Thử Đọc Lại Kim Dung

Trả lời
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5388
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Thử Đọc Lại Kim Dung

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           


    Thử đọc lại Kim Dung (Phần I)


    Tác giả: Nguyên Nguyên


    Có lẽ trong tiềm thức của tôi trong hơn 35 năm qua luôn luôn vẫn có một số thắc mắc, tức bực về tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung. Trước hết nếu so với các truyện kiếm hiệp cổ điển của Trung Quốc như Lã Mai Nương, Càn Long du Giang nam, Tiết Nhân Quý chinh đông, Thuyết Ðường, Thủy Hử v.v..., trong các truyện chưởng của Kim Dung - ít khi nào ông cho khai tử bớt những nhân vật cực ác khi đến quá nửa truyện. Thậm chí nhiều khi cho đến hết truyện những nhân vật cực kỳ nham hiểm và gian ác đó vẫn chưa được cho gác kiếm về chầu Diêm Vương, nhưng lại vẫn cứ tiếp tục sống dai và "quậy" dài dài cho đến một thế hệ tiếp nối trong một truyện kiếm hiệp nối tiếp khác. Thí dụ như Tây độc Âu Dương Phong trong Xạ điêu Anh hùng truyện đã sống luôn qua đến khoảng nửa truyện kế tiếp mang tên Thần Ðiêu hiệp lữ rồi mới lăn đùng ra chết sau khi đấu võ nghệ với Bắc cái Hồng Thất công suốt mấy ngaỳ liền trên một đỉnh núi tuyết trước sự chứng kiến của cậu thanh niên Dương Quá. Hoặc giả như Tinh Tú lão quái Ðinh Xuân Thu trong Lục Mạch thần kiếm và Thiên Long bát bộ - một nhân vật cực kỳ hung ác ai cũng ghét thế mà cứ sống dài dài - sống lâu hơn một trong những nhân vật chính là Tiêu Phong - cho đến hết truyện luôn. Cũng giống như Mộ Dung Phục - lúc đầu truyện mang cá tính nửa chính nửa tà nhưng đến lúc cuối truyện trở nên hoàn toàn gian ác bởi mang nhiều tham vọng khôi phục nước Yên - tác giả cũng không cho chết quách cho xong nhưng lại trở nên điên điên khùng khùng như Âu Dương Phong trong cuối truyện Anh hùng xạ điêu nói trên.

    Tranh chấp để xem xem ai võ công cao nhất, ai là anh hùng vô địch thiên hạ cũng thường không được giải đáp cho thật chắc chắn như trong các truyện kiếm hiệp ngày xưa trước thời Kim Dung. Trong Anh hùng xạ điêu và Võ lâm ngũ bá, có tất cả 5 người với võ nghệ tuyệt luân: Bắc cái Hồng Thất công, Nhất Đăng đại sư Ðoàn Nam đế, Tây độc Âu Dương Phong, Ðông tà Hoàng Dược Sư và Trung thần thông Vương Trùng Dương. Năm người đó mỗi người có một hai ngón võ tuyệt chiêu bao trùm thiên hạ. Nhưng khổ nổi nếu họ đấu với nhau thì lại "bất phân thắng bại"!!! Vương Trùng Dương thường được xem như "trên cơ" 4 người kia một chút nhưng lại... chẳng may chết sớm, và trước khi chết thật Vương Trùng Dương đóng kịch chết giả để cố ý thọc vào chính huyệt của Tây độc Âu Dương Phong một ngón Nhất dương chỉ cho Tây Ðộc chừa bỏ tham vọng đi ăn cắp quyển võ công bí kíp Cửu Âm chân kinh. Thành ra trong hầu hết suốt các truyện Anh hùng xạ điêu hoặc Võ lâm ngũ bá ta không thấy một ai có thể xưng anh hùng vô địch hay võ lâm minh chủ cả. Thất vọng nhất trong cái "lô gích" của Kim Dung phải là anh chàng Quách Tỉnh. Anh này có nội công tự nhiên trời cho như hút được máu rắn quí của một thiền sư nào đó, học võ nghệ từ nhỏ với Giang Nam thất quái, học leo núi với Mã Ngọc, học các võ chính như Hàng long thập bát chưởng của Hồng Thất công, học thế đánh Thiên cang Bắc đẩu trận của phái Toàn Chân, học Cửu Âm chân kinh và Song thủ hỗ bác từ Chu Bá Thông một cao thủ tương đương hay hơn Võ lâm ngũ bá một chút, vài ngón nghề Nhất dương chỉ từ chính Ðoàn Nam đế. Quách Tỉnh như vậy đã học các món võ chính tông của ít lắm là 3 trên 5 vị ngũ bá đó - cộng với tuổi trẻ, với "tư duy" sẵn có, với nội công thâm hậu nhờ uống máu rắn. Thế mà lúc đấu với các cao thủ khác như Cừu Thiên Nhận (chính hiệu), Quách Tỉnh không bao giờ chứng tỏ được thế thượng phong đánh hạ được họ hay cho họ nằm "đo đất" cả. Lô gích đó của Kim Dung hồi còn trẻ người viết xem như hơi "lổng chổng" không được chặt chẽ chút nào. Thêm một thí dụ khác: Trương Vô Kỵ trong Cô gái Ðồ long đã trải qua bao nhiêu thăng trầm và học được bao nhiêu thế võ tuyệt chiêu: Cửu Dương chân linh lúc sống dưới thung lũng núi tuyết qua quyển sách dấu trong bụng con khỉ, ăn được con ếch đỏ cũng ở dưới thung lũng để bổ xung dương khí, luyện được Càn Khôn đại na di tâm pháp lúc bị nhốt trên Quang Minh đỉnh, học Thái Cực quyền và Thái Cực kiếm rất thuần thục với Trương Tam Phong, v.v... và v.v... thế đến khi đụng độ với người yêu cũ Chu Chỉ Nhược, hình như Trương Giáo chủ phải chịu lép mặc dù cô Chu chưởng môn Nga Mi chỉ học được có Cửu Âm Chân Kinh và một số chiêu của Nga Mi kiếm pháp mà thôi. Lô gích nằm ở đâu hay Kim Dung đã theo mốt thời đại trọng nữ khinh nam? Tức bực cho độc giả còn phải kể đến cái ngón Lục mạch thần kiếm của thái tử Ðoàn Dự! Võ nghệ thứ gì mà khi được khi không, trong cuộc đời thật chắc làm gì có loại võ nghệ kỳ cục như vậy - giống như chiếc xe hơi, cái radio hay tivi rất cũ kỹ khi chạy khi không? Rồi còn rất nhiều, nhiều nữa những cái lủng củng trong lô gích của Kim Dung về ai giỏi võ hơn ai trong các bộ truyện chưởng của ông.

    Những thắc mắc đó hình như cứ lởn vởn trong đầu người viết qua nhiều năm tháng, rồi trở đi trở lại trong hai thập niên qua khi xem phim tập Hongkong quay đi quay lại nhiều lần các truyện của Kim Dung. Nhiều khi người viết cũng thử đặt ra một vài giả thuyết dựa trên kiến thức rất hạn hẹp của mình về triết lý Đông phương - thử giải thích các dụng ý của Kim Dung khi ông ra công sáng tác các tác phẩm kiếm hiệp để đời đó. Người viết thử dùng những triết lý như "nhân vô thập toàn" hay bắt chước các người viết khác moi Kinh Dịch, hay sưu tầm những "ẩn số chính trị" để tìm giải đáp cho một thắc mắc lâu năm về Kim Dung. Nhưng rất tiếc và nói cho đúng người viết vẫn chưa được hoàn toàn thoả mãn về những ẩn ý của Kim Dung khi ông cho vào các truyện của ông một lôgích có vẻ hoàn toàn bác bỏ lôgích của Tam đoạn luận: A giỏi hơn B, B giỏi hơn C, do đó A phải giỏi hơn C. Nói một cách khác và thông thường, nếu A có nhiều tiền và của cải hơn B, ta nói A giàu hơn B. Nếu A cùng cỡ tuổi với B và A học được và thành thục nhiều ngón võ hơn B, A chắc sẽ giỏi võ hơn B và sẽ "nốc ao" B khi đấu với B. Tương tự Trương Vô Kỵ có vẻ học được nhiều ngón võ tuyệt chiêu hơn Chu Chỉ Nhược - đại khái Cửu Dương chân kinh, Càn Khôn đại nã di, Thái Cực kiếm, Thái Cực quyền, v.v... Nội cái Càn Khôn đại nã di - một môn võ tối cao của Minh giáo thời đó có mãnh lực biến đối thủ dùng gậy ông đập lưng ông - Vô Kỵ đã học được trong lúc bị nhốt với Tiểu Siêu ở trong mật động của Quang Minh Ðỉnh - nếu theo đúng mô tả của chính tác giả - cũng đủ dùng để chế ngự được Cửu Âm Chân Kinh, nếu không kể đến các thứ võ lâm chi bảo như Thái Cực kiếm và Thái cực quyền. Càn Khôn Ðại Nả Di chắc chắn - theo lôgích của mô tả trong truyện - sẽ chế ngự được thế đánh móc vào sọ người kiểu Cửu Âm bạch cốt trảo trong Cửu Âm Chân Kinh bởi nó có thể khiến bàn tay bạch cốt trảo quay về tự móc sọ của người xử dụng nó để tấn công mình! Trong khi ấy Chu Chỉ Nhược theo với ước đoán của độc giả (vì đoạn Chu Chỉ Nhược luyện Cửu Âm Chân Kinh tác giả dấu không kể ra) chỉ biết có Cửu Âm Chân Kinh và rất có thể chỉ biết qua loa về Nga Mi kiếm pháp bởi lúc Diệt Tuyệt Sư Thái nhường ngôi chưởng môn Nga Mi cho họ Chu, Diệt Tuyệt Sư Thái đang sắp sửa tự tử nên chưa có thì giờ truyền lại trọn vẹn các ngón nghề của Nga Mi kiếm pháp cho nàng. Thế mà Kim Dung tự ý cho Vô Kỵ gần như bất lực trước Chỉ Nhược và có vẻ "dưới cơ" Chu Chỉ Nhược. Thật bực mình!!!

    Thế nhưng, gần đây nhân lúc đọc được quyển "Cờ Bạc" của Huỳnh Văn Lang do Nhà văn nghệ Tổng Phát Hành xuất bản vào năm 1998, người viết tự nhiên thấy những "cái đinh" kể ra trong quyển Cờ Bạc, nhất là những chương về nghệ thuật đá gà khả dĩ có thể dùng để giải thích những hiện tượng tréo cẳng ngỗng trong các phần đấu võ trong các truyện kiếm hiệp của Kim Dung. Theo tác giả Huỳnh Văn Lang (HVL) trong suốt "sự nghiệp" đá gà ăn tiền của ông kéo dài hàng chục năm sau khi rời chiếc ghế Tổng giám đốc Viện Hối đoái VNCH, ông đã kiếm tiền khá bộn trong việc nuôi gà đá và đá gà nhờ ở việc áp dụng thuyết Ngũ hành của triết lý Trung Quốc. Tác giả kể lại một ngày nào đó năm xưa ông được một người bạn tặng cho một quyển sách cũ viết về nghệ thuật đá gà áp dụng theo thuyết Âm Dương Ngũ hành do chính đức Tả quân Lê Văn Duyệt viết. Xin tạm trích một đoạn quan trọng của quyển Cờ Bạc:

    "Theo Tả quân, ...con gà cũng như con người, cùng vạn vật đã sinh ra trong vũ trụ thì tất nhiên bị vũ trụ bao vây và chi phối, mà vũ trụ cùng vạn vật lại do định luật âm dương ngũ hành chi phối, vì tất cả đều do âm dương ngũ hành mà ra... Suy luận như vậy, Tả quân đã dùng luật Ngũ hành làm tiêu chuẩn căn bản cho môn chọi gà nòi của Ngài và còn để lại cho hậu thế những bài học nghệ thuật vừa cao siêu vừa hiệu nghiệm. Theo lời Ngài dạy:

    Từ thuở khai nguyên vũ trụ thì có Hoả, Hoả tự thiêu để sinh ra Thổ, Thổ sinh ra Kim, Kim sinh ra Thủy, Thủy sinh ra Mộc, để rồi Mộc lại sinh ra Hoả, làm thành một chu kỳ tương sinh của Ngũ hành. Ðộng lực để vạn vật phát triển là SINH và KHẮC. Sinh là tạo, là dưỡng. Khắc là diệt, là trừ: Hoả khắc Kim, Kim khắc Mộc. Mộc Khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, để rồi Thủy khắc Hoả lại - thành một chu kỳ tương Khắc của Ngũ hành."

    Tác giả thuật tiếp cách phân biệt Ngũ hành qua màu sắc của con gà và những phức tạp gặp phải khi con gà mang nhiều màu sắc khác nhau. Lông màu gì pha với màu gì, mồng gà màu gì và chân cẳng vảy vi mang màu gì. Sau khi đã minh định được màu sắc chính của con gà người chọi gà có thể xác nhận gà thuộc mạng nào, Kim hay Mộc, hay Thủy, hay Hoả hoặc Thổ, và đem nó đi so với gà sắp sửa phải đấu. Nếu gà mình mạng Hoả và gà đối phương thuộc mạng Kim - Hoả khắc Kim - gà bên mình rất có nhiều cơ hội để thắng. Và tác giả HVL đã xác nhận qua hằng trăm trận đấu gà từ năm 1969 cho đến đầu năm 1975 - cũng như Tả quân Lê Văn Duyệt trước khi viết quyển sách bí truyền đó, đã trải qua kinh nghiệm cở 400 độ đấu gà - luật Ngũ hành gần như có hiệu nghiệm gần đến 80-90 phần trăm. Theo khoa học, định luật Ngũ hành có vẻ rất có lý đó khi được áp dụng vào các vụ đấu gà được gọi định luật empirical (định luật thống kê). Ðịnh luật empirical rất nhiều khi vẫn có giá trị tương đương với những định luật thuần lý. Thí dụ về định luật thuần lý là luật vật lý về đun nước sôi. Ðịnh luật thuần lý luôn luôn đúng và đúng ở mọi chỗ, nói rằng khi ta đun nước nóng đến 100 độ, nước sẽ sôi và sôi ùng ục. Ðịnh luật thống kê có thể được thí dụ bằng một cuộc tổng tuyển cử lựa chọn chính quyền tại một nước dân chủ. Ðịnh luật sẽ nói rằng khi chính phủ đang cầm quyền làm mất lòng dân bằng những thất bại trong các chính sách kinh tế, y tế, và giáo dục, v.v. chính phủ đó sẽ bị thất cử dễ dàng. Ðó là luật thống kê, thường thường đúng nhưng không chính xác đến 100 phần trăm.

    Thuyết Âm Dương - Ngũ hành ra đời vào khoảng thời Xuân Thu Chiến Quốc, cùng một lúc với Kinh Dịch, do ở một nhà "thông thái" tên Trâu Diễn (1) đã hệ thống hoá nó cho được mạch lạc. Ngũ hành cũng được áp dụng trong nghệ thuật Phong Thủy (Feng Shui) xem nhà xem hướng, rất phổ thông hiện nay trên toàn cầu. Tóm tắt Ngũ hành gồm có Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ, năm nguyên tố căn bản của vũ trụ. (Ở điểm này một vài học giả Tây Phương cho rằng Ngũ hành chịu nhiều ảnh hưởng của phái Zoroastre (2) của Ba Tư).

    + Kim tức kim loại, biểu tượng bằng màu Trắng, và theo Phong Thuỷ chỉ hướng TÂY (muốn dễ nhớ, nhớ người Âu Tây da trắng). Kim khắc Mộc, Kim có thể diệt được Mộc (nhớ cưa sắt cưa được gỗ), nhưng giúp được Thủy;

    + Mộc là gỗ, mang màu Xanh, đứng về hướng ÐÔNG. Mộc trị hay khắc Thổ (đóng cây vào đất - cây mọc từ đất mọc lên), nhưng giúp được Hoả (nhớ lửa cháy thường nhờ cây nhờ gỗ, giấy làm cháy lửa cũng do gỗ làm ra);

    + Thủy là Nước - biểu tượng màu Ðen, đi về hướng BẮC. Thủy trị Hoả (tất nhiên, nước dùng để chữa lửa) và hổ tương cho Mộc (cây cần nước để sống);

    + Hoả là Lửa - mang màu Ðỏ, biểu hiệu bằng hướng NAM. Hoả khắc Kim (nhớ lò luyện kim cần có lửa) và giúp được Thổ;

    + Thổ là Ðất - mang màu Vàng, đại diện bằng Miền Chính Giữa - TRUNG TÂM. Thổ khắc Thủy (nước thẩm thấu vào lòng đất hay đập đất ngăn được nước chảy) và tương thân với Kim.

    Tóm tắt có hai chu kỳ ngũ hành:

    + Chu kỳ SINH: Kim sinh Thủy, Thủy sinh ra Mộc, Mộc sinh Hoả, Hoả tự thiêu sinh ra Thổ, Thổ sinh Kim.

    + Chu kỳ KHẮC: Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hoả, và Hoả lại khắc Kim.

    (Hiểu kĩ như vậy ta hãy trở lại quyển Cờ Bạc của HVL trước khi đọc lại Kim Dung. Sau khi đọc được quyển sách bí truyền của Tả quân Lê Văn Duyệt, tác giả HVL đã cố gắng áp dụng thuyết ngũ hành theo sách Tả quân đi đá gà ăn tiền. Sau đó không lâu ông lại được cơ hội quen biết với một "ông già gân" chuyên nghề dạy võ gốc người Quảng Ngãi vào Nam sinh sống lâu năm, mang tên Tám Long. Chính ông tám Long khuyên tác giả nếu muốn thấu triệt thuyết ngũ hành hãy đọc lại các pho truyện tàu xưa như Ngũ Hổ, Tiết Nhơn Quí, Tiết Ðinh San, Võ Tắc Thiên, v.v.... sẽ thấy trong hầu hết các truyện tàu thuyết ngũ hành luôn luôn được ứng dụng triệt để. Các nhân vật chính trong các truyện tàu đều được mô tả qua màu sắc, điển hình trong truyện Thuyết Ðường thuật chuyện các người anh hùng lo chuyện lật đổ nhà Tùy để lập nên nhà Ðường với vị vua đầu tiên là Lí Thế Dân. Qua truyện đó, người đọc có thể để ý các hổ tướng được mô tả rõ rệt qua màu sắc và mạng lý theo Ngũ hành. Thí dụ, như Trình Giảo Kim mặt đỏ râu vàng, mặc áo giáp, đầu đội kim khôi - đặc biệt có hai mạng: khi trên ngựa mạng Hoả (mặt đỏ) và khi xuống ngựa, mạng Thổ (râu vàng); như La Thành, mặt trắng, mình ưa mặc bạch bào đoản giáp trắng, hay dùng cây Bát cổn Ngân thương bạc, cỡi ngựa Kim Thiên Lý Câu: đúng thật mạng Kim; như Ðơn Hùng Tín, mặt xanh, chuyên mặc giáp xanh, hay dùng chiếc Kim đính Ðông dương sóc, cưỡi con ngựa Thanh tông mã, rõ ràng mang mạng Mộc; Tần Thúc Bảo lại khác, mặt vàng, áo giáp bằng đồng vàng, hay dùng đôi giản đồng và cưỡi ngựa có lông vàng như tơ, đích thị mạng Thổ; và Uất Trì Cung gốc thợ rèn, mặt đen, mặc thiết giáp bằng đồng đen, ra trận dùng ngựa ô tuyền, đúng là mạng Thủy. Quyển Cờ Bạc đưa một vài thí dụ chứng minh rằng các tác giả người Trung Quốc xưa và nay lúc nào cũng áp dụng thuyết ngũ hành (mạng này khắc mạng kia) trong các trận đánh với nhau. Khuôn khổ bài này có hạn nên chỉ xin trích lại một đoạn tả trận chiến giữa tướng Dương Lâm của nhà Tùy đấu với bên nhà Ðường. Bên nhà Tùy ngoài tướng Dương Lâm còn có Thập Nhị Thái bảo lập ra trận Nhất tự trường xà - toàn treo cờ xanh (mạng Mộc). Bên Ðường có Trình Giảo Kim và Tần Thúc Bảo - cả hai mang mạng Hoả và Thổ - đánh hoài nhưng không sao phá nổi trận. Sau nhờ có La Thành - mang mạng Kim - chỉ đấu với tướng Dương Lâm có 10 hiệp, đâm Dương Lâm một thương ngay tại mông, phá tan trận và thu được hơn hai vạn hàng binh của nhà Tùy. Kim khắc Mộc là như vậy. Tóm lại khi đọc truyện Tàu ta nên để ý trước bổn mạng của các nhân vật rồi sẽ xem họ đấm đá đấu chưởng với nhau ra làm sao. Hằng trăm trận ăn thua hay sống chết với nhau thường dựa sát vào những tương sinh tương khắc của luật Ngũ hành mà thôi. Thí dụ một cao thủ võ lâm mặt đỏ, cỡi ngựa màu đỏ (xích thố), mang kiếm giáp màu đỏ (mạng Hoả) chạy ngựa hay phi thân xuống núi đánh với một nhân vật võ lâm khác, cho dù đó là một bà lão mặt đen mặc quần áo màu đen (mạng Thủy), người đọc sành điệu luật Ngũ hành có thể đoán được rằng tác giả sẽ cho cao thủ từ trên núi xuống kia thế nào cũng sẽ bị thua chạy dài, nếu không bị chém đứt đầu thì cũng bị thương nặng tàn phế võ công!!! (3)

    (1) Trâu Diễn là người nước Tề, sống vào cuối thời Chiến quốc. Sử ký viết về Trâu Diễn như sau: "Trâu Diễn bèn xem xét kỹ sự tiêu diệt, sinh trưởng của âm dương mà viết ra việc biến chuyển lạ lùng, viễn vông. Đầu đuôi thiên Đại thánh hơn mười vạn chữ, lời lẽ mênh mông rộng lớn không giống lời thường thấy". Sinh thời ông cũng như Khổng tử, đi khắp các nước để du thuyết, nhưng rất được vua các nước chư hầu tôn kính, không hề bị đối xử tệ như Khổng tử. Xem thêm Mạnh tử, Tuân khanh liệt truyện trong Sử ký.

    (2) Tức Bái hoả giáo.

    (3) Quả thực điều này rất thường thấy trong các tiểu thuyết Trung Hoa. Đoạn Tống Giang phá trận Thái Ất côn thiên tượng của Ngột Nhan Quang trong Hậu Thuỷ Hử là một ví dụ rất điển hình cho việc vận dụng quy luật sinh khắc của Ngũ hành trong xây dựng truyện.

    Bây giờ xin trở lại những điểm "lổng chổng" trong một vài truyện kiếm hiệp Kim Dung mà người viết còn nhớ. Tuy nhiên, trước hết xin minh định người viết không thể xác nhận người viết có tin vào luật Ngũ hành hay không, nhưng chỉ có thể tiết lộ rằng qua mấy mươi năm đọc truyện Tàu và kiếm hiệp Kim Dung, cho mãi đến lúc đọc được quyển Cờ Bạc của Huỳnh Văn Lang người viết vẫn thường cho rằng mấy ông viết truyện Tàu có vẻ quên đầu quên đuôi không áp dụng lô-gích tây phương cặn kẽ, nhất là lô gích kiểu tam đoạn luận: A thắng B, B thắng C, vậy A chắc chắn phải thắng C. Chỉ đến lúc đọc xong đoạn đá gà trong quyển Cờ Bạc, mới thấy truyện Tàu nói chung và võ hiệp Kim Dung nói riêng hiếm khi dựa trên lô-gích tam đoạn luận của Tây Phương, nhưng lại chính yếu dựa trên lô-gích của thuyết Ngũ hành. Ðem lô gích của luật Ngũ hành vào truyện Tàu, Tam Ðoạn Luận phải cuốn gói đi chỗ khác chơi. Xin trở lại với Kim Dung:

    Trước hết xin xét kĩ lại "Cô Gái Ðồ Long" tức Ỷ Thiên Ðồ Long ký. Trương Vô Kỵ mạng gì? Ðầu tiên ta để ý Vô Kỵ bị Huyền Minh Thần Chưởng đánh cho bị bệnh gần chết. Huyền Minh thần chưởng lại là một băng hàn chưởng thuộc thế âm chỉ có Cửu Dương chân kinh - thế dương, chất nóng - mới trị được thôi. Sau đó Vô Kỵ làm Giáo chủ Minh giáo biểu hiệu bằng ngọn lửa, rồi lại mang vào nhiệm vụ đi tìm lại Thánh Hoả lệnh. Hỏa hỏa hỏa. Ðích thị Vô Kỵ mang mạng Hoả. Còn tại sao tác giả gọi Huyền Minh thần chưởng thứ chưởng đã khiến cho Vô Kỵ bị trọng thương gần 8, 9 năm trời mà không gọi Huyết Minh hay Hồng Minh thần chưởng cho có vẻ rùng rợn? Huyền tức Ðen chỉ mạng Thuỷ, Thuỷ (nước) dập hay khắc được Hoả (lửa). Thế Chu Chỉ Nhược mang mạng gì mà Vô Kỵ phải chịu xếp de? Ta xem binh khí hay võ công chính của Chu Chỉ Nhược là gì? Ỷ Thiên kiếm? Không phải, Ỷ Thiên Kiếm thật sự của Diêt Tuyệt Sư Thái, nó màu xanh và Diệt Tuyệt Sư Thái mạng Mộc - dễ bị Vô Kỵ làm cho quê mặt vì Vô Kỵ mạng Hoả - Mộc chỉ sinh Hoả (gỗ chỉ bị cháy vì lửa) thôi chứ không khắc được Hoả. Ta nhớ lại Chu Chỉ Nhược nghe lời dặn dò của sư phụ Diệt Tuyệt Sư Thái lo đi ăn cắp bảo đao Ðồ Long để rồi dùng Ỷ Thiên Kiếm chặt vỡ đao Ðồ Long để lấy quyển bí kiếp Cửu Âm Chân Kinh được dấu trong đao Ðồ Long. Mạng Chu Chỉ Nhược dính liền với đao Ðồ Long (thầm phục dịch giả Từ Khánh Phụng không biết vì sao ông dịch tựa Ỷ Thiên Ðồ Long Ký thành ra Cô Gái Ðồ Long - và tất nhiên Chu Chỉ Nhược chính là Cô Gái Ðồ Long - sự nghiệp của họ Chu đã dính liền với đao Ðồ Long). Ðao Ðồ Long màu gì? Kim Dung đã tả Dư Ðại Nham lần đầu thấy đao Ðồ Long, chàng cầm lấy, lau sạch và đem đến gần ánh lửa xem cho kĩ, thấy nó màu ÐEN sì, chẳng phải sắt và cũng chẳng phải vàng... (Chương Thứ 3). Màu đen đích thị là màu của mạng Thủy. Mạng của Chu Chỉ Nhược là mạng Thủy (4)[black]. Thủy khắc Hoả (mạng của Trương Vô Kỵ). Nước dùng để làm tắt lửa!! Và đó cũng xảy ra cùng lúc với chu kỳ Âm thịnh Dương suy. Vô Kỵ phải dưới cơ Chu Chỉ Nhược dù giỏi võ và nội công thâm hậu hơn Chu Chỉ Nhược!!! Vô Kỵ mang tên với nghĩa đơn sơ "Không kị thứ gì hết" thật ra lại kị Thủy và những chất âm đó chứ!

    Chưa hết, nếu ta nhớ ở đoạn cuối khi Vô Kỵ, Chu Chỉ Nhược đấu nhau với 3 vị sư ở chùa Thiếu Lâm trước mặt bao nhiêu quần hùng. Chu Chỉ Nhược định dùng đòn lén để hạ thủ Tạ Tốn, đột nhiên xuất hiện một thiếu nữ mặc áo vàng phi thân từ đâu đến chỉ múa vài đường quyền qua cây gậy trúc đã đủ áp chế Chu Chỉ Nhược. Trước khi cáo biệt giới võ lâm thiếu nữ áo vàng đó tiết lộ nàng từ núi Chung Nam đến, tức con cháu của Thần Ðiêu đại hiệp Dương Quá! Thế nhưng tại sao Kim Dung cho họ mặc áo vàng? Lại không mặc áo xanh lam hay áo tím cho có màu sắc đỡ chói và thơ mộng? Áo vàng dùng để ám chỉ mạng Thổ. Thổ trị Thủy. Chỉ có nàng thiếu nữ áo vàng (Thổ) mới có cơ trị được Chu Chỉ Nhược (Thủy) theo đúng rơ và cơ sở của Ngũ hành!!!

