pas de prophete!
      Le Concile oecumenique de Florence (1438-1445) a defini sans ambiguite:
      "La sainte Eglise romaine... croit fermement, confesse et proclame qu'en dehors de I'Eglise catholique nul n'aura part a la vie eternelle, qu'il soit paien, Juif, incroyant ou separe de I'Eglise: il sera la proie du feu eternel destine au diable et a ses anges s'il ne la (I'Eglise catholique) rejoint pas avant la mort.
      Hans Küng, Le Christianisme et les Religions du Monde, Edition du Seuil, Paris, 1984, p. 45.

      The holy Roman Church believes, professes, and preaches that "no one remaining outside the Catholic Church, not just pagans, but also Jews or heretics, schismatics, can become partakers of eternal life; but they will go to the "everlasting fire which was prepared for the devil and his angels" (Matt. 25:41), unless before the end of his life they are joined to the Church...
      (Heretics ám chỉ các giáo phái Tin Lành;
      Schismatics ám chỉ Giáo Hội Chính Thống miền đông (Orthodox Church)).

      Jesuit Fathers of St. Mary College, St. Marys Kansas, The Church teaches, Tan Books and Publishers, Inc. Rockford, Illinois 61105, 1973, p. 78.
                
    • (12) The Syllabus went on to condemn the current belief that .. every man is free to adopt whatever religions he deems in accord with the light of reason; that in any religion men may find the way to eternal life.
      Kennett Scott Latourette, A History of Christianity, Harper & Row Publishers, New York, Evanston & London, 1953, p. 1099.
                
    • (13) Furthermore, it is a dogma of faith that no one can be saved outside the Church.. But no one obtains eternal life if he dies separated from the unity of faith or from communion with the Church through his own fault.
      The Church teaches, p. 97.
                
    • (14)
      Section 8 of Lumen Gentium reads:
      This is the sole Church of Christ, which in the creed we profess to be one, holy, Catholic, and apostolic, which our Saviour, after his resurrection entrusted to Peter's pastoral care, commissioning him and the other apostles to extend and to rule it.... This Church constituted and organized as a society in the present world; subsists in the Catholic Church, which is governed by the successor of Peter and by the bishops in communion with him. Nevertheless many elements of sanctification and of truth are found outside its visible confines. Since these are gifts belonging to the Church of Christ, they are forces impelling toward Catholic unity...
      Msgr. George A. Kelly, The Battle for the American Churchy Doubleday and Company, Inc. Garden City, New York, 1979, p. 26.
                
    • (15) In general, Innocent taught, the Mosaic Law promised temporal and earthy delights, a land flowing with milk and honey, the law of talion, conjugal joy, and a numerous progeny. Against all this, the law of the Gospel extols poverty, invokes a blessing in answer to a curse, venerates virginity - heavy burdens, to be sure, but to those moved by love they seem light. The Old Law was characterized by the active life and by the five senses which make it possible: "such are the carnal Jews, who seek only what sense perceives, who delight in the corporeal senses alone, and this despite the fact that their own prophets "spoke, not carnally, but spiritually."
      Edward A. Synan, The Popes and the Jews in the Middle Ages, The MacMillan Company, New York, 1965, p. 88.
                
    • (16) Europe dominated by the papacy., knew neither equality nor justice; medieval legislation was as savage in its intentions as in its penalties, and the brunt of these fell upon the helpless Jewish population.
      Edward A. Synan, The Popes and the Jews in the Middle Ages, The MacMillan Company, New York, 1965, p. 1.
                
    • (17) A Jew might complaint, perhaps, that I go too far in baiting him, when I term his understanding "ox-like". But let him read Isaiah, and he will hear what goes farther than "ox-like"! "The ox", he says, "knows his owner, and the ass his master's crib: Israel has not known Me. My people had no understanding" [Isaiah 1:3]. You see, o Jew, I am milder than your own prophet: I put you on a par with the beast, he puts you beneath them!
      Edward A. Synan, The Popes and the Jews in the Middle Ages, p. 77.
                
    • (18) Obscurantist zeal led Christians to burn cartload of precious Torah scrolls and of manuscript copies of the Talmud, that monument of learning and religious jurisprudence so dear to Jewish sensibilities,
      Edward A. Synan, The Popes and the Jews in the Middle Ages, 1965, p. 1.
                
    • (19)lb. p. 114.
                
    • (20) An ecclesiastical council at Toulouse outlined a stern procedure for the eradication of heresy in the South. Among other measures, the council forbade the laity the possession of copies of the Bible, except the Psalms and such passages as were in the breviary, and condemned vernacular translation. It thus sought to remove one of the prevalent sources of heresy.
      Kennett Scott Latourette, A History of Christianity, Harper & Row Publishers, New York, Evanston & London, 1955, p. 456.

                
    • (21) Kenneth Scott Latourette, A History of Christianity, p. 658.
                
    • (22) Kenneth Scott Latourette, A History of Christianity, Harper and Row Publisher, New York, Evanston & London, 1953, cac trang 435, 438, 541, 657-659, 842, 845, 457, 1012, 1082, và 568.
                
    • (23) Vergilius Ferm, An Encyclopedia of Religion, The Philosophical Library, New York, 1945, nơi chữ Witchcraft, tr. 827.
                
    • (24) Kennett Scott Latourette, History of Christianity, pp. 438, 453-455, 513, 557, 456.
                
    • (25) And through the cities which they were passing, they wiped out completely, as enemies internal to the Church, the execrable Jewish remnants, or forced them to the refuge of baptism - but many of these later reverted, like dogs to their vomit.
      Edward A. Synan, The Popes and the Jews in the Middle Ages, The MacMillan Company, New York, Collier MacMillan Limited, London 1965, Chapter V, The Crusades, pp. 66-82.
      Về đọan lịch sử trên, xem ibidem, p. 70,
      và nguyên văn bằng tiếng Latinh do Ekkehard of Aura, Chronicon Universale, MGH, SS, vol. VI p. 208.

                
    • (26) Would any earlier pope have been disposed to greet Jewish visitors, as did Pope John, with the words of the patriarch who dispensed grain in a time of famine: "I am Joseph, your brother" (Gen 45:4).
      Edward A. Synan, The Popes and the Jews in the Middle Ages, 1965, p. 4.
                
    • (27) Giáo Hoàng cho rằng luận cứ sau đây là sai lạc:
      Every one is free to follow and to profess the religion which the light of reason leads him to judge to be the true religion.
      Jesuit Fathers of St. Mary's College, The Church teaches, St. Marys. Kansas, Tan Books and Publishers, Inc. Rockford, Illinois 61105, 1973, p. 86.
                
    • (28) Xem Msgr. George A. Kelly, The Battle for the American Church, tr. IX.
                
    • (29)
      The "Filioque" controversy.
      The origin of the Filioque controversy presents one of the unsolved mysteries of Church history. No one has so far discovered when, how and by whom the words "and from the Son" were added to the Creed, the text of which had been solemnly approved both by the East and West as their common confession of faith at the first four Ecumenical Councils.
      It appears that the addition was made in Spain some time in the sixth or in the seventh century, but the circumstances under which this change occured have so far not been discovered. From Spain the Filioque clause spread gradually to neighbouring Gaul, and from there to England, Germany and Italy. At first, the Roman Pontiffs were opposed to it, and Pope Leo III (795-816) even ordered the original text of the Creed to be inscribed on silver shields and hung in St. Peter's.
      Charlemagne and his successors, however, were determined to uphold the legetimacy of the addition, for it provided them with the handy weapon against Byzantinum. In accusing the Eastern Christians of heresy, the Western rulers found a convenient excuse for aggression. The refusal of the Orthodox to accept the Spanish addition to the Creed thereby became a pretext for the conquest of territories belonging to the Eastern Empire. Under political pressure Rome withdrew its opposition to the Filioque clause, and in the next century, at the coronation of the Emperor Henry II (1002-1024) in 1014, the Creed was solemnly intoned at St. Peter's complete with the offending addition.
      The Concise Encyclopedia of Living Faiths, Ed. by R. C. Zaehner, Beacon Press: Boston, 1959, p. 95.
                
    • (30) Xem Msgr. George A. Kelly, The Battle for the American Church, pp. 188 va 456.
                
    • (31)
      Ministry, according to Hans Küng, really did not became sacred until the sixth century.

      Bảng phúc trình thần học về hàng Linh mục (a theological study of the priesthood), soạn thảo do các Linh mục dòng Tên, Bernard Cooke va Karl Armbruster năm 1971, có viết nguyên văn như sau:
      • "We can go on to say that there is no evidence in the New Testament that any one individual exercised all these (priestly) functions in the first century of the Christian era".

      Msgr. George A. Kelly, The Battle for the American Church, p. 331.
                
    • (32) Prayers offered, heads ducked in unison, crossings, chants, christenings, grace at meals, beats, incense, candles, nuns in the classroom alternatively too sweet and too severe, priests garbed black on the street and brilliant at the altar; churches lit and darkened, clothed and stripped to the rhythm of liturgical recurrences; the crib in the winter, purple February and lilies in the spring; confession as intimidation and comfort and so forth.
      Bare Ruined Choirs, pp. 15-16.- Msgr. George A. Kelly, The Battle for the American Church, p. 13.
                
    • (33) Some years earlier, a non Catholic psychologists, Gordon Alport, had decided that nine tenths of all Church members were "extrinsically religious". This meant they used religion as a security blanket for the way in which they already lived, but harboring more prejudice against blacks or Jews than unbelievers.
      Such reasoning was picked up by psychologist Eugene Kennedy, whose book In the Spirit in the Flesh applauds the movement of Catholics away from "extrinsic religion" - based on ritual, rules, and dogmas - and to an "intrinsic religion" based on the Gospel's invitation to a life of risk-taking.
      The pre-Vatican II Church, according to Kennedy, was extrinsic religion, one that sought to impose answers to all questions that the faithful would face, resulting in Catholic conformism.
      Vatican II, on the other hand offered instead, intrinsic religion, calling believers to search deeper into their own humanity.
      Msgr. George Kelly, The Battle for the American Church, p. 13-14.
                
