Dịch Kinh Đại Toàn

Hình đại diện
Vịnh Nghi
Bài viết: 1224
Ngày tham gia: Thứ năm 14/05/15 20:59

Re: Dịch Kinh Đại Toàn

Bài viết bởi Vịnh Nghi »

Hoàng Vân đã viết:theo cách của Nghi, anh đi 12 bước như vầy từ Nhu về Nhu .. :D ..

010111 Thuỷ Thiên Nhu
010110 Thuỷ Phong Tĩnh
010100 Thuỷ Sơn Kiểm
010000 Thuỷ Địa Tỷ
011000 Trạch Địa Tuỵ
001000 Lôi Địa Dự
101000 Hoả Địa Tấn (Ngoại quái từ Thuỷ biến thành Hoả)
101001 Hoả Lôi Phệ Hạp
101011 Hoả Trạch Khuê
101111 Hoả Thiên Đại Hữu
100111 Sơn Thiên Đại Súc
110111 Phong Thiên Tiểu Súc
010111 Thuỷ Thiên Nhu

Whoa, hay quá ta :bravo: Anh Hoàng Vân rất là chịu khó ha :flwrhrts:

Thật ra khoảng hơn 10 năm trước, Nghi có chập chững 'tham khảo' dịch một thời gian rồi bỏ ngang, quên cũng nhiều. Nhờ anh Hoàng Vân mà bây giờ Nghi có dịp ôn lại thôi. Cũng may, ngày càng già, đầu óc được 'làm việc....nghiên cứu' thì trí nhớ mai một chậm đi một ít.
Carpe diem
Hình đại diện
Vịnh Nghi
Bài viết: 1224
Ngày tham gia: Thứ năm 14/05/15 20:59

Re: Dịch Kinh Đại Toàn

Bài viết bởi Vịnh Nghi »

Hoàng Vân đã viết:
  • hào là đơn vị của Dịch , Dương = Vạch liền = 1, Âm = Vạch gãy = 0
  • nếu dùng số, thì đếm từ trên xuống
    (thí dụ Nhu là (0,1,0,1,1,1) chứ không phải (1,1,1,0,1,0) như anh đã viết

Dạ hổng phải đếm từ trên xuống, mà do khi đọc tên quẻ thì tên của ngoại quái được đọc trước, tên của nội quái mới theo sau.

Ví dụ:
Thiên Thuỷ Tụng, ngoại quái là Thiên (Càn) 1,1,1 ; nội quái là Thuỷ (Khảm) 0,1,0
Sơn Lôi Di, ngoại quái là Sơn (Cấn) 1,0,0 ; nội quái là Lôi (Chấn) 0,0,1
Phong Hoả Gia Nhân, ngoại quái là Phong (Tốn) 1,1,0 ; nội quái là Hoả (Ly) 1,0,1
Địa Trạch Lâm, ngoại là Địa (Khôn) 0,0,0 ; nội quái là Trạch (Đoài) 0,1,1

Hoàng Vân đã viết:

và như vậy, Tụng = (1,1,1,0,1,0), Sư = (0,0,0,0,1,0) .. vv ..


[*]quái = 3 hào , nội quái = 3 hào dưới , ngoại quái = 3 hào trên
:yes4:[/font]
Last edited by Vịnh Nghi on Thứ bảy 27/08/16 23:27, edited 1 time in total.
Carpe diem
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Dịch Kinh Đại Toàn

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          

          
          
Dịch Kinh Yếu Chỉ
Hướng đi của Thánh nhân
____________

Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
& Huyền Linh Yến Lê




          
DỊCH KINH ĐẠI TOÀN
  • DỊCH KINH YẾU CHỈ
    • ......
    • Phần 2. Dịch Luận Thiên
      • Mở đầu
      • Chương 1. Chữ Dịch theo Từ Nguyên







  • Phần 2. Dịch Luận Thiên
    ____________________



    • Mở đầu
      _________________


    Dịch là một cuốn sách được Thánh Hiền xưa nay sùng thượng. Nho gia coi Kinh Dịch như một Thánh kinh.

    • Đức Khổng học Dịch rất công phu.
      Ngài về già học Dịch, đọc Dịch, đọc đến ba lần đứt lề sách mới làm ra các thiên truyện. [1]
      Thế mà Ngài còn nói trong Luận Ngữ:
      • Nếu Trời cho ta sống thêm ít năm nữa, cho ta học xong Đạo Dịch, thì ta có thể không phạm lỗi lớn nữa.[2]

      Ngài đã viết Thập dực để bổ sung cho Dịch Kinh.
      Thập dực là: [3]
      • 1. Thoán thượng truyện để cắt nghĩa Thoán từ ở Thượng Kinh. [4]
        2. Thoán hạ truyện để cắt nghĩa Thoán từ ở Hạ Kinh.
        3. Tượng thượng truyện để giải các Tượng trong Thượng Kinh.
        4. Tượng hạ truyện để giải các Tượng trong Hạ Kinh. [5]
        5. Hệ Từ thượng truyện
        6. Hệ Từ hạ truyện
        7. Văn ngôn truyện [6]
        8. Thuyết quái truyện
        9. Tự quái truyện
        10. Tạp quái truyện

                
    • Trình Di viết Dịch truyện.
    • Chu Hy viết Dịch kinh bản nghĩa, Dịch học Khải Mông.
    • Thiệu tử nhân đọc Chu Dịch đã viết thành bộ Hoàng Cực Kinh Thế.


    Khảo thư tịch đạo Lão,
    • ta thấy Đạo Đức Kinh, Xung Hư Chân Kinh, Nam Hoa Kinh có rất nhiều điểm liên quan với Dịch.
      Đạo gia, Đơn gia toàn áp dụng định luật Dịch để tu đức, luyện thần. [7]
    • Ngụy bá Dương đã áp dụng Dịch lý viết thành bộ Tham Đồng Khế.


    Nhìn sang phía Đạo Phật,
    • ta thấy Vương Cảnh Mạnh lấy Thiền Tông minh Dịch,
    • Thích Ngẫu Ích lấy Dịch lý áp dụng vào khoa Thiền học. [8]
    • Hiện nay ta còn thấy những bộ như Dịch Học Thiền giải của Trí Húc Thiền sư v.v...


    Giảng bình về Dịch xưa nay đã có hơn 700 tác giả.
    Ví dụ:
    • Vương Bật chú giải Dịch
    • Mạnh Hỉ
    • Kinh Phòng đem các quẻ phối hợp với Thập Can gọi là Nạp Giáp.
    • Tuân Sảng lấy nhẽ thăng giáng để giải Dịch.
    • Lai Tri Đức lấy lẽ thác tống tức là Âm Dương điên đảo, vãng lai để giải Dịch.
    • Tiêu Tuần lấy lẽ bàng thông tức là Âm biến Dương, Dương biến Âm để giải Dịch. [9]
    • Ngoài ra còn có nhiều danh nhân, danh sĩ đã dùng Dịch để đoán định vị lai, trong số đó có:
      • Trương Lương (Hán),
        Nghiêm Quân Bình (Hán),
        Chư Cát Lượng (Tam Quốc),
        Lý Thuần Phong (Đường),
        Viên Chính Cương (Đường),
        Thiệu Khang Tiết (Tống),
        Lưu Cơ (Lưu bá Ôn) (Minh). [10]


    Dịch có ba loại:
    • 1.- Liên Sơn lấy quẻ Cấn làm căn bản.
      2.- Qui Tàng lấy quẻ Khôn làm căn bản.
      3.- Chu Dịch lấy quẻ Càn làm căn bản.

                        

    [11]


    Hiện nay Liên Sơn, Qui Tàng đã thất lạc [12], chỉ còn lại Chu Dịch.

    Trịnh Huyền cho rằng:
    • đời nhà Hạ có Liên Sơn,
      đời nhà Ân có Qui Tàng,
      đời nhà Chu có Chu Dịch.

    Trịnh Huyền giải thích ba nhan đề ấy như sau:
    • - Gọi là Liên Sơn để tượng trưng cho mây từ đầu các ngọn núi bốc lên, miên man không ngừng.
      - Gọi là Qui Tàng vì Vạn Vật đều tàng ẩn bên trong.
      - Gọi là Chu Dịch vì biến dịch phổ quát không đâu không có. [13]


    Hội ý tác giả, ta thấy rằng dẫu Dịch Kinh có thay tên, đổi quẻ, nhưng ý nghĩa và mục đích trước sau vẫn là một. Dịch cốt bàn về Vạn Vật, Vạn Tượng liên tục biến thiên, phát triển như mây ùn ùn liên tục bốc lên từ những dãy núi xa xăm. Dịch bàn về sự biến thiên, mà biến thiên thì thường xuyên diễn biến khắp nơi trong vũ trụ.

    Nhưng sách Chính nghĩa không đồng quan điểm với Trịnh Huyền và cho rằng:
    • Sách Dịch thời Thần Nông gọi là Liên Sơn.
      Sách Dịch thời Hoàng Đế gọi là Qui Tàng.
      Sách Dịch thời Chu gọi là Chu Dịch.

    Như vậy Chu Dịch là sách Dịch đời Chu, cũng như Chu Lễ, Chu Thư, v.v..[14]

    Học Dịch phải tốn công phu. Có tốn công phu, mới tìm ra được cái hay, cái đẹp của Dịch. Dưới đây ta sẽ lần lượt khảo sát về chữ Dịch dưới nhiều tiết mục:
    • 1.- Chữ Dịch theo Từ nguyên
      2.- Dịch là biến Dịch
      3.- Dịch là bất Dịch
      4.- Dịch là giản dị
      5 - Dịch là nghịch số
      6 - Dịch là Tượng




    • Chương 1. Chữ Dịch theo Từ Nguyên
      ________________________________


    Học Dịch trước tiên cần phải hiểu chữ Dịch. Hiểu được chữ Dịch tức là đã hiểu được phần nào ý người viết sách.