    Vẫn chưa hết, trong Ỷ Thiên Ðồ Long ký còn có Y tiên Sĩ Hồ Thanh Ngưu. Hồ dược sĩ tối ngày mài miệt với cây cỏ và các vị thuốc, liên quan đến Mộc. Trong tên Hồ Thanh Ngưu có từ THANH dùng để chỉ màu xanh. Màu xanh chính là màu của mạng Mộc. Hồ Thanh Ngưu rõ ràng mang mạng Mộc. Thế Hồ Thanh Ngưu tán mạng vì ai? Vì Kim Hoa Bà Bà, đâu từ phương Tây đến. Kim Dung đã cho thấy rõ chân tướng mạng của Kim Hoa Bà Bà: Tóc bạc trắng, có tên mang chữ KIM, gốc ở phương Tây - mạng Bà Bà mạng KIM. Kim khắc Mộc, nên vợ chồng Hồ Thanh Ngưu phải mất mạng về tay Kim Hoa Bà Bà. Thật quá rõ! Còn một chi tiết nhỏ: Hồ Thanh Ngưu mạng Mộc - Mộc sinh Hỏa, Mộc giúp Hỏa, và Hồ Thanh Ngưu đã giúp Vô Kỵ mạng Hoả một thời gian vài ba năm truyền dạy Vô Kỵ gần hết những y thuật bí truyền của ông ta.

    Thế còn Triệu Minh mạng gì? Triệu Minh có hai đặc tính: người Mông Cổ và yêu rồi cuối cùng nên duyên vợ chồng với đối thủ phản động Trương Vô Kỵ. Nhìn ở bản đồ, nước Mông Cổ nằm ở hướng Tây Bắc của Trung Hoa. Hướng Tây chỉ mạng KIM, hướng Bắc chỉ mạng Thủy. Có thể Triệu Minh mang mạng Tây và chút ít mạng Thủy hay chăng? Xem kĩ thêm một chút ta thấy Triệu Minh lúc ban đầu mang sứ mệnh đi triệt hạ Minh giáo nhưng sau dần dần đâm ra phục Vô Kỵ rồi yêu con người hùng đi làm cách mạng này. Tức Triệu Minh (hay Triệu Mẫn trong bản hiệu đính mới của Kim Dung) đã khâm phục rồi yêu Trương giáo chủ hay nói cách khác bị Trương Vô Kỵ khắc phục bằng tài và ... tình. Có vẻ Triệu Minh mang mạng Kim chính, mạng Thủy phụ. Muốn chắc ăn hơn ta thử liệt kê các đặc tính của một người mang mạng Kim, một người mang mạng Thủy, mạng Hoả, mạng Thổ và mạng Mộc:

    + Tính người mạng Kim: có đầu óc tổ chức, thích ở trong thế chủ động và lãnh đạo, cần cho rằng mình đúng, thích trật tự và sạch sẽ.

    + Tính người mạng Thủy: giàu tưởng tượng, trung hậu, thông minh, rất "cứng cựa", độc lập, kín đáo, ...

    + Tính người mạng Hoả: giàu tình người, nhiều trực giác, thích được thương yêu, thích sôi nổi, giao tế giỏi, ...

    + Mạng Thổ: rất chừng mực, hài hoà, trung thành và đòi hỏi trung thành, thích chi tiết, thích bầu bạn nhưng có thể rất cứng đầu.

    + Mạng Mộc: vui tính, có mục đích, năng động, thích bận rộn, có thể rất hách xì xằng, thực tế, hiếu thắng,. ..

    Theo đó Triệu Minh mang nhiều cá tính mạng Kim hơn mạng Thủy và Chu Chỉ Nhược chắc chắn mang mạng Thủy, Vô Kỵ mạng Hoả. Mối tình giữa Triệu Minh và Vô Kỵ thật sự là mối tình chớm nở bằng việc khâm phục mến tài. Hoả khắc phục được Kim. Mối tình này khác với mối tình giữa Quách Tỉnh và Hoàng Dung, như sẽ phân tích phiá dưới, đã chứng tỏ ngòi bút hết sức điêu luyện của Kim Dung - mặc nhiên nói lên tình yêu giữa người nam và người nữ - dù cho trong giới giang hồ kiếm hiệp đi nữa (trừ trường hợp anh chàng pê đê Ðông Phương Bất Bại trong bộ Tiếu Ngạo Giang Hồ) - không một mối tình nào giống mối tình nào.

    (4) Theo ý kiến cá nhân của Nhất Tiếu, Chu Chỉ Nhược mạng thuỷ là hợp lý, nhưng phân tích như vậy e rằng hơi quá khiên cưỡng. Nhất Tiếu xin tạm lý giải theo một cách khác: Chỉ Nhược là con nhà thuyền chài, được Trương Tam Phong gửi lên Nga Mi. Nàng sinh trưởng ở nơi sông nước, tức là thuộc về mệnh thủy.

    Bây giờ xin xem qua bộ Xạ đìêu Anh hùng truyện và Võ lâm ngũ bá. Tổng cộng chừng một phần 5 của Xạ điêu Anh hùng truyện đề cập đến truyền tích và hành vi của năm ông võ sư thượng thặng của Trung Quốc trước thời nước Tàu bị Mông Cổ chiếm đóng. Ðó là Bắc cái Hồng Thất công (Vua Ăn Xin), Tây độc Âu Dương Phong, Ðông tà Hoàng Dược Sư, Nam đế Nhất Ðăng đại sư, và Trung thần thông Vương Trùng Dương. Rõ ràng Võ lâm ngũ bá đại diện cho năm thức Ngũ hành. Bắc cái Hồng Thất công, ông vua ăn xin mặt mày đen đúa ở phiá Bắc (Bắc Cái) mạng THỦY, Tây độc Âu Dương Phong và cháu là Âu Dương Khắc đi từ BẠCH Ðà sơn đến - chuyên môn ăn mặc đồ trắng, kể cả đoàn phụ nữ tùy tùng mặc áo quần màu trắng, mạng KIM. Ðông tà Hoàng Dược Sư ở phía Ðông ưa ở trong vườn đào thích mặc áo màu xanh, đích thị mạng Mộc. Nam Ðế Nhất Ðăng đại sư ở phía Nam mặc áo cà sa màu đỏ, với ngón nghề Nhất dương chỉ, đúng mang mạng HỎA. Trung Thần Thông Vương Trùng Dương có căn cứ ở miền Trung mang mạng THỔ. Kim Dung còn nhấn mạnh ở mạng Thổ của Trùng Dương bằng cách cho ông sư tổ phái Toàn Chân này chết giả chôn vào lòng đất mấy ngày - chờ Âu Dương Phong đến cạy hòm để ăn cắp Cửu Âm chân kinh - chợt tỉnh dậy thọc vào mặt họ Âu Dương một ngón Nhất Dương chỉ đau cho gần chết (!) cho Âu Dương tởn đến già. Võ lâm ngũ bá nói nôm na dùng để chỉ sự hài hoà của 5 nguyên tố của Ngũ hành. Bởi vậy để cân bằng sự hài hoà đó Kim Dung cho vào nhân vật Lão Ngoan Ðồng Châu Bá Thông sau khi Vương Trùng Dương chết đi một thời gian. Châu Bá Thông là sư đệ hay lý lắc như con nít của Vương Trùng Dương, đặt ra để thay thế họ Vương trong mạng Thổ để đối phó cân bằng với bốn tay cao thủ hạng nhất kia. Ta để ý sự hài hoà ngũ hành đó rất ngộ ngĩnh như sau:

    + Ðông tà mạng Mộc, có thể trị Thổ (Vương Trùng Dương) nếu đánh nhau gay gắt, nhưng Kim Dung cho Ðông Tà có vẻ mến và thích Vương Trùng Dương nên ít khi chạm trán trực tiếp với họ Vương. Nhưng rõ ràng Mộc vẫn trị Thổ như thường qua việc Ðông Tà khắc phục được và giam cầm Châu Bá Thông trên đảo đào hoa suốt 20 năm trời để bắt buộc họ Châu phải chép ra hay đọc ra Cửu Âm Chân Kinh cho Ðông Tà!

    + Nam Ðế mạng Hỏa trực tiếp có thể khống chế mạng Kim của Tây Ðộc Âu Dương Phong. Thì đó Âu Dương Phong chỉ sợ có ngón Nhất Dương chỉ của người võ lâm ở phương Nam mà thôi (5).

    + Mạng Kim của Âu Dương Phong chính ra có thể thắng được Hoàng Dược Sư, mạng Mộc. Nhưng hình như giữa họ Âu Dương và họ Hoàng có tình nể nang đồng nghiệp (professional courtesy) với nhau. Ðó là tình mến nhau nhường nhau giữa tên ăn cướp và bà già ăn trộm, nên họ lại ít đấu nhau cho chí tử.

    + Mạng Thủy của Hồng Thất công có thể trị được Nhất Dương chỉ của Ðoàn Nam Ðế (mạng Hoả). Nhưng không được họ lại cùng phe thiện và thương người như nhau!

    + Tương tự mạng Thổ của Vương Trùng Dương có thể chặn mạng Thủy cuả Hồng Thất công (Bắc Cái), nhưng không họ mến tài mến đức của nhau.

    + Âu Dương Phong mạng Kim và Hồng Thất công mạng Thủy không có khắc gì với nhau - nên không ai hạ được ai hết. Rốt cuộc trong một trận đấu cuối cùng trên núi tuyết trong truyện Thần Ðiêu Hiệp Lữ (nối tiếp Anh hùng xạ điêu) hai ông lão đấu nhau mấy ngày đêm rồi đều lăn đùng ra chết, trước chứng kiến của Dương Quá.

    + Hoàng Dược Sư mang mạng Mộc nên mang tính hiếu thắng. Ông ta mất vợ cũng chỉ vì kêu vợ cố nhớ lại rồi viết ra bản Cửu Âm Chân kinh học lóm được từ Chu Bá Thông. Có lẽ ông cũng mang chút ít mạng Thổ nên ông đã đòi hỏi trung thành của mọi người, nhất là đám đệ tử. Sau khi cặp học trò Trần Huyền Phong và Mai Siêu Phong ăn cắp quyển copy của Cửu Âm Chân Kinh trốn đi, Hoàng Ðông Tà nổi giận cắt hết gân của những người học trò còn lại rồi đuổi đi hết.

    Kim Dung đã cấu tạo cá tính nhân vật thật hay và Ngũ hành được đại diện rất đầy đủ, vững chắc trong Anh hùng xạ điêu. Sự cân bằng ngũ hành trong Võ lâm ngũ bá và Anh Hùng Xạ Ðiêu chính là cân bằng hài hoà trong một thế động, luôn luôn động. Người này khắc chế người kia xoay vòng cho giáp, để rồi rốt cuộc không hề có một người nào thật xuất chúng trồi lên trên cao. Thế Hoàng Dung và Quách Tỉnh mang mạng gì? Hoàng Dung nhỏ lớn sống ở Ðào Hoa Ðảo bên phía Ðông. Hoàng Dung mang mạng Mộc như thân phụ Hoàng Dược Sư. Muốn cho độc giả thấy rõ Hoàng Dung mạng Mộc tiêu biểu bằng màu xanh, Kim Dung bày ra màn Hoàng Dung được Hồng Thất công truyền chức Bang Chủ Cái Bang và giao cho nàng cây gậy trúc màu XANH với bài quyền độc đáo Ðả Cẩu Bổng Pháp (bài quyền dùng gậy đánh chó của giới ăn xin). Cây gậy trúc màu xanh và bài quyền Ðả cẩu bổng được xem như ấn tín của Cái Bang. Ai có được hai thứ đó trong tay đều được bang chúng nhìn nhận là Bang Chủ. Chọn gậy trúc màu xanh thay vì màu thông thường là màu vàng Kim Dung khẳng định Hoàng Dung mang mạng Mộc. Thế nhưng tại sao Hồng Thất công mang gậy trúc màu xanh lại có mạng Thủy? Kim Dung trốn khỏi mâu thuẩn này dễ dàng bằng cách cho ngón võ nghề chính yếu của Hồng Thất công là Hàng Long Thập Bát Chưởng, Long tức rồng liên hệ với nước, mạng Thủy. Trong khi đó Quách Tỉnh mang mạng Hoả - người gốc Hàng Châu, cũng có thể được tạm gọi phía Nam Trung Hoa (Hoa Nam) vì nằm phía Nam sông Dương Tử. Kim Dung lại muốn cho chắc chắn nên cài Quách Tỉnh làm đồ đệ của Giang NAM Thất Quái. Liên hệ mật thiết với Giang Nam Thất Quái, Quách tỉnh có gốc gác phương Nam và mạng Hoả. Mộc sinh Hoả. Cây dễ bị bén lửa. Mộc Hoàng Dung dễ cảm mến và yêu Hoả Quách Tỉnh. Mộc sinh Hoả và giúp Hoả. Nhớ trong truyện có rất nhiều đoạn Hoàng Dung cầu cạnh các cao thủ khác, nhất là Hồng Thất công, truyền dạy võ nghệ thêm cho chàng khờ Quách Tỉnh. Nàng lo nấu những bữa ăn ngon cho Bắc Cái Hồng Thất công để ông vua ăn xin này truyền ngón Hàng Long Thập Bát chưởng cho Quách Tỉnh. Tình yêu giữa Hoàng Dung và Quách Tỉnh là thứ tình yêu lo và giúp chồng thành công. Nó khác với thứ tình yêu mến và khắc phục giữa Triệu Minh và Trương Vô Kỵ trong Cô Gái Ðồ Long như đã nói ở trên. Và cũng khác hẳn mối tình giữa Tiểu Long Nữ và Dương Qua trong Thần Ðiêu Hiệp Lữ - cả hai đều cùng mạng Thổ, bởi sống và tập luyện võ với nhau dưới lòng đất nơi Cổ Mộ rất lâu năm. Ai nói Kim Dung không tuyệt chiêu trong việc tả tình yêu đôi lứa chắc phải suy nghĩ lại. Tiện ở đây cũng ghi thêm Dương Khang có lẽ cũng mạng Hoả như Quách Tỉnh (cùng gốc Hàng Châu) nên trên đường giang hồ, trong một phút ghen tưông sao đó vì nàng Mục Niệm Từ, Dương Khang đã lụi vào một cao thủ võ công giỏi hơn mình là Âu Dương Khắc thuộc mạng Kim một nhát dao đến mút cán. Ngoài ra Hoàng Dung mạng Mộc rất kị những người mạng Kim như Âu Dương Phong, Âu Dương Khắc và Thiết chưởng Thuỷ thượng phiêu Cừu Thiên Nhận. Có lần Hoàng Dung tính giỡn mặt với ông Thiết chưởng Cừu Thiên Nhận thứ thiệt vì lầm tưởng ông này là ông giả, bị ông này đập cho một chưởng như buá sắt đập (Thiết tức sắt, mạng Kim) đâm ra bệnh gần chết. Sau phải nhờ Ðoàn Nam Ðế (mạng Hoả, Hoả trị Kim) với ngón Nhất Dương Chỉ trị mới khỏi. Kim Dung đã viết thật hay và phô bày rất cặn kẽ về luật Ngũ hành trên ngót một ngàn trang sách cho Anh Hùng Xạ Ðiêu. Bố cục và sự giao động cũng như đấu chưởng tranh hùng giữa các cao thủ với nhau đều hoàn toàn nằm trong cơ sở lô-gích của thuyết Ngũ hành.

    Thế còn những Ðoàn Dự, Tiêu Phong, Mộ Dung Phục, Hư Trúc, và Du Thản Chi cùng một lô các cao thủ khác trong Thiên Long Bát Bộ thì sao? Những Lệnh Hồ Xung, Nhâm Doanh Doanh, Nhâm Ngã Hành, Ðông Phương Bất Bại, Nhạc Linh San, Thanh Phong đạo nhân, Ðiền Kế Quang, Nhạc Bất Quần, v.v... trong Tiếu Ngạo Giang Hồ, họ được chiếu theo các mạng nào trong Ngũ hành?
    Người viết thú thật chỉ đọc được Thiên Long Bát Bộ và Tiếu Ngạo Giang Hồ có một lần - và xem phim tập Hongkong cũng chỉ một lần thôi. Chỉ nhớ được mơ hồ rằng Mộ Dung Phục tuy có gốc tổ tiên nước Yên (ở phía cực Bắc) nhưng giấc mơ phục quốc của Mộ Dung vẫn mãi mãi một giấc mơ hảo huyền, nên Mộ Dung Phục dính liền với đất Giang Nam, mạng Hoả. Kim Dung nhấn mạnh thêm Bắc Kiều Phong Nam Mộ Dung, và cho Tiêu Phong thuộc người Khất Ðan ở phía Bắc nước Trung Hoa. Mạng Thủy của Tiêu Phong khắc mạng Hoả của Mộ Dung Phục mặc dù rất nhiều đoạn Kim Dung mô tả võ nghệ của Mộ Dung Phục rất thần sầu quỉ khốc. Mỗi lần gặp Tiêu Phong ta để ý thấy Mộ Dung Phục có vẻ hơi ngán mặc dù lúc nào anh ta cũng đầy tự tin mình giỏi võ hơn người. Có lẽ dưới cơ Tiêu Phong chỉ vì cái "rơ" mà thôi. Cái rơ Ngũ hành! (6)

    Phần quan sát thế ngũ hành của các nhân vật còn lại trong Thiên Long Bát Bộ và các cao thủ của Tiếu Ngạo Giang Hồ, nhân vì bài đã khá dài, người viết xin trân trọng nhường lại cho người đọc.

    (5) Trong Xạ điêu Anh hùng truyện, Kim Dung có viết "Hoả phương nam khắc kim phương tây", nên Nhất dương chỉ của Nhất Đăng đại sư là khắc tinh với Cáp mô công của Tây độc). Nhất Tiếu thấy pháp danh của Nam đế là Nhất Đăng (một ngọn đèn???) quả là mệnh hoả thật.

    (6) Theo ý của Nhất Tiếu thì Mộ Dung Phục dòng dõi người Hồ nước Yên, tức là ở phương Tây, mang mệnh Kim. Và trên thực tế người khắc chế Mộ Dung Phục không phải là Kiều Phong mà chính là Đoàn Dự, mang mệnh hoả phương Nam. Tại chùa Thiếu Lâm Đoàn Dự đã đả bại Mộ Dung Phục, và sau này cũng đã chinh phục được vị hôn thê của Mộ Dung Phục là Vương Ngữ Yên.


    Nguồn :http://truyen.haohanca.com


              
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5388
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: Thử Đọc Lại Kim Dung

Bài viết bởi Bạch Vân »

          
  • Thử đọc lại Kim Dung (Phần II)

    Tác giả: Nguyên Nguyên


    Cách đây khoảng chừng 5 năm nhân một buổi trà dư tửu hậu tại nhà một người bạn - chủ khách chuyện trò lòng vòng rồi dẫn đến Kim Dung và các quyển tiểu thuyết kiếm hiệp lừng danh của ông. Một anh bạn (nếu không lầm, giáo sư Phạm ở New South Wales) chợt nhắc đến nhân vật Trần Hữu Lượng trong Cô gái Đồ long và nói anh vừa đọc được ở đâu đó có viết Trần Hữu Lượng là một người Việt. Người viết cố gắng moi óc với giúp đỡ của anh bạn đó mới nhớ rằng trong Cô Gái Đồ Long ấn bản đầu tiên của Kim Dung có một nhân vật tên Trần Hữu Lượng lớn tuổi hơn Trương Vô Kỵ một chút. Anh này xuất hiện lúc Trương Tam Phong dẫn Vô Kỵ lên Thiếu Lâm Tự để xin phép dùng Cửu Dương Chân Kinh chữa trị bệnh cho Vô Kỵ. Bệnh của Vô Kỵ có vẻ rất nan y vì Vô Kỵ đã bị một cú Huyền Minh thần chưởng từ một cao thủ Mông Cổ khi được thả lại tại chùa Võ Đang. Sau khi thử trị bệnh cho Vô Kỵ bằng nhiều cách theo kiến thức uyên bác của ông, Trương Tam Phong mới nghĩ rằng chỉ có Cửu Dương Chân Kinh mới có thể cứu Vô Kỵ khỏi cơn bệnh ngặt nghèo do thứ băng hàn chưởng kịch độc mang tên Huyền Minh thần chưởng gây nên. Khổ một nỗi Trương Tam Phong trong thuở thiếu thời chạy trốn khỏi chùa Thiếu Lâm với sư phụ Giác Viễn chỉ học được chừng phân nửa quyển Cửu Dương Chân Kinh do Giác Viễn trước khi viên tịch đã đọc lại. Phân nửa kia hiện có ở chùa Thiếu Lâm. Bởi vậy mấy mươi năm sau khi cần phải thấu triệt hết Cửu Dương Chân Kinh hầu chữa trị bệnh cho Vô Kỵ, Trương Tam Phong, một chưởng môn phái Võ Đang đang lên, đã không quản ngại nhục nhằn dẫn Vô Kỵ lên Thiếu Lâm Tự xin trao đổi kiến thức về Cửu Dương Chân Kinh của đôi bên để cả hai đều được trọn vẹn toàn bộ quyển kinh bí kiếp này. Nếu được vậy Trương Tam Phong sẽ dùng trọn bộ Cửu Dương Chân Kinh chữa trị cho cậu bé Trương Vô Kỵ.

    Đến chùa Thiếu Lâm sau khi trình bày mục đích từ bi cứu khổ của mình Trương Tam Phong được đưa đến gặp một thiếu niên đang ở trong chùa tên Trần Hữu Lượng. Hai bên dàn xếp sao đó để Trương Tam Phong đọc ra phần Cửu Dương Chân Kinh của mình trước và sau đó phe Thiếu Lâm sẽ đưa ra phần Cửu Dương Chân Kinh của họ sau. Trương Tam Phong tình thật đọc hết nửa phần của quyển Võ kinh bí kiếp ông còn nhớ cho Trần Hữu Lượng nghe. Sau khi đọc xong Trương lão nhân mới hỏi xin được lãnh giáo phần Cửu Dương của bên Thiếu Lâm. Trần Hữu Lượng thay mặt cho bên Thiếu Lâm đáp rằng tưởng gì lạ chứ những gì Trương Tam Phong vừa đọc Thiếu Lâm đã có sẵn rồi. Và gã thiếu niên họ Trần đọc lại cho Trương Tam Phong nghe vanh vách không sót một chữ những gì Trương Tam Phong vừa mới đọc ra. Như thế phe Thiếu Lâm đã lấy cớ rằng Trương không có gì để trao đổi nên không cho Trương phần Cửu Dương họ có và đuổi khéo Trương Tam Phong cùng Vô Kỵ ra khỏi chùa.

    Đoạn Trần Hữu Lượng này của Cô Gái Đồ Long đã bị Kim Dung cắt xén bỏ hết trong bản nhuận sắc sau cùng hiện nay. Trần Hữu Lượng cũng như Trương Tam Phong, Chu Nguyên Chương, Quách Tỉnh, Khâu Xứ Cơ, ... là những nhân vật có thật trong lịch sử của Trung Quốc. Chu Nguyên Chương, Trần Hữu Lượng và Trương Sĩ Thành (không có trong truyện của Kim Dung) là ba lãnh tụ "sáng chói" nhất trong việc nổi dậy lật đổ nhà Nguyên (Mông Cổ). Lực lượng Chu Nguyên Chương cuối cùng đã đánh đổ được nhà Nguyên, lập nên nhà Minh, và Chu Nguyên Chương lên ngôi lấy hiệu Minh Thái Tổ, một ông vua độc tài vào bực nhất của Trung Quốc. Đời nhà Nguyên bên Tàu (1277-1367) kéo dài gần như song song với triều đại nhà Trần (1225-1400) ở Việt Nam, lúc đó còn gọi là An-Nam, một quốc hiệu được đặt ra từ đời nhà Tống bên Tàu. Nhà Nguyên và nhà Trần trước sau đã 3 lần "Hoa Sơn luận kiếm" với nhau và cả ba lần quân đội nhà Trần với quyển binh thư yếu lược của Trần Hưng Đạo đã đánh bại quân Mông Cổ và con cháu của Thiết Mộc Chân tức Thành Cát Tư Hãn - cha của Hoa Tranh công chúa, người đã có mối tình còn trẻ dại với Kim Đao phò mã (hụt) Quách Tỉnh trong Anh hùng xạ điêu của Kim Dung. (Tiếc rằng Việt Nam không có một Kim Dung để kiếm hiệp hoá Trần Hưng Đạo như Kim Dung đã kiếm hiệp hoá tướng Nhạc Phi đời Tống trong bộ Anh hùng xạ điêu). Đọc sử Việt của Trần Trọng Kim hay của Phạm Văn Sơn, ta để ý trong chiều dài của cuộc luận kiếm giữa nhà Trần với Mông Cổ nhà Nguyên, nhà Trần hàng năm phải gửi chừng năm ba nhân tài xứ An Nam (gồm những nhà "khoa học", y sĩ, khoa bảng hạng nhất) sang chầu chực Nguyên Chủ và ngược lại nhà Nguyên cũng "bốc" một vài hoàng thân quốc thích xứ An Nam như Trần Di Ái và Trần Ích Tắc và một lô hầu cận sang bên đó được huấn luyện để sau này xử dụng họ vào những "lá bài" áp đặt làm vua (bù nhìn) cho nước Nam. Trần Hữu Lượng nếu có dòng máu Việt rất có thể là con của một trong những người này.

    Họ Trần rất phổ thông ở mìền Hoa Nam bên Tàu và họ Trần dường như chỉ di dân sang nước Nam một vài thế hệ trước khi Trần Thủ Độ chiếm ngôi nhà Lý và thiết lập nhà Trần. Ở Hongkong họ Trần gọi là Chan, ở Trung Hoa lục địa gọi Chen, ở Mã Lai gọi Tan, ở Indo Tanoko, v.v.. Việc họ Trần từ Tàu di cư sang nước An-Nam rồi về sau lãnh đạo nước Nam chống lại Tàu không có gì lạ trong lịch sử Việt. Trước đó có Lý Bôn (hay Lý Bí) cũng gốc Tàu ở nước Nam được bảy đời vào giữa thế kỷ thứ 6 đã nổi lên đánh đuổi quân Tàu giành lại độc lập và dựng nên nhà Tiền Lý ngắn ngủi. Về sau Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ gốc họ Hồ có tổ tiên di cư sang nước Nam vào thế kỷ thứ 10 từ tỉnh Chiết Giang (quê hương của Kim Dung) bên Tàu cũng đã đánh nhà Mãn Thanh ở Bắc phương thua xiểng liểng.

    Trở lại chuyện Trần Hữu Lượng, phản ứng thông thường của bất cứ ai nghe nói Trần Hữu Lượng có thể là một người "An-Nam" theo cha sang Tàu rồi ở luôn bên đó, về sau mưu đồ đại sự lật đổ nhà Nguyên, chắc sẽ cho rằng Kim Dung đúng thật một tác giả có đầu óc thương mại rất bén, vì muốn chiếm cảm tình của độc giả Việt Nam đang theo dõi những truyện kiếm hiệp của ông được dịch đăng báo hằng ngày ở Sàigòn theo kiểu feuilleton, ông đã nhét vào đó nhân vật Trần Hữu Lượng thay vì Trương Sĩ Thành bởi Trần Hữu Lượng có liên hệ tới Việt Nam! Chắc chỉ thế thôi.