    • (34)
      No. 6
      "The narrations of John are not properly history, but a mystical contemplation of the Gospel".
      No, 21
      "Revelation, constituting the object of the Catholic faith, was not completed with the Apostles".
      No. 27
      "The divinity of Jesus Christ is not proved from the gospels. It is a dogma that the Christian conscience has derived from the notion of Messiah.
      No. 35
      "Christ did not always possess the consciousness of his Messianic dignity".
      No. 42
      "The Christian community imposed the necessity of Baptism, adopted it as a necessary rite, and added to it obligation of Christian promulgation"
      No. 47.
      "The word of the Lord in John 20:22-23 in no way refer to the sacrament of Penance, in spite of what is pleased the Fathers of Trent to say".
      No. 55
      "Simon Peter never even suspected that Christ entrusted the primacy in the Church to him".
      No. 59
      "Christ did not teach a determined body of doctrine applicable to all times and all men, but rather inaugurated a religious movement adapted or to be adapted to different times and places".
      Libro citato pp. 44-45.
                
    • (35) As philosophers Modernists are agnostic. They confine reason entirely within the field of phenomena (the appearances of things) and so deny man's natural capacity to know God from reason or revelation. As believers Modernists come to faith in a strange way. Man may not know God by reason. Still religion is a universal human phenomenon. How does this comes about? The explanation must be found within man himself (immanence). God originates in man's need of the divine. As an external being, God is unknowable. Man just believes but that faith has no rational basis.
      As theologian, Modernist similarly find revelation in human experience. Revelation is man's consciousness of God. Even the Church must submit to the test of the collective consciousness of men, which evolves and continues to evolve through history. ["Venerable brethen, these are not merely the foolish babblings of unbelievers. There are Catholics, yea, and priests too, who say these things openly; and they boat that they are going to reform the Church by these ravings"].
      As historians, Modernists distinguish exegesis that is scientific from that which is theological and pastoral. So as scientifics they "are wont to display a manifold contempt for the Catholic doctrines, for the Holy Fathers, for the ecumenical councils, for the ecclesiastical Magisterium...
      Msgr, Gregory A. Kelly, The Battle for the American Church, pp. 43-44
                
    • (36)
      If Jesus Christ is not the Son of God made man, or,
      If his basic relevation was not fully given in his short lifespan or
      If he founded a Church only in the loose sense of a community of friendly believers, and
      If all believers are equal in office before the Father,
      If they must search in their own way for the mind and will of God - with the counsel from priests perhaps but without being subject to them.
      If institutional structures such as papacy, priesthood, minute laws, or confessionals are considered a human invention, not the divine will.
      Then we are dealing with a different understanding of Christianity than that found in the definitions of the Catholic Church.
      Libro citato, p. 38.
                
    • (37) Paul VI: sighed (September 11, 1974) that the Church appears "destined to burned itself out".
      lb. p. 457.







    (... còn tiếp ...)
    nguồn: sachhiem.net
              

              
Last edited by Hoàng Vân on Thứ sáu 02/09/16 10:14, edited 2 time in total.
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20038
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: nhận định mới về Tín Lý và Giáo Lý Công Giáo

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  • nhận định mới
    về Tín Lý và Giáo Lý Công Giáo

    ______________________________
    Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ - 2007




    (... tiếp theo ...)



    Phần II - Giáo Lý
    ______________




    Dẫn nhập


    Khi còn nhỏ, tôi nghe lập luận của Thiên Chúa giáo về Thượng đế, về con người, về tội tổ tông, về thiên đàng, hỏa ngục, tôi đều cho là hay, là đúng. Càng thêm tuổi, tôi càng thấy lập luận trên hoàn toàn sai.

    Năm 1963, khi nói về Triết Đông phương tôi đã viết:
    • ...Người Âu châu, từ mấy thế kỷ nay, nhờ những thắng lợi vật chất, đã đè đầu cưỡi cổ Á châu, đã khinh khi, đã muốn hủy diệt tất cả những nền văn hóa cổ truyền Á châu, những nền đạo giáo Á châu. Những người Á châu thiết tưởng không nên lóa mắt vì những thắng lợi nhất thời của Âu châu, mà theo chân họ, miệt thị cha ông, miệt thị các thánh hiền thiên cổ. Chúng ta có bổn phận thiêng liêng là khai thác các kho tàng tư tưởng rất phong phú của cổ nhân, để tìm ra những điều huyền vi cao diệu khả dĩ chuyển hóa được tâm hồn ta, thần thánh hóa được bản thân ta.


    Tôi nghiên cứu về các đạo giáo từ khi tôi 36 tuổi [1957], nay tôi đã 74 tuổi. Như vậy là tôi đã bỏ ra gần 40 năm, ngày đêm suy tư, tìm hiểu để đi tìm chân lý. Tôi viết những trang này, cũng là một cách đối thoại với quí vị. Tôi chỉ xin quí vị là trước khi phản kích lại tôi, xin nghe tôi trình bày biện bạch. Quí vị nào thấy tôi nói gì sai trái, xin chỉ giáo cho.

    Giáo hội Công giáo cho rằng mình
    • là một Giáo hội thống nhất, là thánh thiện, là theo đúng truyền thống tông đồ, là ở khắp nơi
      [Unam, Sanctam, Catholicam et Apostolicam].
    • Giáo hội thống nhất vì trên bảo dưới nghe, cùng tin mọi điều như nhau.
    • Giáo hội là thánh thiện, vì có bảy phép bí tích do Chúa Giêsu lập ra, vì đã khiến cho nhiều người trở nên thánh thiện. Công giáo có khoảng 300 dòng nam, và hơn 300 dòng nữ. Và có nhiều người đã được phong thánh như gần đây có Jeanne d'Arc, Bernadette de Lourdes, Thomas More, Francesca Cabrini, Maria Goretti phong thánh theo thứ tự các năm như sau 1920, 1933, 1935, 1946, 1950 v.v...
    • Theo đúng truyền thống tông đồ, và truyền từ Chúa cho tới nay, liên tục qua 264 đời Giáo Hoàng.
      Nói thì như vậy, nhưng đào sâu, ta sẽ thấy muôn điều sai trái.
    • Giáo hội ở khắp nơi vì nay đã có hàng tỉ giáo dân.(...)


    Công giáo Vatican hết sức quyền biến. Trước đây mấy chục năm, không bao giờ nghe người Công giáo dám nói chuyện hòa đồng tôn giáo, nhưng từ Giáo Hoàng John XXIII nghĩa là từ 1955 đến nay, thì vấn đề này được đưa lên hàng đối ngoại hàng đầu. Từ 30 năm nay, nghĩa là từ sau Vatican II, Công giáo chủ trương đối thoại tôn giáo. Giáo Hoàng John Paul II đi đến đâu cũng đòi gặp các tôn giáo bạn như Do Thái giáo, như Tin Lành, như Hồi giáo, Ấn giáo, Phật giáo. Tuy nhiên Ngài gặp họ không phải để nói chuyện hòa đồng, nhưng là để bắt tay thân thiện mà thôi. Còn chuyện hòa đồng sẽ phó mặc địa phương. Nhưng thật ra ai sẽ chịu nhường ai để nói chuyện hòa đồng. Trong vòng 30 năm qua, kết quả ra sao, chúng ta đều biết.[1]

    Tôi coi bài viết này như là một cuộc đối thoại với một tôn giáo quan trọng nhất hoàn cầu.
    Tôi đứng ngoài mọi tôn giáo, và cố tìm xem thế nào là một tôn giáo, một đại đạo thật sự. Ước mong bài viết này sẽ đem lại ít nhiều giá trị cụ thể.

    Tôi dùng ba quyển sách cập nhật hóa nhất của Công giáo, tức là ba quyển giáo lý Công giáo mới nhất:
    1. Catechismus of the catholic church
      [Libreria Editrice Vaticana, Urbi et Orbi Communications, 1944].
    2. Catéchisme de l'église catholique
      [Mame/Plon, Paris, 1972].
      Hai quyển trên đã được dịch ra từ Texte typique latin, Libreria Editrice Vaticana [Cita del Vaticano, 1922].
    3. Giáo lý của giáo hội công giáo
      [Thời Điểm, California, 1995].
      Sách trên do Giáo Hoàng John Paul II đề tựa. Như vậy là chính thống, hoàn toàn bảo đảm.

    Đọc ba sách trên, thấy Giáo hội Công giáo tiến hơn xưa ở chỗ là không còn công khai thóa mạ ai, hay lên án ai, mà chỉ trình bày giáo lý mình... Toàn sách không có một lời Anathema sit [chúc dữ, hủy diệt].
    Quả thực, khi đọc ba sách trên, tôi thấy không có gì là cao siêu, là hấp dẫn cả.

    • Tôi cũng dùng
      Kinh Thánh,
    • và quyển
      The church teaches, của các Linh Mục Dòng Tên ở St. Mary's College, St. Mary's, Kansas.
    • Ngoài ra tôi còn dùng
      quyển sách nhỏ của LM Joseph Turmel (1859-1943): Tại sao tôi không còn tin giáo lý công giáo [1b].
      Ông dạy Thánh Kinh và Thần Học ở Đại chủng viện Rennes bên Pháp. Tôi học được nhiều điều nơi ông.
    • Về khoa bình giải Kinh Thánh, tôi tiếc là không biết tiếng Đức để đọc nhiều về khoa này. Tôi muốn đọc Wilhelm Gesenius (1786-1842), Henri Lesêtre (1848-1914), Eduard Reuss (1804–1891) v.v... mà không được. Tôi tiếc là không có được quyển The new Jerome biblical commentaryThe Collegeville Bible Commentary do The Liturgical Press ấn hành.
    • Tôi chỉ có ở dưới tay quyển
      A new commentary on holy scripture including the Apocrypha, edited by Charles Gore, Henry Leighton Goudge, Alfred Guillaume, London [Society for promoting christian knowledge, Northumberland Avenue, WC 2, 1928]
    • những lời bình giảng của LM Nguyễn thế Thuấn,

    • Bible de Jérusalem mà thôi.