    Bồ Điền Trịnh thị nói:
    • Chữ Dịch do hai chữ Nhật Nguyệt tạo nên.
      Lý trong thiên hạ có thể tóm thâu trong một Chẵn một Lẻ. [15]

    Suy ra:
    • Nhật là mặt trời, tượng trưng cho sự bất biến, Hằng Cửu, viên mãn.
      Nguyệt là mặt trăng, tượng trưng cho sự biến thiên, tạm bợ, khuy khuyết.

    Như vậy, chữ Dịch gồm trong thân cả 2 nguồn sinh lực tương đối, lẽ tôn ti của Âm Dương, lẽ biến hằng của vũ trụ,
    • sự Hằng Cửu của Bản Thể do vừng Dương đại diện,
      và các trạng thái doanh hư, tiêu trưởng của Vạn Hữu, do vừng Nguyệt tượng trưng.

    Như vậy, Dịch bao quát cả biến hằng, bao quát cả hiện tượng lẫn bản thể. Dịch là Toàn Nhất.

    Chữ Dịch mà tách đôi sẽ thành ra Nhật, Nguyệt hai vừng, Âm Dương chia rẽ, nhật dạ cách trùng.

    易 ➙ 日 + 月

    Sự qua phân này sẽ là đầu dây mối rợ, sinh ra mọi hiện tượng trong trời đất. Dương là Càn, Âm là Khôn, nên Dịch cho rằng:

    Càn Khôn là cửa của Dịch. [16]

    Mới hay:

    Một Dịch qua phân, hóa đất trời,
    Đất trời cảm ứng, sẽ sinh sôi,
    Sinh sôi, tạo tác, thành muôn vật,
    Muôn vật chung qui một Dịch thôi.

    Khi mà Nguyên Thể đã chia ly, phân tán, thì mầm đấu tranh, chống đối tự nhiên sẽ sinh ra. Đấu tranh, chống đối ấy xét về một phương diện là một động cơ hết sức hữu hiệu để sinh biến hóa, vì thế Dịch nói: Cương nhu tương thôi nhi sinh biến hóa. [17]

    Nhưng nếu chỉ thấy sự đấu tranh, chống đối giữa Âm Dương, thì mới thấy được chiều biến hóa đưa đến chia ly, chết chóc, đổ vỡ, mới thấy được có một chiều hướng của vũ trụ.

    Ngoài chiều hướng trên, Vũ trụ cũng như Dịch còn có một chiều hướng thứ hai: là chiều Âm Dương tương sinh, tương thừa. Âm Dương vẫn có thể tiếp tay nhau, có thể thỏa hiệp, đoàn tụ, để làm nên đại nghiệp. Đây là chiều hướng xây dựng, lấy tình thương xóa bỏ hận thù, cố hàn gắn lại những gì đã đổ vỡ, đoàn tụ lại những gì đã chia ly, tản lạc. Thánh Hiền cho rằng chiều hướng này mới là chính yếu. Các đạo gia lý luận một cách rất sâu sắc như sau:
    • Nếu Bản Thể vì qua phân nên đã thành Âm Dương, thành Vạn Hữu,
      thì ta cũng có thể phối hợp Vạn Hữu lại thành Âm Dương; phối hợp Âm Dương lại để thành Bản Thể.
      Mà Âm Dương chẳng qua là Thần Khí, Tâm Thần trong ta.
    • Tu luyện cho Tâm kết hợp với Thần, khiến cho Thần Khí hợp nhất, không để cho ngoại vật khiên dẫn, làm tản lạc ra bên ngoài; tu luyện Tâm Thần để trở thành Siêu Nhân, thành Tiên Thánh, đó là mục đích của công trình mà Đạo gia gọi là luyện đơn.


    Đại đỗng Chân kinh viết:

    • Nhật Nguyệt hợp bão nhi thành Thái Cực. [18]


    Theo Đạo gia, chữ Đơn chính là chữ Dịch biến thể, vì có đầu Nhật, mà chân là Nguyệt. [19]
    Thế mới hay:

    Một Dịch qua phân tạo đất trời.
    Âm Dương cách trở, mới chia phôi
    Tâm thần ví thể đoàn viên lại,
    Thái Cực rồi ra sẽ rạng ngời.

    Một chữ Dịch

    phân ra,
    thì thấy cách thức trời đất Vạn Vật phát sinh, thấy căn bản của Vạn Hữu;

    hợp lại
    thì thấy cùng đích muôn loài, thấy phương thức tu luyện để tiến tới Thần minh.

    Như vậy, chẳng phải là kỳ diệu sao?
    Học Dịch để quán thông thượng hạ, vạn biến phùng nguyên,
    há chẳng phải là một công việc thích thú lắm sao?[20]






    ___________
    CHÚ THÍCH

    • [1] Khổng tử vãn nhi học Dịch, độc chi vi biên tam tuyệt chi nhi vi chi truyện.
      孔 子 晚 而 學 易, 讀 之 為 編 三 絕 之 而 為 之 傳 .
                
    • [2] Gia ngã sổ niên, tốt dĩ học Dịch khả dĩ vô đại quá hĩ.
      加 我 數 年, 卒 以 學 易, 可 以 無 大 過 矣 .
      — Luận Ngữ Thuật nhi đệ thất, câu 16 - Bản dịch Đoàn Trung Còn.
                
    • [3] Cf. Wilhelm Baynes, The I Ching Book II, p. 274 - 280.
                
    • [4] Thoán truyện khác Thoán từ của Văn Vương
      • - Thoán từ bao giờ cũng ở ngay đầu quẻ.
        Thoán truyện bao giờ cũng có chữ Thoán viết.

                
    • [5] Tượng còn chia làm
      • Đại Tượng (cắt nghĩa hình ảnh toàn quẻ),
        Tiểu Tượng cắt nghĩa hình ảnh từng Hào.

      Như vậy Quẻ nào, Hào nào cũng có Tượng truyện và bắt đầu bằng chữ Tượng viết.
                
    • [6] Văn ngôn chỉ có trong 2 quẻ Kiền và Khôn
      và bắt đầu bằng chữ Văn ngôn viết.
                
    • [7] Cf. Nguyễn Ấn Trường - Tạo hóa thông - trang 56
      Tạ Vô Lượng, Trung Quốc triết học sử. Đệ nhất chương hạ - trang 25.

                
    • [8] Cf. Nguyễn Ấn Trường, Tạo hóa thông - trang 56.
                
    • [9] Cf. Nguyễn Ấn Trường, Tạo hóa thông - trang 56
      - Lý Chứng Cương, Dịch học thảo luận tập, trang 1,2,3.
      - Về nhẽ thác tống xin đọc Dịch Kinh lai chú đồ giải - quyển I, các trang 38 - 44.

                
    • [10] Các lời sấm ngữ của Gia Cát, Lý thuần Phong, Viên Chính Cương, Thiệu khang Tiết, Lưu Cơ hiện còn ghi trong tập Trung Quốc nhị thiên niên chi dự ngôn.
                
    • [11] Hình vẽ phỏng theo Dịch học thảo luận tập - trang 69.
                
    • [12] Thư viện bên Nam Dương, nói có những Bộ Liên Sơn, Qui Tàng trong Thư Viện.
                
    • [13] Ngô Khang Chu Dịch đại cương - trang 11.
                
    • [14] Tạ Vô Lượng Trung Quốc Triết học sử - trang 31.
                
    • [15] Bồ Điền Trịnh thị viết:
      Dịch tòng Nhật tòng Nguyệt thiên hạ chi lý nhất Cơ, nhất Ngẫu nhi tận hĩ.
      浦 田 鄭 氏 曰:
      易 從 日 從 月 天 下 之 理 一 奇, 一 偶 而 盡 矣 .
      — Dịch Kinh Đại Toàn - Chu Dịch thượng kinh - trang 77.
                
    • [16] Tử viết:
      Càn Khôn kỳ Dịch chi môn da.
      子 曰
      乾 坤 其 易 之 門 邪.
      Hệ Từ hạ, VI
                
    • [17] Cương nhu tương thôi nhi sinh biến hóa.
      剛 柔 相 推 而 生 變 化.
      Hệ Từ thượng II.
                
    • [18] Nhật Nguyệt hợp bão nhi thành Thái Cực.
      日 月 合 抱 而 成 太 極 .
      Đại đỗng Chân Kinh quyển hạ trang 23.
                
    • [19] Đơn tự Nhật đầu Nguyệt cước, trung gian nhất hoạch hệ Nhật Nguyệt hợp nhất chi vị dã. Kỳ nội nhất điểm vi tinh khí hồn hợp, dĩ tượng nhất lạp kim đơn dã.
      丹 字 日 頭 月 腳, 中 間 一 劃 係 日 月 合 一 之 謂 也. 其 內 一 點 為 精 氣 渾 合, 以 像 一 粒 金 丹 也.
      Tu chân bất tử phương - trang 26.
                