    Nhưng nếu đọc lại Thiên Long Bát Bộ và Lục Mạch Thần Kiếm ta lại một lần nữa cảm thấy một cái gì hơi là lạ khi Kim Dung giới thiệu một nhân vật nữ mang họ Nguyễn tức Nguyễn Tinh Châu - người tình vắn số của Tiêu Phong (hay Kiều Phong) bang chủ của Cái Bang. Trong hai bộ truyện đó, ông hoàng đa tình của nước Đại Lý tên Đoàn Chính Thuần, trên danh nghĩa là cha của thái tử Đoàn Dự, có rất nhiều người tình, mỗi bà ông tặng một hai đứa con, thường thường con gái. Một trong những người tình đó mang họ Nguyễn và có hai người con gái, người chị mang tên Nguyễn Tinh Châu, tức A Châu, người em Nguyễn Tinh Tử tức A Tử.

    Nguyễn Tinh Châu và Tiêu Phong gặp nhau rồi yêu nhau. Trong khi đó Tiêu Phong điều tra ra thủ phạm giết cha mẹ mình năm xưa không ai khác hơn Đoàn Chính Thuần cha ruột của Tinh Châu. (Mãi về sau này Tiêu Phong mới biết rằng điều tra đó hoàn toàn sai). Để trả thù cho cái chết thảm khốc của cha mẹ Tiêu Phong hẹn Đoàn Chính Thuần đến đấu Võ sống chết với nhau vào lúc giữa đêm. Nghe lén được, Nguyễn Tinh Châu vì mang nặng chữ hiếu với cha nên mặc áo giả dạng làm Đoàn Chính Thuần đến nơi hẹn. Tiêu Phong trong đêm tối nhìn thấy người tình muôn thuở Tinh Châu lại tưởng lầm là Đoàn Chính Thuần nên đánh cho một cú Hàng long Thập bát chưởng, món Võ bí truyền của các Bang chủ Cái bang (hội đoàn của những người khất thực ăn xin) làm cho Tinh Châu bị trọng thương và chết liền sau đó trong vòng tay thống khổ của Tiêu Phong. Trong suốt khoảng đời còn lại Tiêu Phong mang nặng nổi sầu bi không thế nào giải toả được, và cưu mang người em gái của Tinh Châu là A Tử. A Tử đem lòng yêu Tiêu Phong nhưng khổ nỗi Tiêu Phong chỉ thương A Tử như người em. A Tử lại có một anh chàng khác say mê cuồng nhiệt tên Du Thản Chi có lúc đã dâng đôi mắt người xưa của mình tặng cho A Tử "ghép mắt" vì chợt bị mù không thấy đường. (Ở đây, Kim Dung có vẻ xạo hết chỗ nói chắc với ngụ ý đề cao y thuật Trung Quốc hồi xưa!!!). Và mối tình éo le ba chiều đó đã được Kim Dung kết thúc bằng một giải đáp không có hậu, một "unhappy ending" để lại cho người đọc bao ngậm ngùi thương tiếc.

    Phải nhìn nhận trong hàng trăm pho truyện Tàu chỉ có bộ Thiên Long Bát Bộ nói riêng và một số tiểu thuyết của Kim Dung nói chung đã đề cập đến họ Nguyễn và nước Đại Lý mà thôi. Họ Nguyễn mặc dù cũng xuất xứ từ miền Hoa Nam bên Tàu nhưng ngày nay còn rất ít những người mang họ này ở bên Tàu. Ngược lại ở nước Việt họ Nguyễn được rầm rộ gia tăng sau khi Trần Thủ Độ cướp ngôi nhà Lý (1010-1225) và bắt ép những người mang họ Lý phải đổi ra họ Nguyễn để thứ dân không còn nhớ đến triều đại nhà Lý xưa cũ nữa. Họ Nguyễn lại gia tăng dữ dội hơn nữa khi Nguyễn Hoàng vào trấn đất Thuận Hoá năm 1558 khởi đầu cho mầm mống nhà Nguyễn sau này. Họ Nguyễn giờ đây chiếm đến khoảng 40 phần trăm của các họ khác nhau của người Việt. Trong niên giám điện thoại ở các thành phố có đông người Việt định cư như ở Úc và Mỹ chẳng hạn - họ Nguyễn được sắp xếp theo thứ tự số đông có thể đứng từ hạng 5 đến hạng 10 rất dễ dàng. Thành ra nói tới họ Nguyễn trong thời đại hiện nay tức nói tới người Việt, Việt Nam. Kim Dung có ngụ ý gì chăng khi ông phải dùng đến họ Nguyễn cho nhân vật Nguyễn Tinh Châu mà không dùng các họ khác như họ Đào, họ Lý, họ Tô, họ Hoàng, họ Tiết, họ Nhâm, họ Địch và nhất là họ Phạm một họ có cả trong vùng Hoa Nam, nước An Nam và cả nước Lâm Ấp (hay Chiêm Thành) vào các thời xa xưa đó. Thêm vào đó trong ba bốn bộ truyện liên tiếp, Kim Dung ưa đưa vào đó những nhân vật thuộc nước Đại Lý như Đoàn Nam Đế tức Nhất Đăng Đại Sư trong Xạ Điêu Anh Hùng truyện, Đoàn Chính Thuần, Đoàn Dự trong Lục Mạch Thần Kiếm và Thiên Long Bát Bộ, v.v. Nước Đại Lý đại khái nằm ở địa bàn của tỉnh Vân Nam (Yun-Nan) ngày nay. Tỉnh Vân Nam giáp giới với phía Tây Bắc ở mạn Lào Cai, Lai Châu của nước Việt Nam. Thời cổ đại khu Đại Lý có tên Điền Việt, có thể bao gồm hay giáp ranh với nước Tây Âu hay Âu Việt và nước Nam Cương của Thục Phán. Theo Trần Trọng Kim trong bộ Việt Nam Sử Lược, Thục Phán không thể xuất phát từ nước Tây Thục ở tận Tứ Xuyên xa xôi mà chỉ có thể từ một nước nhỏ nào đó trong khu vực Vân Nam ngày nay, hay vùng mang tên Đại Lý hồi cuối đời Nam Tống bên Tàu. Gần đây Taylor dẫn cứ tài liệu các sử gia Vietnam cho rằng Thục Phán xuất quân từ nước Nam Cương nằm ở khu Cao Bằng. Thục Phán đánh dứt điểm Hùng Vương của nước Văn Lang (tức Lạc Việt) rồi sát nhập Âu Việt và Lạc Việt thành một nước mang tên Âu Lạc, xưng hiệu An Dương Vương. Sau mấy cái màn đấu võ, nhất là ngón Nhất dương chỉ của mấy hoàng thân quốc thích nước Đại Lý trong truyện của Kim Dung, nước Đại Lý bị quân Mông cổ thôn tính vào năm 1253 trước khi tiến đánh nhà Trần. Tiếp theo, nhà Nguyên đã cho di dân sang đó hơn 30000 quân lính và gia đình của họ cùng với một số người theo đạo Hồi ở vùng Tây Bắc. Chính sách đồng hoá này được tiếp diễn dưới triều đại nhà Minh vào năm 1381

    Thử xem lại giả thiết đơn sơ rằng Kim Dung muốn thu hút thêm độc giả Việt Nam vào thời tiểu thuyết của ông đăng báo hằng ngày ở Saigon theo lối feuilleton bằng cách cho vào đó một số nhân vật hay bối cảnh có dính líu sơ sơ đến Việt Nam. Kim Dung đã viết [bỶ thiên Đồ long ký vào năm 1961, Thiên Long Bát Bộ vào năm 1963, và tiểu thuyết kiếm hiệp ngắn cuối cùng của ông mang tên... VIỆT nữ kiếm vào năm 1976. Truyện Kim Dung bắt đầu đăng báo hằng ngày tại Sàigòn vào khoảng 1962 và chỉ nổi như cồn vào khoảng 1964. Trước đó Kim Dung đã nổi tiếng tại Singapore, Hongkong, Đài Loan, và cộng đồng người Hoa ở Mỹ rồi. Tức là trong lúc ông viết đầu óc ông rất khó hướng về Việt Nam trong ý đồ thương mại nhỏ nhen đó. Quyển truyện mang tựa Việt Nữ Kiếm đã rõ ràng chứa chấp từ "Việt" được viết vào năm 1976 sau khi giới độc giả Việt của ông đã không còn báo chí có feuilleton để đọc đã được 1 năm. Do đó yếu tố Việt hay yếu tố liên hệ đến Việt trong truyện Kim Dung trong lý do thương mại lấy lòng độc giả Việt phải được hoàn toàn gạt bỏ. Truyện Việt nữ kiếm nói về thứ "Việt" (hay "việc") gì mà Kim Dung đã chọn làm quyển truyện ngắn kiếm hiệp cuối cùng để đóng sổ sự nghiệp viết tiểu thuyết Võ hiệp kỳ tình lừng danh của ông? Việt Nữ kiếm chưa được in thành sách "bản cứng" tiếng Việt nhưng hiện có hai bản dịch, một tiếng Việt một tiếng Anh (hay tiếng Mỹ!), đăng trọn vẹn trên mạng internet võ hiệp "chùa" "vietkiem dot com" hay "come.to /kimdung. Truyện kể lại mối tình của tướng nước Việt tên Phạm Lãi và nàng mỹ nhân Tây Thi do vua Việt là Câu Tiễn đem dâng hiến cho vua nước Ngô tên Phù Sai để dùng mỹ nhân kế hầu làm suy yếu nội tình nước Ngô trước khi "tổng phản công" đánh chiếm nước Ngô để trả thù xưa. Trong truyện có một cô gái chăn dê học được kiếm pháp thần sầu quỷ khốc từ một con vượn trắng (Nhắc lại màu trắng là màu của mạng Kim như trong tên Kim Dung của thuyết Ngũ hành - xem phần 1). Việc xuất hiện của truyện "Việt" nữ kiếm, tác phẩm kiếm hiệp cuối cùng của Kim Dung, đã tăng thêm phần tin tưởng cho giả thiết rằng các yếu tố Việt như họ Nguyễn, nước Đại Lý, Trần Hữu Lượng trong các truyện trước của Kim Dung không phải là một việc tình cờ nhưng lại là một sự sắp đặt có lớp lang bày tỏ ít nhiều ẩn ý hay "tâm sự riêng mang tính chất Việt" của tác giả.

    Sau đây ta thử cố gắng khảo sát và khai triển thêm để tìm hiểu về tâm sự mang "chất Việt" của Kim Dung bằng cách lượt qua lịch sử Trung Quốc và sử Việt cổ. Tâm tư mang chất Việt này của Kim Dung chỉ là một sợi chỉ nhỏ - nhưng nếu dùng kính lúp của lịch sử để soi tỏ cho rõ sợi chỉ liên hệ đến "Việt tính" này, có lẽ chúng ta sẽ có thể lĩnh hội được một hai điều ngồ ngộ hay hay về Kim Dung nói riêng và về giới trí thức người Hoa nói chung - đối với "Việt" và Việt Nam.

    Nước Việt vào cuối thời Chiến Quốc là một nước nằm ở địa đầu của vùng Hoa Nam, ven biển, ở phía Nam sông Dương Tử. Nhìn bản đồ nước Trung Quốc ta thấy sông Dương Tử (còn gọi là Trường Giang) đại khái nằm ở vĩ tuyến thứ 30 và chia nước Tàu làm hai. Ở phía Nam sông Dương Tử người Hoa thường gọi Hoa Nam hay Giang Nam (như kiểu Giang Nam Thất quái, bảy vị sư phụ của Quách Tỉnh trong Anh hùng xạ điêu). Phân nửa của nước Tàu ở phía Bắc sông Dương Tử lại có thể chia ra thành 2 phần nữa bằng con sông nổi tiếng mang tên Hoàng Hà đại khái chạy uốn mình quanh co giữa khoảng vĩ tuyến 36 đến 38. Hoàng hà có nghĩa con sông màu vàng do ở màu nước phản ảnh loại đất vàng do gió chuyên chở đến từ các sa mạc ở phiá Tây nước Tàu. Đất màu vàng này tiếng Anh gọi là loess với độ dày ở mặt đất lên đến cở 300 thước tây. Bởi người Tàu thời cổ đại tập trung hai bên sông Hoàng Hà họ chỉ thấy đất loess màu vàng mà thôi nên họ dùng màu vàng để chỉ Đất và mạng Thổ như phần 1 đã trình bày. Trung Quốc trong giai đoạn khai sinh cho tới thời Xuân Thu Chiến Quốc chỉ nằm quanh quẩn các nước ở phiá Bắc sông Dương Tử và phiá Nam sông Hoàng Hà - đặc biệt các vùng tập trung dân cư như Lạc Dương, Trường An, Tây An, An Dương đều nằm ở lưu vực của sông Hoàng Hà. Bình minh của văn minh Trung Quốc cũng ló dạng nơi khu vực đó. Và sáu nước Tần Thuỷ Hoàng đã xoá khỏi bản đồ rồi thống nhất Trung Quốc, mang tên Hàn, Triệu, Ngụy, Sở, Tề, và Yên cũng chỉ nằm ở phiá bắc sông Dương Tử mà thôi.

    Ở phiá Nam sông Dương Tử là một nhóm các bộ lạc có chủng tộc thuở khai thiên lập địa cho đến thời nhà Tần nhà Hán hơi khác với chủng tộc Tàu gốc phía Bắc sông Dương Tử. Người Trung Quốc thời xưa gọi nhóm người này Nam Man tức người còn man rợ ở phiá Nam nước Tàu hồi xưa, tức phiá Nam sông Dương Tử. Họ cũng gọi hàng trăm nhóm người này là Bách Việt tức một trăm thứ tộc Việt không phải Hán thuần tuý. Lý do dễ hiểu khi người Hán tộc gốc gọi các tộc Việt ở phiá nam sông Dương Tử Nam Man, chỉ vì thuở đó người Tàu phía Bắc sông Dương Tử đã thiết lập được xã hội văn minh với hàng trăm nhà khoa học và tư tưởng gia, đếm không hết: Lão Tử, Trang Tử, Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử, v.v., nhà quân sự và "quân sư" - tức Cố vấn An ninh Quốc gia theo kiểu gọi bây giờ - như Tôn Tử, Trương Lương, Tô Tần, Trương Nghi, v.v. - trong khi ở phía Nam tuyệt nhiên không có nghe động đậy gì hết về những đóng góp thiết yếu kể trên cho một xã hội văn minh tiến bộ, không nghe đến một nhà tư tưởng nào hết, ngoại trừ "nổi tiếng" về nghề đánh cá canh nông và đàn ông ưa có tục xâm mình. Trong các nước Việt cổ này đáng kể nhất phải kể đến: nước Việt của Việt Vương Câu Tiễn nằm ở ven biển khu vực thành phố Nam Kinh và Thượng Hải ngày nay ở ngay phía Nam sông Dương Tử; nước Mân Việt tức khu vực tỉnh Phúc Kiến, ở phía nam của nước Việt của Câu Tiễn và Tây Thi, nước Tây Việt thuộc vùng Quảng Tây ngày nay, nước Đông Việt thuộc Quảng Đông ngày nay, Nam Việt xích xuống một chút, trước thời Triệu Đà chiếm nước Âu Lạc, bao gồm khu vực bình nguyên của sông Tây Giang ở tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây ngày nay.

    Lân cận về phía Bắc nước Việt của Câu Tiễn là nước Ngô. Chuyện tranh chấp giữa nước Việt và nước Ngô là một chuyện dài như chuyện Hoa Sơn luận kiếm. Vào cuối thời Xuân Thu, vua nước Ngô là Hạp Lư dùng Ngũ Tử Tư, một tướng di dân từ Sở qua, đánh bại nước Sở, nhưng sau đánh với nước Việt bị thương rồi chết. Con cháu của Hạp Lư là Ngô Phù Sai trả thù cho Hạp Lư đánh nước Việt và bắt được Câu Tiễn đem về cầm tù, bắt coi ngựa trên dưới 10 năm. Câu Tiễn có tướng giỏi Phạm Lãi giúp bày mưu đem cống hiến mỹ nhân Tây Thi cho Phù Sai để Phù Sai xao lãng việc nước. Câu Tiễn chịu nhục nếm phân Phù Sai lúc Phù Sai bị bệnh nên được thả về và sau đó chiêu mộ binh hùng tướng mạnh đánh tiêu nước Ngô tạo nên uy thế vang lừng vào thế kỷ thứ 5 trước Công Nguyên. Phạm Lãi, có lẽ nhìn bài học Hàn Tín và Trương Lương *, sau đó rút lui về ở ẩn. Có giả thuyết nói họ Phạm khi rút lui đã cỡi ngựa với người đẹp Tây Thi đi về phía mặt trời lặn, theo kiểu phim cao-bồi Western của Hollywood (!), giống như sau này, trong truyện của Kim Dung, Trương Vô Kỵ đã giả từ vũ khí, lẳng lặng từ chức giáo chủ Minh giáo để trở về với nếp sống một phó thường dân ngày ngày lo chải tóc cho Triệu Minh.

    Việt Vương Câu Tiễn thừa thắng xông lên đánh tiếp về phương Bắc và hùng cứ một cõi bờ rộng lớn bên cửa sông Dương Tử chảy ra biển Hoàng Hải của Thái Bình Dương. Ở phiá Tây nước Việt là nước Sở lúc đó cũng rất hùng cường nhưng hơi thô bạo dã man. Thừa cơ nước Việt mỗi ngày một suy yếu sau khi Câu Tiễn qua đời nước Sở đem quân sang dứt điểm nước Việt vào năm 334 trước Công Nguyên (TCN) rồi thôn tính luôn nước Lỗ của Khổng Tử vào năm 249 TCN. Sau cùng nước Tần thôn tính luôn nước Sở (năm 221 T.C.N.) cùng với các nước khác ở miền Bắc sông Dương Tử và thống nhất được nước Tàu. Một số dân chúng nước Việt sau khi bị Sở thô bạo qua chiếm đóng chịu không nổi mới di tản về phía Bắc sông Dương Tử dọc theo bờ biển, và về phiá Nam, định cư lại ở vùng Mân Việt tức tỉnh Phúc Kiến ngày nay. Mân Việt tồn tại sau đó không lâu và chính thức bị nhà Hán (tiếp nối nhà Tần) sát nhập và thôn tính vào một nước Tàu mở rộng, năm 110 TCN. Có thể nói nước Tàu dưới thời nhà Hán đã hoàn toàn xâm chiếm các nước thuộc bộ tộc Việt ở phiá Nam sông Dương Tử cũng vào khoảng năm đó khi tướng Hán, Lộ Bác Đức đánh bại tướng Lữ Gia của nước Nam Việt do Triệu Đà sáng lập khi Triệu Đà dứt điểm Thục Phán (câu chuyện truyền kỳ Trọng Thủy Mị Châu) và sát nhập nước Âu Lạc của Thục Phán với phần miền Nam của Quảng Đông và Quảng Tây ngày nay.

    Một điểm đáng chú ý trong sự đồng hoá các nhóm "Nam man" ở phía nam sông Dương Tử bởi Hán tộc trong suốt 2000 năm qua nằm ở chung quanh vấn đề danh xưng, tên gọi một hai bộ tộc lớn của các nhóm Bách Việt này. Nếu độc giả có dịp sang Tàu ngay ở thời bây giờ, vào một tiệm ăn ở miệt Thượng Hải hay Bắc Kinh, và hỏi hay nhờ người hướng dẫn du lịch hỏi chủ tiệm bằng tiếng quan thoại, ở tiệm có thức ăn Việt (Việt thái, yuế tsái) hay không. Khi chủ tiệm trả lời có hoặc không, chủ tiệm có ý muốn nói Việt-thái đó là thức ăn Quảng Đông! Tương tự khi người Tàu nói Yue ju (Việt kịch) họ muốn chỉ ca kịch cổ truyền kiểu Quảng Đông so với Jing ju (Kinh kịch) để chỉ kịch nghệ Bắc kinh. Thậm chí đôi khi người Hoa lục dùng Việt ngữ (yuế yu) để chỉ tiếng Quảng Đông. Từ Việt trong tên Việt Nam (Yuế nản) cũng phát âm y hệt Yuế như Yuế (Việt) dùng để chỉ tỉnh Quảng Đông.

    * Chỗ này sai, vì Phạm Lãi sống ở thời Xuân Thu, trước Trương Lương và Hàn Tín, nên không thể nhìn tấm gương của hai người kia được.

    Tuy nhiên chữ "Nho" để chỉ Việt trong Việt Nam có nghĩa Vượt qua, quá độ (như trong "siêu việt), bao gồm bộ "tẩu" có nghĩa dông, chạy, đi, "di tản, kẹp với một từ "qua" với nghĩa cái giáo mác, hay cây thương, hoặc cái xiên dùng để đánh trận ngày xưa hay để săn thú đâm cá, và một cái móc nho nhỏ ở giữa! Đó là Việt (vượt) trong Việt Nam. Ý nghĩa tượng hình của từ "Việt" do đó chỉ một giống người chuyên môn vượt đồng vượt núi (hay vượt biên để di tản) và sống bằng nghề chăn thú đánh cá. Việt để chỉ tỉnh Quảng Đông gồm 2 phần, phần trên có dạng giống như lá cờ Anh Quốc với bốn gạch chéo, tức từ Mễ có nghĩa Hột Gạo (!) và phần dưới gồm một cái móc có hình dạng giống như lưỡi rìu, lưỡi cày, chỉ loại người Việt chuyên làm ruộng để sinh sống. Từ Việt (Yuế) trong nước Việt của Việt Vương Câu Tiễn cũng như Việt trong Mân Việt (Mĩn Yuế) ở tỉnh Phúc Kiến cũng đều được viết y như Việt của Việt Nam (Yue Nan). Chỉ có Việt của Quảng Đông khác với 2 thứ Việt ở hai phía bắc và nam của Quảng Đông. Việt kiểu Quảng Đông viết khác đi với 2 thứ Việt có lẽ bắt nguồn từ cái nhìn rất chủ quan của người Tàu thời cổ đại. Đó là họ biết rằng người Việt của Câu Tiễn ở phía mạn trên sinh sống bằng nghề săn thú và đánh cá - còn người Việt ở mạn Quảng Đông (trừ Việt Nam) sinh sống chính bằng canh nông và làm ruộng(!). Họ loại trừ Việt Nam ra khỏi từ Yuế có cái móc lưỡi rìu (của Quảng Đông) mà lại gán Việt Nam vào nhóm từ Yuế có cái giáo cây thương (của Việt loại Câu Tiễn) tức họ đã không hiểu hay đã vì mặc cảm tự tôn cố tình không hiểu, như khoa sử học và khảo cổ học hiện đại đã tìm ra, rằng nước Văn Lang của Hùng Vương, tức nền văn minh Đông Sơn ở miền Bắc nước Việt Nam hiện nay có thể đã biết làm ruộng trồng lúa nước trước người Hán tộc ở Trung Quốc khá lâu (về điểm người Văn Lang biết làm ruộng trước người Hán, xin xem "The Birth of Vietnam - Buổi chào đời của nước Việt Nam" của Keith Weller Taylor do nhà University of California Press xuất bản, 1983). Lý do thứ hai khả dĩ dùng để giải thích việc dùng từ Việt có cái rìu để chặn nút Việt Nam ra khỏi nước Tàu có thể được giải thích qua việc nhà Hán tức bực và cay cú về vụ Triệu Đà xưng đế ở Nam Việt ngang hàng với Hán Đế ở Bắc phương. Hay vào thời nhà Lý nước Nam có tướng Lý Thường Kiệt bình Chiêm phạt Tống lăm le đòi Tàu trả lại nước Nam lưỡng Quảng mà nhà Lý cho rằng Tàu đã" chôm" của nước Nam Việt ngày xưa. Sau này vào thời Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ cũng vậy, nhưng rủi đang tính đòi lại Lưỡng Quảng thì Quang Trung bị bịnh qua đời. Đến đời nhà Nguyễn, theo rất nhiều sử sách, phái đoàn đại diện triều Nguyễn do Binh Bộ Thượng Thư Lê Quang Định dẫn đầu sang Tàu (nhà Mãn Thanh) vào năm 1803 xin xỏ nhà Thanh được đổi lại quốc hiệu Nam Việt thay cho tên nước Đại Việt đã được Lê Lợi đặt ra sau khi đánh đuổi nhà Minh ra khỏi xứ Nam (năm 1428), Thanh triều từ chối tên Nam Việt - chắc còn nhớ mối loạn Triệu Đà ngót hai ngàn năm trước - và chỉ thuận với tên Việt Nam. Năm sinh của quốc hiệu Việt Nam chính là năm 1803.

    Bây giờ xin trở lại với Kim Dung và xin đặt hai câu hỏi mấu chốt:

    Thứ nhất, với lý do thầm kín gì Kim Dung lại chọn Việt Nữ Kiếm làm tên quyển truyện kiếm hiếp cuối cùng của mình?

    Thứ hai, Nếu Việt trong Việt Nữ Kiếm có nhiều cơ sở luận lý, những liên chỉ đến thứ Việt khác như Việt Nam trong vài truyện hay nhất của Kim Dung - mặc dù hơi bàng bạc như một sợi chỉ nhỏ, như Trần Hữu Lượng, Nguyễn Tinh Châu, nước Đại Lý - đã mang một thông điệp hay một tâm sự nho nhỏ gì của Kim Dung?

    Trả lời câu hỏi thứ nhất, ta thử xem Kim Dung thật sự sinh trưởng ở đâu? Kim Dung tên thật là Tra Lương Dung, sinh tại thành phố Hải Ninh thuộc tỉnh Chiết Giang (hay Triết Giang). Chiết Giang nằm ở phía Nam sông Dương Tử bao gồm những thành phố lớn như Hàng Châu, Tô Châu và Thượng Hải (trong khi Nam Kinh thuộc tỉnh An Huy lân cận với Chiết Giang). Chiết Giang đích thị tương đương với phạm trù địa bàn nước Việt của Việt Vương Câu Tiễn cách đây hơn hai ngàn năm. Ta để ý kết cuộc của Ỷ Thiên Đồ Long ký với Trương Vô Kỵ từ bỏ chức vụ "tổng tư lệnh" của quân kháng chiến chống Mông Cổ thuộc cánh Ma giáo để vui cảnh sống ẩn dật với Triệu Minh cũng giống y hệt như việc từ giả vinh hoa phú quý của tướng Phạm Lãi, giả từ Việt Vương Câu Tiễn ở cuối thời Chiến Quốc tại nước Việt, tức tỉnh Chiết Giang bây giờ của Kim Dung. Vậy có vẻ rất rõ Kim Dung muốn bày tỏ cội nguồn của mình (hậu duệ của Câu Tiễn hay của Phạm Lãi!), một người Hán có gốc Việt hùng cường của nước Việt Câu Tiễn trong quyển truyện cuối cùng Việt Nữ Kiếm. Từ khám phá này ta có thể dựng lên vô số các giả thiết về tâm sự Việt tính của Kim Dung trong một số tiểu thuyết nổi danh nhất của ông. Có thêm hai điểm nổi bật cần phải để ý khi lập dựng các giả thiết chung quanh tâm sự mang chất Việt của Kim Dung. Thứ nhất, nhân vật Mộ Dung Công Tử trong Thiên Long Bát Bộ. Mộ Dung Công Tử tức Mộ Dung Phục có tổ tiên người hoàng tộc nước Tiên Ty (tức Đại Yên). Trong truyện, Kim Dung cho Mộ Dung Phục mang giấc mơ hão huyền phục quốc lại nước Tiên Ty (để trở về đó "làm vua"). Tìm đủ mọi cách để chiêu mộ binh sĩ không xong Mộ Dung Phục mới nghĩ đến chuyện lấy cho được một nàng công chuá nước nọ để anh trở thành phò mã rồi lợi dụng binh lính sẵn có của nhà vợ đem về bắc khôi phục lại nước Tiên Ty. Giấc mơ đó trở thành mây khói khi công chuá không chọn Mộ Dung Phục mà lại chọn ông thầy tu Thiếu Lâm đã cởi áo cà sa tên Hư Trúc người nước Tây Hạ, anh em kết nghĩa với Đoàn Dự và Tiêu Phong. Phục quốc không được Mộ Dung công tử đâm ra khùng khùng điên điên vào lúc kết cục pho truyện Thiên Long Bát Bộ. Vậy điểm thứ nhất có thể suy diễn cho vui vui, Kim Dung xác nhận ông không bao giờ có giấc mơ thấy chuyện hão huyền phục quốc nước Việt của Câu Tiễn ở cái thời xa xưa. Nhất là phục quốc để mình về đó làm vua!. Thứ hai, nhân vật Nguyễn Tinh Châu tức A Châu. A Châu xuất thân từ vùng Giang Nam, dĩ nhiên dưới mắt Kim Dung tất cả đều đã trở thành Hán tộc, đã thốt lên một câu nhân vụ giới giang hồ bắt đầu kỳ thị và "bề hội đồng" Tiêu Phong, sau khi khám phá ra Tiêu Phong mang dòng máu Khất Đan, đại khái rằng: "Làm người Trung Quốc chưa chắc đã là tốt và làm người Khất Đan chưa chắc đã là xấu". Điểm thứ hai do đó có thể liên chỉ đến niềm hãnh diện sâu xa của các sắc tộc xa xưa của miền Hoa Nam sau vài thế kỷ đã trở thành Hán tộc. Một niềm tự hào của người Hán tộc thật sự không kể đến gốc gác.