      Càng viết càng thêm tài liệu,
    • như quyển
      Born of a woman của Giám Mục John Shelby Spong [Harper, San Francisco, 1946]

    • Honest to god, John A. T. Robinson, Bishop of Woolwich [The Westminster Press, Philadelphia, 1963].



    Vậy đạo Công giáo sai ở những điểm nào? Thưa sai vô số. Ít nữa là 33 điểm sau đây:

    1. Tội tổ tông.
    2. Vấn đề mặc khải.
    3. Chúa ba ngôi.
    4. Chúa Giêsu xuống thế chuộc tội thiên hạ.
    5. Các lời tiên tri. Tin Kinh Thánh là lời Chúa.
    6. Chuyện tận thế.
    7. Đức Mẹ đồng trinh.
    8. Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội.
    9. Đức Mẹ linh hồn và xác lên trời.
    10. Chúa Giêsu lên trời.
    11. Con người là một kẻ tội lệ.
    12. Xác loài người ngày sau sống lại.
    13. Không tin con người có thiên tánh.
    14. Phán xét riêng và phán xét chung trong ngày thế mạt.
    15. Hỏa ngục đời đời.
    16. Ma quỉ là vua thế gian.
    17. Chúa ngự trong phép bí tích Mình Thánh.
    18. Bảy phép Bí Tích.
    19. Ân xá và ân toàn xá.
    20. Tám điều răn thay vì 10 điều răn.
    21. Ngăn chận không cho giáo dân đọc Kinh Thánh thời Trung Cổ, nhất là bằng tiếng thổ âm, thổ ngữ.
    22. Thần học Giải Phóng.
    23. Ba thứ đạo: Vật đạo, Nhân đạo, Thiên đạo.
    24. Công giáo và Kinh Thánh cũ hay Cựu Ước.
    25. Con người và Thuyết Tiến Hóa.
    26. Lương tâm là chân tâm nơi con người, và là cùng đích tiến hóa của con người.
    27. Nước thượng vị Vatican.
    28. Vụ án Galileo.
    29. Giáo Hoàng bất khả ngộ.
    30. Các đoàn thể Công giáo.
    31. Tôn giáo và Minh triết.
    32. Đạo tự nhiên và đạo mặc khải.
    33. Những thịnh suy của Giáo hội Vatican từ Luther tới nay.



    Chúng ta kiểm lại từng điểm một.





    (... còn tiếp ...)
    nguồn: sachhiem.net
              

              
Hình đại diện
NTL
Bài viết: 1332
Ngày tham gia: Chủ nhật 17/05/15 14:20

Re: nhận định mới về Tín Lý và Giáo Lý Công Giáo

Bài viết bởi NTL »

*

Ôn vàng.
Cám ơn heng, tha về cuốn sách hiếm.
Tui đang đọc từ từ nè, khúc nhập đề hấp dẫn, nhưng càng về sau càng lạng quạng.
Nhưng chuyện nớ sẽ bàn sau heng.

Tui nhớ có lần ở bên kia đã nói như vầy : Thiên chúa giáo và cộng sản có cùng cách tổ chức điều hành y chang nhau, do CS đã bắt chước thiên chúa giáo. Tui nói vậy rồi lãnh liền từ ông Triển cái búa tạ. Phải là người thiên chúa giáo rồi nghiền ngẫm bible thì mới có thể hiểu rõ sự viềc.
Thì tui có nói rồi, bible là quyển sách chép lại lời chúa. Nhưng đâu phải lúc mô chúa cũng rảnh rang mà nói to nói rõ nói đủ. Và cái đám thư ký ghi lợi kìa, đâu phải lúc mô chúng cũng tỉnh như sáo sậu mà chép cho đúng. Bible lắm khi lạng quạng tới thần thoại hoang đường.

Thành ra rồi.... a hèm... thánh kinh là quyển sách phải đọc với tinh thần cẩn trọng và khoáng đạt để hiểu ra ngoài con chữ, mà nhả sỏi sạn ra cho khỏi trầy nướu mẻ răng, vì rằng... thường khi... thấy vậy mà không phải vậy, cũng có khi thấy vậy mà còn hơn vậy nữa.
Nên rồi đọc bible và hiểu bible là hai chuyện hoàn toàn khác hẳn nhau.

Cái kiểu đọc thánh kinh của cụ BS nọ, tui nghĩ nó dùi đục chấm xì dầu, chữ viết làm sao thì cụ cứ hiểu y chang làm vậy, bởi cụ có cái nghĩa khí của nhà nho nên là người thiệt thà như đếm, cho dù cụ theo tây học nhưng vẫn gắn chật hồn vào luân lý suy nghĩ á đông.

Cụ và chú tư tui (là ông goá vợ năm ngoái kìa) có cùng cách nhìn đọc, nhận xét phán xét thánh kinh và đạo công giáo y chang nhau. Tui nghe chú tư nói miết nên quen rồi. Đây là những người có thể được rửa tội từ nhỏ, tiếng là theo đạo công giáo cái kiểu bị ép uổng mà không có lựa chọn lúc bé, rồi lớn lên tìm hiểu và đã không thể chấp nhận những sai lầm quá khứ, nên đã cố gắng chỉ ra các tội lỗi tiền nhơn hầu cảnh tỉnh hậu thế.

Tôn giáo là ánh đuốc soi đường.
Chọn ngọn đuốc cho vừa tầm tay để lấy ánh sáng đã đành, lại còn phải biết cách cầm sao để đừng bị phỏng vì đuốc.
Ngó chừng ông cụ bị phỏng nặng rồi ha, và vết sẹo đã làm da mất tánh đàn hồi, suy sụp xúc giác nên giảm hẳn chức năng sinh học.
Đọc ông thương thì thôi nha ! Và thong thả còn chờ đọc tiếp.

*
Make the long story... short !
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20038
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: nhận định mới về Tín Lý và Giáo Lý Công Giáo

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  • nhận định mới
    về Tín Lý và Giáo Lý Công Giáo

    ______________________________
    Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ - 2007





    Phần II - Giáo Lý
    ______________



    (... tiếp theo ...)



    Chương 1 - Tội Tổ Tông
    _____________________



    Tội Tổ Tông là một tín điều căn bản của Công giáo.
    Không tin có tội này tức là không tin có chuyện Chúa Giêsu giáng trần.


    Vấn đề được đặt ra là con người vốn tốt hay vốn xấu?
    • Khổng, Mạnh cho rằng nhân chi sơ, tính bản thiện, và con người có thiên tính.
      Như vậy con người phải được cai trị bằng nhân nghĩa.
    • Tuân tử cho rằng nhân chi sơ, tính bản ác.
      Như vậy phải cai trị bằng võ lực.
    • Phật giáo xác quyết nhân chi sơ, tính bản thiện và con người có Phật tính.
    • St. Paul cho rằng con người đã bị Adam làm cho trở nên tội lỗi,
      và St. Augustine cũng chủ trương như vậy, tức là nhân chi sơ, tính bản ác.
      Thế là từ đấy Âu châu bị nhồi sọ như vậy.


    Tuy nhiên, Kinh Thánh lại chép rằng vì ăn trái cấm con người đã trở nên giống Thiên Chúa [Ge 3:22] chứ có sa đọa gì đâu.
    Vả lại theo Thiên Chúa giáo, ngày nay, muốn sạch tội tổ tông, chỉ cần đổ chút nước lên đầu hay dầm mình xuống nước, có khó khăn gì đâu mà Chúa Cha phải cho con giáng trần chuộc tội đó.
    Nếu cho rằng con người cần được thử thách trước mới đáng được vinh quang, thì cần chi Ngài phải dựng nên con người, để rồi đày đọa họ như vậy.

    Người Do Thái chủ trương họ là những người được Thượng đế trao cho bộ Kinh Thánh đầu tiên. Nhưng họ cho rằng không làm gì có thứ tội bị Chúa phạt muôn đời.
    • Trong sách Deuteronomy, Chúa chỉ phạt tới ba đời [De 5:9]
    • và trong sách Ezechiel [Eze 18:20] Chúa không phạt con, nếu cha phạm tội, ai làm tội nấy chịu, nghĩa là chỉ phạt một đời.
    • Trong đoạn này, Chúa còn định nghĩa thế nào là một người công chính, ngay thẳng trước mặt Thiên Chúa, như vậy rõ ràng Chúa không biết gì về tội tổ tông [Eze 18:5-32].


    Thực ra con người sau khi ăn trái cấm đã không sa đọa như chúng ta tưởng, vì chính Chúa Elohim đã phán:
    • "Nay con người đã nên bằng chúng ta, vì đã biết lành biết dữ. Vậy đừng để chúng dơ tay, hái luôn cả trái cây hằng sống, và sẽ sống mãi" [Ge 3:22].

    Và Ngài đuổi ông bà ra khỏi vườn, để không còn tìm ăn trái cây hằng sống [Ge 3:23]. Như vậy, nếu ông bà khôn ngoan hơn một chút ăn luôn quả cây hằng sống thì đâu có chết.