    • [20] Thủy Tâm tập học ký ngôn.
      (Diệp Thủy Tâm Tiên sinh thích.)
      Trùng biên Tống Nguyên học án quyển 3, trang 593



    <== trước ==                    == sau ==>
    -- về Mục Lục --

              
Last edited by Hoàng Vân on Thứ ba 30/08/16 21:10, edited 3 time in total.
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Dịch Kinh Đại Toàn

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          

          
          
Dịch Kinh Yếu Chỉ
Hướng đi của Thánh nhân
____________

Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
& Huyền Linh Yến Lê




          
DỊCH KINH ĐẠI TOÀN








  • Chương 2. Dịch là biến thiên
    _________________

  • Nếu chỉ dùng lý trí mà suy luận, chỉ dùng giác quan mà nhận xét, thì ta thấy Vạn Vật, Vạn Hữu biến ảo, khôn lường, không một phút giây nào ngừng nghỉ! Sách Dịch có mục phiêu khảo sát mọi hiện tượng biến thiên của hoàn võ và suy ra các định luật chi phối các biến thiên ấy, vì thế một trong những nghĩa của Dịch là biến thiên.

    Vạn Vật biến thiên, lịch sử biến thiên, tâm tư con người biến thiên. Sự kiện ấy không một ai có thể chối cãi được.

    • Khổng tử đứng trên giòng sông nói:
      • Chảy trôi như thế suốt đêm ngày [1]

      Ý ngài muốn nói Vạn Vật như giòng sông trôi chảy đêm ngày, không bao giờ ngừng nghỉ.

      Sách Thúy Hư Thiên viết:
      • Nhãn tiền vạn sự khứ như thủy
        Thiên địa hà dị nhất phù âu [2]
        Tạm dịch:
        Vạn sự nhãn tiền trôi tựa nước,
        Đất trời bèo bọt khác chi nhau


      Phật giáo nói:
      • Vạn pháp vô thường.
        Vạn pháp, vì chỉ là những hiện tượng của vũ trụ,
        nên có sinh, có diệt, có tăng, có giảm, có thủy, có chung. [3]


      Héraclite, triết gia Hi Lạp chủ trương thuyết Vạn Vật biến thiên đã viết:
      • Không ai vào được cùng một giòng sông hai lần... Sự đời tụ tán, vãng lai! [4]


    Các tao nhân mặc khách cũng thường hay lấy cuộc tang thương biến đổi làm đề tài ngâm vịnh.

    • Ôn Như Hầu than thở:
      • Lò cừ nung nấu sự đời,
        Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương.


      Nguyễn Công Trứ vịnh nhân sinh:
      • Ôi nhân sinh là thế ấy,
        Như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao,
        Ba mươi năm hưởng thụ biết chừng nào,
        Vừa tỉnh giấc nồi kê chưa chín,
        Vật thái mạc cùng vân biến huyễn,
        Thế đồ vô lự thủy doanh hư.
        Cái hình hài đã chắc thiệt chưa?
        Mà lẽo đẽo khóc sầu rứa mãi.
        Trời đất hỡi có hình, có hoại,
        Ỷ chi chi mà chắc chắn chi chi?...[5]


    Nhìn sang phía Âu châu, ta thấy các văn gia, triết gia cổ kim phân chia thành 2 phái:

    1. Phái chủ trương Vạn Vật biến thiên đó có:
      Platon - Homère - Hésiode - Héraclite - Hobbes - Leibniz - Hegel - Bergson - Whitehead ..v.v.. [6]
      Phái này thiên về quan điểm biến Dịch của vũ trụ.
    2. Phái chống đối chủ trương biến thiên, như:
      Parménide - Démocrite - Descartes - Spinoza - Bradley - Spir - Meyerson ..v.v... [7]
      Phái này thiên về quan điểm Hằng Cửu của vũ trụ.


    Thay vì đi sâu vào chi tiết và để quan niệm cho chính xác vấn đề biến thiên, chúng ta ghi nhận:

    1. Bản Thể không biến thiên [8]
    2. Chỉ có hình thức, hiện tượng biến thiên [9]
    3. Sự biến thiên, diễn tiến từ cực đoan này đến cực đoan khác.
      • Á châu nói: Âm biến Dương, Dương biến Âm; Dịch cùng tắc biến.
        Âu châu nói: Nóng thành lạnh, lạnh thành nóng, cứng thành mềm, mềm thành cứng...
        Tức là biến thiên từ chính đến phản. [10]


    Quan niệm biến thiên có lẽ đã được manh nha từ hiện tượng biến dịch tuần hoàn của vũ trụ,
    • như thủy triều, như ngày đêm, thức ngủ, hô hấp v.v.... [11]

    Có lẽ vì thế mà Dịch Kinh đã nói:
    • Cương Nhu tương thôi, nhi sinh biến hóa.

    Và Héraclite đã nói:
    • biến dịch do mâu thuẫn, do tương phản phát sinh. [12]


    Từ 2 thế kỷ nay, nguyên lý biến Dịch, cũng như các định luật biến dịch đã được khoa học và triết học Âu Châu xác nhận.

    1. Về phía Thiên Văn học người ta nhận thấy:
      1. Các vì sao vận chuyển, biển đổi phương vị luôn luôn theo những chu kỳ nhất định.
      2. Vũ trụ cũng theo định luật tụ tán.
        Ngày nay vũ trụ đang trong thời kỳ bành trướng tản mạn. Điều này đã được xác nhận nhờ phương pháp tán quang, và nhờ nguyên lý Doppler - Fizeau [13]
        Đó cũng là giả thuyết của Georges Lemaûtre đã được Hubble và Eddington xác nhận. [14]
      3. Các vì sao cũng theo định luật thịnh suy, tiêu tức. Các vì sao ngày nay đã được phân chia ra nhiều hạng sao non, sao già, tùy theo nhiệt độ và màu sắc của sao. Thế là các vì sao cũng có sinh, trưởng, lão, tử. [15]
    2. Về phía Vật Lý học Sadi - Carnot (1822 - 1888) đã tìm ra nguyên lý Dương tiêu Âm trưởng, nghĩa là hoạt lực ngày một tiêu, tiềm lực ngày một tăng. [16]
                
    3. Về phía Địa Lý, Lyell khám phá ra rằng mặt đất luôn luôn biến chuyển. Động cơ biến chuyển là sức gió, sức nước, sức thác, sức biển, sức sông, sức núi lửa, sức đất. [17]
                
    4. Về phía Vạn Vật học:
      Lamarck (1774 - 1829), Darwin (1809 - 1882), De Vries (1848 - 1935) chủ trương Vạn Vật biến hóa từ loài này sang loài khác. Động cơ phát sinh ra sự biến hóa nói trên là:
      • - Sự thích ứng với hoàn cảnh [18] (Lamarck)
        - Sự đấu tranh sinh tồn, ưu thắng, liệt bại (Darwin)
        - Sự di truyền các đặc tính tập thành (Lamarck - Darwin)
        - Sự sậu biến (Mutationnisme) (De Vries)
    5. Về phía Triết học Hegel (1770 - 1831), Engels (1820 - 1895) và Karl Marx (1818 - 1883) đã làm sống động lại thuyết biến dịch mà Héraclite đã chủ trương từ 500 năm trước kỷ nguyên, mà Đông phương đã chủ trương từ 2,600 năm trước kỷ nguyên.
      • Hegel chủ trương:
        Dương tôn, Âm ti, tinh thần trọng hơn vật chất, tinh thần sinh ra vật chất, và sự biến thiên là do mâu thuẫn nội tại phát sinh; mục đích là để tinh thần ngày một phát triển, ngày một đi tới chỗ thành toàn.
        Đối với Hegel, lịch sử là sự phát triển của tinh thần phổ quát trong thời gian.[19]
      • Engels và Marx cũng chủ trương Vạn Vật biến thiên, nhưng có những quan điểm ngược với Hegel.
        Học thuyết biến dịch của Engels và Marx được gọi là Duy vật biện chứng phápDuy vật sử quan.


    Duy vật biện chứng pháp có thể tóm tắt như sau:

    1. Vật chất tự hữu và hằng cửu [20]
                
    2. Vạn Vật biến thiên.
                
    3. Biện chứng pháp là khoa học khảo sát về các định luật chi phối sự biến động cả của ngoại giới, cả của tư tưởng con người. [21]
      Chữ biện chứng bao hàm 3 ý nghĩa:
      1. Sự biến động nội tại của thực thể.
      2. Phương pháp khảo sát thực thể trên bình diện biến thiên.
      3. Hành động cách mạng để thúc đẩy sự biến động trong xã hội loài người bằng cách kính thích những mâu thuẫn nội tại. [22]
    4. Đối với biện chứng pháp, không có gì là rốt ráo, là tuyệt đối, là thần thánh... tất cả chỉ là một quá trình liên tục của biến thiên tạm bợ. [23]
                
    5. Sự biến thiên diễn biến nhờ 4 yếu tố:
      1. Động lực nội tại
      2. Các sự biến thiên đều ảnh hưởng lẫn nhau.
      3. Biến thiên nhờ mâu thuẫn nội tại
      4. Sự nhảy vọt bất thần, lượng có thể hóa thành phẩm, vật này có thể sinh vật kia, khinh khí, dưỡng khí có thể sinh ra nước; nước có thể biến thành đá, hay hóa thành hơi; vật chất nhờ đó có thể sinh ra tinh thần. [24]
    6. Áp dụng duy vật biện chứng pháp vào quốc gia xã hội, người Mác Xít cho rằng:
      1. Lịch sử đã diễn tiến không phải vì ngẫu nhiên, cũng không phải vì một quyền năng xấu tốt nào bên ngoài, mà vì những định luật bên trong. [25]
      2. Xã hội đã diễn biến qua nhiều hình thức (xã hội cổ sơ, phong kiến, tiểu tư sản, tư bản...) [26]
      3. Những điều kiện vật chất kinh tế, những phương tiện sản xuất, và giai cấp đấu tranh là những yếu tố, những động cơ đã thúc đẩy sự biến thiên ấy. [27]
      4. Cho nên họ chủ trương có thể thúc đẩy sự biến thiên tiến hóa bằng cách gây mâu thuẩn, bằng cách làm Cách mạng. [28]
      5. Mục đích tối hậu là giải phóng con người, khỏi mọi sự tù túng lệ thuộc, để con người thống trị được thiên nhiên. [29]

      Đó là đại cương Duy vật sử quan, tức là Duy Vật Biện Chứng Pháp áp dụng vào lịch sử loài người.