    Kim Dung có tâm sự gì nữa không khi ông liên tiếp cho vào các tiểu thuyết nổi danh nhất của ông những nhân vật và bối cảnh liên hệ gần gũi với nước Việt Nam? Nói cách khác trong đầu của Kim Dung có những hiểu biết gì về liên hệ dân tộc của người Việt Nam với người Việt Câu Tiễn? Câu trả lời giản đơn là CÓ. Đó là sự hiểu biết truyền tụng qua ngàn đời trong sách vở và dân gian ở Trung Quốc rằng dân Việt Nam đã là 1 trong các nhóm Việt tộc ở phiá nam sông Dương Tử và sau này trước khi bị nhà Hán đô hộ đã đón nhận và cho "thẻ xanh" vô số dân "tị nạn" kéo nhau xuống định cư từ nước Việt Câu Tiễn hoặc nước Mân Việt (Có lẽ bởi vậy người Tàu cổ đại đã dùng từ Việt có cây giáo dùng để chỉ chung cho người Việt Nam, người Việt Câu Tiễn và người Mân Việt?).

    Một trong những học giả nổi tiếng về sử học và nhân chủng học Việt Nam vào "thời tiền chiến" Leonard Aurousseau, dựa trên sách vở của mấy sử gia Tàu từ thời cổ đại, đưa ra giả thuyết rằng giai cấp lãnh đạo của nước Việt Câu Tiễn sau khi bị quân nước Sở xâm chiếm vào năm 333 TCN đã di tản sang các miền lân cận như Mân Việt rồi chạy tuốt xuống miền Bắc đất Việt Nam ngày nay. Taylor gọi giả thuyết này một giả thuyết chết yểu bởi có rất nhiều chống đối chỉ trích kịch liệt từ những học giả khác như Maspero và Madrolle. Madrolle gạt bỏ thuyết này và cho rằng thuyết này không để ý đến đoạn đường dài đầy chông gai hiểm trở từ nước Việt- Câu Tiễn đến Văn Lang trong khoảng cuối thời đại Hùng Vương, nếu không kể đến việc gặp sự chống đối của dân địa phương của nước Mân Việt, hay nhiều sắc tộc khác trên đường di tản "chiến lược" đó. Madrolle sau đó ấm ức tung ra lý thuyết của riêng mình cho rằng có lẽ người Lạc Việt cổ xuất phát từ Phúc Kiến và đến xứ Văn Lang bằng đường biển như là những thuyền nhân đầu tiên! Theo Taylor, Madrolle đã dựa vào một số cơ sở mơ hồ, và so sánh họ của một số bộ tộc ở Mân Việt (Phúc Kiến) với họ của người Việt cổ ở Lạc Việt để đi đến giả thuyết này. Tuy nhiên Taylor lại đưa ra một dẫn chứng lịch sử khác cho rằng một đám người thuộc giai cấp lãnh đạo của một nước vừa bị thôn tính đang trên đường đào tẩu có thể đến một nước khác "làm cha" người ta như thường và sau đó đổi tên nước mới di cư đến thành tên nước cũ của mình! Taylor viện dẫn thí dụ dân Croats gốc Iran và dân Serbs đã sang cai trị giống người Slavic ở bán đảo Balkan (khu Hy Lạp) vào thế kỷ thứ 7. Từ dẫn chứng thí dụ này Taylor trở lại cho rằng không thể hoàn toàn bác bỏ thuyết của Aurousseau!

    Sợi chỉ nối liên hệ Việt của Câu Tiễn với Việt ở Việt Nam nếu có trong tiểu thuyết Kim Dung chắc chắn dựa phần lớn vào thuyết của Aurousseau và chính nó lại dựa vào sử sách của người Trung Hoa. Theo thiển ý ta có thể trả lại giả thuyết của Aurousseau cho lớp bụi của dòng thời gian che lấp, và tạm chối bỏ những lý thuyết cho rằng người Lạc Việt thời Hùng Vương có gốc là người Việt Câu Tiễn, người Sở (ở miền Động Đình Hồ, và phía trên), người Mân Việt (Phúc Kiến) - khi những sắc dân này đã "di tản chiến lược" sang miền nước Văn Lang rồi lập ra nước đó, khi bóng tối hãy còn bao trùm khoa sử học - bởi những lý do sau đây:

    + Lý do thứ nhất: Những gì xảy ra ở nước Ngô, nước Việt-Câu Tiễn, nước Sở vào cuối thời Chiến Quốc bên Tàu hoàn toàn vắng bóng trong kho tàng truyện cổ tích, thần thoại và truyền thuyết của dân gian bên nước Văn Lang hay Âu Lạc hoặc Nam Việt! Thử hỏi nếu Việt Nam có liên hệ chút đỉnh gì với Việt-Câu Tiễn thì với một nước sản xuất một mỹ nhân như Tây Thi đã làm "nghiêng thành đổ nước" cho nước Ngô, chắc chắn tiền nhân Việt Nam sẽ hãnh diện thuộc nằm lòng chuyện đó rồi truyền tụng cho con cháu từ đời này sang đời khác. Nước Văn Lang hay Âu Lạc nếu có nhận những người di tản như con cháu cuả Câu Tiễn hay Phạm Lãi rồi cho họ "thẻ xanh" thường trú sẽ rất lấy làm hãnh diện và chắc không bao giờ quên nhét nó vào kho tàng các truyện truyền kỳ của dân tộc mình. Truyền tích đầu tiên của dân Việt, chuyện bà Âu Cơ lấy Lạc Long Quân đẻ con trăm trứng, cũng có chút cơ sở qua việc Thục Phán thống nhất hai nước Âu Việt và Lạc Việt rồi đặt tên Âu Lạc vào cuối thế kỷ 3 TCN. Những truyền tích quan trọng sau đó như Phù Đổng Thiên Vương tức Thánh Gióng, lớn lên như thổi chống giặc bắc phương, Trọng Thủy Mỵ Châu - với chiếc nỏ thần một bí mật quân sự của Thục Phán bị Triệu Đà ăn cắp được nhờ con Trọng Thủy dụ được vợ Mỵ Châu (con Thục Phán) trao cho, đều có thể xác nhận với những chứng tích lịch sử ở ngay tại điạ bàn nước Văn Lang xưa hay Bắc Bộ ngày nay. Có hai điểm cần lưu ý. Điểm thứ nhất nước Việt của Câu Tiễn bị quân nước Sở xâm chiếm vào năm 333 TCN tức là trước thời Thục Phán sát nhập nước Âu với nước Lạc (năm 208 TCN) trên 100 năm. Nếu dân Việt Câu Tiễn có di tản xuống Văn Lang thì họ phải di tản trong thế hệ 100 năm đó. Và chắc chắn sẽ có thêm cổ tích Tây Thi do dân "Việt mới" đem sang, nằm ở phía trước truyện Trọng Thủy Mỵ Châu! Điểm thứ hai, theo nhiều học giả truyện Thánh Gióng có thể tìm thấy trong các cộng đồng dân tộc ở miền thượng du Bắc bộ, như người Mường, và ngay cả tại đảo Java thuộc nước In-Đô (Nam Dương) ngày nay! Người ta cũng đã tìm thấy một truyện rất giống chuyện Sơn Tinh Thủy Tinh dâng nước dâng núi, ở một dân tộc tại phía bắc Borneo cũng ở In-Đô. Chuyện Nhất Dạ Trạch cũng tìm thấy bản sao ở tận nước Phù Nam ngày xưa nằm ở Nam Bộ Việt Nam hiện nay (xem Taylor). Ngược lại không học giả nào tìm thấy truyền thuyết Tây Thi và Phạm Lãi hay giống giống một chút, từ phía nam khu Quảng Đông, Quảng Tây kéo sang Văn Lang rồi xuống tận các đảo phía Nam.

    + Lý do thứ hai: Các đền thờ hay di tích lịch sử như đền thờ An Dương Vương Thục Phán, đền thờ Thánh Gióng, thành Cổ Loa của Thục Phán đều nằm trọn trong địa phận Việt Nam. Ở núi Mộ Dạ tỉnh Nghệ An có đền thờ An Dương Vương. Đền thờ thánh Gióng có ở làng Phù Đổng tỉnh Bắc ninh. Thành Cổ Loa nằm ở huyện Đông Anh tỉnh Phúc Yên. Và tuyệt nhiên không có di tích lịch sử cổ nào của Văn Lang hay Âu Lạc nằm ở nước Sở tận miệt Động Đình Hồ hay bên tỉnh Chiết Giang của Kim Dung tức nước Việt cũ của Câu Tiễn hết. Ngay như tại thành phố Quảng Châu ngày nay, tức thành Phiên Ngung kinh đô nước Nam Việt ngày xưa, còn có đền thờ Triệu Đà chứ không có cái nào để tưởng niệm Câu Tiễn cả.

    + Lý do thứ ba: Có ít nhất hai lần trong lịch sử Việt Nam về sau, những nhà lãnh đạo phía Việt Nam đánh được quân Bắc phương lại thừa thắng xông lên đòi hỏi triều đình Trung Hoa phải trả lại hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây họ cho là Trung Hoa đã "chôm" từ nước Nam Việt do Triệu Đà sáng lập sau khi đánh thắng Thục Phán. Đó là Lý Thường Kiệt thời nhà Lý đối chọi với nhà Tống và Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đánh quân nhà Mãn Thanh. Điểm rõ ràng, hai nhà quân sự lỗi lạc này chỉ đòi đất tới Quảng Đông Quảng Tây và không hề có tham vọng quá trớn đòi tới Động Đình Hồ hay sát bên phía nam sông Dương Tử như nước Việt cũ của Câu Tiễn, bởi hơn ai hết họ biết rõ ranh giới phía bắc của địa bàn dân Âu Lạc hay Nam Việt chỉ đến khoảng phía nam của Lưỡng Quảng mà thôi.

    + Lý do thứ tư: Tổ chức và cơ cấu chính trị của nước Văn Lang hay Âu Lạc hoặc Nam Việt vẫn không thay đổi cho đến hết đời nhà Triệu khi quân Hán đem quân xâm chiếm Nam Việt vào năm 111 trước Công Nguyên. Chế độ chính trị thời Hùng Vương vẫn là một vấn đề từng được bàn cãi sôi nổi giữa các sử gia nghiên cứu về Việt Nam. Nhìn sơ đó là một chế độ gồm Lạc Vương (tức Hùng Vương) với sự phụ tá của các Lạc Hầu, Lạc Tướng và phương tiện kinh tế sinh sống là Lạc điền (ruộng) và Lạc dân. Nhiều sử gia gọi đó là nền quân chủ thế tập hay quân chủ quân sự. Xã hội đã ra khỏi thời kỳ thị tộc tức tập hợp những người cùng trong họ trong gia đình lớn với nhau, và đang ở thời kỳ bộ tộc. Khi Thục Phán dứt điểm Hùng Vương thành lập nước Âu Lạc vào khoảng cuối thế kỷ thứ 3 trước Công Nguyên, sách sử chép rõ, Thục Phán vẫn giữ vững hệ thống Lạc Hầu Lạc Tướng của nước Văn Lang cũ. Đến thời Triệu Đà dứt điểm Thục Phán nhờ chiếm được chiếc nỏ thần lập ra nước Nam Việt lớn hơn, Triệu Đà tiếp tục giao cho các "đại biểu" của mình cai trị Giao Chỉ và Cửu Chân (tức Bắc bộ và bắc Trung bộ ngày nay, hay nước Văn Lang cũ) theo kiểu Lạc hầu Lạc tướng như xưa - còn Triệu Đà ngồi ở "trung ương" là thành Phiên Ngung lo cai trị phần Nam Việt bên Lưỡng Quảng. Trong thời Xuân thu Chiến quốc ở phiá bắc sông Dương Tử, vài trăm năm trước Công Nguyên, thể chế chính trị của Tàu hay các nước như Sở, Ngô, Việt đã là chế độ quân chủ phong kiến (phong điền kiến địa, cho ruộng cấp đất (7)). Ta thấy Ngô Phù Sai đã có cả một triều đình và các cung tần mỹ nữ bao chung quanh (trong khi ta không hề nghe đến vụ này đối với Hùng Vương). Các nước lớn mạnh đều có các nước nhỏ chư hầu bắt nguồn từ việc phong điền kiến địa của kiểu quân chủ đó. Do đó ta xác định rằng tất cả những người thuộc giai cấp lãnh đạo, hay ngay cả thứ dân có hiểu biết, của nước Việt Câu Tiễn, hay Sở, đều đã thấm nhuần lề lối tổ chức chính trị của quân chủ phong kiến. Ta cũng biết rõ rằng, người di tản sang một quốc gia mới thường mang theo cả thói xấu và tính hay của xã hội cũ của mình. Như vậy nếu mấy người Việt từ Sở, hay Việt-Câu Tiễn, hay ngay cả Mân Việt sang Văn Lang hay Âu Lạc trước thời Triệu Đà, và đi với số đông hay đến với giai cấp lãnh đạo tàn quân, chắc chắn họ sẽ "quậy" cái nước Văn Lang và biến nó sang chế độ quân chủ phong kiến từ khuya rồi. Sau đó khi Triệu Đà chiếm Âu Lạc Triệu Đà chỉ việc áp dụng nền quân chủ phong kiến cho nước Nam Việt (VIỆT, tiếng Hoa gọi là Yuế, Mường gọi Yịt, tiếng Việt thế kỷ 17 chắc hẳn là Yiệt) suốt từ nam chí bắc! Thực tế cho thấy Triệu Đà vẫn tiếp tục giữ thể chế Lạc Hầu - Lạc Tướng của thời Hùng Vương như xưa.

    + Lý do thứ năm: Ở xã hội Văn Lang địa vị người phụ nữ rất cao, có khi còn cao hơn ở thời đại thế kỷ 21 này, và chắc chắn cao hơn địa vị người phụ nữ ở nước Việt của Câu Tiễn! Văn Lang lúc đó là một xã hội vừa từ chế độ mẫu hệ bước sang phụ hệ. Nước Nam là nước sản xuất đầu tiên trên thế giới các nhà lãnh đạo chính trị quân sự thuộc phái nữ, như hai bà Trưng Trắc, Trưng Nhị, bà Triệu Thị Trinh (mà người Hán gọi xỏ lá là bà Triệu Ẩu tức mụ Triệu) trước Võ Tắc Thiên bên Tàu cả mấy trăm năm! Trong thời đại Hùng Vương, tại nước Việt-Câu Tiễn đã có cái màn dùng mỹ nhân kế đưa Tây Thi sang cống hiến Ngô Phù Sai để làm suy giảm tiềm năng "quân sự" của Phù Sai và nước Ngô. Nếu người Việt từ phương bắc đã di dân sang và giúp hay lập ra nước Văn Lang, chắc chắn họ nhanh chóng truyền lại đòn mỹ nhân kế này vào xã hội Văn Lang hay Âu Lạc từ lâu. Phải nói dân Văn Lang, Âu Lạc, Nam Việt, hay Giao Chỉ có vẻ vẫn chưa thấm nhuần việc áp dụng loại "độc chưởng" này của Bắc phương trong suốt ngàn năm đô hộ. Và mãi cho đến đời nhà Trần sau khi chống trả sức ép của quân Mông Cổ, vua Trần Anh Tông mới bắt đầu áp dụng thứ độc chưởng mà người Việt (đọc theo kiểu cổ: Bdiệt, như người Nhật bây giờ hãy còn gọi Vietnam là Beto-namu) đã học được ở người Hán tộc qua việc gả Huyền Trân Công Chúa cho vua Chăm là Chế Mân để bắt đầu mở mang bờ cõi nước Nam.

    Thay lời kết:
    Những ai có đọc "Thử đọc lại Kim Dung I hẳn sẽ để ý ở cuối bài người viết có ghi "Đón đọc: Thử Đọc lại Kim Dung II". Ghi chú đó dùng để ràng buộc người viết phải chịu khó ngồi xuống viết nên bài này. Nguồn cảm hứng viết phần 1 là một bực bội lâu năm được giải toả - qua thuyết Ngũ hành và khám phá Cây đao Đồ Long màu đen chỉ mạng Thủy là mạng Chu Chỉ Nhược khắc chế được mạng Hoả của Trương Vô Kỵ. Cảm hứng viết phần 2 này bắt nguồn từ việc biết được quê hương của Kim Dung là tỉnh Chiết Giang có phạm trù rất gần giống với nước Việt của Việt Vương Câu Tiễn và nàng Tây Thi năm xưa.

    Chắc chắn sẽ không có "Thử đọc lại Kim Dung III"!!!

    Nguồn: http://truyen.haohanca.com


              
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5388
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: Thử Đọc Lại Kim Dung

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           


    Thử đọc lại Kim Dung (Phần III)

    Tác giả: Nguyên Nguyên


    Sau khi viết xong "Thử Đọc lại Kim Dung II: Nguồn Việt và Kim Dung", người viết cảm thấy nhàm nên định gác bút, hay ít ra cũng tạm giả từ đề tài về truyện chưởng với Kim Dung. Nhiều bạn hữu - đa số trên 30 năm không gặp lại nhau - vội biên điện thư email đến tại hạ khuyến khích viết thêm về Kim Dung. Một ông bạn ở Montréal (Canada) đã gởi tặng lược đồ về Ngũ hành, kèm trong bài này, và nhắn nhủ trong thư nếu viết về Kim Dung có viết đến hằng chục bài cũng không hết, nhất là những đề tài liên quan đến tình yêu, đến nhân sinh quan, đến những tình tiết éo le, v.v. dại gì mà ngưng viết. Cứ viết tiếp đi, ít ra ngoài người kiểm duyệt trong nhà còn có 1 độc giả trung thành là ông bạn đó. Sự thật, thuở tuổi học trò tại hạ chỉ được đọc vài truyện chính yếu và nòng cốt của Kim Dung thôi. Tuyệt đối ngày trước chưa có cơ hội đọc Tuyết Sơn Phi Hồ, Tiếu Ngạo Giang Hồ và Lộc Đỉnh Ký. Tiếu Ngạo Giang Hồ ấn bản do Hàn Giang Nhạn dịch thuật, được dịp đọc lần đầu tiên cách đây chừng 5 năm, rồi sau đó xem luôn phim tập HongKong. Riêng Lộc Đỉnh Ký, mặc dù nghe giới giang hồ đồn rằng rất hay và được biết truyện hiện được đăng trên một vài mạng ở internet như come.to/kimdung hoặc come.to/lunxit nhưng tại hạ không đủ sức bỏ giờ này qua giờ kia để ngồi đọc truyện này trên khung hình computer, nên đành phải hẹn lần hẹn hồi. Âu đó cũng là một cái hẹn cho một dịp nào đó của tương lai.

    Bẵng đi cũng gần 12 tháng. Gần đây một người bà con ở Việt Nam gởi người thân đem sang một bộ truyện Tiếu Ngạo Giang Hồ ấn bản mới nhất do Vũ Đức Sao Biển, Trần Hải Linh và Lê Thị Anh Đào chuyển ngữ, nhà xuất bản Văn Học, trọn bộ 8 quyển, phát hành vào năm 2001. Ấn bản mới này có sự đồng tình cho phép đàng hoàng của Kim Dung (tức Louis Cha hay Tra Lương Dung), và dựa vào bản nhuận sắc sau này của Kim Dung với nhiều sửa chữa và thay đổi. Theo lời người bà con đó qua điện thư, Sàigòn lại đang trải qua cơn ghiền Kim Dung như 35 năm về trước và nhắn với tại hạ nên nhín chút ít thì giờ đọc qua cho biết.

    Điểm đáng để ý trước tiên, trong vòng mười, hai mươi năm trở lại đây, một loạt các dịch giả mới bắt đầu xuất hiện trên chốn giang hồ. Đa số các cao thủ dịch thuật này, thường xuất thân từ các trường đại học Văn Khoa ban Hán Văn, mang chủ yếu rõ rệt xử dụng lối hành văn mới mẻ với nhiều tính chất Việt ngữ hơn. Một số kế nghiệp các bậc tiền bối như Nguyễn Chánh Sắt, Tô Chẩn, v.v. thay phiên nhau dịch lại các pho truyện cổ điển như Hồng Lâu Mộng, Tam Quốc Chí, Thủy Hử, v.v. và một số khác theo chân những cao thủ năm xưa như Từ Khánh Phụng, Hàn Giang Nhạn, chuyển ngữ lại các truyện chưởng của Kim Dung. Trên các mạng internet và các báo ở hải ngoại có Nguyễn Duy Chính hiện đã chuyển ngữ Ỷ thiên Đồ long ký, Thiên Long Bát Bộ, v.v. và tại Việt Nam đứng đầu phải kể đến Vũ Đức Sao Biển người đã hết sức ca tụng Kim Dung qua 3 quyển mang tựa " Kim Dung giữa đời tôi ", xuất bản vào những năm cuối thập kỷ 90 vừa qua. Thế rồi vô hình chung tại hạ bắt đầu đọc lại Tiếu Ngạo Giang Hồ ấn bản mới nhất do ê-kíp Vũ Đức Sao Biển chuyển ngữ. Và trong lúc đọc lại Kim Dung kỳ này, tình cờ lại khám phá thêm một vài bí-kíp ngồ ngộ hay hay của Kim Dung nên đành phải phá lệ cố gắng viết thêm bài này.

    Theo Vũ Đức Sao Biển, Tiếu Ngạo Giang Hồ là tác phẩm độc đáo nhất của Kim Dung bởi nó "lặng lẽ dắt người đọc đi vào cuộc hành trình tìm về những suối nguồn tư tưởng của phương Đông khi lên cao chín ngàn dặm, nương mây cỡi gió mà bay như Trang Tử đã viết trong Nam Hoa Kinh. Tiếu Ngạo Giang Hồ có cái u uẩn, trầm mặc đầy suy niệm của những ngôi chùa, những đạo quan, những rừng tùng bách, bóng trăng sáng trên Trường Giang, cơn mưa tuyết mùa Đông trên Ngọc Nữ phong. Xuyên suốt tác phẩm là tiếng đàn, tiếng sáo của khúc Tiếu Ngạo Giang Hồ, tiếng ca buồn của Mạc Đại tiên sinh trong khúc Tiêu Tương dạ vũ....

    ... Hai trong ba nguồn tư tưởng triết học lớn của phương Đông - Phật giáo và Lão giáo - đã được Kim Dung hình tượng hoá và cụ thể hoá qua những hình tượng văn học. Phương Chứng đại sư của chùa Thiếu Lâm là con người tiêu biểu của tư duy Thiền Tông Phật giáo. Với một căn bản võ công trác tuyệt, một cái tâm từ bi, nhà sư gần như đã góp phần hoá giải những hận thù, chia rẽ, sân si. Định Nhàn, Định Dật của phái Hằng Sơn là một dạng Phật giáo khác, một Phật giáo nhập thể và nhập thế....

    ... Nhưng điểm đặc sắc nhất vẫn là tư duy Lão-Trang qua đường Độc Cô cửu kiếm. Phong Thanh Dương đã dạy cho Lệnh Hồ Xung dĩ vô chiêu thắng hữu chiêu...."

    Tiếu Ngạo Giang Hồ (TNGH) là tên của một nhạc khúc viết cho đàn thất huyền cầm và sáo. Hai tác giả của bản nhạc khúc bất hủ này lại là hai cao thủ của hai kiếm phái đối nghịch với nhau: Lưu Chính Phong thuộc Ngũ Nhạc kiếm phái (một nghiệp đoàn liên minh năm kiếm phái: Hằng Sơn, Hoa Sơn, Tung Sơn, Thái Sơn và Hành Sơn) và Khúc Dương thuộc phe Ma Giáo. Việc kết giao bằng hữu giữa hai người bị cả hai phe lên án và cuối cùng Lưu và Khúc bị bức tử. Trước khi chết hai vị cao thủ này trân trọng gửi gấm quyển nhạc khúc này lại cho anh chàng lãng tử mê nhậu nhẹt Lệnh Hồ Xung, đệ tử thứ nhất của Nhạc Bất Quần chưởng môn phái Hoa Sơn. Truyện TNGH bắt đầu với việc Nhạc Bất Quần sai con gái mình Nhạc Linh San và đệ tử thứ hai Lao Đức Nặc đến miền Phúc Châu tỉnh Phúc Kiến để dò la tin tức của phái Thanh Thành do Dư Thương Hải lãnh đạo xuống đánh phá Phuớc Oai Tiêu Cục để chiếm quyển kiếm pháp độc nhất vô nhị mang tên Tịch Tà Kiếm Phổ. Phe Hoa Sơn đến trễ nên bọn Thanh Thành đã làm tiêu tan Phước Oai Tiêu Cục. Điểm kinh ngạc đầu tiên, Lâm Chấn Nam hậu bối của chủ nhân Tịch Tà kiếm phổ lại không thông thạo mấy về Tịch Tà kiếm nên ông và phu nhân bị thảm sát bởi phe Thanh Thành. Nhưng chưa phe nào lấy được Tịch Tà kiếm phổ bởi nó được dấu kín ở một ngôi nhà tự của họ Lâm ở Phúc Kiến. Trước khi chết Lâm Chấn Nam trối trăn với chàng lãng tử nghĩa hiệp Lệnh Hồ Xung về chỗ cất dấu quyển kiếm phổ đó và nhờ Lệnh Hồ Xung nói lại với con trai Lâm Bình Chi rằng nên lấy giữ quyển kiếm phổ đó nhưng đừng bao giờ luyện tập bởi nó rất nguy hiểm. Trước đó Lệnh Hồ Xung đã bị thương nặng sau khi liều thân đánh với một tên dâm tặc Điền Bá Quang để cứu ni cô Nghi Lâm thuộc kiếm phái Hằng Sơn. Nhạc Bất Quần (biệt hiệu Quân Tử Kiếm) gặp lại đệ tử Lệnh Hồ Xung rồi thu nhận Lâm Bình Chi làm đệ tử.