    Điều vô lý trong câu chuyện này là con rắn biết nói [Ge 3:1].
    Chỉ trong những chuyện hoang đường thần thoại mới có chuyện loài vật biết nói. Giáo hội cho đó là ma quỉ hay Satan. Các Ngài cho đó là những thiên thần bị sa đọa. Nếu quả chuyện này là có thật thì đã ghi chép trong Kinh Thánh. Vậy các Ngài đã đặt ra chuyện này, thời xin cho biết đã dựa vào tài liệu nào? Các Ngài cho đó là lời truyền khẩu chăng? Thật là phi lý.[2]

    Như vậy, chuyện thiên thần sa đọa thành ma quỉ là chuyện hoàn toàn bịa đặt.
    Các Ngài cho rằng Satan bị Chúa giam trong hỏa ngục đời đời, bị lửa thiêu đốt đời đời, không bao giờ được thấy mặt Chúa. Nhưng sách Job ghi rõ rằng Satan vẫn về họp với Chúa và các con Thiên Chúa. Và khi Chúa hỏi Satan vừa qua làm gì thì Satan thưa đi chu du, rong chơi thiên hạ. Sau đó Chúa cho Satan đọa đày và thử thách Job [Job 1: 6-12].
    Thì ra chuyện thiên quốc cũng như chuyện gian trần ta, các siêu cường thường vẫn họp kín họp hở với nhau, trong khi dân con phía dưới được dạy là phải đánh nhau vỡ đầu thí mạng...Thì ra Satan đâu có bị giam cầm trong hỏa ngục, vẫn đi chơi khắp nơi, vẫn thường xuyên gặp Thiên Chúa. Như vậy có phải Giáo hội dạy một đàng, mà Chúa lại làm một nẻo không?

    Hơn nữa, tội là của linh hồn. Mà Thiên Chúa giáo cho rằng linh hồn là do Chúa sinh ra khi con người vừa mới thụ thai. Như vậy mỗi khi con người vừa bẩm sinh là Chúa dựng nên một linh hồn mới. Thế thì làm sao mà in được tội tổ tông vào. Hơn nưã cái gì chính Chúa tạo nên thời phải hoàn thiện, cho nên tội tổ tông sẽ không chỗ bám.

    Trở lại vấn đề tội tổ tông, ta thấy đây chỉ là vấn đề triết học, suy luận về thân thế con người.
    • Thánh hiền [Phật, Lão, Khổng] cho rằng bản tính con người vốn tốt, sở dĩ nó xấu là vì vô minh, u muội không nhận ra rằng mình có thiên tính cao sang.

      Còn hạ trí, hạ nhân [Tuân tử] mới cho rằng con người vốn xấu.

      Pelagius [354-420] người đồng thời St. Augustine [354-430], và sau này Jean-Jacques Rousseau [1712-1778] là người chủ xướng nhân chi sơ, tính bản thiện, và con người là một con người đáng kính trọng. Quyền cai trị là do dân, chứ không do trời. Và sau đó xảy ra Cách Mạng 1789, lật đổ thần quyền, vua chúa. Các Giáo hội mới đầu cho rằng Jean-Jacques Rousseau là một kẻ điên khùng, nhưng nay cũng phải chịu rằng dân chủ là hay nhất.
      Pelagius vì chủ trương nhân chi sơ tính bản thiện đã bị hai Công đồng North African Synods of Mileve và Carthage cho là rối đạo năm 416. Sau đó cũng bị các Giáo Hoàng Innocent I và Zozimus lên án như vậy. (...)

      Công giáo mừng vì nhờ có tội tổ tông nên Chúa mới giáng trần.
      Trong quyển Bước qua ngưỡng cửa hy vọng, Giáo Hoàng John Paul II đã nhiều lần ca tụng tội tổ tông:
      • O felix culpa, quoe talem ac tantum meruit habere Redemptionem
        [ôi! cái tội hồng phúc đã có công đem lại chúng ta Đấng Cửu Thế cao cả biết bao] [3]


    Theo tôi, tội tổ tông là một vấn đề không tưởng, do Công giáo [nhất là St. Paul và St. Augustine] bày đặt ra. Nó không ăn nhằm gì đến vấn đề mặc khải, hay đạo giáo, mà chỉ là một vấn đề triết học. Chúa cũng chẳng giáng trần vì một tội không tưởng.

    Tôi thấy Công giáo làm phép Rửa Tội, để tha tội tổ tông thật là dễ dàng. Như vậy cần gì Chúa giáng trần. Tôi không tin có chuyện Chúa giáng trần chuộc tội thiên hạ. Theo tôi ai làm tội, người ấy chịu phạt. Chúa không thể chịu phạt thay tôi. [Eze 18:4].
    (...)





    Chương 2 - Mạc Khải.
    ______________________


    Mạc khải, tiếng Hi Lạp là Apokálypsi, tiếng Anh là Revelation, tiếng Latin là Revelation, tiếng Đức là Offenbarung,
    • nghĩa là vén màn cho thấy những gì xưa kia bị giấu ẩn.

    Công giáo hiểu là:

    1. Chúa tự động cho ta biết rằng Ngài có thực, biết về bản tính Ngài, biết về sự hiện diện Ngài, thấy Ngài là nhân hậu, toàn năng.
    2. Chúa cho biết mục đích của Ngài, và những gì Ngài muốn qua những sự kiện lịch sử đã xảy ra, như lịch sử dân Do Thái, như cuộc đời Chúa Giêsu.
    3. Những điều Ngài truyền dạy đã ghi chép trong Thánh Kinh, và đó là chân lý và là điều hay, lẽ thật.
      Mạc khải đã được truyền cho các tông đồ, các Giám Mục, Giáo hội, cho những người có bổn phận giảng giáo.


    Chỉ có Giáo hội mới được mạc khải hoàn toàn, và không còn mạc khải nào khác nữa.
    Cá nhân có thể được mạc khải, và có khi được Giáo hội công nhận, nhưng chúng không ăn nhằm gì đến đức tin.[5]
    Giáo hội phạm nhiều sai lầm trong vấn đề này.

    Trước hết ta nên phân biệt, mạc khải là do Trời truyền.
    Còn người được mạc khải là người giác ngộ.
    Chúa Giêsu là một người được mạc khải, nhưng đạo Công giáo không phải là đạo mạc khải.

    Nguyên chuyện thân phận con người hết sức là sang cả, mà Công giáo cũng không biết, lại luôn cho rằng con người là xấu xa vì đã phạm tội tổ tông. Tôi đọc Kinh Thánh cũ hay Cựu Ước, không bao giờ thấy Thượng đế đả động đến tội tổ tông. Chẳng lẽ Ngài đã quên chuyện tày trời đó.

    Công giáo không biết rằng con người phải đi vào nội tâm mà tìm Chúa. Công giáo không biết rằng con người có thể có tầm kích như Chúa Giêsu, mặc dầu St. Paul có dạy rõ ràng, nhưng Công giáo không hề biết khai thác [5b].

    Công giáo cũng không biết rằng Chúa đã ngự ngay trong tâm hồn mọi người, và nước Trời đã ở sẵn trong lòng mọi người. Công giáo nói: Christianus alter Christus [Người Công giáo là một Chúa Giêsu khác], nhưng không hề khai thác, áp dụng. Chính vì thế mà Công giáo có phép Thánh Thể để đem Chúa vào lòng con người dù là dăm ba phút... Nếu quả thật, chúng ta là những Chúa Giêsu khác, thì cần gì còn phải rước Chúa vào lòng.

    Công giáo không biết rằng mạc khải là vén bức màn vô minh lên cho con người thấy bản thể sang cả của mình, cho con người thấy rằng mình có bản thể thần linh, chứ không phải là một kẻ xấu xa, hèn hạ như Công giáo tưởng.

    (...) Giác ngộ và mạc khải không phải là của tư hữu của cá nhân hay đoàn thể, mà thời đại nào cũng có vài người được diễm phúc này. Giác ngộ là một ân sủng cá nhân, không truyền cho ai được.
    Lữ Đồng Tân viết:

    • Đạo tặc chẳng cướp được,
      Hỏa thiêu vẫn y nguyên.
      Ở đời không kẻ biết,
      Chí thân cũng không truyền.


    Đạo Công giáo trong 2000 năm qua, chỉ có khoảng 100 người giác ngộ như St. Paul, như Meister Eckhart, như Johannes Tauler, như Henry Suso, như John of the Cross, như Teresa of Ávila v.v... Các vị thánh hiền trên thường không có đệ tử.
    Nho giáo cũng có khoảng vài chục người như Khổng, Mạnh, Trình tử, Vương dương Minh, Lục tượng Sơn v. v...
    Phật giáo có các tổ thiền như Huệ Năng, Mã tổ v.v...
    Bà La Môn, phái Kaballah của Do Thái, phái Sufism của Hồi giáo v.v... cũng đều có các vị hiền thánh như vậy.

    Dù là Giáo Hoàng, hay Giám Mục nếu không được giác ngộ cũng chỉ là kẻ phàm phu tục tử mà thôi. Giáo Hoàng hay Giám Mục chỉ là những người có khả năng lãnh đạo, những chính trị gia, chứ không phải là những nhà thần học hay triết học. Linh Mục cũng chỉ là những người bình thường, chẳng có gì là thần thánh. Giáo dân tâng bốc họ lên mà thôi, chứ trong hàng ngũ LM ta thấy có rất ít người giỏi giang, siêu việt.
    Không làm gì có chuyện mạc khải chung cho Giám Mục, cho Giáo hội , v. v...
    Không làm gì có chuyện mạc khải công cộng, cho quần chúng.

    St. Paul, cho rằng tuy ngài sinh sau đẻ muộn, nhưng tài năng hơn các tông đồ khác [2Co 11:5-6]:
    ngài chê các tông đồ khác không có tài giảng đạo [2Co 10:15-17],
    ngài cho rằng mình hơn các tông đồ khác, và không thèm lấy tiền của dân v.v. [2Co 11:21-23, 2Co 13:11-15].
    Trong thư gửi cho giáo hữu Galates, ngài cho biết không học hỏi gì với các tông đồ [Ga 1:15-22],
    và đã nặng lời chê bai St. Peter [Ga 2:11-14],
    và cho rằng Phúc âm ngài giảng là Phúc âm duy nhất [Ga 1:8-10] v.v...
    Như vậy, ngài có học được gì nơi Chúa Giêsu đâu. Hay nhất là chính St. Paul mới là người sáng lập ra đạo Công giáo, chứ không phải Chúa Giêsu.