    Trên đây ta đã toát lược học thuyết của Hegel và học thuyết Marx Engels.
    So với Kinh Dịch ta thấy có nhiều điểm tương đồng, tương dị.

    1. Tương đồng vì Dịch cũng như Hegel, cũng như Marx, Engels chủ trương Vạn Tượng biến thiên;
      biến thiên vì mâu thuẫn nội tại.
                
    2. Tương dị vì
      • Dịch chủ trương Thái Cực siêu Âm Dương, siêu tinh thần và vật chất, bao quát tinh thần và vật chất, sinh ra tinh thần và vật chất, làm căn cốt cho cả tinh thần lẫn vật chất.
      • Trái lại Hegel thì duy thần,
      • Marx, Hegels thì duy vật.
    3. Dịch cho rằng cô Dương bất sinh, cô Âm bất hóa.
      Còn Hegel, cũng như Marx, Engels, chủ trương hoặc là duy có Dương (Tinh thần) hoặc là duy có Âm (vật chất) thì lấy đâu ra cặp mâu thuẫn nội tại để sinh ra biến hóa được.
                
    4. Dịch chủ trương dưới những hình thức biến thiên còn có Bản Thể bất biến,
      trái lại Marx, Engels cho rằng cái gì cũng vô thường, vô định cả. [30]
                
    5. Dịch chủ trương Âm Dương có khắc nhưng lại có sinh, tức chủ trương không phải nguyên có sự đấu tranh, chống đối mới sinh ra được biến thiên, mà còn có cả sự đoàn kết, hợp tác, xây dựng nữa.
      Đó là điều mà Marx, Engels ít nói tới.
                
    6. Dịch áp dụng khoa học Dịch vào sự cải thiện nội tâm, thần thánh hóa con người, vào sự thích ứng với hoàn cảnh cho khéo léo để có một đời sống lý tưởng,
      Marx Engels áp dụng khoa học Dịch vào sự canh cải ngoại cảnh và vật chất.
                
    7. Dịch bắt chước đường lối của Trời, nên hiếu sinh,
      chủ nghĩa Các Mác vì vụ những thành quả nhãn tiền bên ngoài nên đã tỏ ra hiếu động, hiếu sát.
                
      • Dịch cho rằng Vạn Vật, Vạn Tượng biến thiên để phát huy, tận dụng mọi khả năng, ngõ hầu cuối cùng nhận ra được Bản Thể bất biến, và trở về được với Bản Thể bất biến.
      • Hegel cũng đã có cái nhìn cho tới chung cuộc như Dịch Kinh.
      • Trái lại, Marx Engels không có tầm nhìn xa như vậy và không biết, hoặc không muốn đề cập đến định luật Thiên địa tuần hoàn chung nhi phục thủy.


    Để tổng kết lại, ta thấy rằng đứng trước hiện tượng Vạn Vật, Vạn Hữu biến thiên, Dịch kinh đã cố tìm cho ra:

    1. Những định luật chi phối sự biến thiên ví dụ như định luật sinh, trưởng, lão, tử v.v..
    2. Động cơ thúc đẩy biến thiên, tức là Âm Dương tương sinh, tương khắc.
    3. Chiều hướng biến thiên tức là hướng ngoại, hướng nội, hướng hạ, hướng thượng; ly tâm, hướng tâm v.v..
    4. Mục đích của cuộc biến thiên tức là phát huy được mọi tiềm năng, tiềm lực của mình, trở về với nguyên bản, với Tuyệt đối.
      Dịch muốn người học Dịch áp dụng những định luật biến dịch, những nhận định về biến dịch vào bản thân để có thể thực hiện được một đời sống lý tưởng, để có thể giúp mình, giúp người thần thánh hóa bản thân, cải thiện hoàn cảnh, cùng tiến tới một tương lai vô cùng huy hoàng và tốt đẹp.






    ___________
    CHÚ THÍCH

    • [1] Thệ giả như tư phù, bất xả trú dạ.
      逝 者 如 斯 夫, 不 舍 晝 夜.
      — Tử Hãn IX câu 16.
                
    • [2] Thúy Hư Thiên 3a.
                
    • [3] Vạn pháp giả nãi vũ trụ chi hiện tượng, hữu sinh diệt, hữu tăng giảm, hữu thủy chung.
      萬 法 者 乃 宇 宙 之 現 象, 有 生 滅, 有 增 減, 有 始 終.
      — Wieger, Histoire des croyances religieuses et des opinions philosophiques en Chine, page 548.
                
    • [4] On ne peut pas entrer deux fois dans le même fleuve...
      Elle se disperse et se réunit de nouveau (toute chose mortelle), s’approche et s’éloigne (D.91)
      — Kostas Axelos, Héraclite et la philosophie, page 51.
                
    • [5] Cf. Đàm Xuân Thiều, Trần Trọng San, Việt văn độc bản đệ nhị, trang 32.
                
    • [6] Cf. Jean Wahl - Traité de Métaphysique- pages 33, 34, 35.
                
    • [7] Cf. Jean Wahl - Traité de Métaphysique- pages 33, 34, 35.
                
    • [8] L’idée est éternelle.....(Hegel)
      J. Wahl - Traité de Métaphysique 84.
      ... Il doit donc y avoir un monde intelligible, un monde des idées (Platon)
      — Ib. 84.
      ... Le Réel est ce qui ne devient pas (Anaxagore)
      — Ib. 33.
      ... La substance est l’immuable (Parmémide)
      — Ib.84.
                
    • [9] Tandis que Zénon dénie au changement toute réalité, Platon se borne à le cantonner dans le monde sensible.
      — Ib.84.
                
    • [10] Sans doute comme l’Héraclitéen l’expose dans le Phédon,
      le chaud devient le froid, le froid devient le chaud; le dur, le mou et réciproquement.
      Interprétation du devenir comme passage du contraire au contraire.
      — Ib 38.
                
    • [11] Si nous nous rappelons la pensée d’Héraclite nous serons amenés à dire que ce sont probablement les changements cycliques qui ont donné à l’homme l’idée du devenir, le flux et le reflux, la nuit et le jour, la veille et le sommeil, l’aspiration et l’expiration.
      — Jean Wahl - Traité de Métaphysique, page 41.
                
    • [12] C’est la raison pour laquelle Héraclite a dit que le devenir est de nature antithétique, qu’il se fait par un jeu d’antithèse.
      — Ib 41.
                
    • [13] Le principe de Doppler - Fizeau est aujourd’hui, en effet une des bases de l’astrophysique, et permet, grâce au décalage des raies de leur spectre, de mesurer la vitesse des étoiles, et des nébuleuses les plus lointaines.
      — Pierre Rousseau - Histoire de la Science, page 556.
                
    • [14] ...Georges Lemaitre avait exposé... la théorie d’un univers en expansion. Eddington se frotta les yeux, lut avec intérêt, avec passion. Et il constata que Lemaitre avait prédit le phénomène, observé par Hubble et que la fuite des nébuleuses trahissait une expansion de l’univers.
      — Ib 769.
                
    • [15] Các vì sao được chia thành 10 hạng:
      • Hạng 0 = sức nóng 30,000°- B = 20,000° - A = 10,000° - F = 7,500°- G = 5,600° - K = 4,000° - M = 3,000°- Hạng N = như hai hạng K và M - Hạng S = thuộc hạng sao lạnh

      Sao càng trẻ càng trắng, Sao có tuổi ngả màu vàng, Sao già biến sang màu đỏ.
      Cf. Camille Flammarion - Astronomie populaire, p.460 et ss;
      Astronomie Larousse - page 338 et ss.
      L’Alchimie Moderne (Th. Moreux - p.79 et ss.)

      ... Dès les premières observations, les différences constatées inclinaient l’esprit à concevoir une sorte d’évolution stellaire, une loi grandiose qui réglait non seulement leur apparition, mais les phases de leur vie astrale, leur extinction et leur mort peut être-
      L’Alchimie moderne. page 79.
                
    • [16] Rappelons que le Principe de Carnot traduit la tendance de l’énergie à se dégrader ou à se dissiper, ce qui entraine une augmentation de l’entropie c’est à dire de l’extension spatiale de l’énergie au cours de ses transformations.
      — André Lamouche, La destinée humaine, page 49, note 16.
      .... C’est cette marche à sens unique, toujours dans le sens de dégradation irréversible, qui justifie le nom de principe d’évolution par lequel on désigne souvent le second principe de Carnot.
      — Ib. page 95.
                