    Trở về núi Hoa Sơn, Nhạc Bất Quần bắt lỗi Lệnh Hồ Xung đã vi phạm một vài giới cấm của phái võ của mình - trong đó có việc dẫn ni cô Nghi Lâm vào động làng chơi ôm ấp nàng Nghi Lâm để trốn tránh Điền Bá Quang và các phe phái khác đang truy tầm - nên phạt chàng lên núi gần đó quay mặt vào vách thạch động để sám hối trong vòng 1 năm. Lệnh Hồ Xung tuân lệnh lên núi, và ngày ngày có Nhạc Linh San hoặc một đệ tử khác mang giỏ chứa đồ ăn đến cho. Lệnh Hồ Xung có cảm tình nồng thắm với Nhạc Linh San và ngược lại Linh San cũng thương Hồ Xung. Tuy nhiên Linh San có một đàn em mới thường tập kiếm với nhau là Lâm Bình Chi nên càng ngày càng ít mang đồ ăn lên cho Lệnh Hồ Xung. Ở trên núi Lệnh Hồ Xung tình cờ khám phá ra một thạch động hoang phế lâu năm trên vách có ghi khắc tất cả những loại kiếm pháp của năm kiếm phái thuộc hội đoàn Ngũ Nhạc, và những chiêu hoá giải. Bởi nơi đây đã từng chứng kiến một trận đấu sát phạt kinh hồn giữa các cao thủ của năm kiếm phái đó với những kiếm khách thuộc Ma Giáo. Cũng trong thời gian ở trên núi Lệnh Hồ Xung may mắn gặp được lão tiền bối Phong Thanh Dương tuyệt tích giang hồ đã nhiều năm. Phong Thanh Dương chính là sư thúc (vai chú) của Nhạc Bất Quần, thầy của Lệnh Hồ Xung. Năm xưa phái Hoa Sơn đã bị phân hoá do sự tranh chấp giữa hai phe Kiếm Tông và Khí Tông. Nhạc Bất Quần thuộc Khí tông và sư thúc Phong Thanh Dương thuộc Kiếm tông. Cảm mến Lệnh Hồ Xung, Phong Thanh Dương đem hết Độc Cô cửu kiếm ra truyền lại cho chàng. Độc Cô cửu kiếm là tác phẩm của người kiếm khách vô địch thời xa xưa không bao giờ bị bại, mang biệt danh Độc Cô Cầu Bại.

    Ở trên núi được vài tháng Lệnh Hồ Xung phải trở về giảng đường để hỗ trợ sư phụ Bất Quần do ở lệnh từ trung ương đòi cách chức chưởng môn Nhạc Bất Quần. Trung ương ở đây là chưởng môn phái Tung Sơn Tả Lãnh Thiền - "chủ tịch" của hội đoàn Ngũ Nhạc Kiếm Phái - một người có nhiều tham vọng triệt tiêu hết bốn phe kiếm phái kia và thống nhất tất cả lại thành một phái duy nhất để ông làm Chưởng Môn. Nhạc Bất Quần thấy tình hình không ổn nên dẫn hết đồ đệ đi lưu vong, dọ thám tình hình, và nhất là lên Tung Sơn để hỏi Tả Lãnh Thiền cho ra lẽ. Dọc đường Lệnh Hồ Xung bị nội thương rất nặng không còn sống sót bao lâu. Tình cờ chàng gặp một thiếu nữ diễm kiều Nhậm Doanh Doanh con gái giáo chủ bị đảo chánh của Ma giáo Nhậm Ngã Hành. Lúc gặp Hồ Xung, Doanh Doanh đang lén bỏ Ma Giáo đi tham quan giang hồ cho vui nên hoá trang thành một lão bà. Doanh Doanh lại đàn rất hay. Tình sư đệ giữa Hồ Xung và Bất Quần trong khi đó căng thẳng trầm trọng bởi Bất Quần nghi Hồ Xung học thêm kiếm pháp ở đâu đó và cũng đã ăn cắp quyển sách luyện nội công bí kíp của ông. Thành ra rốt cuộc Hồ Xung bị lạc ra khỏi phái đoàn của Nhạc Bất Quần. Sau đó Hồ Xung gặp lại Doanh Doanh. Hai người lưu lạc với nhau rồi Hồ Xung bệnh nặng ngã ra bất tỉnh. Doanh Doanh cõng Hồ Xung lên núi Thiếu Lâm giao mạng mình cho Phương Chứng đại sư giam giữ. Để đổi lại, Phương Chứng sẽ dùng Dịch Cân Kinh của Thiếu Lâm trị bệnh cho Hồ Xung. Khi tỉnh dậy Hồ Xung không biết việc Doanh Doanh trao đổi mạng cứu mình nên từ chối sự giúp đỡ của Phương Chứng viện lẽ mình là cao đồ của phái Hoa Sơn nên thà chết chứ không thể trở thành đệ tử Thiếu Lâm nhận truyền thụ Dịch Cân Kinh. Lệnh Hồ Xung lại khảng khái ra đi và dọc đường dùng Độc Cô cửu kiếm cứu được một trong những nhà lãnh đạo thuộc phe bị đảo chánh của Ma Giáo Hướng Vân Thiên. Hướng Vân Thiên biết Hồ Xung là tay kiếm khách vô địch mới gài cho Hồ Xung đến Hàng Châu giải cứu cho giáo chủ bị đảo chánh Nhậm Ngã Hành bị giam trong lòng đất dưới Tây Hồ. Trong lúc cứu Nhậm Ngã Hành, Lệnh Hồ Xung vô tình học được một phần Hấp Tinh đại pháp của Nhậm Ngã Hành nên tạm thời khỏi bệnh và thu hồi được nội lực. Nhậm Ngã Hành sau khi thoát nạn ngỏ ý mời Lệnh Hồ Xung gia nhập Ma giáo và nếu chàng ưng thuận lão sẽ chỉ hết Hấp Tinh đại pháp, chứ nếu không phần chàng học được sẽ gây biến chứng tai hại về sau. Lệnh Hồ Xung từ chối bỏ đi rồi sau lại thống lãnh quần hùng lên Thiếu Lâm tự cứu giải Nhậm Doanh Doanh. Trong thời gian đó phái Hằng Sơn của những nữ sư Định Dật, Định Nhàn bị phái Tung Sơn triệt hạ mãnh liệt - và cuối cùng Hồ Xung khám phá ra hai vị sư phụ này bị một cao thủ nào đó đánh cho tử vong trong cách rất kỳ bí. Trước khi chết hai vị ni cô này yêu cầu Lệnh Hồ Xung làm chưởng môn phái Hằng Sơn và tìm cách trả thù cho họ.

    Hồ Xung không biết rằng chính sư phụ Nhạc Bất Quần đã dùng những loại võ công lão học được từ Tịch Tà kiếm phổ của dòng họ Lâm ở Phúc Kiến để giết đi hai ni cô của phái Hằng Sơn, tỉa bớt một kiếm phái lợi hại. Chính Bất Quần đã ăn cắp được Tịch Tà kiếm phổ nhưng mọi người, nhất là Lâm Bình Chi, đều nghi ngờ Lệnh Hồ Xung đã giữ quyển Tịch Tà kiếm phổ. Tịch Tà kiếm có thể nói là một loại kiếm pháp thần sầu quỷ khốc nhất nhì thiên hạ nhưng người xử dụng nó phải tự thiến đi bộ phận sinh dục của mình để dần dà, theo Kim Dung, trở thành ái nam ái nữ (gay hoặc transvestite). Một bản khác của Tịch Tà kiếm phổ đã lọt vào tay Đông Phương Bất Bại thường được xem đệ nhất cao thủ, người đã đảo chánh lật đổ Nhậm Ngã Hành trước đây 10 năm để lên ngôi giáo chủ Ma Giáo. Lâm Bình Chi về sau cũng ăn cắp được bản chính của Tịch Tà từ Nhạc Bất Quần và cũng phải tự thiến mình để luyện tập hầu trả được mối thù cho song thân. Khác với Lệnh Hồ Xung, Lâm Bình Chi sớm thấy được bộ mặt ngụy quân tử của Nhạc Bất Quần nên sợ lão biết mình cũng thiến như lão, phải giả vờ mình còn gin và cưới Nhạc Linh San để che mắt thiên hạ. Bất Quần trong khi đó chép ra một bản giả bày mưu tìm cách cho lọt vào tay lãnh tụ Tung Sơn Tả Lãnh Thiền để lão này học sai đường bước của kiếm pháp, nhằm lọt vào tròng của Bất Quần.

    Lệnh Hồ Xung gặp lại Doanh Doanh rồi cùng Nhậm Ngã Hành, Hướng Vân Thiên lên bản doanh của Ma Giáo hợp sức lại giết được giáo chủ Pê Đê Đông Phương Bất Bại, người có võ nghệ thần sầu quỷ khốc, và phục hồi địa vị giáo chủ Ma giáo cho Nhậm Ngã Hành. Nhậm Ngã Hành lại mời Lệnh Hồ Xung gia nhập và làm phó thủ lãnh nhưng Lệnh lại khước từ, trở về Hằng Sơn. Sau đó không lâu Tả Lãnh Thiền tụ tập quần hùng tại Tung Sơn với đề nghị sát nhập hết năm kiếm phái của Ngũ Nhạc lại làm một và tôn lão làm chưởng môn. Nhạc Bất Quần gài được cái màn đấu kiếm với Tả Lãnh Thiền để tranh chức minh chủ của phái Ngũ Nhạc thống nhất. Tả Lãnh Thiền mặc dù kiếm pháp siêu phàm nhưng bị mắc hởm Nhạc Bất Quần đem Tịch Tà giả ra xử dụng nên cuối cùng bị Nhạc Bất Quần dùng Tịch Tà thứ thiệt và kim châm đâm mù hai con mắt. Nhạc Bất Quần lên ngôi Chưởng Môn Ngũ Nhạc thống nhất.

    Tiếp đó Lâm Bình Chi tung ra Tịch Tà kiếm pháp gia truyền của dòng họ mình giết chết kẻ thù Dư Thanh Hải nhưng bị tai nạn mù hai con mắt. Sợ Nhạc Bất Quần phát hiện rằng mình cũng bị thiến như ai cho mục đích cao cả của Tịch Tà kiếm pháp, Bình Chi giết vợ Linh San trong vòng tay đầy nước mắt của Lệnh Hồ Xung rồi chạy sang hợp tác với Tả Lãnh Thiền. Sau đó Nhạc Bất Quần đụng độ với Lệnh Hồ Xung nhưng Kim Dung cho Tịch Tà Kiếm pháp vẫn phải thua Độc Cô cửu kiếm, và Bất Quần bị đại bại với đệ tử cũ của mình. Bình Chi cấu kết với Lãnh Thiền, hai hiệp sĩ mù bất đắc dĩ, gài Bất Quần và Hồ Xung vào một động tối đen để hạ độc thủ nhưng Lãnh Thiền bị Hồ Xung giết và Bình Chi bị chặt tay chặt chân. Còn Bất Quần trong lúc sơ ý bị ni cô Nghi Lâm vô tình đâm vào lưng chết, vô hình chung trả thù được cho hai vị sư phụ Định Dật, Định Nhàn của phái Hằng Sơn.

    Thu phục được ngôi vị giáo chủ Ma giáo, Nhậm Ngã Hành đe doạ sẽ thôn tính luôn Ngũ Nhạc thống nhất rồi tới Thiếu Lâm và Võ Đang. Trong lúc quần hùng chuẩn bị đối phó, Phương Chứng lên Hằng Sơn truyền Dịch Cân Kinh chữa bệnh hoàn toàn cho Lệnh Hồ Xung nói dối rằng cách này do Phong Thanh Dương chỉ cho đại sư nhờ đại sư truyền lại cho Hồ Xung. Cũng trong lúc căng thẳng đó, Nhậm Ngã Hành bị xuất huyết não cười ha hả rồi chết. Doanh Doanh để tang cha 3 năm rồi tái hợp với Hồ Xung dạy tiếp cho Hồ Xung cách thổi sáo để rồi cả hai cùng cỡi ngựa về phiá mặt trời lặn, kẻ khảy đàn người thổi sáo, hợp tấu nhạc khúc Tiếu Ngạo Giang Hồ.

    Phải nhìn nhận Tiếu Ngạo Giang Hồ có nhiều tính tiết rất éo le, ly kỳ và sôi động. Cũng hơi khác thường so với nhiều truyện khác của Kim Dung, TNGH gần như hoàn toàn không có cấu trúc dùng bối cảnh lịch sử theo kiểu chống Mông Cổ như Anh hùng xạ điêu, Thần Điêu Hiệp Lữ, Ỷ thiên Đồ long ký, v.v. Trái lại, TNGH đã trở về với đường hướng của các tiểu thuyết kiếm hiệp thời tiền-Kim Dung (như Lã Mai Nương, Ngoạ Hổ Tàng Long) bằng cách đặt trọng tâm câu chuyện chung quanh hoạt động của các tiêu cục (8) tức security guards nếu gọi nôm na theo kiểu bây giờ. Đó là câu chuyện của Tịch Tà Kiếm phổ, ngón kiếm pháp gia truyền dòng họ Lâm chủ nhân mấy đời của Phước Oai Tiêu Cục ở Phúc Kiến. Đề tài dựa vào sinh hoạt của các tiêu cục là bối cảnh chính yếu của trên khoảng 60% các truyện kiếm hiệp Tàu hoặc các phim kung-fu của Hongkong. Bối cảnh chính thứ hai để dựng nên truyện Tàu thường dựa vào tính cách dã sử, bài Mông chống Thanh, và liên quan ít nhiều đến Thiếu Lâm Tự, theo kiểu Càn Long hạ Giang Nam, hoặc Thiếu Lâm Trường Hận,.. .. Ta để ý thoạt đầu Kim Dung cũng tính tạo cho mình một đường hướng riêng trong Võ lâm ngũ bá và Xạ Điêu Anh Hùng truyện, bằng cách không đá động gì đến Thiếu Lâm Tự. Kim Dung đã tiện tay tạo ra năm người có võ công tuyệt trác: Vương Trùng Dương, Hồng Thất công, Âu Dương Phong, Đoàn Nam Đế và Hoàng Dược Sư. Năm người này hoàn toàn có những ngón võ độc lập, và tiêu biểu cho thế xung khắc của thuyết ngũ hành. Người này hạ được người kia, luân chuyển nhau trong một vòng tròn ngũ hành, để rồi rốt cuộc không ai có thể trở nên vô địch hết. Sang đến Ỷ Thiên Đồ Long ký, vì phải có chuyện quận chúa Mông Cổ Triệu Minh phải lòng giáo chủ Trương Vô Kỵ, Kim Dung bắt buộc phải gài Thiếu Lâm Tự, Võ Đang Tự trở vào câu chuyện mới ra vẻ lịch sử. Nào là hai phái Nga Mi và Võ Đang cũng có cội nguồn với Thiếu Lâm qua việc hai người sáng lập Quách Tường và Trương Tam Phong trong lúc chạy trốn sự tập nã của phe Thiếu Lâm đã lắng tai nghe trộm Cửu Dương Chân Kinh do nhà sư Giác Viễn trước khi lâm tịch đọc lại. Kết cuộc câu chuyện cũng xảy ra tại chùa Thiếu Lâm trong trận đấu kinh hồn giữa Trương Vô Kỵ cùng người tình năm xưa Chu Chỉ Nhược với ba vị Hoà Thượng của Chùa. Trở lại với chùa Thiếu Lâm, rồi trở lại với bối cảnh Tiêu Cục trong các truyện về sau, như trong TNGH, Kim Dung đã mặc nhiên thừa nhận rằng chính ông cũng không thể vượt ra khỏi khuôn khổ một truyền thống lâu đời của loại tiểu thuyết Tàu đã mọc rễ lâu năm trong tâm thức người đọc. Theo truyền thống đó, các hoạt động tranh hùng xưng bá trong giới kiếm hiệp thường xảy ra chung quanh hành trình của các Tiêu Cục với dịch vụ chính yếu bảo đảm an ninh của việc chuyên chở hàng hoá từ miền này đến miền kia. Nói rộng hơn một chút, một nhà văn dù có tài năng siêu việt cách mấy đi nữa, rất khó tạo dựng nên một truyền thống mới hay biến đổi một cái gì đã trở thành truyền thống lâu đời.

    So sánh với các truyện chưởng khác của Kim Dung, TNGH cũng có vẻ mang nhiều chất bạo động chém giết, và "violent" hơn. Điển hình trong Anh hùng xạ điêu ta thấy chỉ có 1 cái chết trong lúc đầu câu chuyện: cái chết của thân phụ của Quách Tỉnh bị bọn Hoàn Nhan Hồng Liệt thảm hại. Đến giữa chuyện cái chết của Trần Huyền Phong chồng của Mai Siêu Phong, rồi gần cuối truyện cái chết của 6 vị sư phụ của Quach Tỉnh thuộc nhóm Giang Nam thất quái do Âu Dương Phong gây ra nhưng cài cho mọi người tưởng lầm là do Hoàng Dược Sư, nhạc phụ tương lai của Quách Tỉnh. Nhưng cái chết của 6 vị sư phụ này không có mô tả mà chỉ được Quách Tỉnh phát hiện sau khi trở lại Đào Hoa đảo. Tuyệt nhiên nhân vật chính Quách Tỉnh, cũng như Trương Vô Kỵ trong Cô Gái Đồ Long, không thấy chém giết ai hết. TNGH lại khác, từ đầu đến cuối truyện độc giả thấy chém giết tưng bừng. Bắt đầu câu chuyện ta thấy Lâm Bình Chi đâm chết con trai cưng của Dư Thanh Hải chỉ vì người này chọc ghẹo Nhạc Linh San đang giả làm gái bán rượu. Kế đó bọn Dư Thanh Hải kéo xuống tàn sát cả Phước Oai Tiêu Cục của gia đình Lâm Chấn Nam (cha của Lâm Bình Chi). Xong rồi tại lễ từ giả giang hồ của Lưu Chính Phong, toàn thể gia đình này bị bọn Phí Bân thuộc phe Tung Sơn đến giết sạch trước sự chứng kiến của quần hùng. Chỉ vì Lưu Chính Phong kết bạn tâm giao tri kỷ với Khúc Dương thuộc phe Ma giáo bởi hai người say mê hoà tấu bản Tiếu Ngạo Giang Hồ với nhau. Màn bạo động nhất của TNGH có lẽ chuyện 6 anh em Đào Cốc Lục Tiên võ nghệ cao siêu chuyên môn nắm hai tay hai chân bất kỳ đối thủ nào và xé xác ra làm 4 mảnh. Ngay cả bà vợ của Nhạc Bất Quần cũng kinh hoàng vì suýt nữa cũng bị xé xác. Lệnh Hồ Xung mặc dù là người hào hiệp đầy thiện tính cũng dùng mưu đâm chết một đệ tử của phái Thanh Thành ở đầu câu chuyện. Xong rồi anh ta đâm mù mắt chừng mười mấy người thuộc phái Tung Sơn. Chặt tay chặt chân Lâm Bình Chi chỉ do ở Linh San đã trối trăn xin đừng giết Bình Chi. Đâm luôn Tả Lãnh Thiền, mặc dù Lãnh Thiền đã bị mù, v.v.. Người yêu sau cùng của Hồ Xung là Doanh Doanh cũng vậy. Cô này lúc chưa hoàn thiện ai chọc giận cô ấy thì bị uống thuốc độc mỗi năm đúng ngày đúng tháng phải đến lạy lục cô ấy mới được thuốc giải. Nếu cô ta tức giận hơn nữa, cô ra lệnh bảo người chọc cô phải tự xẻo tai xẻo mũi, người đó cũng phải làm. Khác hẳn với Hoàng Dung trong Anh hùng xạ điêu hay ngay cả Triệu Minh quận chúa hoặc Chu Chỉ Nhược trong Cô Gái Đồ Long. Ta để ý một điểm khác biệt giữa Lệnh Hồ Xung với các nhân vật trước của Kim Dung như Quách Tỉnh, Trương Vô Kỵ, hoặc Dương Qua. Lệnh Hồ Xung có vẻ khôn ngoan lém lỉnh hơn mấy nhân vật kia nhiều. Tiếng Mỹ gọi Hồ Xung street-wise, tức khôn ở ngoài đường ngoài chợ, hay nôm na theo tiếng Việt, tiến sĩ chợ trời. Có phải vì nhân vật Hồ Xung có nhiều bản lĩnh chợ trời nên Kim Dung cho anh ta xem thường việc chém giết người khác hay chăng? Hoặc giả Kim Dung bắt đầu chạy theo mốt thời đại của phim ảnh Âu Mỹ lúc đó bắt đầu chuyển sang loại bạo động? Tuy nhiên những cảnh bạo động đó Kim Dung tả qua thật nhanh dễ làm người đọc không để ý đến.

    Một nhà văn dù có tài năng siêu việt cách mấy đi nữa, rất khó tạo dựng nên một truyền thống mới hay biến đổi một cái gì đã trở thành truyền thống lâu đời.

    Đối với những người ghiền xem xinê thời thập niên 50, TNGH đã cho thấy ít nhiều ảnh hưởng của Alfred Hitchcock, ông vua làm phim kinh dị còn giữ nhiều dấu ấn trong phim ảnh cho đến ngày hôm nay. Một trong những đặc điểm chính của phim Hitchcock là cấu tạo một người dân bình thường rồi lôi kéo vai chính đó vào một vụ án mạng hay xì-căn-đan rùng rợn, đổ vào nhân vật đó một sự tình nghi của nhà chức trách. Từ đầu cho đến cuối phim do đó nhân vật chính sẽ bị săn đuổi chạy trối chết bởi hai phe, chức trách cũng như tội phạm, để rồi cuối phim nỗi hàm oan sẽ được giải toả đem lại cho người xem một anti-climax, một kết cuộc có hậu, một happy ending. Trong phim The Wrong Man (Bắt lầm Thủ phạm), Henry Fonda thủ vai một nhạc sĩ bị bắt vì tình nghi đã ăn cướp hãng bảo hiểm chỉ vì dáng dấp ông ta giống chính thủ phạm thực thụ. Ông ta đi tìm các chứng nhân, nhưng đa số các chứng nhân hoặc đã chết đi hoặc không nhớ họ đã làm gì vào hôm xảy ra ăn cướp. Nổi tiếng nhất là hai phim The Man who knew too much (Người biết quá nhiều) với James Stewart và Doris Day, và phim North by NorthWest (Hướng Bắc và Tây-Bắc) với Cary Grant và Eva Mary Saint. (Doris Day có hát bản nhạc nổi tiếng Que Sera Sera trong phim The Man who knew too much). Trong hai phim này các nhân vật chính bị lôi kéo vào những vụ âm mưu lớn, và bị hàm oan là biết rõ các âm mưu đó, hoặc bị báo chí chụp hình (oan và sai) đã đâm một viên chức của Liên Hiệp Quốc (North by NorthWest). Những nhân vật chính này tuy ở thế yếu của một người dân bình thường - nhưng vì bị dồn vào một thế phải chọn lựa những gì phải và những gì trái, chính họ cũng không ngờ rằng họ đã huy động được sức mạnh tiềm tàng trong con người để vượt ra khỏi cảnh oan kiên và cả thắng bọn ma đầu tội phạm. Trong TNGH cũng vậy, từ đầu tới đuôi Kim Dung đã gán hoạ vào đầu Lệnh Hồ Xung với ba chữ oan, oan, oan. Đầu tiên Kim Dung cho Hồ Xung bị kết tội trước quần hùng là đã toa rập với dâm tặc Điền Bá Quang lo nhậu nhẹt và hãm hiếp ni cô Nghi Lâm của phái Hằng Sơn. Cái oan đầu tiên này Kim Dung dùng đến cả quyển 1 mới giải toả được. Sau khi Hồ Xung học được Độc Cô cửu kiếm vì không tiện nói ra với sư phụ Nhạc Bất Quần nên bị sư phụ và nhiều người khác nghi ngờ rằng đã chôm được Tịch Tà kiếm phổ hoặc học được đâu đó của quân tà ma ngoại đạo. Trong lúc nằm dưỡng bệnh, Nhạc Linh San đem quyển luyện nội công của cha đến cho Hồ Xung mượn để chữa bệnh. Hồ Xung chưa kịp đọc, quyển sách đã bị mất và một người sư đệ ngồi canh Hồ Xung bị giết chết. Ai cũng nghi (lầm) Hồ Xung chiếm quyển sách đó và thủ tiêu vị sư đệ để ém nhẹm. Nhạc Linh San do nỗi nghi ngờ và hiểu lầm này đã dần dần xa rời Hồ Xung và ngã về Lâm Bình Chi. Chính nỗi hàm oan này đã đào một cái hố chia rẽ tình thầy trò giữa Bất Quần và Hồ Xung cho đến mãi về sau. Kim Dung đã áp dụng kỹ thuật kinh dị thriller à la Hitchcock cho đến đoạn gần cuối truyện. Lúc đó trước khi Lâm Bình Chi giết Nhạc Linh San, Bình Chi mới bật mí về quyển Tịch Tà Kiếm phổ, và lột mặt nạ quân tử giả dối của Nhạc Bất Quần trước mặt Linh San. Doanh Doanh núp đâu gần đó lắng tai nghe hết.

    (8) Theo ý kiến của Nhất Tiếu thì nhận định này hoàn toàn không hợp lý. Lâm Bình Chi không phải là nhân vật chính của Tiếu ngạo giang hồ, và câu chuyện không chỉ xoay quanh Tịch tà kiếm phổ. Việc khởi đầu truyện theo cách thức như vậy là một thủ pháp rất quen thuộc của Kim Dung, ta có thể thấy trong Bích huyết kiếm, Lộc Đỉnh ký chẳng hạn.

    Một kỹ thuật dựng truyện khác của Kim Dung cũng có lẽ chịu ảnh hưởng phim đánh gươm của Hollywood vào khoảng năm 1952, phim Scaramouche do Stewart Granger, Janet Leigh và Mel Ferrer thủ vai chính, dựa theo một tiểu thuyết kiếm hiệp dã sử của Rafael Sabatini, một nhà văn thường được xem ngang hàng với Alexandre Dumas, tác giả của Ba người lính ngự lâm (The Three Musketeers). Scaramouche dựng bối cảnh vào khoảng vài năm trước cách mạng Pháp 1789. Anh chàng lãng tử André Moreau vì phải trốn tránh kẻ thù Hầu tước De Maines người đã giết anh bạn thân mang giòng máu cách mạng Phillippe, nên phải gia nhập một gánh xiệc lưu động, đóng vai kép hài mang mặt nạ tên Scaramouche. Ôm giấc mộng trả thù cho bạn, André tình cờ theo học đánh gươm với thầy dạy kiếm thuật cho hầu tước De Maines. Một ngày nọ De Maines phát hiện được, và đánh cho André tơi bời te tua qua một trận đấu gươm tại võ sảnh của thầy. Thấy dạy gươm cho André không được nữa vị tôn sư của André và De Maines mới chỉ cho André địa chỉ của Thầy mình hiện còn dạy đánh gươm ở Paris. André mừng quá kêu đoàn xiệc lên Paris lưu diễn và theo học kiếm pháp với Thầy của Thầy mình, và về sau trong một trận đấu gươm tại hí viện kéo dài chừng 15 phút, một trận đấu gươm lâu nhất trên màn bạc, Scaramouche (tức André) đã đánh bại được De Maines.

    Kim Dung trong lúc viết TNGH có lẽ đã chịu ảnh hưởng ít nhiều của Hitchcock và thêm vào đó, của Sabatini trong Scaramouche. Ở chỗ nào? Ở chỗ lần đầu tiên trong truyện kiếm hiệp Tàu người ta thấy một điểm ngộ nghĩnh nhưng có vẻ mới lạ và chắc ăn trong việc Lệnh Hồ Xung được bậc Thầy của Thầy mình truyền dạy kiếm pháp cho. Độc giả dù ít đọc truyện Tàu cách mấy đi nữa khi thấy một anh chàng lãng tử được sư thúc của Thầy mình truyền dạy đều có thể đoán ngay thế nào anh chàng này về sau có đấu với Thầy có thể cho Thầy mình đo ván là cái chắc. Cũng như khi xem phim Scaramouche tới đoạn ông thầy của Scaramouche chỉ dẫn cho Scaramouche lên Paris để học tiếp đường gươm nét kiếm tuyệt chiêu của Thầy mình, người xem có thể đóan, trong thích thú, vào cuối phim Scaramouche sẽ đánh bại De Maines, học trò của học trò của Thầy mình. Phong Thanh Dương một bậc tôn sư hàng đầu về kiếm pháp, vai em của Thầy của Nhạc Bất Quần, Thầy của Lệnh Hồ Xung, đã đem Độc Cô Cửu Kiếm truyền lại cho Lệnh Hồ Xung. Tuy nhiên, điểm này có hơi phá đổ tôn ti trật tự của hệ thống quân sư phụ ngày trước. Để hoá giải điểm đảo lộn trật tự lổng chổng này, Kim Dung đã lồng vào đó một cái thế chẳng đặng đừng cho Lệnh Hồ Xung: Kim Dung cho dâm tặc Điền Bá Quang lên núi thách thức đấu kiếm với Lệnh Hồ Xung. Nếu thua Lệnh Hồ Xung phải bỏ việc chịu hình phạt của Thầy, đi theo hắn xuống núi. Trận đấu kiếm xảy ra nhiều ngày. Mỗi đêm Hồ Xung trở vào thạch động học tiếp với Thái Sư Thúc (vai chú của thầy mình) Phong Thanh Dương. Đến lúc học xong Độc Cô Cửu kiếm rồi, Lệnh Hồ Xung đánh cho Điền Bá Quang thua xiểng liểng và chạy dài xuống núi.