    Tóm lại, giác ngộ [enlightenment] là
    • thần con người thông đạt được với thần vũ trụ,
      tiểu ngã con người kết hợp được với Đại Ngã vũ trụ,
      và nhận thấy mình và trời đất là cùng một thể.

    Khẩu quyết của Bà La Môn là Tat Tvam Asi, Con là Cái Đó, nghĩa là con chính là đồng thể với Thượng đế.

    Giáo lý Công giáo rõ ràng không hay biết điều này. Cho rằng Chúa đã thủ thỉ cho con người hay biết tâm tư mình qua Kinh Thánh là điều mà hiền thánh Á Đông không bao giờ chấp nhận. Khổng tử đã nói:
    • Trời có nói gì đâu, thế mà bốn mùa cứ vần xoay mãi, vạn vật trong vũ trụ cứ sinh hóa mãi. Mà Trời có nói gì đâu?
      [Luận Ngữ XIX, 18].








    Chương 3 - Chúa Ba Ngôi.
    ___________________


    Trước hết ta nên biết Chúa có nhiều tên, ít nữa là bảy tên sau đây:

    1. Yahweh, chính ra là YHWH. Tên này vì không có mẫu âm nên không đọc được. Nên thường phải chua chữ Adonai [Chúa] ở dưới. Đến sau, người ta mượn ba mẫu âm A-O-I [hay E] của Adonai mắc vào chữ YHWH thành Jehovah.
      Jehovah được nhắc đến trong Thánh Kinh 6.832 lần.
    2. Adonai.
    3. Elohim được nhắc đến 3.350 lần.
    4. Đôi khi ta còn thấy tên El Eliyon, biến dạng của Elohim.
    5. Shaddai. Được nhắc tới 301 lần.
    6. Lord Sabaoth [Chúa các Đạo binh].
    7. Trong Kinh Thánh mới Yahweh được gọi là Kyrios [Lord].


    Thánh Kinh coi Chúa là đấng thô bạo, hay giận, hay báo thù, hay ghen, yêu chuộng hòa bình và đấng tối cao.[5d]
    Thiên Chúa giáo chủ trương Chúa Ba Ngôi.
    Do Thái giáo, Hồi giáo chủ trương Thượng đế là duy nhất.

    Kinh Thánh cũ hay Cựu Ước [Old Testament] bảo:
    • Này đây, lời Yahve, vua Israel, đấng Cứu Chuộc Israel, Yahve các đạo binh. Ta là đầu, là cuối. Ngoài ta ra không có Chúa nào khác. Ai là người giống ta, hãy đứng lên nói xem...[Isa 43:6-7].
      Chính ta YAHVE, đã làm nên tất cả. Ta một mình căng trời, bện đất. Nào có ai đã giúp ta? [Isa 44:24]
      Và các ngươi hiểu rằng chính là Ta. Trước ta, không có Chúa nào và sau ta, cũng không có Chúa nào. Chính ta là Yahve, không có đấng cứu rỗi nào ngoài ta. Không ai có thể cứu khỏi tay ta. Ta làm thì không ai có thể kháng cáo [Isa 43:11-13].
      Ta là Yahve, ngoài ta ra không có Chúa nào khác [Isa 45:5].
      Chính ta là Yahve, ngoài ta ra, không còn có Chúa nào khác. [Isa 45:2]
      Hãy quay về với ta, từ múi cùng mặt đất, vì ta là đấng chẳng ai bằng [Isa 45:22].
      Chính Ta là Yahve, vinh quang của ta, ta sẽ không ban cho người khác, hay cho các thần tượng vinh dự ta.

    Chúa nói vậy, thì làm gì có ngôi hai, ngôi ba?
    Tôi là kẻ ít học, nhưng đọc những lời Chúa phán rõ ràng như trên, thì không sao mà còn dám tin Chúa Ba Ngôi nữa.

    Kinh Coran Hồi giáo ghi:
    • Nhân danh Chúa rất nhân từ, hãy nói: Thượng đế là duy nhất, là tuyệt đối, Ngài không sinh ra ai, và cũng chẳng ai sinh ra Ngài, và không ai bằng Ngài [Coran, Sourate 112].
    • Và họ nói: Chúa có con nuôi. Chúa Ngài thanh tịnh. Không. Nhưng mọi sự trên trời, dưới đất đều là của Ngài. Mọi sự đều phục vụ Ngài.[Coran, Sourate 2, 116.]
    • Jesus Christ, con bà Maria, chỉ là một sứ giả...chớ nói Ba Ngôi. Đừng nói vậy, sẽ hay hơn. Chúa là đấng duy nhất. Vậy thôi. Chúa có con! Chúa Ngài thanh tịnh. Cả trời đất đều thuộc về Ngài... [Coran, Sourate 4, 171]
    • Chỉ những kẻ vô tín ngưỡng mới nói: Thượng đế chính là Chúa Giêsu, là con bà Maria. Chúa Giêsu nói: Hỡi con cháu Isarael, hãy thờ lạy Chúa, Chúa tôi và Chúa các anh [Coran, Sourate 5, 74] v.v...

    Như vậy, Hồi giáo không tin Chúa Giêsu là một ngôi trong ba ngôi, không tin Ngài là Thượng đế, mà chỉ là một sứ giả, nhưng thua Mahomed.[6]

    Thánh Kinh mới hay Tân Ước [New Testament] ghi lại lời Chúa Giêsu nhận xét về chính Ngài:
    • Lời ta dạy không phải là của ta, mà là của đấng đã sai ta. Ai muốn làm theo ý Ngài sẽ thấy lời ta dạy là của Ngài, chứ không phải là của ta [Joh 7:16-18].
    • Cha ta luôn làm việc và ta cũng vậy [Joh 5:17],
    • vì Cha ta hơn ta[ Joh 14:28],
    • sao ngươi nói ta tốt lành? Không có ai tốt lành, trừ phi Thiên Chúa [Mr 10:18, Lu 18:19].
    • Chúa là Chúa thật sự, và Giêsu Christ, là sứ giả Ngài [Joh 17:3].
    • Lạy Cha, sao cha bỏ con [Mr 15:34].
    • Lạy Cha con xin phó linh hồn con trong tay Cha [Lu 23:46],
    • Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin đừng bắt con uống chén này, nhưng xin Cha đừng cứ ý con, mà xin cứ ý Cha thi hành. [Lu 22:42].
    • Kẻ nào thắng ta sẽ cho ngồi cùng ta trên tòa ta, cũng như khi ta thắng, đã ngồi cùng Cha ta trên tòa ta. Ai có tai thì hãy nghe lời Thần Chúa nói. [Re 3:21-22].


    Như vậy Chúa Giêsu không bao giờ dám xưng mình là Thượng đế, không dám nhận mình là tốt, và luôn gọi Thượng đế là đấng đã sai mình, là đấng hơn mình, thì làm sao mà Ngài bằng Thượng đế cho được.
    Chẳng lẽ lời nói là để hiểu ngược lại.

    Và nếu ai thắng, Ngài đã dám mời lên ngồi cùng tòa với Ngài, thì chắc là xưa nay đã có người làm được như vậy. Thế thì Ngài còn gì là độc tôn nữa.
    Khi gần chết, Giêsu Christ thấy cô đơn, nên mới kêu: Sao cha bỏ con. Và khi chết, Ngài phó linh hồn trong tay Chúa Cha, như vậy Ngài làm sao bằng Đức Chúa Cha được?

    Vấn đề Chúa Ba Ngôi còn đi ngược lại với triết học.
    Trong thế giới này có một nền triết học rất cao siêu.
    • Á châu gọi thuyết này là thuyết Thiên Địa Vạn Vật Đồng Nhất Thể.
      Âu châu gọi là Thuyết Phóng Phát [Emanation theory].

    Thuyết này chủ trương vạn vật đều có chung một bản thể như nhau, biết điều này là giác ngộ, không biết điều này là vô minh, là chúng sinh. Biết mình có chung một bản thể với Trời, và biết đường tu luyện sẽ trở về hợp nhất với Trời. Đó là Phối Thiên [Trung Dung 26, Đạo Đức Kinh 68], là Niết Bàn. Phật giáo và Bà La Môn giáo gọi Niết Bàn là: Diệt hết mọi hình tướng, phối hợp với Thượng đế.[7]

    Trong sách Deuteronomy, Chúa xưng mình Ta là bản thể [YHWH= I am he who is, or I am who Am or I am who I am] [7b] [Catechismus of the Catholic Church p. 56].
    • Trong vạn hữu, cái gì biến thiên là hiện tượng, là vọng tâm.
      Cái gì bất biến là bản thể, là chân tâm, là Niết Bàn. Như vậy Niết Bàn là diệt hết mọi hình tướng, mọi hiện tượng biến thiên, là trở về với Thượng đế, với chân tâm, cho nên Thượng đế chính là chân tâm của ta. Cho nên, muốn tìm cho ra Thượng đế, phải tìm Ngài trong cái gì bất biến, chứ không phải là trong cái gì biến thiên. Ngài không thể tách rời khỏi vạn hữu, vì ta và tha nhân chính là Ngài, vì vũ trụ chính là Ngài.


    Thuyết này đã bị Công giáo phi bác vì cho là Tà đạo. Pie IX, trong Tập Kỷ Yếu Tà Thuyết [Syllabus] ra ngày 08/12/1864 đã phi bác thuyết này:

    • "[Nếu ai cho rằng] Không làm gì có đấng Thượng đế quan phòng tối cao tách rời vũ trụ. Chúa và vạn hữu là một, và như vậy Ngài có thể biến thiên. Thật ra Ngài đang biến hóa trong con người và trong vạn hữu. Vạn hữu là Ngài và có cùng bản thể như Ngài. Ngài và vũ trụ là một chứ không hai."