    • [17] Si la paléontologie nous enseigne que des continents ont disparu, que des terres ont émergé, que des cours d’eau se sont déplacés, que des montagnes se sont soulevées et que d’autres ont été rasées, c’est que depuis l’origine du monde, le vent persiste à transporter le sable des déserts, le torrent et le glacier à limer le flanc de la montagne, la rivière à ronger ses rives, le fleuve à encombrer de sable son delta, l’eau souterraine à forer des puits et des avens, la mer à saper ses falaises, le volcan à rejeter ses laves, et le sol lui-même à se soulever ou à s’affaisser lentement...
      — Pierre Rousseau, Histoire de la Science, page 652.
                
    • [18] L’Adaptation aux circonstances et à la fonction.
      — Planète N(3 - page 139 (André de Cayeux, Qu’ est ce que l’évolutionnisme)
                
    • [19] - Hegel donnait la primauté à l’esprit sur la matière et trouvait en celui là l’origine de celle ci...
      - En conséquence, pour Hegel, 'L’Histoire est le développement de l’esprit universel dans le temps’.
      Cf. Francois Dufay, M.E.P. En Chine l’Etoile contre la croix - page 38-39.
                
    • [20] La matière est et s’explique par elle même.
      — (L'étoile contre la Croix - page 38)
                
    • [21] Tout est mouvement, changement, apparition et disparition.
      — Ib. 40.
                
    • [22] ‘La dialectique est la science des lois génerales du mouvement, tant du monde extérieur que de la pensée humaine’
      (Engels in Ludwig Feuerbach.)
      ... De fait, le mot 'dialectique’ qualifie à la fois changement interne de l’être, la méthode d’investigation (marxiste) qui étudie l’être sous le rapport du changement, et l’action révolutionnaire qui accélère le changement (des sociétés humaines, palier supérieur du progrès universel) en activant les contradictions internes
      (Ib. 38 notes)
                
    • [23] Pour la dialectique, il n’y a rien de définitif, d’absolu, de sacré... rien n’existe pour elle que le processus ininterrompu du devenir et du transitoire
      (Engels) (L’étoile contre la Croix, p. 40)
                
    • [24]
      Les quatres grandes lois de la dialectique:
      • a)- L’autodynamisme
        b)- Les enchainements du processus, les changements sont interdépendants les uns des autres... Les enchainements du processus ne sont autres que la loi du progrès universel.
        c)- Les choses changent parce qu’elles contiennent en elles mêmes la contradiction.
        d)- Le saut qualitatif brusque (Les changements quantitatifs se convertissent en changements qualitatifs)
        Ib. pages 40-44.

                
    • [25] L’histoire n’est pas le résultat d’un hasard aveugle. Elle n’est non plus dirigée par telle ou telle puissance bonne ou mauvaise de l’au-delà, mais porte en elle sa loi, selon laquelle elle progresse.
      Gustave A. Welter. L’idéologie soviétique contemporaine Tome I - page 146.
                
    • [26]Les sociétés humaines changent, évoluent; c’est un fait universellement admis par tout le monde.
      L’étoile contre la Croix. page 45.
                
    • [27]Ce sont donc les luttes des classes qui expliquent l’histoire, mais c’est l’économie qui détermine les classes.
      — L’étoile contre la Croix, p. 47.

      ...Plus précisément, c’est le mode de production des biens matériels nécessaires à la vie qui détermine en dernière analyse la marche de l’histoire humaine.
      — L’idéologie soviétique contemporaine Tome I page 146.
                
    • [28] Qui dit dialectique dit lutte, 'le développement est la lutte des contraires, le moteur du progrès humain est donc une lutte, la lutte des classes, le Parti communiste en est l’Agent...
      'Pour faire accoucher la société socialiste, il faudra un accoucheur, d’où la nécessité de la révolution.
                
    • [29] Acquisitions ultimes: libération totale de l’homme de toutes les contingences et de toutes les servitudes... domination des forces de la nature par l’homme.
      — Ib. 50.
                
    • [30] Il n’y aurait donc plus de vérité absolue 'Si, il y a une vérité absolue, c’est que tout est relatif.
      - (Cachin, Science et Religion - page 24)
      - (L’Étoile contre la Croix - page 57)

      ...Pour la dialectique, il n’y a rien de définitif, d’absolu, de sacré...
      (Politzer - Principes élémentaires de philosophie - page 169
      L’Étoile contre la Croix - page 40)



    <== trước ==                    == sau ==>
    -- về Mục Lục --

              
Last edited by Hoàng Vân on Thứ tư 31/08/16 07:37, edited 2 time in total.
Hình đại diện
Vịnh Nghi
Bài viết: 1224
Ngày tham gia: Thứ năm 14/05/15 20:59

Re: Dịch Kinh Đại Toàn

Bài viết bởi Vịnh Nghi »

Đọc tới đây rồi, Nghi vẫn chưa thấy tác giả có ý gì mới mẻ có tính...đột phá (từ của việt cộng) hết trơn, chung thuỷ - 99% - cũng chỉ là những trích dẫn Đông Tây kim cổ.....này nọ thôi :yawn:
Carpe diem
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Dịch Kinh Đại Toàn

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  • Anh cũng đọc tới đâu đăng tới đó, nên không rõ sau này có gì hấp dẫn không ?.. :giggles: ..


    NTNVT "mê" khảo cứu, có rất nhiều sách Tàu, Anh, Pháp nên chàng tha hồ mà ghi chú trích dẫn để soạn sách của chàng. Phần ghi chú rất cặn kẽ, câu nào viết ra cũng nói có sách, mách có chứng .. :yes3: ..


    Sách Dịch của NTNVT có gì lạ ?? Anh không có đọc quyển gì khác nên không thể so sánh. Anh vốn lười; chữ phải rớt trước mắt anh thì anh mới đọc và sách của NTNVT lại được phổ biến trên Net cho hậu thế truy cứu nên anh mới để tâm. Như NTNVT đã nói: ông không hài lòng lắm với những quyển Dịch tiếng Việt nên mới soạn quyển này, tự nghĩ rằng nó sẽ rõ ràng mạch lạc hơn, trình bày những gì ông đã hiểu pha thêm chút ước vọng là người đọc sẽ đi con đường mà ông đang đi, vì ông quen suy nghĩ và hành động như 1 người thày trên bục giảng ...


    Anh mà đem được hết quyển này về thì chính anh cũng sẽ phục lăn anh luôn, vì quyển này quá to. Hiện giờ anh cũng còn ở bìa rừng, chưa thấy được công dụng và giá trị của báu vật trong sâu ... :giggles: ..


    :flwrhrts:
              
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Dịch Kinh Đại Toàn

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          

          
          
Dịch Kinh Yếu Chỉ
Hướng đi của Thánh nhân
____________

Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
& Huyền Linh Yến Lê




          
DỊCH KINH ĐẠI TOÀN








  • Chương 3. Dịch là bất biến
    _________________

  • Dịch bao quát cả hai phần thể dụng, biến hằng của đất trời.
    Như trên đã nói:
    • Sự biến thiên chỉ diễn biến trên bình diện hiện tượng,
      còn Bản Thể vẫn thường hằng.


    Nếu vậy thì trong biến thiên, luôn hàm ngụ Bất Dịch, bất biến, vì thế nên Dịch còn có nghĩa Bất Dịch.
    Nếu biến thiên là tương đối, thì Bất Dịch ắt phải là Tuyệt đối. Có Tuyệt đối rồi Tương đối mới sinh, có Bất Dịch rồi Biến thiên mới hiện, như vậy thì Tuyệt đối, Bất Dịch chính là Bản Thể của trời đất vậy.

    Nếu Dịch có nghĩa là Bất Dịch, là Tuyệt đối, là Bản Thể hằng cửu, là Căn nguyên của vũ trụ, thì ta có thể dùng chữ Dịch viết hoa để chỉ Tuyệt đối, hay nguyên lý của vũ trụ.

    Ta viết:
    Dịch là Tuyệt đối thể, Nguyên lý vũ trụ, Bản Thể hằng cửu

    Dịch bất biến, muốn phát huy quyền năng mình, lại dùng sự biến dịch. Vậy muốn tìm Dịch bất biến, phải từ lòng Dịch biến thiên mà suy ngược lại.



    Tiên Hiền, Lão cùng Chư Nho, đã nhận được Dịch là căn nguyên vũ trụ, là Tuyệt đối:

    • Liệt tử viết:
      • Dịch vô hình liệt [1]
        Dịch không có hình tướng bến bờ.

      Ông cũng còn dùng chữ Thái Dịch để chỉ Bản nguyên vũ trụ. [2]

      Tạ Vô Lượng khi biên khảo về Vũ trụ luận của các Đạo gia đã viết:
      • Căn nguyên sinh ra mọi sự biến hóa trong vũ trụ,
        gọi là Không sinh, Không hóa, Nghi Độc, Cốc Thần, Huyền tẫn, Thái Dịch, Vô Vi.