    Tiếu Ngạo Giang Hồ còn cho thấy tầm nhìn rất xa của Kim Dung, ngay từ 1963 năm xuất hiện TNGH. Đó là những nhận xét về giới Gay (homosexual, đồng tính luyến ái) hoặc gọi nôm na Pê Đê, bắt nguồn từ tiếng Tây pédéraste, hay những nhận xét về ảo tưởng quyền bính hoặc thần thánh hoá lãnh tụ. Một trong những cái đinh của TNGH là Tịch Tà Kiếm Phổ của dòng họ Lâm - chủ nhân Phước Oai Tiêu Cục ở Phúc Kiến. Tịch Tà Kiếm Phổ đầu tiên do một hoạn quan (thái giám) sáng chế ra. Sau đó một ông sư hoàn tục tên Lâm Viễn Đồ - tức tổ tiên của Lâm Bình Chi - có duyên được làm sở hữu chủ quyển bí kíp này. Bởi kiếm phổ do một thái giám phát minh ra, điều kiện cần và đủ để luyện tập nó là người luyện tập phải tự cắt mất thằng nhỏ của mình đi. Càng trở thành bán nam bán nữ hay thiên nhiều về nữ tính càng tốt. Lâm Viễn Đồ muốn cho chắc ăn nên đã chờ đến khi có vợ con đàng hoàng rồi, mới tiến hành luyện tập nó! Sau này giáo chủ Ma giáo Đông Phương Bất Bại trở nên đệ nhất cao thủ cũng nhờ ở nó, nhưng chỉ sau khi lão ta gần như trở thành một phụ nữ thực thụ, e ấp một đào nhí phái nam. Rồi Nhạc Bất Quần đến Lâm Bình Chi đều bắt đầu rụng râu, xức dầu thơm, trang sức thật đẹp sau khi tập luyện Tịch Tà kiếm đến độ thành thục. Phải nhìn nhận Kim Dung vào ở đầu thập kỷ 60 đã có những nhận xét cực kỳ sắc bén về việc phối hợp Tịch Tà kiếm pháp với giới Pê Đê. Vào thời đó tại hầu hết các quốc gia trên thế giới tình huống PêĐê hãy còn nằm ngoài pháp luật. Tìm hiểu những cá tính của người gay phải nói là một việc hết sức khó khăn. Thế mà Kim Dung đã làm được và lồng vào một thế kiếm Tịch Tà vô địch thiên hạ. Tịch Tà kiếm là gì nếu không là một lối xử dụng chiêu kiếm hoặc kiếm khí cực kỳ nhanh lẹ cần vào đôi tay khéo léo nhanh nhẹn của người phụ nữ cộng với một nội lực thâm hậu của người đàn ông. Ta hãy trích một đoạn nhỏ nói về thế đánh của Đông Phương Bất Bại với Lệnh Hồ Xung:

    Lệnh Hồ Xung phóng chiêu kiếm này rất hiểm, nếu Đông Phương Bất Bại không thu người lại thì lập tức bị mũi kiếm đâm xuyên qua yết hầu ngay. Nhưng ngay lúc này, Lệnh Hồ Xung cảm thấy má bên trái hơi đau, hắn hướng trường kiếm sang bên trái.

    Thì ra Đông Phương Bất Bại ra tay quá nhanh, thật không thể lường được. Trong lúc nhoáng như tia chớp, lão đã dùng kim đâm lên má Lệnh Hồ Xung. May mà chiêu kiếm này của Lệnh Hồ Xung phóng rất nhanh, tấn công khiến địch nhân không thể tự cứu.
    Lão liền vung kim trái phải trên dưới gạt hết bốn chiêu kiếm của Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung chăm chú nhìn lão ra tay. Lão dùng kim thêu gạt bốn chiêu, toàn thân không có chỗ hở.

    Ngày nay cộng đồng người gay sống yên ổn hoà mình với cộng đồng người straight. Những ai có quen biết hoặc bạn bè với những cặp gay đều để ý rằng trong bất cứ cặp nào cũng có một người thủ vai người nam (mang nhiều nam tính hơn người kia), và một người thủ vai nữ, chuyên lo việc thêu thùa bếp núc trong nhà. Người thủ vai nữ rất khéo léo, tay chân nhanh nhẹn không thua gì người đàn bà nhưng thông thường hãy còn giữ sức mạnh (nội lực theo Kim Dung) của đàn ông. Kim Dung vào năm 1963 đã tạo dựng Tịch Tà kiếm pháp và chỉ dành riêng kiếm pháp đó, thật chính xác, cho loại người này. Thật tuyệt chiêu.

    Cũng ở cái thời 60 đó Kim Dung đã dựng nên chuyện Lâm Bình Chi phải làm đám cưới giả với Nhạc Linh San để che mắt thiên hạ, nhất là ngụy quân tử Nhạc Bất Quần, việc mình đã trở thành gay bất đắc dĩ. Mãi cho đến khoảng cuối thập niên 1980 nhân cái chết của tài tử Rock Hudson báo chí mới bắt đầu xì ra ở Hollywood đã có không ít đám cưới giả "à la Lâm Bình Chi" để che mắt giới hâm mộ điện ảnh rằng tài tử nào đó không phải gay. Nhiều đám cưới của một vài tài tử nổi tiếng hiện nay vẫn còn bị xầm xì là đám cưới che mắt, mặc dù xã hội đã biến đổi rất nhiều và vẫn có nhiều tài tử hay nhà thể thao nổi tiếng công khai có một đời sống lứa đôi gay.

    Tầm nhìn xa của Kim Dung còn thể hiện qua việc Kim Dung cho Đông Phương Bất Bại rồi sau này Nhậm Ngã Hành đâm ra mù quáng mang nhiều ảo tưởng thần thánh về quyền lực. Giáo chủ Đông Phương Bất Bại bắt thuộc hạ phải luôn quỳ xuống và xưng hô: "Giáo chủ thiên thu trường trị, thống nhất giang hồ". Bịnh hơn nữa thuộc hạ phải hô to: "Tri ân giáo chủ, nhờ nói lên tên giáo chủ thuộc hạ cảm thấy sáng suốt hơn lên", hoặc: "Ngày nào không đọc bảo huấn của giáo chủ, thì ăn không ngon ngủ không yên".

    Dành một chương mô tả và châm biếm sinh hoạt tôn sùng lãnh tụ ngay ở tổng bản doanh của Ma giáo, Kim Dung chắc hẵn đã phản ảnh đến câu nói bất hủ của Lord Acton mà chính Kim Dung chắc đã từng đọc qua trong lúc theo học Luật ở Thượng Hải thuở thanh niên: "Power corrupts, absolute power corrupts absolutely" (Quyền lực làm hư thối con người, quyền lực tuyệt đối chắc chắn sẽ tuyệt đối làm hư thối con người).

    Viết đoạn suy tôn thần thánh những người lãnh tụ như kiểu Nhậm Ngã Hành hay Đông Phương Bất Bại vào năm 1963, Kim Dung cũng gần như đã tiên đoán những gì sẽ xảy ra ở Trung Quốc trong cuộc cách mạng văn hoá của Mao Trạch Đông vào khoảng cuối thập niên 60, hoặc việc thần thánh hoá lãnh tụ Kim Nhật Thành ở Bắc Triều Tiên. Vào thời đó nhiều người thường dân ưa cúi đầu trước những bức hình to lớn của nhà lãnh tụ treo ở các dinh thự, các quảng trường, để cầu nguyện hay tri ân nhờ hồng phúc của lãnh tụ nhà mình được tai qua nạn khỏi, hoặc đã lao động tốt. Họ dường như quên rằng chính lãnh tụ đã gây ra bao nhiêu chết chóc và kinh hoàng trong nhân dân. Ngày nay, nhất là ở các nước tiên tiến có dân trí cao, đừng nói chi đến thần thánh hoá lãnh tụ, ngay cả chuyện thần tượng hoá nhà lãnh đạo cũng đã bắt đầu bị sụp đổ hay dẹp qua một bên. Có lẽ đó cũng nhờ hồng phúc của Monica hấp tinh đại pháp đụng độ với xi-gà kiếm pháp vào cuối thế kỷ vừa qua ở Mỹ. Phần lớn nhân loại hiện nay bắt đầu ý thức rằng lãnh tụ có giỏi đến đâu chăng nữa, cũng chỉ là con người thôi.

    Thế còn luật Ngũ hành vận chuyển ra sao trong TNGH? Xin tóm tắt lại những điểm chính về Ngũ hành đã trình bày trong Thử Đọc Lại Kim Dung I. Khác với lô-gích tam đoạn luận của Tây Phương: A thắng B, B thắng C, suy ra A sẽ thắng C, lô-gích Ngũ hành sẽ cho: Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hoả, và Hoả sẽ khắc Kim trở lại. Nếu Lô-gích Tam đoạn luận được biểu diễn bằng một đường thẳng đứng, lô gích Ngũ hành sẽ được tượng trưng bằng một vòng tròn kín.

    Mạng Thủy còn được biểu tượng bằng hướng Bắc (màu Đen), Mộc hướng Đông (màu Xanh), Hoả hướng Nam (màu Đỏ), Thổ miền Trung (màu Vàng), và Kim thuộc hướng Tây (màu Trắng). Ngoài chu kỳ khắc theo lôgích kiểu Tam Đoạn Luận, Ngũ hành còn có một chu kỳ SINH tức chu kỳ hỗ trợ: Thổ hỗ trợ Kim, Kim giúp Thủy, Thủy sinh Mộc, Mộc giúp Hoả, và Hoả sinh Thổ.

    Đầu tiên ta để ý đến Ngũ Nhạc Kiếm Phái tức năm phe phái phối hợp với nhau thành một khối liên minh, bao gồm: Phái Hằng Sơn ở phía Bắc, Thái Sơn phía Đông, Hành Sơn phía Nam, Hoa Sơn hướng Tây và Tung Sơn thuộc miền Trung. Nhạc Bất Quần thuộc miền Tây chưởng môn Hoa Sơn thuộc mạng Kim. Kim khắc Mộc. Hoa Sơn hướng Tây khắc phục được Lâm Bình Chi người Phúc Kiến hướng Đông (Mộc) của nước Tàu, thu Lâm Bình Chi làm đồ đệ rồi chôm được Tịch Tà Kiếm Phổ của họ Lâm.

    Họ Lâm là một họ rất phổ thông của người Phúc Kiến và người Triều Châu. Tại Việt Nam, đa số những người Việt có họ Lâm thường có gốc gác người Hoa xuất từ Phúc Kiến hoặc Triều Châu. Họ Lâm cũng có nghĩa là rừng, liên hệ đến cây cối, tức mạng Mộc. Họ Lâm người gốc Phúc Kiến ở phía Đông nên Lâm Bình Chi chắc chắn mang mạng Mộc. Đông Phương Bất Bại cũng mạng Mộc bởi tên lão có từ ĐÔNG. Nhạc Bất Quần thuộc mạng Kim, có thể được hỗ trợ bởi mạng Thổ. Bởi vậy chưởng môn Tung Sơn Tả Lãnh Thiền, miền Trung mạng Thổ, âm mưu nhiều năm thống nhất năm phái Ngũ hành để lên làm minh chủ, nhưng rốt cuộc lão gần như bày mâm dọn cỗ cho đối thủ lão là Nhạc Bất Quần. Thổ đã hỗ trợ Kim. Trong trận đãu giữa Nhạc Bất Quần với Tả Lãnh Thiền - Thổ với Kim không ai khắc ai - nhưng Kim Dung đã cho Bất Quần thắng và đâm mù mắt Lãnh Thiền. Chỉ nhờ ở Bất Quần xử dụng Tịch Tà kiếm pháp (thuộc mạng Mộc ở miền Đông) mới khắc chế được Lãnh Thiền, Mộc khắc Thổ.

    Phái Hằng Sơn của các vị ni cô ở phiá Bắc thuộc mạng Thủy. Phái này bị phe Tung Sơn miền Trung mạng Thổ phá rối đánh cho gần như tan hàng (Thổ khắc Thủy). Thế Lệnh Hồ Xung mạng gì? Điểm đầu tiên ta để ý Kim Dung rất thích cho nhân vật chính mang mạng Hoả: Trương Vô Kỵ, Quách Tỉnh đều mang mạng Hoả. Vậy thử cho Hồ Xung mang mạng Hoả, người phía Nam xem ra sao. Tính người mang mạng Hoả: giàu tình người, nhiều trực giác, thích được thương yêu, thích sôi nổi, giao tế giỏi, hoàn toàn thích hợp với cá tính của Lệnh Hồ Xung. Hoả thường được giúp bởi Mộc (màu xanh và hướng Đông). Lệnh Hồ Xung được Phong Thanh Dương dạy cho Độc Cô cửu kiếm. Trong tên Phong Thanh Dương có hai từ Thanh và Dương đều chỉ màu xanh thuộc mạng Mộc. Ni cô cõng Hồ Xung chạy trốn lúc Hồ Xung bị thương nặng, và thầm yêu Hồ Xung suốt đời, mang tên Nghi Lâm. Lâm tức là rừng, nhiều cây cối, mạng Mộc. Người yêu thương Lệnh Hồ Xung, giúp đỡ Lệnh Hồ Xung rất nhiều, cõng Hồ Xung lên Thiếu Lâm đổi mạng mình nhờ Phương Chứng đại sư chữa bệnh cho Hồ Xung là Nhậm Doanh Doanh. Trong TNGH Kim Dung ít mô tả về màu sắc quần áo các nhân vật, nhưng lại giới thiệu Doanh Doanh bỏ trốn khỏi tổng hành dinh Ma giáo đi tham quan giang hồ với một lão tướng bodyguard mang tên Lục Trúc Ông, trong tên có TRÚC ám chỉ mạng Mộc. Doanh Doanh mạng Mộc giúp đỡ mạng Hoả của Hồ Xung. Mạng Hoả của Hồ Xung khắc chế được mạng Kim của thầy cũ Nhạc Bất Quần, nhưng có thể chế ngự mạng Thủy của các ni cô phái Hằng Sơn ở phía Bắc. Bởi vậy Kim Dung cho các vị Định Dật, Định Tĩnh và Định Nhàn trối trăn cho Hồ Xung làm chưởng môn Hằng Sơn lãnh đạo toàn các ni cô, Hồ Xung cũng phải nhận bởi Hoả bị khắc phục, bị cảm hoá bởi Thủy.

    Nhậm Ngã Hành mạng gì? Lúc Nhậm Ngã Hành bị Đông Phương Bất Bại (mạng Mộc) đảo chánh, Nhậm mang mạng Thổ. Mộc khắc Thổ. Kim Dung nói rõ Nhậm bị giam dưới lòng đất - mạng Thổ. Thế nhưng Nhậm lại bị giam dưới lòng Tây Hồ ở thành phố đẹp nhất Trung Quốc Hàng Châu (Tây Hồ => TÂY => mạng Kim) trong vòng 10 năm và luyện thành được Hấp Tinh đại pháp, Tinh thường màu trắng, lại mạng Kim. Nhậm Ngã Hành sau 10 năm bị giam cầm đã chuyển dần sang mạng Kim, để rồi Kim khắc Mộc, trở ra lật đổ và giết Đông Phương giáo chủ trả được hận xưa.

    Trở lại Ngũ hành của Ngũ Nhạc Kiếm Phái. Ngũ hành ở đây cũng tương đương với Ngũ hành của Võ lâm ngũ bá: Đông Tà Hoàng Dược Sư (Mộc), Tây độc Âu Dương Phong (Kim), Trung Thần Thông Vương Trùng Dương (Thổ), Bắc Cái Hồng Thất công (Thủy), Đoàn Nam Đế (Hoả). Nhưng có điểm đáng kể, mạng Thổ của miền Trung trong Võ lâm ngũ bá là một vai chính nhân quân tử đạo mạo oai phong (Vương Trùng Dương) thì ở TNGH một vai cực kỳ gian ác hiểm độc thể hiện qua Tả Lãnh Thiền. Nhiều tác giả từng đưa giả thiết về Những ẩn số chánh trị trong truyện Kim Dung (NNH) hoặc Dụ Ngôn về Chính Trị (VĐSB) theo đó Vương Trùng Dương biểu hiệu cho Trung Hoa, Âu Dương Phong biểu hiệu cho Âu Mỹ, Bắc Cái cho nước Nga, Đông Tà cho nước Nhật, Nam Đế cho Việt Nam (?), v.v. chắc không khỏi ngỡ ngàng khi thấy miền Trung của Tả Lãnh Thiền phái Tung Sơn, một người nham hiểm và mang nhiều tham vọng dơ bẩn, không còn là một biểu tượng đáng yêu nữa cho nước Tàu. Biểu tượng nước Nga ở phiá Bắc (phái Hằng Sơn đầy từ bi độ lượng) hoặc nước Nhật qua những người hùng phải tự cắt thằng nhỏ của mình à la Lorena Bobbitt như Lâm Bình Chi, Đông Phương Bất Bại chắc cũng không còn cơ sở lý luận vững chắc nữa. Theo thiển ý con số 5 của Võ lâm ngũ bá, hoặc Ngũ Nhạc Kiếm Phái, Kim Dung chỉ đưa ra để phô trương thuyết Ngũ hành siêu đẳng của Trung Quốc. Và lô-gích ngũ hành đó, xuyên qua cá tính sinh-khắc giữa các nhân vật với nhau, Kim Dung đã trình bày rất mạch lạc chặt chẽ.

    Bản dịch TNGH mới mẻ của Vũ Đức Sao Biển và ê-kíp quả nhiên là một việc làm đáng được khích lệ và hoan nghênh. Nếu trong ngành điện ảnh Âu Mỹ người ta đã từng quay đi quay lại nhiều phim hay xưa cũ, như Psycho, Rear Window, Dial M for Murder, the Three Musketeers, v.v. rồi ở giới phim tập Hongkong cứ vài năm họ lại quay lại Tiếu Ngạo Giang Hồ, Ỷ thiên Đồ long ký, Anh hùng xạ điêu, v.v. thì tại sao ở Việt Nam ta không tán thưởng công việc đưa chiếc bình mới để chứa rượu cũ này.

    Trong bản dịch mới chính các tác giả cũng thừa nhận không thể hoàn toàn chuyển hết các cụm từ hoặc thành ngữ Hán sang chữ quốc ngữ. Thí dụ: Giáo chủ thiên thu vạn tải, thống nhất giang hồ. Bởi nếu chuyển hết sẽ không còn mang tính chất kiếm hiệp nữa và vô hình chung sẽ mất hết cái hay ho tinh túy của truyện Tàu nói chung và truyện chưởng Kim Dung nói riêng. Dù vậy lần chuyển ngữ này đã đem lại cho người đọc không ít thích thú, qua những từ thuộc tiếng lóng, tiếng bình dân thường được xử dụng hằng ngày. Thí dụ, rất nhiều đoạn dịch giả viết Kiếm Khách A đánh cho kiếm khách B thua te tua chạy dài. Hoặc tại hạ sẽ có ngày lên núi của các hạ để tính sổ lại, tức để thanh toán ân oán giang hồ. Nhưng vui nhất phải là đoạn Điền Bá Quang tâm sự với Lệnh Hồ Xung rằng anh ta bị Bất Giới đại sư, thân phụ của ni cô Nghi Lâm, cắt bớt phân nửa thằng nhỏ rồi! Chỗ này chính Kim Dung đã để lộ một lôgích rất chặt chẽ: Tại sao Bất Giới chỉ cắt phân nữa thằng nhỏ của Điền Bá Quang mà thôi? Kim Dung chắc chắn không cho Bất Giới cắt hết trọn thằng nhỏ của Bá Quang bởi nếu cắt hết vô hình chung Kim Dung sẽ đẩy Bá Quang vào cái nhóm tự cắt để luyện tập Tích Tà kiếm phổ, như Lâm Bình Chi, Nhạc Bất Quần, Đông Phương Bất Bại! Cho Bá Quang bị mất chỉ một demi-thằng nhỏ thôi mới giữ được Bá Quang bên phe straight của Lệnh Hồ Xung.

    Một điểm nữa trong bản dịch đã khiến người đọc ở ngoài nước Việt Nam không khỏi chú ý. Đó là biến đổi của ngôn ngữ, của tiếng Việt tại Việt Nam trong vòng 25 năm qua. Bây giờ người ta gọi đánh cược thay vì đánh cuộc (đánh cá) như hồi xưa. Cược đã thay cho Cuộc và đã vào các tự điển đàng hoàng.

    Hy vọng bản dịch mới Tiếu Ngạo Giang Hồ sẽ đến với giới hâm mộ Kim Dung ở bên ngoài Việt Nam trong nay mai.


    Nguồn: http://truyen.haohanca.com
              
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5388
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: Thử Đọc Lại Kim Dung

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           


    Thử đọc lại Kim Dung phần IV: Lộc Ðỉnh Ký

    Tác Giả: Nguyên Nguyên

    Lộc Ðỉnh Ký từ lâu đã nổi tiếng một trong những tác phẩm hay nhất của Kim Dung. Thế nhưng không biết vì lý do này hay lý do nọ, cho đến lễ Phục Sinh 2003 tại hạ vẫn chưa có dịp đọc hay xem qua phim tập Hong-Kong truyện đó. Tựu chung có lẽ bởi những định kiến về sở thích của tuổi trẻ. Tuổi chỉ thích truyện kiếm hiệp, truyện chưởng thuần túy, chứ không thích lăng nhăng chính trị hay những chuyện thâm cung bí sử. Thế, một khi biết được phong phanh rằng không những nhân vật chính trong truyện Lộc Ðỉnh Ký, Vi Tiểu Bảo, chẳng phải là một cao thủ võ lâm, các vị đại sư của Thiếu Lâm hoặc Võ Ðang không mấy khi xuất hiện, lại thêm bối cảnh được dựng chung quanh vài Thái Giám ở triều đình nhà Thanh, tại hạ đành hẹn lần hẹn hồi cho đến chừng nào có dịp hãy hay.

    Nước chảy qua cầu và thời gian trôi qua nhanh. Thấm thoát từ ngày Lộc Ðỉnh Ký đầu tiên xuất hiện trên chốn giang hồ đến nay cũng đã hơn 30 năm. Những người đọc truyện Kim Dung năm xưa qua những bản dịch của Hàn Giang Nhạn, Từ Khánh Phụng bây giờ đã đi vào tuổi lão. Kim Dung cũng đã tròn tuổi tám mươi. Duy chỉ có vài ba hiện tượng đáng để ý, đã mặc nhiên từ chối định luật đào thải của thời gian. Thứ nhất các phim ảnh HongKong, Ðài Loan cứ quay đi quay lại những pho truyện của Kim Dung thành phim tập chiếu từng kỳ trên Tivi rồi chuyển sang băng video cho mướn khắp nơi trên thế giới. Nhất là ở những nơi có cộng đồng người Ðông Nam Á định cư. Gần như bất cứ tài tử nào nổi tiếng hoặc đang lên cũng đều được mời đóng những vai chính của các truyện Kim Dung. Phim Tiếu Ngạo Giang Hồ đã được quay ít lắm cũng 4 lần, trong đó vai Lệnh Hồ Xung có một lần do Châu Nhuận Phát đóng. Jet Li cũng đã từng thủ vai Trương Vô Kỵ lẫn Lệnh Hồ Xung. Tony Leung tức Lương Triều Vĩ vai Trương Vô Kỵ (Ỷ Thiên Ðồ Long) và Vi Tiểu Bảo (Lộc Ðỉnh Ký). Ca sĩ số 1 của Hongkong Andy Lau vai Khang Hy hoàng đế cũng trong Lộc Ðỉnh Ký. Và thích hợp nhất cho nhân vật Hoàng Dung trong Anh Hùng Xạ Ðiêu từ trước đến giờ vẫn là vai do tài tử đoản mệnh Ôn Mỹ Linh đóng.

    Hiện tượng lạ lùng nữa không đếm xỉa gì đến sức xoáy hao mòn của thời gian chính là việc say mê đọc truyện Kim Dung truyền qua nhiều thế hệ. Có thể nói thế hệ hiện nay mê đọc Kim Dung tại Việt Nam đã là thế hệ thứ ba hay thứ tư, kể từ khi Cô Gái Ðồ Long xuất hiện tại Sàigòn vào khoảng năm 1962. Dịch giả cũng chuyển qua nhiều thế hệ. Có nhiều dịch giả tại Việt Nam, và cũng có những nhà chuyển ngữ sinh sống bên ngoài Việt Nam. Tin tức mới nhất thu thập từ internet cho biết hiện nay ở Sàigòn, tại mỗi tiệm sách lớn, hằng tháng trung bình có chừng 30 người mua các bộ truyện Kim Dung mới được dịch lại. Một con số khá lớn đối với các tiểu thuyết ra đời cách đây hơn 30 năm.

    Một điểm nữa đáng để ý, các nhân vật trong những truyện kiếm hiệp của Kim Dung – không một người nào già ra hết. Lần cuối nếu đọc Ỷ Thiên Ðồ Long Ký tức Cô Gái Ðồ Long, vào năm 1965, ở đoạn kết thấy Trương Vô Kỵ giã từ vũ khí cùng với Triệu Minh cỡi ngựa về hướng mặt trời lặn theo kiểu Phạm Lãi với Tây Thi của nước Việt. Lúc đó, Vô Kỵ hứa với Triệu Minh chàng sẽ dành khoảng đời còn lại chỉ để kẻ lông mày của nàng thôi. Bây giờ nếu đọc lại Ỷ Thiên Ðồ Long Ký, dù với các bản “nhuận sắc” mới mẻ của Kim Dung hay các bản chuyển ngữ mới dùng nhiều từ mang Việt Nam tính hơn chút ít, người đọc vẫn thấy như vậy. Vẫn thấy Vô Kỵ cùng với Triệu Minh bỏ trốn khỏi doanh trại của Chu Nguyên Chương, người sau này đã thành công trong việc đánh đuổi giặc Mông Cổ (nhà Nguyên) và thiết lập triều đại nhà Minh. Chỉ trừ một vài thay đổi nhỏ, như Triệu Minh đã được tác giả đổi tên thành Triệu Mẫn chẳng hạn. Lệnh Hồ Xung cũng vậy. Cũng lém lỉnh nhưng chung thủy chung tình, với ngón Ðộc Cô Cửu Kiếm, trên cơ đường kiếm Tịch Tà Kiếm Phổ của các cao thủ đã phải chia lìa với “thằng nhỏ” mới tập luyện được. Hoàng Dung cũng vẫn còn đẹp gái, nhí nhảnh dễ thương như xưa. Dương Qua vẫn mỏi mòn đi tận chân trời góc biển để tìm Tiểu Long Nữ. Chỉ có điều tất cả các tài tử thủ các vai này đều đã già đi. Một số tài tử đã qua đời. Kim Dung và những người đọc tiểu thuyết của ông cũng vậy, cũng đều lớn tuổi thêm ra.

    Như các nhân vật khác, Vi Tiểu Bảo của Lộc Ðỉnh Ký cũng không già đi với thời gian. Có vẻ như chừng Vi Tiểu Bảo hãy còn sống ẩn danh đâu đó, với . . . 7 người vợ hiền, tại Vân Nam – tức nước Ðại Lý năm xưa của Ðoàn Nam Ðế, hay nước Ðiền Việt ở thời cổ đại. Trong khi vua Khang Hy – người bạn thuở thiếu niên của Vi Tiểu Bảo – đã tạ thế vào năm 1722 sau gần 60 năm trị vì.