      Và "Nếu ai nói rằng Chúa và muôn loài có cùng một bản thể, và vạn vật hữu hình hay vô hình hay ít là vô hình đều phóng phát ra từ bản thể Thượng đế. Và bản thể Thượng đế hóa thành vạn vật bằng cách hiện thân hay biến hóa bản chất Ngài,

      hoặc cuối cùng ai cho rằng Chúa là tất cả, là phổ quát nhưng vô định đã hiện thân thành vũ trụ rồi vũ trụ lại phân hóa thành giống nòi, chủng tộc, hay cá nhân,

      kẻ ấy bị tuyệt thông."[8]


    Tuy nhiên, thuyết Thiên Địa Vạn Vật Đồng Nhất Thể đã được hiền thánh Á Đông Bà La Môn, Phật, Lão, Khổng chấp nhận. Bộ Kinh Dịch cũng theo chủ trương này. Các mật tông mật giáo Âu châu cũng theo thuyết này và gọi đó là Thuyết Phóng Phát. [8b].

    Sở dĩ Âu châu phải nấp sau bình phong các mật tông vì sợ các Tòa Hình Án Công giáo.
    Các mật tông mật giáo nói trên là
    • Kabbalah, Christian Gnosticism, Jewish Gnosticism, Neoplatonism, Neopythagoreanism, Hermeticism, Freemasonry, Rosicrucianism, Alchemy, Tarot, Astrology v.v...
    Một người có công khai thác và nâng đỡ các mật tông, mật giáo nói trên là Cosimo de Medici [1389-1464], dòng họ Medici cai trị Florence từ thế kỷ 14 cho đến năm 1737. Như vậy rõ ràng chân lý chỉ có một, không phân Đông, Tây.

    Tiếc rằng Công giáo đã cố chấp không nhận mình là sai. Nói vậy tức như nói nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tính, và con người rốt ráo ai cũng thành Trời, thành Phật được. Quan niệm ai cũng thành Trời, thành Phật không phải Thánh Kinh không có, nhưng dở cái là Giáo hội không bao giờ chịu khai thác.
    • Chẳng hạn Chúa Giêsu nói: Ước gì mọi người trở nên một. Như Cha, Cha ở trong Con, và Con ở trong Cha, ước gì chúng cũng nên một với chúng ta [Joh 11, 21].
      Upanishad viết: Ngài ẩn thân trong vạn hữu, mà Đại Ngã không để Ngài hiển lộ ra, nhưng các bậc thấu thị, những khối óc tinh tế tuyệt vời, đã thấy điều đó. Ai biết điều đó sẽ thoát tử vong[9].


    Báo Los Angeles Times, ngày thứ Năm, 19/08/1995, mục quảng cáo về University Synagogue của Do Thái giáo, nhận định về Thượng đế như sau:

    Chúng tôi tin Thượng đế là thần linh nội tại trong ta và trong vũ trụ.
    Thần linh đó giúp ta trở nên những con người biết thương yêu lo lắng cho mọi người,
    năng lực nội tại đó, chúng ta cảm thấy được, bằng suy tư, bằng kinh nghiệm và bằng linh giác chúng ta,
    năng lực nội tại ấy thúc đẩy ta hoàn thiện bản thân, và ăn ngay ở lành.

    Chúng ta tìm thấy Chúa
    trong khi tìm hiểu về chính mình,
    trong khi lo cho mọi người sống ngay lành,
    và lo cho mình sống như một người Do Thái.[10].


    Tôi rất thích định nghĩa trên về Thiên Chúa. Và thấy rằng nếu ta không hiểu chính mình thì làm sao hiểu được Thượng đế.




    • BA ĐIỀU SUY NGHĨ RIÊNG TƯ
      • 1. Chúa Thánh Thần.
        Thánh Kinh chép:
        a. Đức Mẹ sinh Chúa Giêsu là do quyền phép Chúa Thánh Thần.
        b. Ngài lên rừng ăn chay là do Thánh Thần hướng dẫn.
        c. Thánh Thần hiện ra trên đầu Ngài, như con chim bồ câu, khi Ngài chịu phép rửa.[9b]
        Như vậy là khi Chúa Giêsu giáng trần, Ngài hoàn toàn không biết gì về chuyện đó, và không tham dự vào chuyện đó, chuyện đó hoàn toàn do Chúa Thánh Thần. Ngài lên rừng ăn chay cũng là do Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Lúc chịu phép rửa là lúc Chúa Thánh Thần nhập vào Ngài và làm cho Ngài trở nên giác ngộ. Như vậy, thì Chúa Thánh Thần phải là Cha Ngài, vì đã cùng với Đức Mẹ sinh ra Ngài, hay ít ra cũng cao siêu hơn Ngài, vì đã hướng dẫn Ngài. Như vậy tại sao lại là Ngôi Ba sinh bởi Chúa Cha và Ngài, và làm sao Ngài có thể sai Chúa Thánh Thần được?
        (...)

        2. Tước Hiệu Con Thiên Chúa.
        Trong Kinh Thánh, tước hiệu Con Thiên Chúa được thấy ở nhiều nơi, dùng cho nhiều người và nhiều người tự nhận mình là Con Thiên Chúa.
        Chúa Giêsu nhận mình là Con Thiên Chúa, nhưng David, Solomon, vua xứ Tyr, vua Cyrus cũng nhận mình là Con Thiên Chúa nữa.[9c] Chưa kể là chính Satan cũng được gọi là Con Thiên Chúa [9d]. Và các thư của St. Paul cũng cho rằng con người có thể trở thành Con Thiên Chúa.[9e]
        Như vậy ai sẽ là Con Thiên Chúa, theo Thánh Kinh? (...)

        3. Chúa Sống Lại.
        Công giáo cho rằng Ba Ngôi hoàn toàn bằng nhau. Nhưng Chúa Cha và Chúa Thánh Thần thời không có xác. Chúa Giêsu lại có xác. Vậy ai sẽ hơn ai. Á Đông cho rằng cái xác này chỉ là "cái thân tứ đại giả hợp", chỉ là cái gì hôi thối [xú bì nang], thì làm sao tồn tại với thời gian được? Không thể nói Chúa phép tắc làm gì cũng được. (...)






    Chương 4 - Chúa Giêsu Xuống Thế Chuộc Tội Thiên Hạ.
    _____________________


    Như trên tôi đã không chấp nhận tội tổ tông, nên nay cũng không chấp nhận Chúa đã xuống thế chuộc tội thiên hạ.
    Quyển Bước Qua Ngưỡng Cửa Hi Vọng đã nói khá nhiều về ơn cứu rỗi và trả lời những vấn nạn như:

    • a. Việc đức Kitô hy tế nhằm cứu chuộc nhân loại có cần thiết không? [tr. 72-75.]
      b. Tại sao nhân loại cần được cứu rỗi? [tr. 76-80].
      c. Phải chăng tất cá thế giới sẽ được cứu độ? [tr. 90-97].
      d. Ngoài Công giáo không có ơn cứu độ sao? [tr. 149-155].


    Tôi đọc những lý luận của Giáo Hoàng, thấy lòng tôi không hề có chút rung cảm nào. Tôi đọc các câu Cựu Ước sau đây mà sợ:
    • Và các ngươi hiểu rằng chính là Ta. Trưởc ta không có Chúa nào, và sau Ta cũng không có Chúa nào. Chính ta là Yahve, không có đấng Cứu Rỗi nào ngoài ta. Không ai có thể cứu khỏi tay ta. Ta làm thì không ai có thể kháng cáo.
      [Isa 43:11-13].
      Ta là Yahve, ngoài ta ra chẳng có ai bằng.
      [Isa 45:5]

    Nếu Yahve đã phán quyết là không có Đấng Cứu Thế nào ngoài Người, và không có Chúa nào khác ngoài Người, thì ta còn băn khoăn vế Đấng Cứu Thế làm gì nữa.
    Tôi đi tìm các câu trong Thánh Kinh đế xem có chỗ nào Chúa Giêsu trực tiếp xưng mình là Đấng Cứu Thế không. Tôi không tìm ra được câu nào. Tôi thấy có mấy câu như Lu 21:28, Mt 20:28, Lu 1:68, Lu 2:38. Trong các câu trên chỉ có câu Mt 20:28:
    • Con người không đến để được hầu hạ,
      nhưng là để hầu hạ và thí mạng sống mình làm giá chuộc thay cho nhiều người.

    Câu này gần nhất vấn đề ta tìm kiếm. Còn các câu khác nói Chúa lấy máu mình chuộc tội cho loài người là của St. Paul hết [9f] .
    Tôi mới hiểu vấn đề Chúa Cứu Chuộc là của St. Paul đã bày ra.

    Đại khái lịch sử ơn Cứu Độ đã được Giáo Hoàng John Paul II toát lược như sau:
    • Lịch sử ấy khởi đầu với Adam thứ nhất,
      qua mạc khải về Adam thứ nhì là Đức Chúa Giêsu Kitô [1Co 15:45]
      và kết thúc bằng sự viên mãn tối hậu của lịch sử thế giới trong Thiên Chúa khi Ngài trở thành "tất cả cho mọi sự" [1Co 15:28] [9g] .

    Nói thế có nghĩa là Thánh Paul đã cho rằng Chúa xuống thế vì tội tổ tông. Nhưng thực ra Chúa xuống thế cốt là để rao giảng nước trời.

    Cũng nên ghi nhận rằng Kinh Thánh cũ chỉ biết có mấy nước Ai Cập, Philistine, Do Thái, Assyria, Babylonia, Ba Tư v.v...Còn các châu Á, châu Úc, châu Mỹ v.v... là những 13 Châu mới tìm ra sau năm 1000 thì làm sao quả quyết được rằng Chúa đã biết tôi và muốn chuộc tội cho tôi.