    Chung qui đều là một thứ vậy. Lại suy ra đến cái mà
    • Dịch gọi là Thái Cực,
      hay Chu tử đời Tống gọi là Vô Cực rồi Thái Cực,
      Lão tử gọi là Vô Danh,
      hay Empédocle gọi là To Apeiron,
    tất cả đều là Một vậy. [3]
    • Thiên Ẩn tử viết:
      • Kiêm tam tài gọi là Dịch,
        quán Vạn Vật gọi là Đạo.
        Có một tính thuần nhất gọi là Chân như...
        cho nên Thiên Ẩn tử sinh trong Dịch, mà chết cũng trong Dịch...! [4]


      Về phía Nho gia ta thấy Thái Tiết Trai tiên sinh (Thái Uyên) cho rằng:
      • Dịch thời vô tư, vô vi, tịch nhiên bất động, còn Thần thì cảm là lập tức thông suốt lý do trong thiên hạ...
        Nói Dịch tức là nói khi chưa hiển dương, nói Thần tức là nói khi bắt đầu hiển dương, bởi vì Dịch là căn bản của Thần; Thần là ứng dụng của Dịch [5]

      Ông lại viết:
      • Dịch có trước Lưỡng Nghi nên không hình thể. [6]

      Cho nên học Dịch đối với Ông, là một phương pháp tiến tới Thần minh. [7]


    Hiểu Dịch là Tuyệt đối, còn Vạn Hữu là tượng trưng, là biểu dương, là hình tượng của Tuyệt đối, thì mới hiểu tại sao Dịch vừa bất biến, vừa biến thiên. Bất biến nếu xét về phương diện tuyệt đối, biến thiên nếu xét về phương diện tương đối Vạn Hữu.

    • Ngô Khang giải:
      • Bất dịch là tên của Bản Thể hằng cửu. [8]


      Lý Chứng Cương gọi Bất dịch là
      • Đạo lý tuyệt đối vĩnh cữu. [9]


      Nguyễn Ấn Trường cho rằng:
      • Bất dịch là Bản thể.[10]


    Với những lời giải thích ấy, ta có thể trở về Dịch Kinh, và nhận định rõ ràng rằng
    theo Dịch Kinh,
    thì trời đất, Vạn Vật là bóng hình, là ảnh tượng
    của Tuyệt đối thể vô hình, của Dịch.

    • Hệ Từ viết:
      • Trời đất hàm ngụ Tuyệt đối;
        Cho nên hễ trời đất phân trình thành liệt, thì Tuyệt đối ở ngay trong.
        Nếu trời đất bị hủy diệt, thì Tuyệt đối không được biểu dương, thì trời đất cũng không còn lý do tồn tại. [11]

      Hệ Từ lại viết:
      • Dịch không nghĩ, không làm, tịch nhiên bất động, hễ cảm ứng là biết ngay căn cơ của thiên hạ. Nếu không tuyệt đối thần diệu thì làm sao có thể như vậy được? [12]
        ...Dịch bao quát mọi sự biến hóa của trời đất, tác thành muôn vật mà chẳng bỏ sót cái chi; thông tỏ lối đuờng của ngày đêm. Cho nên Thần thì vô phương sở, mà Dịch thì vô hình thể. [13]


    Tất cả những lời lẽ trên đã phơi bày tâm tư của Thánh Hiền tự ngàn xưa:

    Trong cái biến, có cái thường;
    trong tương đối, có tuyệt đối.

    Như vậy học Dịch cốt là băng qua biến thiên để trở về với bất biến, bất Dịch.

    • Quẻ Hằng có lời Tượng rằng:
      • Sấm gió thành quẻ Hằng, quân tử phải tìm phương vị bất biến mà ở [14]

      Câu này nào có khác gì câu Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm của Kinh Kim Cương?

      Họ Vương bình Tượng truyện trên như sau:
      • Tìm được Hằng Cửu nên không đổi thay.
        Dịch đạo biến hóa vô thường, nhưng trong biến ảo có tìm ra được nơi bất biến, thời mới có thể nói chuyện Dịch được. [15]

    Tìm ra được Bản Thể bất dịch trong lòng vũ trụ, cũng như trong lòng con người, là điều kiện thiết yếu cho công cuộc tu thân, thành Thánh, thành Tiên, thành Phật.

    • Kinh Lăng Nghiêm viết:
      • Phật bảo A Nan: Từ muôn kiếp tới nay chúng sinh bị lao lung điên đảo, các nghiệp chướng sinh ra đầy dẫy như trái ác xoa. Còn những người tu hành chẳng thành được Vô Thượng Bồ Đề, lại thành ra bực Thanh Văn, Duyên Giác và các thứ Ngoại Đạo, các Trời và Ma vương, Ma quyến, đều là vì không biết hai thứ căn bản, tu luyện cuồng xiên, thác loạn y như đòi nấu cát thành cơm thì có đến ngàn muôn kiếp cũng chẳng được.
        Thế nào là hai thứ căn bản? Hỡi A Nan:
        một là căn bản tử sinh từ muôn kiếp, y như nay ngươi và chúng sinh lấy tâm vọng tưởng (tâm phan duyên) làm tự tính. [16]
        Hai là căn bản Vô thủy Niết Bàn nguyên thanh tịnh thể đó ở nơi người, chính là thức tinh nguyên minh có thể sinh ra vạn duyên, vạn sự mà đã bị trần duyên làm mất bỏ. Cũng vì chúng sinh đã làm mất cái căn nguyên sáng láng ấy cho nên hằng ngày tuy vẫn luôn dùng mà chẳng tự biết được nó, rồi lăn lộn đắm đuối vào các thú vui, uổng phí cả đời.[17]

      Thủ Lăng Nghiêm còn viết:
      • Đánh mất căn nguyên trường tồn, vĩnh cữu, nên bị luân chuyển.[18]

      Héraclite cũng cho rằng học biến dịch cốt để tìm ra Logos (Thái Cực) bất biến. Ông viết đại khái như sau:
      • Logos là Thiên chân thường tại, mà người đời nào biết vân mòng là chi, mặc dầu đã được hay chưa được nghe bàn tới.[19] Tuy mọi sự biến thiên đều do Logos (Thái Cực), nhưng họ y thức như những người vụng dại si ngốc mặc dầu đã trải qua và đã thực hiện nhiều biến thiên hoặc bằng lời nói, hoặc bằng việc làm...
        Logos (Thái Cực) là phổ quát mà mọi người lại thích ý kiến riêng tư. Thái Cực có liên lạc thường xuyên với mọi người mà mọi người lại bất hòa, bất hợp với Thái Cực. Cái mà họ gặp thường ngày lại trở nên xa lạ đối với họ. [20]


    Như vậy, ta thấy rằng các bậc thượng trí, thượng nhân bất phân đạo giáo, đều đi tìm Hằng Cửu và Bất biến.
    Theo Kinh Dịch, trong vũ trụ chỉ có Thái Cực, có Đạo là Tuyệt đối, là Hằng Cửu, Bất biến. Cho nên người quân tử học Dịch, lúc nào cũng phải cương quyết tìm cho ra Đạo, ra Tuyệt đối giữa mọi biến thiên, tương đối, lúc nào lòng cũng phải khế hợp với Thái Cực với Đạo.

    Muốn tượng trưng Bản Thể Hằng Cửu hay Thái Cực lồng trong lòng Vạn Vật biến thiên, cổ nhân đã vẽ ra vòng Dịch, trong đó tâm điểm tượng trưng cho Bất biến, Hằng Cửu, còn các vòng Hào Quải bên ngoài tượng trưng cho Vạn Hữu biến thiên. Và nếu ta coi vòng Dịch như là một bánh xe biến hóa, thì tâm điểm bất biến, hay Thái Cực chính là cái bầu, cái trục ở giữa bánh xe. Trục bánh xe, hay tâm điểm bất biến chính là Thiên tâm, là Chân tâm sinh xuất mọi biến thiên.

    • Lão tử viết:
      • Bánh xe ba mươi tai hoa,
        Cái bầu giữa trống, nó nhờ nó quay [21]


      Văn Đạo Tử giảng luận như sau:
      • Nhân Đạo, Thiên Đạo đều là tác dụng nhiệm màu của một khí Thái Cực. Và sự tác dụng huyền diệu ấy, sự tuần hoàn vãng phục luân chuyển ấy tất phải có trục. Cổ nhân gọi trục ấy là trung tâm thiên địa, là cùng cực của Thái Cực. [22]

      Thiên Đạo cư trung ngự cực nên vận chuyển muôn đời mà không sai thất, cũng như trong bánh xe, các vành xe và tai hoa xe vận chuyển không ngừng là nhờ ở trục xe. Nếu ta giữ vững được trung điểm, tận dụng được Thái Cực, thì có thể chuyển vần với Vạn Vật mà vẫn có thể góp phần được với trời đất trong công trình hóa dục.
      • Cho nên người quân tử tu Nhân đạo để hợp Thiên Đạo. Hợp Thiên Đạo tức là vào được trục của vòng Dịch, thoát ra ngoài vòng kiềm chế của hiện tượng, hỗ trợ muôn vật mà không tơ vương, dính bén muôn vật, xoay chuyển vòng biến dịch, mà chẳng chuyển dịch với bánh xe biến thiên, luân lạc.[23]


      Hoàng đế nói:
      • Vũ trụ ở trong tay, vạn hóa sinh trong mình.


      Phật nói:
      • Thu bể khơi vào trong sợi lông, đem núi Tu Di lồng trong hạt cải đâu phải là thuật lạ. Bất quá các ngài đã nắm được trục của pháp luân. Ôi vi diệu thay, trục của pháp luân (trục của vòng biến thiên, hay trục của Vạn Hữu), hỏi mấy ai đã biết? Chẳng rõ được trục mà chỉ biết nói pháp luân luôn vận chuyển, thì chóng chày cũng bị vận chuyển theo pháp luân, làm sao thoát vòng sinh tử được. [24]


    Đầu sách Tính Mệnh Khuê Chỉ có hình Lão tử cầm vòng Thái Cực, ý nói học Dịch cốt là tìm ra được Thái Cực, đắc đạo tức là đắc Thái Cực. Thế là cùng lý trí tri nói trong Đại học vậy. Ở nơi con người thì cái trục, cái bất biến, bất dịch chính là cốt cách tinh hoa, chính là lương năng, lương tri hằng cửu.