    Hiện tượng này giống y như hiện tượng các tiểu thuyết của Ian Fleming và phim ảnh Hollywood về điệp viên 007 James Bond. James Bond sau hơn 40 năm kể từ phim Dr NO, vẫn giữ vững lưá tuổi 35-45 và vẫn trẻ mãi không già. Cô thư ký Moneypenny của xếp “M” cũng vậy, lại có vẻ càng ngày càng trẻ đẹp thêm ra. Trong suốt hơn 40 năm ròng đó, chỉ có xếp M hình như đã già đi, về hưu hay qua đời sao đó, để sở tình báo của Anh Quốc phải chọn một người nữ thay thế [1]. Trưởng phòng dụng cụ và máy móc Q cũng già và qua đời sau một tai nạn xe cộ, Sở Tình Báo phải mướn người khác thay thế [2]. Bối cảnh của các công tác James Bond cũng thay đổi với thời gian. James Bond trở thành một điệp viên lợi hại của Anh quốc nhờ ở những công tác trong thời chiến tranh lạnh giữa hai khối dẫn đầu bởi Mỹ và Nga. Chiến tranh lạnh cuối cùng cũng đi đến chung cuộc. Rồi biết bao nhiêu chuyện vật đổi sao dời trong suốt thời gian 40 năm dài đó. Những thay đổi về đối tượng tranh thủ để bảo vệ và duy trì hoà bình toàn cầu. Nhưng James Bond vẫn trẻ mãi , vẫn đấm đá mạnh mẽ như xưa, và quan trọng nhất, vẫn còn đầy đủ khả năng và phong độ để yêu những người đàn bà trẻ đẹp. Phải chăng hiện tượng trẻ mãi của James Bond, của những Vô Kỵ, Ðoàn Dự, Tiểu Long Nữ, Vi Tiểu Bảo, Triệu Minh, Vương Ngọc Yến, Hoàng Dung, Nhậm Doanh Doanh, Lệnh Hồ Xung, v.v. đều là những giấc mơ . . . tiên của con người?

    Trở lại chuyện Lộc Ðỉnh Ký. Mặc dù tại hạ đã đọc được chừng vài ba hồi trên các mạng kiếm hiệp, như www. Vietkiem.com hoặc www. Nhanmonquan.com, tại hạ thú nhận vẫn chưa làm quen được với việc . . . ngồi đọc truyện kiếm hiệp trước máy điện toán. Thói quen lâu năm khó bỏ. Bởi hồi xưa ưa đọc truyện Tàu, truyện Kim Dung ở trong . . .mùng, sau giờ giới nghiêm. Do đó nhân dịp một người cháu đi Việt Nam, tại hạ có nhờ người cháu đem qua cho bằng được một bộ Lộc Ðỉnh Ký – bản dịch mới của Cao Tự Thanh, nhà xuất bản Văn Học, 2002. Thế rồi cố gắng đọc quyển 1 của toàn bộ 10 quyển. Rồi quyển 2 cũng với một tốc độ bình thường như đọc những tiểu thuyết tình cảm tâm lý xã hội, hoặc phiêu lưu đường rừng. Sang đến quyển thứ 3 trở đi, vô hình chung người đọc bắt đầu phải gia tăng tốc độ, đọc ngấu đọc nghiến, háo hức xem tiếp xem tiếp. Xem xem Vi Tiểu Bảo có thoát hiểm được hay không. Hoặc rốt cuộc có uống được một liều thuốc bổ nào đó chăng, như máu rắn, hoặc ăn được ếch xanh, để cấp tốc gia tăng nội lực theo với nhu cầu giải quyết các mâu thuẫn khó khăn của cuộc đời. Hoặc giả Vi Tiểu Bảo có tình cờ gặp được một vị kiếm sư nào đó đang ẩn danh nay đây mai đó truyền lại cho chàng một đường kiếm hay một ngón chưởng nào đó đã thất truyền lâu năm. Ðể Vi Tiểu Bảo có thể đứng ra làm. . . võ lâm minh chủ theo như truyền thống lâu đời của truyện kiếm hiệp. Những háo hức và hồi hộp đó chỉ có đối với người đọc Lộc Ðỉnh Ký lần đầu. Do đó tựa đề “Thử đọc lại Kim Dung” chính ra không được chính xác mấy. Tuy nhiên để gây sự liên tục với 3 bài trước, đành phải giữ nguyên tựa cũ.

    Bối cảnh lịch sử

    Lộc Ðỉnh Ký được dựng lên vào khoảng 10-20 năm đầu của triều đại Khang Hy nhà Thanh.

    Người ta còn nhớ, Chu Nguyên Chương nổi dậy đánh đuổi được quân Mông Cổ tức nhà Nguyên, và thiết lập nên nhà Minh vào năm 1368. Truyền lại vài đời vua, nhà Minh bắt đầu suy thoái vào khoảng đầu thế kỷ thứ 17. Giặc giả cướp bóc nổi lên khắp nơi (xin xem “Bích Huyết Kiếm” của Kim Dung). Ðáng kể nhất có 3 đám: 1 đám chiếm cứ đảo Ðài Loan, một băng do Trương Hiến Trung cầm đầu và nhóm thứ ba là nhóm của Lý Tự Thành. Người Mãn Thanh ở phía bắc Hắc Long Giang gần bán đảo Triều Tiên nhân cơ hội nhà Minh suy yếu cũng tràn sang đánh chiếm phía bắc Trung Hoa.

    Vào năm 1642, Lý Tự Thành dẫn quân chiếm được Khai Phong rồi thừa thắng xông lên, quay qua đánh chiếm Thiểm Tây và thủ phủ Tây An, rồi tự xưng mình làm vua. Sau đó quân Lý Tự Thành vượt sông Hoàng Hà sang chiếm Sơn Tây rồi bao vây Bắc Kinh, kinh đô của triều đại vua Sùng Trinh nhà Minh. Triều đình nhà Minh lập tức triệu tướng Ngô Tam Quế đang ở mặt trận phía Bắc chống cự với quân Mãn – trở về để cứu nguy. Ngô Tam Quế được lệnh triệu hồi hơn cả tuần nhưng vẫn chần chờ, suy tính thiệt hơn, nhất là các nguyên tắc “đầu tiên”. Bởi triều nhà Minh đã hết sức suy thoái và không còn tiền đâu để trả lương cho lính nữa. Sùng Trinh, vua cuối cùng của triều Minh đành phải tự treo cổ trên một nhánh cây ở ngọn đồi sau cung điện. Thái giám Vương Thừa Ân tuẫn tiết theo vua. Lý Tự Thành tiến vào cung điện và lên ngai vua.

    Sau đó Lý Tự Thành phải đem quân đi đánh dẹp Ngô Tam Quế. Khi Lý Tự Thành đã bao vây được Ngô Tam Quế và sắp sửa thắng, quân Mãn Thanh đáp ứng lời cầu viện của họ Ngô, nhảy vào can thiệp. Lý tự Thành đang thắng trở thành thua, rút quân về Bắc Kinh, lo vơ vét vàng bạc châu báo rồi cùng quân đội tháo chạy. Ngô Tam Quế ngây thơ tưởng quân Mãn Thanh sau khi giúp hạ Lý Tự Thành – sẽ chia chác một số quyền lợi nào đó rồi rút lui. Nhưng không, quân Thanh vào tới Bắc Kinh mới viện cớ nước Tàu chưa yên nên sẽ ở lại bình định một thời gian rồi hãy hay. Viên phụ chính của Mãn Thanh bồng đứa cháu mới 7 tuổi đưa vào Bắc Kinh và đặt lên ngôi vua. [Ðó là vua Thuận Trị, thân phụ của vua Khang Hy. Vua Thuận Trị về sau xuất gia đi tu (theo Lộc Ðỉnh Ký) và nhường ngôi lại cho Khang Hy lúc đó mới 8 tuổi. Khang Hy chỉ thật sự cầm quyền lúc 13 tuồi.]

    Ngô Tam Quế mất cả chài lẫn chì, vừa mất ngôi vua hay ít lắm cũng chức Tể tướng, vừa mất người ái thiếp đệ nhất mỹ nhân thiên hạ Trần Viên Viên (có xuất hiện trong Lộc Ðỉnh Ký). Ngô Tam Quế được nhà Thanh thưởng công, phong Vương cai trị miền Thiểm Tây. Nhưng, đối với người Hoa nói chung Ngô Tam Quế mang tội phản quốc, một tướng lãnh người Hán lại mở cửa cho quân Mãn Thanh vào chiếm nước Tàu.

    Quân đội Mãn Thanh sau khi bình định được phía Bắc, tiến xuống đánh Nam Kinh và Dương Châu (quê hương của nhân vật Vi Tiểu Bảo) rồi thôn tính trọn nước Tàu – chỉ trừ Ðài Loan đến gần cuối truyện Lộc Ðỉnh Ký mới xong. Các phản tướng khác, Trương Hiến Trung bị quân Thanh bắt chém, còn Lý Tự Thành bị quân dân bỏ rơi và tuyệt tích giang hồ. Có sách ghi Lý Tự Thành bị quân dân giết chết. Có sách chép Lý Tự Thành khoác lên mình chiếc áo cà sa và đi tu luôn.

    Từ đời Thuận Trị cho đến Khang Hy, tôn thất nhà Minh vẫn còn nổi lên lo việc phục quốc. Có ba nhóm đáng kể: Lỗ Vương ở Chiết Giang, Ðường Vương ở Phúc Kiến, và Quế Vương ở Quảng Ðông. Lỗ Vương và Ðường Vương, ông thì bịnh chết, ông bị quân Mãn bắt. Chỉ có Quế Vương chống cự hơi dai. Về sau, Quế Vương thua chạy sang Miến Ðiện (Myanmar bây giờ), bị vua Miến Ðiện trao trả lại cho Ngô Tam Quế và bị giết chết vào lúc Khang Hy mới lên ngôi vua [Ðoạn này được mô tả trong quyển 1 của Lộc Ðỉnh Ký]. Một trong những đại tướng của Ðường Vương là Trịnh Thành Công dẫn binh sĩ bộ hạ di tản sang Ðài Loan, tiếp tục kháng chiến. Một phần lớn của Lộc Ðỉnh Ký được xây dựng trên những giao tác giữa các phe phái còn lại của Ðường Vương, Quế Vương, Lỗ Vương, và phe của phản tướng Ngô Tam Quế. Và giao tác của những nhóm này cùng với Tây tạng, Mông Cổ và nước Nga đối với triều đình nhà Thanh của vua Khang Hy. Nhiên liệu dùng để vừa hoá giải vừa kích động cho những giao tác chính trị, quân sự và văn hoá của tất cả các thế lực khác nhau đó, là nhân vật chính của truyện Lộc Ðỉnh Ký, mang tên Vi Tiểu Bảo.

    Người Mãn Thanh cai trị nước Tàu từ năm 1644 mãi cho đên cuộc cách mạng Tân Hợi 1911 mới cáo chung. Thời gian đó dài gấp 3 lần thời gian quân Mông Cổ cai trị Trung quốc dưới danh hiệu nhà Nguyên.

    Hầu hết các sử gia, ngay cả sử gia Trung quốc, đều đồng ý nhau rằng người Mãn Châu rất khôn khéo trong việc chính trị, và già tâm lý hơn người Mông Cổ. Có lẽ cũng do ở đất Tàu quá rộng, dân lại đông, đông hơn quân dân Mãn Thanh chiếm đóng. Tuy vậy, những biện pháp dùng uy để cai trị của người Mãn Thanh không kém tàn ác. Thí dụ như bắt dân Tàu phải để một loòng tóc bím chạy tới lưng, ai không tuân lệnh bị chặt đầu.

    Ban đầu quân Mãn Thanh có chính danh: mang quân vào Trung quốc để giúp trừ khử các băng đảng ăn cướp như Lý Tự Thành. Ðến lúc mới chiếm đóng, họ ra lệnh quân lính trả lại tài sản của dân chúng lính họ đã “chôm” trong một hai năm chiến tranh. Họ cũng trưng dụng các cựu thần nhà Minh, xử dụng cả hai thứ tiếng Mãn và Hán. Và lập lại những khoa thi cử như xưa, chứ không đi theo vết bánh xe cũ của nhà Nguyên. Các chức vụ lớn ở triều đình luôn luôn giao cho 2 người, một Mãn, một Hán. Tại lục Bộ, mỗi bộ có một Thượng Thư và hai Thị lang người Mãn, một Thượng Thư và hai Thị lang người Hán. Chức vụ tổng thống một số tỉnh dành cho người Mãn, nhưng tỉnh trưởng từng tỉnh cho một người Hán. Sau trên 260 năm cai trị người Mãn dần dà bị . . . đồng hoá với người Hoa, và các phong trào phản Thanh phục Minh cũng xuội lơ với thời gian bởi người Mãn rất thành công trong việc an dân kiến quốc. Có thể nói nhiều khi hay không bằng hên, 3 ông vua đầu trào Khang Hy, Ung Chính và Càn Long đều là những “minh quân”, rất giỏi và . . . sống lâu – tổng cộng triều đại các vị này kéo đến hơn 120 năm [3].

    Lộc Ðỉnh Ký và Vi Tiểu Bảo

    Nhân vật chính Vi Tiểu Bảo lúc đầu truyện chỉ là một thanh niên chừng 13-14 tuổi. Con của một kỹ nữ tại thành Dương Châu, nhưng không biết cha là ai, Vi Tiểu Bảo thất học từ nhỏ, sống và lớn lên trong kỹ viện Lệ Xuân, nơi bà mẹ làm việc. Vi Tiểu Bảo mang nhiều tính điếm đàng và khôn lanh kiểu chợ trời. Thích phụ nữ đẹp, không kể già hay trẻ. Thích đánh bạc và thảy xí ngầu lắc.

    Vào một dịp tình cờ Vi Tiểu Bảo đi theo kiếm khách Mao Thập Bát lên Bắc Kinh. Ðến nơi do một sự hiểu lầm, y bị bắt đem vào cung điện, và trở thành thái giám bắt đắc dĩ, mặc dù “thằng nhỏ” chưa bị hề hấn gì. Với công việc của một thái giám giả, Vi Tiểu Bảo được dịp làm quen với vua Khang Hy lúc đó mới chừng 15-16 tuổi. Hai người ưa tập luyện võ với nhau. Thường thường Vi Tiểu Bảo bị đánh sưng mình sưng mẩy bởi anh ta không rành võ nghệ, và lại luời biếng học. Sự nghiệp tại Thanh triều bắt đầu lên khi Vi theo lệnh ngầm của Khang Hy ra tay dùng thủ đoạn hạ cấp để bắt được tướng Ngao Bái – rồi sau đó đánh thuốc độc hạ sát Ngao Bái trong tù. Bên ngoài, trong chốn dân gian tướng Ngao Bái có rất nhiều kẻ thù, nên khi nghe tin Vi Tiểu Bảo hạ được Ngao Bái giới giang hồ rất khâm phục và tưởng lầm y là một cao thủ võ lâm hãy còn trẻ tuổi. Lãnh tụ của một phe phản Thanh phục Minh, Thiên Ðịa Hội, và cũng đồng thời quân sư của Trịnh Vương (phe phục Minh) ở Ðài Loan, là Trần Vĩnh Hoa tức Trần Cận Nam lập tức kết nạp y vào Thiên Ðịa Hội [4]. Trong Thiên Ðịa Hội, Vi Tiểu Bảo tuy mới chừng 15 tuổi được phong chức Hương chủ của Thanh Mộc Ðường, vai vế tương đương với 4 Hương Chủ khác đã lừng danh trong chốn giang hồ, và cũng trở thành đệ tử của Trần Cận Nam. Vốn tính đàng điếm, cơ hội chủ nghĩa, Vi Tiểu Bảo nhận chức vụ của Thiên Ðịa Hội qua loa để được tự do trở về hoàng cung. Từ đó về sau, y không bao giờ chịu khó học võ gì với Trần Cận Nam mặc dù mang tiếng đồ đệ. Tuy nhiên cũng kể từ đó trở đi y trở thành một thứ gián điệp nhị trùng giữa Thiên Ðịa Hội và vua Khang Hy. Rồi sau này, gián điệp tam trùng, tứ trùng cho các phe phái khác nhau.

    Vi Tiểu Bảo bắt đầu có một món tiền lớn nhờ ở việc chia chác tài sản của Ngao Bái sau vụ kiểm kê. Y cũng chứng kiến nhiều vụ xì-căng-đan cùng những thâm cung bí sử. Ðáng kể nhất Vi biết Thái hậu hiện tại không phải mẹ ruột của Khang Hy và cũng lại có phần trong việc ám hại mẹ ruột của hoàng đế. Ngoài ra y còn biết phụ hoàng của Khang Hy hãy còn sống, mà chính Khang Hy không hề biết. Phụ hoàng chính là vua Thuận Trị hiện đã quy y cửa Phật và tu tại Ngũ Ðài ở gần chùa Thiếu Lâm. Vi cũng làm quen được với công chúa Kiến Ninh, vai em bà con gần của Khang Hy. Y cũng khám phá một bí mật kinh thiên, động địa. Cả Thái hậu, vua Khang Hy và nhiều phe phái phản Thanh phục Minh đều đang tìm kiếm một bộ sách bí truyền gồm cả thảy 8 quyển mang tên Tứ Thập Nhị Chương Kinh. Ai làm chủ được hết cả bộ sách đó sẽ ráp lại được một bản đồ chỉ nơi chôn dấu kho tàng châu báu của người Mãn Thanh. Ðịa điểm chôn dấu của kho tàng đó cũng là LONG MẠCH của nhà Thanh. Và tất nhiên khi Long Mạch bị phá tan, nhà Thanh sẽ suy tàn. Thái hậu, vua Khang Hy, Ngô Tam Quế, thiền sư Hành Si tức vua Thuận Trị xưa, một hoàng thân, v.v. mỗi người giữ được một quyển của bộ sách đó. Ðịa điểm chôn dấu kho tàng và cũng là Long Mạch của nhà Thanh nằm ở chân núi mang tên Lộc Ðỉnh Sơn – nơi có rất nhiều con lộc tức con hươu – tại biên giới giữa Mãn Châu, Nga La Tư và bắc Trung Hoa, gần Hắc Long giang tức sông Amour. Về sau, nhờ ở lanh tay lẹ chân, và nhiều ngón nghề thu thập được ở kỹ viện (tức nhà chứa gái mãi dâm), mặc dù không có chủ tâm, Vi Tiểu Bảo dần dà qua nhiều chuyến phiêu lưu và năm tháng đã “chôm” được toàn bộ Tứ Thập Nhị Chân kinh. Nhờ đó y biết được địa điểm của Lộc Ðỉnh Sơn. Y lại rất mánh trong việc nhờ người hộ vệ nữ phái Song Nhi (về sau thành 1 trong 7 vị hiền thê của y) ráp lại bản đồ Lộc Ðỉnh Sơn từ hàng trăm bản vẽ trên da dê, dấu trong những quyển sách, rồi khâu sách lại – trừ những miếng da dê đó – dâng cho Khang Hy.

    Với biệt tài “vỗ mông ngựa” tức bợ đỡ cấp trên, Vi Tiểu Bảo đem những gì y biết được về tung tích của cựu hoàng Thuận Trị và hành vi mờ ám của Thái Hậu tâu với Khang Hy. Khang Hy mới sai Vi đi lên núi Ngũ Ðài tìm Thuận Trị. Dọc đường Vi cũng gặp nhiều chông gai nguy hiểm bởi có nhiều phe phái kể cả vài Lạt Ma từ Tây Tạng đang tìm kiếm Thuận Trị để lấy một quyển của bộ Tứ Thập Nhị Chương Kinh kể trên. Nhờ ở tài miệng mép, Vi thoát hiểm trở về trao quyển sách bí truyền đó cho nhà vua. Khang Hy vẫn thấy chưa yên tâm quyết định cải trang thân hành lên Ngũ Ðài để gặp phụ vương Thuận Trị. Nhưng vua phái Vi Tiểu Bảo đi trước, và chỉ định Vi làm “thiền sư” phụ tá Phương Trượng ở chùa Thiếu Lâm để học . . . nghề tu một thời gian – trước khi chính thức chuyển sang trụ trì chùa Thuận Trị đang tỉnh tu. Trong chuyến đi này Vi đụng độ với nhiều cao thủ trong chốn giang hồ. Trong đó có Trang gia chủ, bởi mang ơn Vi đã giết kẻ thù toàn gia đình là Ngao Bái nên . . . tặng cho Vi một a-hoàn vừa giỏi võ nghệ vừa đẹp tên Song Nhi theo y làm bạn đồng hành và cũng để bảo vệ cho y. Song Nhi sau này thành một người vợ của Vi Tiểu Bảo, và chỉ có Song Nhi được chọn – trong 7 người vợ – đi theo nguyên soái Vi Tiểu Bảo trong chiến trận với Nga La Tư về sau. Vi Tiểu Bảo cũng gặp và trồng cây si với người đẹp A-Kha, con của đệ nhất mỹ nhân Trần Viên Viên và Lý Tự Thành. Vi còn gặp công chúa con của vua cuối nhà Minh Sùng Trinh, với pháp danh Cửu Nạn ni cô, rồi được Cửu Nạn nhận làm đồ đệ. Nhưng rốt cuộc Vi cũng chẳng học được món võ gì hết trừ món “chạy trốn kẻ địch”. Vi lại đụng độ với các cao thủ Tây Tạng rồi nhờ thủ đoạn giảo huyệt gài giết được khoảng năm bảy cao tăng Tây Tạng. Trong những chuyến đi – theo sứ mạng Khang Hy giao phó – Vi với tư cách một Hương chủ của Thiên Ðịa hội thường mang theo cả chục cao thủ Thiên Ðịa hội trà trộn cải trang thành quân lính nhà Thanh. Những cuộc đụng độ giữa phe Thiên Ðịa Hội với các phe khác cũng cùng chung chí hướng phản Thanh phục Minh, hoặc tiêu diệt Ngô Tam Quế, vẫn thường xảy ra. Nhất là đụng độ giữa Tổng lý Trần Cận Nam với Trịnh Khắc Sảng – con trai thứ của Trịnh Vương, chủ nhân của Trần Cận Nam và phục quốc quân ở đảo Ðài Loan.

    Sau đó Vi Tiểu Bảo bị một phe khác bắt đưa về một hải đảo của Thần Long giáo. Một băng đảng thảo khấu lớn đang muốn chiếm đoạt bản đồ của kho tàng nhà Thanh ở Lộc Ðỉnh Sơn, và hiện đang cấu kết với nước Nga để đánh nhà Thanh. Tại đảo của đảng Thần Long, Vi Tiểu Bảo một lần nữa áp dụng võ . . . mồm, và cơ hội chưởng pháp – được Hồng giáo chủ và phu nhân xinh đẹp nhận làm đồ đệ và phong cho y chức Bạch Long Sứ – một trong 5 chức vụ phụ tá Hồng giáo chủ. Vi nhận sứ mệnh mới trở lại hoàng cung tìm cách đánh trộm vài quyển Tứ Thập có bản đồ của kho tàng ở Lộc Ðỉnh Sơn.

    Vi Tiểu Bảo lợi dụng những hiểu biết về các phe phái chống Thanh, và những quen biết trong triều, gây được lợi cho nhiều thế lực đối chọi lẫn nhau. Thêm vào đó, Vi đã chu toàn được nhiều công tác cho Khang Hy – kể cả có lần y nhảy ra bao che cứu Khang Hy khỏi cái chết trong đường tơ kẻ tóc, nên được thăng quan tiến chức như diều.

    Trở lại hoàng cung Vi được công chúa Kiến Ninh, em bà con Khang Hy, đem lòng trìu mến. Kiến Ninh mới biết thực sự Vi Tiểu Bảo vẫn chưa bị mất . . . thằng nhỏ và hãy còn “gin”. Nhưng Khang Hy thì mãi về sau mới biết. Muốn thử một địch thủ chính trị và quân sự lợi hại Ngô Tam Quế, Khang Hy nghĩ ra kế gả em gái Kiến Ninh cho con trai của Quế là Ngô Ứng Hùng, rồi đưa Hùng về Kinh giữ làm con tin. Ngoài ra Khang Hy biết Ngô Tam Quế có giữ 1 cuốn sách của bộ Tứ Thập Nhị Chương Kinh. Khang Hy phái Vi Tiểu Bảo hộ tống công chúa Kiến Ninh đi đến vương phủ của Ngô Tam Quế để làm lễ đính hôn, một công đôi ba việc. Dọc đường Vi ăn nằm với công chúa để về sau công chúa phải mê mệt, có mang với y, và trở thành một người vợ của y. Tại vương phủ của Ngô ở Vân Nam, Vi ăn cắp được quyển sách quý về Lộc Ðỉnh Sơn, bắt được một gián điệp Mông Cổ, và đấu trí với Ngô Tam Quế. Công tử Ngô Ứng Hùng bị hôn thê Kiến Ninh dùng súng người Tây dương tặng, đánh vào đầu bất tỉnh để rồi bị cắt đi “thằng nhỏ” trở thành . . . thái giám bất đắc dĩ cho chính người vợ Mãn Thanh. Sau đó Ứng Hùng bị Vi tìm cách dẫn về Bắc Kinh rồi sau này bị chặt đầu khi Ngô Tam Quế dấy quân phản lại nhà Thanh.

    Trong một lần phiêu lưu với Song Nhi về mạn bắc để tìm núi Lộc Ðỉnh, và lúc chạy trốn bọn Thần Long giáo, Vi tình cờ quen được công chúa Tô Phi Á (Sophia) của nước Nga. Hai người thấy thích nhau rồi Sophia đem người tình họ Vi về Mát-Cơ-Va. Nhân một cuộc chính biến Vi bày kế và giúp cho Sophia cướp lại được chính quyền. Nhờ đó khi Vi Tiểu Bảo trở về Bắc Kinh, thái hậu nhiếp chính Sophia của Nga giao cho y dâng lên Khang Hy một lá thư cầu hoà đôi bên.

    Khang Hy tiếp tục giao Vi Tiểu Bảo nhiều sứ mệnh khó khăn như đi về quê của Vi là thành Dương Châu để hiểu dụ dân chúng, đi dẹp đảng Thần Long giáo ngoài một hải đảo, hoà giải với các lực lượng Mông Cổ và Tây Tạng, v.v. Tại Dương Châu, Vi Tiểu Bảo được trùng phùng với mẹ. Và ở ngay tại kỹ viện trong một dịp may hiếm có, y . . . xơi tái hết những người đàn bà y thương trộm nhớ thầm, hay trồng cây si lâu năm. Nhân dịp mấy người này bị bất tỉnh vì thuốc mê sau một trận đấu giữa các phe đối nghịch với nhau, mặc dù cùng chung một mục đích phản Thanh hoặc tiêu diệt phản thần Ngô Tam Quế. Trong những người phụ nữ này có cả Tô Thuyên tức phu nhân Hồng giáo chủ của Thần Long giáo – đáng tuổi má y. Những người này sau đó đều trở thành vợ của y. Sở dĩ Khang Hy phải hiểu dụ dân Dương Châu bởi lúc quân Mãn Thanh mới tiến chiếm Trung Hoa, họ đã tàn sát hàng ngàn người Dương Châu vô tội, sách vở thường gọi “Mười ngày thảm khốc ở Dương Châu”.

    Sau trận đánh dẹp Thần Long giáo, Vi Tiểu Bảo bị lạc vào một hoang đảo cùng với 7 người vợ. Hồng giáo chủ bị tử vong vì các bộ hạ không phục và bội phản. Tổng lý của Thiên Ðịa Hội Trần Cận Nam cũng bị công tử con của minh chủ mình là Trịnh Khắc Sảng đâm lén sau lưng tử mạng. Trước khi chết Trần Cận Nam dặn Vi Tiểu Bảo không được trả thù mà làm hỏng chuyện lớn. Ở trên đảo với 7 người vợ, Vi Tiểu Bảo có vài đứa con. Vua Khang Hy biết được Vi ở đó, tiếp tục giam lỏng y cho tới khi y theo một đô đốc về Ðài Loan và giúp mưu bình trị hòn đảo này. Trịnh Khắc Sảng đầu hàng và bị giải về Bắc Kinh. Trong thời gian Vi và 7 vợ sống trên đảo, Khang Hy dẹp hết tất cả các phiên vương và những phong trào phục hưng nhà Minh, kể cả Ngô Tam Quế.