    Hơn thế nữa, Do Thái chỉ có 3 miền nhỏ là Galilee, Samaria và Judea, mà Chúa Giêsu nhất định chỉ giảng cho xứ Galilee và Judea, chứ không chịu giảng cho xứ Samaria hay chữa cho người Samaria, một xứ nằm giữa Galilee và Juda, như Kinh Thánh nói rất rõ ràng. Ngay với dân Samaria mà Chúa còn tỏ ra hẹp lượng như vậy thì làm sao tôi tin được rằng Ngài đã nghĩ đến dân Việt Nam chúng tôi?

    Khi Ngài giảng cho dân Do Thái, Ngài toàn dùng dụ ngôn, để cho họ nghe mà không hiểu.
    Chúa nói:
    • Bởi thế mà ta dùng ví dụ nói với họ: vì họ nhìn mà không nhìn, và nghe mà không nghe, không hiểu và như vậy được nên trọn lời sấm của Ysaya rằng: Các ngươi có nghe cho lắm mà cũng không hiểu, các ngươi có nhìn lấy, nhìn để, mà cũng không thấy. Vì lòng dân này đã ra chai lại. Chúng đã nặng tai nghe, chúng đã nhắm mắt lại, kẻo mắt thấy được, tai nghe được, lòng hiểu được mà trở lại, và Ta lại chữa chúng lành
      [Mt 13:13-15].
    Như vậy Ngài đâu có muốn cứu mọi người.

    Chúa nói là đem tin mừng lại cho mọi người [gospel: tin mừng], nhưng tin mừng Ngài đem lại là phải tin theo Ngài, nếu không sẽ bị trầm luân trong lửa địa ngục đời đời. Yahve dạy tôi rằng sau cuộc sống này tôi sẽ xuống Sheol, sống vất vưởng qua ngày, đìu hiu, vô vọng. Tuy Ngài không hứa cho tôi cái gì, nhưng ít là không dọa tôi xuống hỏa ngục, cho nên tôi thấy theo Yahve, ít ra cũng đỡ lo âu hơn.

    Hơn nữa, Chúa Giêsu đoan kết là Ngài không đạy điều gì mà không phải là do Thiên Chúa mà ra. [John 15:15, John 7: 16]. Cho nên khi thấy tin mừng của Ngài sặc mùi lửa hoả ngục tôi thấy không mê tin mừng Ngài và tôi thích Sheol hơn. Vả lại Yahve không có dạy có lửa hỏa ngục, thì chúa Giêsu là Con, lấy cái đó ở đâu ra?

    Tôi cũng không chấp nhận, mình làm tội mà lại có người vô cố đến gánh thay cho mình. Chúa Cha khôn ngoan vô cùng sao lại không nghĩ được kế sách gì hay hơn mà lại phải đày đọa con mình, bắt con mình chịu cực, chịu khổ như vậy, thì Ngài mới vui lòng hay sao? Ngài sai Con xuống thế, sao chỉ cho Con Ngài sống có hơn 30 tuổi, rồi bắt phải tử nạn, thật oan uổng quá.

    Chúa Giêsu khổ sở như vậy, mà nay hứa chuộc tội cho tôi, đem hạnh phúc muôn đời đến cho tôi, làm sao tôi dám tin Ngài cho được.

    Có lẽ vì Chúa đã thất bại, khi xuống thế lần thứ nhất, nên Ngài mới nôn nóng xuống thế lại lần thứ hai trong vinh quang. Tiếc thay là đức Chúa Cha đã không cho Ngài làm chuyện này, và đã cho thế gian kéo dài thêm nhiều triệu năm nữa.






    ____________
    GHI CHÚ



    • 1- Thirty years after the Second Vatican Council added interfaith dialogue to the Roman Catholic agenda, the changing American religious scene has profoundly altered the American church's outreach to other religious groups... Real dialogues, however, is not on the Agenda. The New York meeting are little more than formal handshakes - 15 minute sessions at the residence of Cardinal O'Connor, the Archbishop of New York, at which the Pope will exchange greetings with a small number of representatives of other faiths.
      Los Angeles Times, Saturday, 30/9/1975, p. B10.
                
      1b- Abbé J. Turmel - Pourquoi J'ai donné congé aux dogmes, Éditions de l'idée libre, Herbley, Seine et Oise, 1935.
                
    • 2- Catechismus of the catholic church - The Fall of the Angels, pp. 98-99.
                
    • 3- John Paul II - Crossing the threshold of hope, Alfred A. Knopf, New York, 1994, p. 21.
      Bản dịch tiếng Việt: Bước qua ngưỡng cửa hi vọng, Thăng Tiến, 1995.

                
    • 5- Catechismus of the catholic church p. 23.
                
      5b- Ro 7:14-29, Eph 4:13 5d-
      He is ruthless, wrathful, vengeful, jealous, peace-loving, but above all, he is almighty.
      Manfred Barthel - What the Bible really says, translated and adapted by Mark Howson. Wings books, New York, 1980, p. 29. Ib. p, 28.
                
    • 6- For Mohammed's very intense conviction, the unity of God-absolute and unqualified- is the foundation of all true religious faith. Hence, the Christian doctrine of the Trinity. This bizarre idea of the three Gods in one- seemed to him a blasphemous error, it is a covert form of polytheism, however disguised. It is very unseemingly to believe of God that He should beget a son.
      [Edwin A Burtt - Man Seeks the Divine, p. 455].
                
    • 7- Soderblom Nathan - La vie future d'après le Madzéisme, Ernest Leroux éditeurs, 28 Rue Bonaparte, đoạn nói về Nirvana.
                
    • 8- There is no supreme, all-wise, and all-provident Godhead distinct from this universe. God is identical with nature and consequently subject to change. God is actually in the process of becoming, in man and in the world. All things are God and have the very substance of God himself. God and the world are one and the same thing...
      Jesuit Fathers of Saint Mary's college - The Church teaches, Saint Mary's Kansas 1955, p. 150.
      - If any one says that finite things, both corporal and spiritual, or at least spiritual, emanated from the divine substance, or that the divine essence becomes all things by a manifestation or evolution of itself, or finally, that God is universal and indefinite being which by determining itself makes up the universe which is diversified into general species, and individual,
      LET HIM BE ANATHEMA.
      Ib.p. 153.
                
      8b- Nguyễn văn Thọ - Thuyết thiên địa vạn vật đồng nhất thể, tạp chí Hoa Sen số 25 và 26, Garden Grove, California.
                
    • 9- Though hidden in all things, The World Soul shines not forth, yet is seen by subtil seers, of superior, subtil intellect.
      [Katha up. 3.12]
      By discerning that one is liberated from the mouth of death
      [Ib. 3.15].
      Tarot revelations, Introduction by Colin Wilson, Vernal Equinox Press, 1982, p.24.
                
      9b- Mt 1:18-20, Lu 1:35, Mt 4:1, Lu 4:1, Joh 1:32.
                
      9c- Gen 6:1-4, Wisdom, 2, 18,2, 13-19?, De 22:8-10,
      như David, Ps 89:20-30,
      như Salomon [2Sa 7:15-16],
      vua xứ Tyre [Eze 12?:1-2, và 28:11-16],
      vua Cyrus [Isa 14:1]
      Chúa Giêsu [Mt 3, 17, 4: 3-6, 8, 29, 14, 33, 16, 16, 17, 5, 26, 63, 27, 54. Mr 1, 11, 5, 7, 14, 61, 62. Lu 1: 32-35, 3, 22, 4, 41, 9, 35, 22, 70. Joh 1, 34, 1, 49, 3, 16, 18, 5, 25, 9, 35, 10, 10, 36, 19, 7, 20, 31, Joh 5, 25, 5, 18 9, 35-37, 10, 36 và Mr 14:61-62 v.v...]
                
      9d- Job 1:6-12 9e- Ga 4:7, Ro 8:14, Ro 8:29, Ro 8:19 v.v...
                
      9f - Ro 3:24, 8:23, Eph 1:7, 1Co 1:14, 1Tim 2:6, Heb 9:15, 11:15, 9:12.
                
      9g- John Paul II - Bước qua ngưỡng cửa hi vọng, tr. 79.
                
    • 10- We believe that God is the spirit within us, and within the universe, that help us become loving caring people, that power within us, that we perceive with raison, experience and intuition, that urges us towards self-fulfillment and ethical behavior. We find God by understanding ourselves, by being morally concerned and by being selfmotivated to study and live as Jews.





    (... còn tiếp ...)
    nguồn: sachhiem.net
              

              
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20038
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: nhận định mới về Tín Lý và Giáo Lý Công Giáo

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          

NTL đã viết:*
Ôn vàng.
Cám ơn heng, tha về cuốn sách hiếm.
Tui đang đọc từ từ nè, khúc nhập đề hấp dẫn, nhưng càng về sau càng lạng quạng.
Nhưng chuyện nớ sẽ bàn sau heng.
...*

  • .. :giggles: :allright3: .. dà .. đồng ý với chị là có nhiều và rất nhiều chỗ lạng quạng .. :yes2: ..
    sở dĩ tui tha về vì tui muốn BV (và bà con .. ai chưa biết .. ai đi nhà thờ mà chỉ vì ba má mình đi nhà thờ .. :wink2: ) có cơ hội biết những lủng củng của đạo mình .. :D ..

    Nhưng tui nghi BV cũng không thèm đọc .. :giggles: ..