    Nhận ra cốt cách thần minh của mình, lướt thắng được sự hỗn mang của các cảm giác, phân biệt được cái thần diệu bất biến trong một thế giới biến thiên, đạt được tới Bản Thể qua các lớp lang hiện tượng ảo hóa, đó mới là vấn đề chính yếu. [25] Thế tức là áp dụng được khoa Dịch học vào cuộc đời mình:

    Có biến mới hay có cửu trường,
    Trung tâm tĩnh lãng, ngoại nhiễu nhương.
    Nhiễu nhương, biến hóa sinh luân lạc,
    Học Dịch cốt tìm Bất Dịch phương.


    Ngoài nghĩa bất Dịch là Tuyệt đối bất biến, Hằng Cửu, các nhà bình giải còn cho rằng bất dịch là những ngôi vị bất dịch, nhũng định luật bất dịch.

    • Sách Càn tạc độ giải bất dịch là địa vị bất dịch:
      • Như trời trên đất dưới,
        vua quay mặt về Nam,
        thần quay mặt về Bắc,
        cha ngồi, con phục. [26]

      Nhưng những sự kiện nói trên chẳng có gì là bất biến, bất dịch cả;

      • ví dụ trái đất tròn lơ lửng giữa bầu trời, thì vừa có trời ở trên, trời ở ngang, và trời ở dưới;
        quẻ Bĩ thì trời trên, đất dưới mà quẻ Thái thì lại đất dưới, trời trên .
        Vả Hệ Từ cũng viết: Thượng hạ vô thường, cương nhu tương dịch (Hệ Từ hạ, VIII)

        Vấn đề quân Nam diện, thần Bắc diện, chỉ có giá trị với một thời đại nào ở Trung hoa, chứ như ở Âu châu thì nào họ có kể chi là phương hướng. Hơn nữa đến thời dân chủ thì đâu là vua?

        Ngay đến như vấn đề phụ tử, ta cũng đã thấy có những trường hợp, vì chủ nghĩa, người ta cũng có thể đảo lộn được cả cương thường v.v...


    Muốn cho chính xác hơn, ta phải nói rằng
    • tuy thế giới đảo điên, biến hóa
      nhưng vẫn dược chi phối bằng nhưng định luật bất dịch [27]

    những định luật ấy có thể xác định được, ví dụ như:
    • - Định luật tụ tán,
      - Định luật điên đảo,
      - Định luật thăng trầm,
      - Định luật sinh, trưởng, thu, tàng hay sinh, trưởng, lão, tử.
      - Định luật tuần hoàn v.v...




    Tổng kết lại,

    chữ Dịch là Bất Dịch gợi cho chúng ta 2 ý niệm:
    • 1.- Trong vũ trụ có một Bản Thể tuyệt đối.
      2.- Vũ trụ được chi phối bằng những định luật bất dịch.






    ___________
    CHÚ THÍCH

    • [1] Xung Hư Chân Kinh - Chương I.
                
    • [2] Xung Hư Chân Kinh - Chương I.
                
    • [3] Thử hợp luận vũ trụ năng hóa dữ sở sinh, sở hóa chi nguyên biến, vị chi bất sinh bất hóa, vị chi Nghi độc, vị chi Cốc thần, Huyền tẫn, vị chi Thái dịch, vị chi Vô vi, kỳ thật nhất vật dã. Cánh suy chi Dịch sở vị Thái Cực, Tống Chu tử sở vị Vô Cực nhi Thái Cực, Lão tử sở vị Vô danh cập Hữu vật hỗn thành, tiên thiên địa sinh, Hi lạp Ân Bồi Đa Khắc Nhi (Empédocle) sở vị To Apiron diệc nhất vật dã.
      — Tạ Vô Lượng, Trung quốc Triết Học Sử. Đệ nhất biên hạ, đệ nhất chương, trang 27.
                
    • [4] Kiêm tam tài nhi ngôn vị chi Dịch. Tề Vạn Vật nhi ngôn vị chi Đạo. Đức bản nhất tính nhi ngôn, vị chi Chân Như...Cố Thiên Ẩn tử sinh hồ Dịch trung, tử hồ Dịch trung.
      兼 三 才 而 言 謂 之 易. 齊 萬 物 而 言 謂 之 道. 德 本 一 性 而 言 謂 之 真 如... 故 天 隱 子 生 乎 易 中, 死 乎 易 中.
      — Thiên Ẩn Tử, Dưỡng sinh thư - trang 2a.
                
    • [5] Vô tư, vô vi, tịch nhiên bất động, Dịch dã. Cảm nhi toại thông thiên hạ chi cố, Thần dã. Thử chương chi Dịch, chỉ vị phát giả vi ngôn dã. Thần chi sơ phát giả vi ngôn dã, cái Dịch giả Thần chi bản; Thần giả Dịch chi dụng...
      無 思, 無 為, 寂 然 不 動, 易 也. 感 而 遂 通 天 下 之 故, 神 也. 此 章 之 易, 指 未 發 者 為 言 也. 神 之 初 發 者 為 言 也, 蓋 易 者 神 之 本; 神 者 易 之 用.
      — Trùng biên Tống nguyên học án quyển III, trang 678 (Thái tiết Trai tiên sinh Uyên)
                
    • [6] Cố Dịch tại Lưỡng nghi chi tiên, kỳ Dịch vô thể.
      故 易 在 兩 儀 之 先, 其 易 無 體.
      — Ib. 677.
                
    • [7] Quân tử học Dịch nhi chí ư thần dã.
      君 子 學 易 而 至 於 神 也 .
      — Trùng biên Tống Nguyên học án III, trang 678.
                
    • [8] Bất dịch giả thường thể chi danh. Hữu thường hữu thể.
      不 易 者 常 體 之 名. 有 常 有 體 .
      — Chu Dịch đại cương - trang 8.
                
    • [9] Nhi giá vĩnh cửu tuyệt đối đích đạo lý dã, tựu thị Bất dịch đích.
      而 這 永 久 絕 對 的 道 理 也, 就 是 不 易 的.
      — Dịch Học Thảo Luận tập - trang 128.
                
    • [10] Bất dịch kỳ Bản Thể hồ.
      不 易 其 本 體 乎.
      — Tạo Hóa thông﹐ chương 3 trang 5.
                
    • [11] Càn Khôn kỳ Dịch chi uẩn da? Càn khôn thành liệt nhi Dịch hành hồ kỳ trung hỹ. Càn Khôn hủy tắc vô dĩ kiến Dịch. Dịch bất khả kiến tắc Càn Khôn hoặc cơ hồ tức hỹ.
      乾 坤 其 易 之 縕 邪? 乾 坤 成 列 而 易行 乎 其 中 矣. 乾 坤 毀 則 无 以 見 易. 易 不 可 見 則 乾 坤 或 幾 乎 息 矣.
      — Hệ Từ thượng chương XII.

      (Chữ uẩn 縕 ở đây,
      Chu dịch độc bản giải là bao sức, là che dấu, như áo mặc bên ngoài.
      Wilhelm Baynes Dịch Uẩn 縕 là bí ẩn tưởng không đúng).
      Cf. Chu dịch bản nghĩa Hệ Từ thượng chương XII, trang 104,
      Wilhelm Baynes - The I Ching, Book II page 347.

                
    • [12] Dịch vô tư dã, vô vi dã; tịch nhiên bất động. Cảm nhi toại thông thiên hạ chi cố, phi thiên hạ chi chí thần, kỳ thục năng dự ư thử.
      易 无 思 也, 无 爲 也; 寂 然 不 動. 感 而 遂 通 天 下 之 故, 非 天 下 之 至 神, 其 孰能 與 於 此.
      — Hệ Từ thượng chương X.
                
    • [13] Phạm vi thiên địa chi hóa nhi bất quá, khúc thành Vạn Vật nhi bất di, thông hồ trú dạ chi đạo nhi tri. Cố thần vô phương nhi Dịch vô thể.
      範 圍 天 地 之 化 而 不 過, 曲 成 萬 物 而 不 遺, 通 乎 晝 夜 之 道 而 知. 故 神 无 方 而 易 无 體.
      — Ib. chương III.
                
    • [14] Tượng viết: Lôi phong Hằng, quân tử dĩ lập bất Dịch phương.
      象 曰: 雷 風 恒, 君 子 以 立 不 易 方.
      — Dịch Kinh - Quẻ Hằng, Tượng truyện.
                
    • [15] Vương viết: Đắc kỳ sở cửu cố bất dịch dã. Án Dịch chi đạo, biến Dịch vô thường. Tự kỳ biến giả nhi năng tri bất Dịch chi phương, nhiên hậu khả dĩ ngôn Dịch hỹ.
      王 曰: 得 其 所 久 故 不 易 也. 按 易 之 道, 變 易 無 常. 自 其 變 者 而 能 知 不 易 之 方, 然 後 可 言 易 矣.
      — Dịch Kinh, Kim văn khảo thông luận. (Triều tiên, Thiểm châu, Lý Bính Hiến) quyển hạ quẻ Hằng.
                