    Nhiều khúc lạng quạng quá tui phải xén; khi chị thấy (...) là khi tui xén đó .. Tui thương ông thày có lẽ vì tuổi tác sức khỏe già nên lý luận lắm khi không sắc bén và dứt khoát . Gặp tui, chỉ cần phang chứng cớ và kết luận ngay là đủ, không phải nói lòng vòng, đem đạo khác so sánh hay đem cái Tôi ra nói làm gì ...
NTL đã viết:*
....
Tui nhớ có lần ở bên kia đã nói như vầy : Thiên chúa giáo và cộng sản có cùng cách tổ chức điều hành y chang nhau, do CS đã bắt chước thiên chúa giáo. Tui nói vậy rồi lãnh liền từ ông Triển cái búa tạ. Phải là người thiên chúa giáo rồi nghiền ngẫm bible thì mới có thể hiểu rõ sự viềc.
...*

  • dà ... công giáo, cộng sản, vua chúa .. vv .. độc tài .., một khi nắm quyền thì sẽ tìm đủ mọi cách để duy trì ngai vàng .. Chuyện dễ hiểu nhưng con người trong cuộc hay có dây mơ rễ má thì dĩ nhiên là .. khiếm thị đột xuất .. :giggles: ..
NTL đã viết:*
...
Thì tui có nói rồi, bible là quyển sách chép lại lời chúa. Nhưng đâu phải lúc mô chúa cũng rảnh rang mà nói to nói rõ nói đủ. Và cái đám thư ký ghi lợi kìa, đâu phải lúc mô chúng cũng tỉnh như sáo sậu mà chép cho đúng. Bible lắm khi lạng quạng tới thần thoại hoang đường.

Thành ra rồi.... a hèm... thánh kinh là quyển sách phải đọc với tinh thần cẩn trọng và khoáng đạt để hiểu ra ngoài con chữ, mà nhả sỏi sạn ra cho khỏi trầy nướu mẻ răng, vì rằng... thường khi... thấy vậy mà không phải vậy, cũng có khi thấy vậy mà còn hơn vậy nữa.
Nên rồi đọc bible và hiểu bible là hai chuyện hoàn toàn khác hẳn nhau.
...*


  • dạ .. thì ai đọc cũng thấy Cựu Ước là lung tung sử ký, huyền thoại, răng đe của dân Do Thái và Chúa Trời .. Tân Ước là truyện của chúa Jesus và truyện của thiên chúa giáo lúc lập giáo, qua lăng kính của 4 vị tông đồ được chọn lọc, qua tam sao thất bổn cho đến thế kỷ thứ 3 thứ 4, qua sàng sảy kiểm duyệt sắt máu để đi đến 1 mô hình thống nhất của 1 đạo giáo công truyền vụ ngoại ..

    Thánh Kinh đầy "sơ hở" nhưng cái huyền diệu là đã có rất nhiều nhà tu, nhà thần học xây dựng được nên tòa cung điện bát ngát của Công Giáo ngày nay. BS Thọ thấy đại khái thành quả đồ sộ của Công Giáo là do chánh trị mánh mung bất nhân phi nghĩa qua bao nhiêu thế kỷ .. nhưng ông cũng đã nhận xét đâu đó trong phần Dịch Kinh hay phần Đạo Đức Kinh của ông là Hay Dở Xấu Tốt Thiện Ác gì cũng đều là của Thượng Đế, và TĐ đã cho con người dựng lên giáo hội này từ những bản văn đầy sơ hở đó .. và cây Thánh Giá ngày nay đã có mặt khắp nơi trên quả địa cầu ..

    :allright2:
NTL đã viết:*
....
Cái kiểu đọc thánh kinh của cụ BS nọ, tui nghĩ nó dùi đục chấm xì dầu, chữ viết làm sao thì cụ cứ hiểu y chang làm vậy, bởi cụ có cái nghĩa khí của nhà nho nên là người thiệt thà như đếm, cho dù cụ theo tây học nhưng vẫn gắn chật hồn vào luân lý suy nghĩ á đông.
....*

  • .... chữ viết làm sao thì cụ cứ hiểu y chang làm vậy, ...

    tui không nghĩ là ổng dở như vậy, vì ổng xuất thân là công giáo, và như những gì ổng học được từ Phật Khổng Lão cho thấy ổng thừa khả năng hiểu đằng sau con chữ . Nhưng tui nghĩ ổng đã quyết tâm chỉ trích cái dở của nền tảng (và cái xạo của hệ thống) thì ổng nhắm con chữ mà đánh chứ đánh cái đằng sau làm gì .

    Ông đã thấy cái dở hồi còn trẻ nhưng tại sao lại đợi đến trên 70, 80 mới đánh ? Tôi đoán là vào thập niên 90 đó có những tác động gì đó (ông LM nào đó, ông GH nào đó .. chê bai, chỉ trích cái gì đó ..) khiến ông BS nhà ta nổi xung .. thấy thương luôn ..

    :flwrhrts:
NTL đã viết:*
...
Tôn giáo là ánh đuốc soi đường.
Chọn ngọn đuốc cho vừa tầm tay để lấy ánh sáng đã đành, lại còn phải biết cách cầm sao để đừng bị phỏng vì đuốc.
...*
  • .. dà .. đừng có quá khích là tốt, và dùng tình thương và đạo đức . Phải Trái Đúng Sai tự mình biết theo trình độ của mình ..

    :flwrhrts: :yes3:

              
Last edited by Hoàng Vân on Thứ ba 06/09/16 19:08, edited 1 time in total.
Hình đại diện
Vịnh Nghi
Bài viết: 1224
Ngày tham gia: Thứ năm 14/05/15 20:59

Re: nhận định mới về Tín Lý và Giáo Lý Công Giáo

Bài viết bởi Vịnh Nghi »

Nghi thấy vầy nhe. Khi bàn hay nói về những việc thuộc lãnh vực tâm linh, huyền học, thì không thể nói chuyện ai đúng ai sai hết. Đúng sai một hồi thể nào cũng đưa đến...đổ máu. :yes2: Mỗi người mỗi tâm cơ khác nhau, do đó sẽ nhất nhất đi theo cách tin/niềm tin riêng chính mình. Tôn giáo nào thì cũng hướng tín đồ của mình đến cái thiện, rời xa cái ác, cho nên tựu chung, khi một người còn có lòng tin vào tôn giáo thì người đó còn có lòng hướng thiện (hy vọng vậy), ngoại trừ tin tưởng đến mức quá cực đoan thì lúc đó thế giới sẽ hết hoà bình thôi. (Amen! Bữa nay túi Nghi hơi rủng rỉnh xu hào....)
Carpe diem
Ngoc Han
Bài viết: 1582
Ngày tham gia: Thứ tư 20/05/15 14:24

Re: nhận định mới về Tín Lý và Giáo Lý Công Giáo

Bài viết bởi Ngoc Han »

Nghi
Đền Ankor bên xứ chuà Tháp có hai hàng tượng đá, bên trái tượng các ông Thiện, bên phải các ông Ác, luôn đi đôi với nhau. Bởi tôn giáo nào cũng đều khuyên làm lành, lánh dữ, thấy đúng thì làm, thấy sai thì tránh. Nhưng lòng người khó suy đoán, dù các tôn giáo đã có những quy luật, nhưng, chữ "nhưng" này mới chết người, đạo Hồi quá khích thì ra luật mới nên thế giới đang trong vòng lo âu, một cuộc thánh chiến vì bất đồng tôn giáo. Đạo công giáo, đến giờ vẫn còn duy trì một số luật lệ chưa thay đổi được như cấm phá thai, gay, và một số luật khác....
( không biết bao giờ mới có luật mới?) các cha càng ngày càng ít, người đi tu không còn nhiều, các cha lớn tuổi giảng đạo theo sách vỡ, giáo dân sẽ ngủ gục, hoặc nói về thần học cao siêu khó người hiểu hết (những bài giảng rất hay với một số người). Ngoài ra có một số người khó hiểu, đi lễ để cầu xin ơn cao, phước cả, xin qua cơn hoạn nạn, khỏi bệnh ngặt nghèo, nếu xin mà không được toại nguyện thì bỏ đạo, có người chạy sang Phật giáo, thì thử hỏi kinh thánh, lời rao truyền của Chuá sẽ đi về đâu? Có lần nói chuyện với một cha sở, đây là thời vàng son của ngôi nhà thờ nhỏ bé vùng ngoại ô tỉnh lẻ, giáo dân rất đông, có lần ông nói về Chuá và chủ nghiã cộng sản như chị Lú đã nói (trong bửa cơm thân mật) và còn nói sao đức giáo hoàng Jean Paul II sao không từ chức khi bị bệnh như vậy, rất tiếc ông đã về hưu. O Nghi chắc sắp ngủ gục khi đọc tới đây. :flower:
Hình đại diện
Vịnh Nghi
Bài viết: 1224
Ngày tham gia: Thứ năm 14/05/15 20:59

Re: nhận định mới về Tín Lý và Giáo Lý Công Giáo

Bài viết bởi Vịnh Nghi »

Ngoc Han đã viết:Nghi
Đền Ankor bên xứ chuà Tháp có hai hàng tượng đá, bên trái tượng các ông Thiện, bên phải các ông Ác, luôn đi đôi với nhau. Bởi tôn giáo nào cũng đều khuyên làm lành, lánh dữ, thấy đúng thì làm, thấy sai thì tránh. Nhưng lòng người khó suy đoán, dù các tôn giáo đã có những quy luật, nhưng, chữ "nhưng" này mới chết người, đạo Hồi quá khích thì ra luật mới nên thế giới đang trong vòng lo âu, một cuộc thánh chiến vì bất đồng tôn giáo. Đạo công giáo, đến giờ vẫn còn duy trì một số luật lệ chưa thay đổi được như cấm phá thai, gay, và một số luật khác....
( không biết bao giờ mới có luật mới?)

Nghi thấy ý nghĩa của hai hàng tượng đá Thiện và Ác thật hay! Đúng là thiện và ác luôn luôn đi đôi với nhau. Thiện nhìn ở mặt này nhưng lại là ác khi nhìn ở một mặt (khía cạnh) khác; thiện có thể là đối với người này, lại là ác với người kia.....

Đã gọi là luật lệ tôn giáo, nếu cứ tuỳ tiện thay đổi cho thích hợp với 'trào lưu' cuộc sống thì Nghi cũng thấy đó là điều không thể chấp nhận được á. :flower:
Carpe diem
Trả lời

Quay về “Tổng hợp”