    • [16] Phật cáo A Nan: Nhất thiết chúng sinh tòng vô thủy lai, Chủng chủng điên đảo, nghiệp chủng tự nhiên như ác xoa tụ. Chư tu hành nhân bất năng thành vô thượng bồ đề, nãi chí biệt thành thanh văn, duyên giác, cập thành ngoại đạo chư thiên, ma vương cập ma quyến thuộc, giai do bất tri nhị chủng căn bản, thác loạn tu tập do như chử sa, dục thành gia soạn, túng kinh trần kiếp chung bất năng đắc. Vân hà nhi chủng? A Nan, nhất giả, vô thủy sinh tử căn bản, tắc nhữ kim giả dữ chư chúng sinh dụng phan duyên tâm vi tự tính giả.
      — Thủ Lăng Nghiêm, Linh sơn Phật học nghiên cứu hội - trang 55-56.
                
    • [17] Nhị giả, vô thủy bồ đề Niết bàn Nguyên thanh tịnh thể, tắc như kim giả, thức tinh nguyên minh, năng sinh chư duyên, duyên sở di giả; do chư chúng sinh di thử bản minh, tuy chung nhật hành nhi bất tự giác, uổng nhập chư thú.
      — Ib, trang 55 - 56.
                
    • [18] Thất nhữ nguyên thường, cố thụ luân chuyển.
      — Thủ Lăng Nghiêm kinh Việt nam Phật tử hội xuất bản quyển I, trang 55.
                
    • [19] Le Logos que voici, étant toujours vrai, les hommes n’en acquièrent pas la compréhension, ni avant de l’avoir entendu, ni une fois qu’ils ont entendu.
      — Kostas Axelos, Héraclite et la philosophie page 58.
                
    • [20] Car bien que tout devienne selon ce Logos-ci, ils sont pareils à des inexpérimentés, même s’ils ont fait l’expérience et des paroles et des oeuvres. Mais bien que le Logos soit universel, les gens du commun (la foule) vivent comme s’ils avaient une pensée particulière. Le Logos, avec qui pourtant ils ont le plus constant rapport, avec lui ils sont en désaccord, et ce que tous les jours ils rencontrent, cela leur paraît étranger.
      — Kostax Axelos - Héraclite et la philosophie page 58.
                
    • [21] Tam thập phúc cộng nhật cốc. Đương kỳ vô, hữu xa chi dụng.
      三 十 輻 共 一 轂. 當 其 無, 有 車 之 用.
      — Lão tử Đạo Đức Kinh XI.
                
    • [22] Văn Đạo tử giảng đạo tinh hoa lục - trang 36b.
                
    • [23] Cố quân tử tu kỳ nhân đạo, tự hợp Thiên đạo, hợp Thiên đạo tắc đắc kỳ hoàn trung, siêu hồ tượng ngoại, vật vật nhi bất vật ư vật, chuyển luân nhi bất chuyển ư luân dã.
      故 君 子 修 其 人 道, 自 合 天 道, 合 天 道 則 得 其 環 中, 超 乎 像 外, 物 物 而 不 物 於 物, 轉 輪 而 不 轉 於 輪 也.
      — Văn Đạo Tử giảng Đạo Tinh Hoa Lục, trang 366.
                
    • [24] Hoàng đế ngôn vũ trụ tại hồ thủ, vạn hóa sinh hồ thân.
      Phật ngôn thôn thương minh ư mao khổng, chuyển Tu di ư giới trung, phù khởi hữu dị thuật, bất quá năng đắc pháp luân chi trục nhĩ. Y hi vi hồ diệu tai, Pháp luân chi trục, Y thùy năng thức; bất thức kỳ trục, nhi đồ ngôn pháp luân thường chuyển, chung diệc chuyển ư luân trung nhi dĩ; giải thoát sinh tử năng hồ tai.
      黃 帝 言 宇 宙 在 乎 手 , 萬 化 生 乎 身. 佛 言 吞 滄 溟 於 毛 孔, 轉 須 彌 於 芥 中, 夫 豈 有 異 術, 不 過 能 得 法 輪 之 軸 耳. 噫 嘻 為 乎 妙 哉, 法 輪 之 軸, 伊 誰 能 識; 不 識 其 軸, 而 徒 言 法 輪 常 轉, 終 亦 轉 於 輪 中 而 已; 解 脫 生 死 能 乎 哉.— Văn đạo tử giảng Đạo Tinh Hoa Lục, trang 36b.
                
    • [25] Reconnaȋtre cette parenté divine, vaincre le chaos des sensations, discerner le divin et le permanent dans un monde fluide, atteindre l’être à travers le devenir, tel est le problème central.
      (L’homme et le Zodiaque, page 258)
                
    • [26] Cứ Càn tạc độ đích giải thuyết dĩ vi bất dịch giả kỳ vị dã. Thiên tại thượng, địa tại hạ, quân Nam diện, thần Bắc diện, phụ tọa tử phục, thử kỳ bất Dịch dã.
      據 乾 鑿 度 的 解 說 以 為 不 易 者 其 位 也. 天 在 上 地 在 下, 君 南 面, 神 北 面, 父 坐 子 伏, 此 其 不 易 也.
      — Dịch Học Thảo Luận tập - trang 127
                
    • [27] Nhiên kỳ phát triển biến hóa, tịnh bất thị loạn động đích, quân tuân hữu nhất định đích qui đạo, tức nhất định đích động đích pháp tắc.
      (Dịch Học Thảo Luận tập trang 128)



    <== trước ==                    == sau ==>
    -- về Mục Lục --

              
Last edited by Hoàng Vân on Thứ năm 01/09/16 07:39, edited 2 time in total.
Hình đại diện
Vịnh Nghi
Bài viết: 1224
Ngày tham gia: Thứ năm 14/05/15 20:59

Re: Dịch Kinh Đại Toàn

Bài viết bởi Vịnh Nghi »

Hoàng Vân đã viết: Anh cũng đọc tới đâu đăng tới đó, nên không rõ sau này có gì hấp dẫn không ?.. :giggles: ..

NTNVT "mê" khảo cứu, có rất nhiều sách Tàu, Anh, Pháp nên chàng tha hồ mà ghi chú trích dẫn để soạn sách của chàng. Phần ghi chú rất cặn kẽ, câu nào viết ra cũng nói có sách, mách có chứng .. :yes3: ..

Đúng là chưa đọc hết tới đâu mà Nghi chê già chê non có hơi vội hé :giggles: Nhưng mà, từ đầu cho tới bây giờ, tác giả chỉ cắt từ nơi này một ý, nơi nọ một câu, hoàn toàn 'mượn' ý lẫn hồn của người khác đem vào sách, tuy thỉnh thoảng cũng có khai triển một đôi chỗ, đôi câu, nhưng cũng chẳng có gì mới mẻ hơn, khác hơn, và riêng biệt hơn chi hết. Nghi đọc và có hơi bị thất vọng á :sad2:

Hoàng Vân đã viết: Sách Dịch của NTNVT có gì lạ ?? Anh không có đọc quyển gì khác nên không thể so sánh. Anh vốn lười; chữ phải rớt trước mắt anh thì anh mới đọc và sách của NTNVT lại được phổ biến trên Net cho hậu thế truy cứu nên anh mới để tâm. Như NTNVT đã nói: ông không hài lòng lắm với những quyển Dịch tiếng Việt nên mới soạn quyển này, tự nghĩ rằng nó sẽ rõ ràng mạch lạc hơn, trình bày những gì ông đã hiểu pha thêm chút ước vọng là người đọc sẽ đi con đường mà ông đang đi, vì ông quen suy nghĩ và hành động như 1 người thày trên bục giảng ...

Anh mà đem được hết quyển này về thì chính anh cũng sẽ phục lăn anh luôn, vì quyển này quá to. Hiện giờ anh cũng còn ở bìa rừng, chưa thấy được công dụng và giá trị của báu vật trong sâu ... :giggles: ..

Thật ra, nếu anh Hoàng Vân muốn 'thấy được công dụng và giá trị của báu vật trong sâu', Nghi nghĩ có lẽ anh sẽ không thấy được từ cuốn sách này. Cuốn Kinh Dịch _ Đạo Của Người Quân Tử, tác giả Nguyễn Hiến Lê, ý tưởng thâm trọng, đọc để 'làm quen' với tinh thần của Dịch học, thấy cái lẽ và cái đạo của Dịch, rất khá á anh Hoàng Vân :yes2:

Tác giả NTNVT viết và phổ biến sách này với mong muốn để cho hậu thế truy cứu, mà hậu thế Nghi nè, cố gắng đọc tới đây, hoàn toàn chỉ là để.....ủng hộ anh Hoàng Vân thôi hà :lol:
Carpe diem
Hình đại diện
nắng thủy tinh
Bài viết: 3530
Ngày tham gia: Thứ sáu 15/05/15 06:14

Re: Dịch Kinh Đại Toàn

Bài viết bởi nắng thủy tinh »

Hola Nghi, anh Hoàng Vân :) . N. chạy vô lướt qua chứ đọc hong nổi :rotfl: , thấy nhị vị bàn luận nên lại tủ sách thấy mình còn quyển Kinh Dịch của Trẩn Công Tiến mua từ hồi nào đó, mà gần 30 đô đó nha. Làm N. nhớ lại một thời học hàm thụ và còn cả mớ bài tập bài học bài làm mà giờ dọn nhà tới đâu vẫn mang theo tới đó nhưng ngày ngồi đọc lại chắc là còn xa lắm :yes4:
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20010
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Dịch Kinh Đại Toàn

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  • ... :giggles: :flwrhrts: ..

    .. nghe lời Nghi anh leo Net tìm Dịch của Nguyễn Hiến Lê,
    lướt qua mấy chương đầu rồi đóng sách lại vì .. mợơơtt wa' nè .. :srrndr: :rotfl: :rn4yrlf: ...

              . :flower:
Trả lời

Quay về “Tổng hợp”