    Trở về Bắc Kinh Vi Tiểu Bảo được phong làm nguyên soái tư lệnh chiến dịch đánh Nga La Tư để hoạch định lại biên giới Nga-Hoa. Nhờ ở người tình không biên giới Sophia, và khả năng quân sự . . . kiểu chợ trời, chiến dịch Nga La Tư thành công mỹ mãn.

    Vi Tiểu Bảo ca khúc khải hoàn trở về Bắc Kinh. Sau cùng y bị cả hai phe Khang Hy và phe chống Thanh triều nhất là dư đảng Thiên Ðịa Hội ép buộc y phải dứt khoát chọn một trong hai đường. Vi Tiểu Bảo theo bản năng tự nhiên của con người y, chọn đường thứ ba: Về Dương Châu rước mẹ, xong rồi giả chết, nhưng thực ra đem bầu đoàn thê tử và một gia tài kếch xù về Vân Nam sống ẩn danh, trong hạnh phúc cuộc đời. Vi Tiểu Bảo cố tình quên đi kho tàng to lớn ở Lộc Ðỉnh Sơn cũng như việc phá bỏ long mạch của nhà Thanh. Bí mật đó chìm luôn dưới dòng thời gian.

    Ngũ Hành và Vi Tiểu Bảo

    Khác với ba bài về Kim Dung trước đây, “Ðọc Lại” lần nầy thật ra chỉ đọc lần đầu. Phim video do Lương Triều Vĩ và Andy Lau đóng chỉ mới xem đến tập thứ 3. Nhiều chi tiết hay ho chắc chắn chưa được khám phá hoặc thấu triệt. Trong đó có những gút mắt của thuyết Ngũ Hành. Tuy nhiên nếu tính nhẩm, có thể thấy ngay nếu chờ đọc lại hoặc xem phim tập hai ba lần chắc không bao giờ viết nổi một cái gì về Lộc Ðỉnh Ký hết. Bởi nó sẽ dài, thật dài, đủ in thành một tập sách nhỏ. Quá nhiều điểm thật hay và lý thú. Kim Dung thật sự đã dùng hết 10 thành công lực và các tuyệt chiêu để tạm kết thúc và đánh dấu sự nghiệp trước tác của ông.

    Trước hết xin thử khảo sát sơ qua thuyết Ngũ Hành. Một cấu trúc về tương quan nhân vật gần như ắt có và đủ trong các truyện Kim Dung [5]. Tóm tắt, Ngũ Hành gồm 5 yếu tố: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, được biểu tượng bằng 5 hướng Tây, Ðông, Bắc, Nam, Trung – tương đương với 5 màu: Trắng (bạch), Xanh (thanh), Ðen (hắc), Ðỏ (hồng), Vàng (hoàng). Mỗi người thường mang một mạng. Mạng này khắc (trị) được mạng kia, và tạo thành một vòng tròn kín. Thí dụ Chu Chỉ Nhược mạng Thủy, Trương Vô Kỵ mạng Hỏa. Thủy khắc Hỏa. Chu có thể khắc phục được Trương nhờ ở mạng Thủy hơn là tài năng. Năm yếu tố này cũng tạo nên một vòng nữa chỉ mạng này hỗ trợ (giúp) cho mạng kia. Thí dụ: Hoàng Dung (mạng Mộc) và Quách Tỉnh (mạng Hỏa). Mộc sinh (trợ) Hỏa. Hoàng Dung giúp Quách Tỉnh rất nhiều trong việc học tập võ nghệ.

    Vậy thử xem qua vài nhân vật trong Lộc Ðỉnh Ký và mạng ngũ hành của họ. Trước hết, Vi Tiểu Bảo mạng gì? Mạng Thổ. Bởi Vi Tiểu Bảo người gốc Dương Châu ở miền Trung (mạng Thổ) nước Tàu. Ta có thể kiểm chứng mạng Thổ của Vi Tiểu Bảo rất dễ. Sự nghiệp của Vi bắt đầu lên khi Vi dùng mưu hạ cấp thảy bột vôi vào mắt của tướng Ngao Bái, rồi đâm một nhát dao và bắt sống được Ngao. Sau đó Vi theo lệnh ngầm ném đá dấu tay của vua Khang Hy đi vào lao xá đánh thuốc rồi giết Ngao Bái. Ngao Bái một tướng với võ công vô địch của Thanh triều sao lại bị một đứa trẻ con không biết võ hạ sát dễ dàng như vậy? Chỉ vì mạng Thổ của Vi Tiểu Bảo khắc mạng Thủy (màu Ðen, hướng Bắc) của Ngao Bái. Kim Dung nói rõ Ngao Bái mạng Thủy cũng giống y như mạng Thủy của Chu Chỉ Nhược trong Cô Gái Ðồ Long. Ðó là màu “đen xì” của con dao trủy thủ rất bén – chém đá như chém bùn – của Ngao Bái. Vi Tiểu Bảo tìm được con dao này khi kiểm kê tài sản Ngao Bái, rồi chôm con dao đó luôn. Ngoài ra họ Ngao cũng ám chỉ một loài động vật sống dưới nước, mạng Thủy. Y hệt bảo đao Ðồ Long Chu Chỉ Nhược chôm được từ Tạ Tốn cũng màu “đen xì”, và Chỉ Nhược là con của một ngư ông chuyên nghề đánh cá trên sông. Ngao Bái mang mạng Thủy như Chu Chỉ Nhược.

    Vua Khang Hy và công chúa Kiến Ninh đều những người mang mạng Mộc (phía Ðông màu Xanh). Tại sao? Tại vì họ người Mãn Thanh. Thanh tức màu xanh. Mãn Thanh vị trí nằm ở ÐÔNG Bắc Trung Hoa. Mãn Thanh khắc phục và chiếm được Trung quốc (Trung= mạng Thổ). Mộc khắc Thổ. Khang Hy (mạng Mộc) nếu đấu võ với Vi Tiểu Bảo (Thổ) luôn luôn thắng hạ được Vi Tiểu Bảo. Kiến Ninh cũng vậy. Cũng hạ Vi Tiểu Bảo dễ dàng – ngay cả trong chuyện chăn gối phòng the, với chút ít tính sa-điết khổ dâm.

    Hai người vợ khác của Vi Tiểu Bảo: Phương Di và Mộc Kiếm Bình (họ Mộc) cũng đều mạng Mộc. Riêng Phương Di mang tên Di gợi lên từ lối gọi Bắc Dịch, Nam Man, Tây Nhung và Ðông Di của người Tàu từ thời Hán thời Ðường. Phương Di có thanh âm như Ðông Di, chỉ phương Ðông. Ðông tức mạng Mộc. Phương Di cũng xuất thân từ phe phản Thanh của Mộc Vương, mạng Mộc. Trong rất nhiều trường hợp, Vi Tiểu Bảo khi gặp người phụ nữ đẹp đều bị . . . thôi miên tức bị khắc phục trước sắc đẹp của họ. Vi chính mạng Thổ nên ưa bị khắc phục bởi các phụ nữ đẹp thuộc mạng Mộc. Bất kể già trẻ lớn bé.

    Tô Thuyên, tức phu nhân hờ – không chăn gối – của giáo chủ Thần Long giáo Hồng An Thông cũng vậy. Thuyên mang nghĩa một loài cỏ thơm, mạng Mộc. Tô Thuyên đáng tuổi như má của Tiểu Bảo và Kim Dung đã khơi dậy mặc cảm Oedipus trong tình vợ chồng của Bảo và Thuyên. Cũng như đã mô tả Vi Tiểu Bảo mê mệt bà Trần Viên Viên, má vợ của y về sau.

    Thế nhưng trong cái khung đối chiếu của Thần Long giáo, Vi Tiểu Bảo mang toạ độ gì? Vi Tiểu Bảo sẽ theo sắp đặt của Châu Dịch tức Kinh Dịch đổi ra mạng gì khi đứng trong hàng ngũ của Thần Long giáo? Mạng Kim, màu trắng, phương Tây. Bởi Hồng giáo chủ lúc kết nạp y vào bang giáo, vì có chỗ trống do sự qua đời của 1 trong 5 phó chủ tịch biểu hiệu cho ngũ hành, đã bổ nhiệm y làm Bạch Long Sứ. Bạch tức màu trắng, mạng Kim. Kim khắc được Mộc. Vi Tiểu Bảo (mạng Kim) làm cho Tô Thuyên (mạng Mộc) mang bầu rồi trở thành vợ của y. Trong lúc Tô Thuyên bật mí chuyện mang bầu với y, giáo chủ Hồng An Thông nổi giận giao đấu với tất cả các phó thủ lãnh kia. Hồng giáo chủ giết được các Long Sứ khác chỉ trừ Vi Tiểu Bảo bởi Vi Tiểu Bảo mạng Kim có thể khắc được mạng Mộc của Hồng An Thông. Chứ Thông mang nghĩa cây Thông (Mộc) không thể hạ được Vi Tiểu Bảo, mang mạng Kim trong vùng trời biển của Thần Long giáo. Hồng giáo chủ sau khi chiến đấu với các phó chủ tịch kia, đã bị thương, rượt đuổi Vi Tiểu Bảo không được – bởi Vi đã học được ngón nghề chạy trốn của Cửu Nạn ni cô – mệt quá lăn đùng ra chết. Ta để ý Kim Dung không cho vợ hờ Tô Thuyên hay Vi Tiểu Bảo giết Hồng giáo chủ bởi cả Tô Thuyên và Vi Tiểu Bảo đều là đệ tử của Hồng An Thông. Tô Thuyên mặc dù cũng đã là một cao thủ nhưng vẫn học được ít nhiều ngón nghề của Hồng An Thông. Vi Tiểu Bảo ngày trước được Hồng An Thông chỉ dạy một ngón võ nhảy lên vai của đối phương – nên một ngày là Thầy, muôn đời vẫn Thầy. Vi Tiểu Bảo dù thế ngũ hành có trên rơ Hồng giáo chủ cũng không thể giết Thầy được.

    Kinh Dịch cũng cho ta thấy khi vào Thiên Ðịa Hội Vi Tiểu Bảo chuyển sang mạng Mộc – màu Xanh, phương Ðông. Trần Cận Nam, lãnh tụ Thiên Ðịa Hội phong y làm 1 trong 5 phó lãnh tụ (cũng biểu tượng cho ngũ hành) với tước hiệu Hương Chủ của Thanh Mộc Ðường. Thanh tức màu Xanh, Mộc tức cây cối, màu xanh và mạng Mộc. Trần Cận Nam, trong tên có Nam, ám chỉ người phía Nam, mạng Hỏa, màu Ðỏ. Trong Ngũ Hành, Mộc sinh Hỏa. Mộc giúp đỡ cho Hỏa. Vi Tiểu Bảo đã giúp Trần Cận Nam rất nhiều trong công cuộc phản Thanh phục Minh của Thiên Ðịa Hội do Trần Cận Nam tức Trần Vĩnh Hoa lãnh đạo. Và sau cùng khi Trần Cận Nam bị Trịnh Khắc Sảng đâm lén chết Vi vẫn nghe lời trối trăn của Cận Nam không giết Khắc Sảng để trả thù. Mặc dù y có rất nhiều phương tiện trong tay để làm việc đó.

    Vi Tiểu Bảo trong phương thế mạng Thổ đã vận hành ra sao đối nữ hoàng Sophia (Tô Phi Á) của nước Ra-Sát (Russia) tức Nga? Ðầu tiên y gặp Sophia ở phía Bắc ngay tại biên giới 3 nước Tàu, Nga và Mãn Châu, lúc y đi tìm Lộc Ðỉnh Sơn. Sophia lúc đó trong thế tương đối mang mạng Thủy, bởi đang cư ngụ phía Bắc, và Vi từ phía Nam, mạng Hỏa. “Thủy- Sophia” chinh phục được “Hỏa- Tiểu Bảo” nhờ ở thân hình và nhan sắc diễm kiều, và rơ ngũ hành. Sau đó, Sophia đem Tiểu Bảo về Mát-Cơ-Va chơi. Vừa trở lại kinh thành, Sophia hay tin vua cha qua đời. Tiếp theo đó, một cuộc chính biến và Sophia bị giam lỏng. Vi Tiểu Bảo tìm cách cứu Sophia và thành công trong việc giúp Sophia nắm lại được chính quyền Nga – trong vai trò hoàng hậu nhiếp chính. Mạng Thổ chính tông của Vi (thể hiện từ việc Tiểu Bảo là người miền Trung và cũng Trung Hoa) đã giúp được Sophia, người Tây Phương, mạng Kim. Thổ sinh Kim. Thổ hỗ trợ Kim.

    Trong những người tình và vợ của Vi Tiểu Bảo, Kim Dung có vẻ chỉ chấm Song Nhi người vợ được Vi Tiểu Bảo yêu mến nhất. Song Nhi chính là người hộ vệ Vi Tiểu Bảo – che chở, bảo vệ và cứu mạng y trong những cơn nguy khốn. Xuất thân một a-hoàn của gia đình họ Trang có tinh thần phục quốc, Song Nhi được Trang gia chủ . . . tặng cho Vi Tiểu Bảo để đáp ơn đã giết kẻ tử thù Ngao Bái, và sau này gian quan Ngô Chí Vinh. Song Nhi mạng gì? Mạng Hỏa, phía Nam. Bởi Trang chủ người gốc ở trấn Nam Tầm, phủ Hồ Châu. Song Nhi mạng Hỏa giúp Vi Tiểu Bảo mạng Thổ. Giúp trong nghĩa nâng khăn sửa túi đến trọn đời. Hỏa sinh Thổ. Ðó là một luật của Ngũ Hành. Bằng chứng hiển nhiên nhất khi Vi Tiểu Bảo làm nguyên soái trong chiến dịch Tây chinh đi đánh với Nga về sau, Vi Tiểu Bảo chỉ chọn có Song Nhi cho đi theo, trong sự bất mãn của sáu người vợ kia.

    Trong việc giải quyết mâu thuẫn gây nên bởi thuyết Ngũ hành, Kim Dung nhất quyết không để lộ một chút sơ sót. Mâu thuẫn đó dễ xảy ra bởi truyện Tàu thường có rất nhiều nhân vật, và nhiều màn tình huống gay cấn khác nhau. Số nhân vật trong tiểu thuyết hình như mang tỉ lệ thuận với dân số của quốc gia. Dân số Việt Nam ít hơn dân Tàu nên tiểu thuyết Việt Nam có ít nhân vật hơn tiểu thuyết Tàu? Ðối với một tiểu thuyết kiếm hiệp có nhiều nhân vật chiến đấu lẫn nhau mà lại dựa trên Ngũ Hành sinh khắc, người viết phải rất thận trọng. Bởi A mang mạng X thắng B mang mạng Y thì được, nếu mạng X khắc mạng Y. Nhưng cũng đem A đó cho đánh với C mang mạng Z, người viết lập tức có một mâu thuẫn cần phải giải quyết. Bởi mỗi một mạng chỉ khắc (trị được) một mạng khác nữa mà thôi. A mạng X đã khắc B mạng Y rồi nên khó lòng khắc C mạng Z.

    Trong tất cả truyện của Kim Dung, mâu thuẫn Ngũ Hành đều được giải quyết ổn thoả. Trong “Võ lâm Ngũ Bá”, Vương Trùng Dương biệt hiệu Trung Thần Thông, người miền Trung ở gần Cổ Mộ (dưới đất) mạng Thổ. Dưới cơ mạng Mộc của Hoàng Dược Sư, ưa mặc áo xanh sống gần gũi những cây đào (mạng Mộc). Và mạng Thổ của Trung Thần Thông không thể trị được Tây Ðộc Âu Dương Phong, mạng Kim, áo màu trắng. Ðể hoá giải, Kim Dung cho Trung Thần Thông phải mượn ngón Nhất Dương Chỉ của Ðoàn Nam Ðế – phía Nam mạng Hỏa, mới thọc được một cú vào mặt Tây Ðộc cho y tởn tới già! Hỏa mới khắc được Kim. Ðông Tà nếu đánh nhau gay gắt có thể hạ được Vương Trùng Dương. Nhưng Kim Dung cho Vương bệnh chết sớm và lúc sống Ðông Tà vẫn mến phục Vương bởi Vương cũng giỏi chữ nghĩa bằng hoặc hơn Ðông Tà. Tuy vậy để thế Ngũ Hành vẫn được cân bằng, sau khi Vương chết đi, Kim Dung nâng cao vai trò Lão Ngoan Ðồng Châu Bá Thông, cũng mạng Thổ. Mộc khắc Thổ như thường: Ðông Tà mạng Mộc dễ dàng bắt được Châu Bá Thông, mạng Thổ và giam trên đảo Ðào Hoa suốt 20 năm. Trên đảo Ðào Hoa 20 năm, kinh dịch cho Châu Bá Thông biến dần sang mạng Mộc như ai – với cái tên sẵn có Thông, thuộc loài cây. Ngoài ra Kim Dung cho Thông phát minh ra một loại võ gọi Song Hổ đả bác. Mỗi tay đánh một kiểu quyền khác nhau. Hai tay như hai người. Ðể ý Song Hổ mang nghĩa 2 con cọp. Cọp sống ở đâu? Ở trong rừng. Rừng có nhiều Cây, mạng Mộc. Mộc của Thông dữ hơn Mộc của cây đào và cành hoa của Hoàng Dược Sư. Nên sau cùng Thông đánh được Hoàng Dược Sư và tự giải thoát cho mình. Ðánh lại được chứ không khắc được, bởi Thông mới chuyển sang mạng Mộc như Ðông Tà. Tương tự Tây Ðộc mạng Kim thật ra trên cơ Ðông Tà. Kim Dung cho hai người đó ít đánh nhau gay gắt và lại gán cho họ một thứ tình tương kính đồng nghiệp, giữa kẻ cướp với bà lão ăn trộm, của những người cùng chung nghề nghiệp với nhau. Nghề nghiệp của Ðông Tà và Tây Ðộc là lo đi chôm Cửu Âm Chân Kinh!

    Trong Lộc Ðỉnh Ký, khó nhất của Ngũ Hành là cái màn giáo chủ Hồng An Thông phải thanh toán năm vị phó chủ tịch kia, mang 5 mạng khác nhau của Ngũ Hành. Ðể cho thật chắc ăn, Kim Dung cho Hồng An Thông mang thật nhiều mạng. Cũng như cho Vi Tiểu Bảo chính mạng Thổ nhưng vào Thần Long giáo, châu dịch chuyển sang mạng Kim với chức Bạch Long sứ – màu trắng. Kim Dung cho Thông – chính mạng Mộc – họ Hồng để ám chỉ mạng Hỏa xơ-cua của Thông. Rồi còn cho Thông thêm một mạng phụ nữa, mạng Thủy với tước hiệu giáo chủ Thần LONG giáo. Long là rồng – sống ở dưới nước. Thần Long giáo cũng có sào huyệt trên đảo giữa vùng Nước biển mênh mông. Vi Tiểu Bảo với chức Bạch Long sứ (mạng Kim trong Thần Long giáo) không chết, bởi Bảo mạng Kim khắc được Thông mạng Mộc. Chứ Thông không thể giết được Bảo. Cái chết của 4 vị Long Sứ kia mỗi người một kiểu nhưng đều phù hợp lô-gích của Ngũ Hành. Ðối với Hoàng Long Sứ (hoàng = màu vàng) mạng Thổ, Kim Dung cho Thông, mạng Mộc chỉ cần chọi vào Hoàng một cục đá. Hoàng chết ngay, Mộc trị Thổ. Ðối với Hắc Long Sứ mạng Thủy thì sao? Hắc màu đen chỉ phương Bắc mạng Thủy. Nước giúp cây sinh sống. Thủy sinh Mộc chứ không khắc Mộc. Kim Dung khôn khéo né tránh việc mô tả Hắc Long Sứ bị chết như thế nào và chỉ mượn lời Thông nói lớn cho Hồng phu nhân nghe, đại khái: Hắc Long Sứ suốt đời theo hầu hạ giúp đỡ ta, về già tự nhiên nó đâm lòng phản, và nó đã chết rồi. Ta để ý Kim Dung muốn cho chắc ăn thêm vào “Hắc long sứ về già đâm lòng phản” tức Hắc Long sứ hoặc bởi già có thay đổi, châu dịch đã chuyển y sang mạng khác (để phản lại Thông), hoặc mạng xơ-cua Thủy của Thần Long giáo chủ đã làm cho y (cũng mạng Thủy) mệt rồi chết. Còn lại Thanh Long Sứ, màu xanh, mạng Mộc như Thông và Xích Long Sứ, màu đỏ, mạng Hỏa. Ta để ý Kim Dung tránh dùng Hồng Long Sứ mà chỉ dùng Xích Long sứ, cùng chỉ màu đỏ, để tránh trùng hợp với Hồng giáo chủ. Cái chết của hai vị phó thủ lãnh này cũng sẽ đưa đến cái chết của Hồng An Thông. Bởi mấy mạng này không ai khắc ai. Thanh Long sứ bị Thông đá gảy xương sườn nhưng hai tay ôm chặt lấy chân Thông để cho Xích Long sứ chém vào vai Thông một đao. Thanh Long sứ sau đó còn lượm được phán quan bút đâm vào sườn của Thông. Mộc trả đũa với Mộc. Rồi hai vị phó đó chết vì bị thương và kiệt sức. Thông sau đó cũng chết vì bị thương và đuối sức bởi rượt khắc tinh của y là Bạch Long Sứ Vi Tiểu Bảo, rượt mãi không được.

    Viết tiểu thuyết kiếm hiệp theo sát với Ngũ Hành thật ra rất khó. Hình như chưa có tiểu thuyết gia Trung quốc nào lại khoái Ngũ Hành dữ dội như Kim Dung. Và Kim Dung đã chứng tỏ ông không để một sơ hở nào trong việc áp dụng tương quan sinh khắc của ngũ hành vào các nhân vật.

    Vài chi tiết lý thú

    Người ta để ý Kim Dung qua Lộc Ðỉnh Ký đã tiếp tục khai triển những đề mục cũ và đồng thời đưa ra thêm các đề mục mới như sau:

    · Ðề mục một vai chính rất mù mờ về võ nghệ. Nối tiếp từ Ðoàn Dự trong Lục Mạch Thần Kiếm và Thiên Long Bát Bộ. Tuy nhiên Ðoàn Dự còn biết chữ nghĩa và biết được một hai ngón võ nghề như Lục Mạch Thần Kiếm và Lăng Ba Vi Bộ. Tuy nhiên võ của Ðoàn Dự khổ nỗi khi đánh ra được, khi không. Vi Tiểu Bảo mù chữ từ đầu đến đuôi mặc dù làm quan rất lớn. Võ nghệ chỉ học được một hai chiêu nhưng không đủ tự bảo vệ mình thì còn nói chi đến chỗ cứu người khác. Kim Dung đã tạo ra một đường hướng mới cho truyện võ hiệp: Nhân vật chính không cần giỏi võ nghệ, mà chỉ cần thông thuộc võ mồm.
    · Ðề mục liên quan đến kỹ viện, tức nơi lui tới của giới làng chơi, đã được giới thiệu qua Tiếu Ngạo Giang Hồ. Ở đó Kim Dung dùng kỹ thuật của ngành hài kịch, cho len vào một tình huống tương phản, mâu thuẫn: Ðưa cao đồ của một chính phái Lệnh Hồ Xung vào kỹ viện trốn tránh với một ni cô ở tuổi xuân thì.. Trong Lộc Ðỉnh Ký, Kim Dung phát triển đề mục kỹ viện đến tột độ. Một ông quan lớn triều Thanh Vi Tiểu Bảo xuất thân là con một kỹ nữ làm việc tại kỹ viện Lệ Xuân ở Dương Châu. Vi sinh đẻ và lớn lên tại kỹ viện. Những lúc thối chí chốn quan trường, y ưa ôm mộng đem tiền kiếm được về mua kỹ viện Lệ Xuân và mở thêm ra vài kỹ viện hạng nhất nữa. Ðệ nhất mỹ nhân làm nghiêng thành đổ nước Trần Viên Viên cũng xuất thân từ một kỹ viện lớn ở Tô Châu. Ở tuổi trên dưới 40, Trần Viên Viên, sau này là nhạc mẫu của Vi, cũng còn đẹp để làm chàng thanh niên Vi Tiểu Bảo mê say ngây ngất. Tiếu lâm nhất Kim Dung viết ra nhiều đoạn cài xen kẻ sinh hoạt chính trị với sinh hoạt chốn kỹ viện với nhau. Trịnh Khắc Sảng và A Kha vì muốn lùng bắt Vi Tiểu Bảo mới cải trang làm hai người đàn ông đi tìm hoa tại kỹ viện Lệ Xuân. Tình cờ Vi Tiểu Bảo phát hiện ra được và tìm cách đánh thuốc mê hai người. Bởi lúc nào y cũng thấp thỏm lo sợ kẻ tình địch y Trịnh Khắc Sảng sẽ lựa chọn má y để vui vầy qua đêm. Như vậy y sẽ trở thành con hờ của Khắc Sảng thì quá khổ. Sau khi bất tỉnh vì thuốc mê, A-Kha bị tơi bời hoa lá với Vi Tiểu Bảo, để rồi sau cùng lấy y làm chồng như 6 người đẹp khác
    · Tạo dựng kỹ viện song song với triều đình nhà Thanh, và vương điện của Phiên Vương Ngô Tam Quế, Kim Dung cho ta thấy nhiều điểm thật hay và ngộ, nhưng không kém chua chát của sự thật cuộc đời. Cả kỹ viện lẫn triều đình, nơi hành sự của chính trị trung ương, đều là chốn của những con người . . . giả [10]. Xưa nay người ta thường so sánh chính trường với sân khấu màn nhung, nhưng Kim Dung có lẽ nhà văn đầu tiên đem so sánh chính quyền với kỹ viện. Ði sâu hơn nữa, Kim Dung cho thấy cái trường đào tạo nên chính trị gia ưu việt Vi Tiểu Bảo không đâu khác hơn chính cái kỹ viện Lệ Xuân ở Dương Châu, nơi sinh trưởng của y. Giao tác giữa kỹ viện và chính trị cả nước còn được nhấn mạnh qua vai trò của kỹ nữ Trần Viên Viên, với sắc đẹp nghiêng thành đổ nước, đã làm điên đảo vua cuối nhà Minh, Lý Tự Thành, rồi Ngô Tam Quế, và bao nhiêu kiếm khách hiệp sĩ khác. Một người anh em kết nghĩa với Vi Tiểu Bảo là Hồ Dật Chi si mê bà Viên đến độ chỉ xin làm lao công tưới vườn nhà bà Viên để có thể ngày ngày nhìn ngắm bà trong lúc tưới cây!

    · Tiểu tiết “cắt đứt thằng nhỏ” thường gọi nôm na “thiến sống” cũng được Kim Dung phát huy tối đa. Trong “Tiếu Ngạo Giang Hồ”, Kim Dung nghĩ ra một thứ kiếm pháp mang tên Tịch Tà Kiếm Pháp chỉ dành đặc biệt cho người bán nam bán nữ mới tập được. Những người đó ngông cuồng . . . tự cắt mất “bảo bối” quý nhất của đàn ông để có thể luyện tập được món kiếm pháp cực kì lợi hại đó. Ðiều kiện cần và đủ để luyện tập Tịch Tà Kiếm pháp là người luyện phải tự . . . “thiến sống” hay chia lìa “thằng nhỏ” của mình. Giải thuyết đưa ra trong “Thử Ðọc Lại Kim Dung III” là Tịch Tà Kiếm pháp đòi hỏi người xử dụng phải vừa có tay chân nhanh nhẹn và khéo léo như một phụ nữ, vừa có đầy nội lực hùng hậu của một người đàn ông. Và theo Kim Dung, chỉ có một cách nhanh nhất để hội đủ hai điều kiện tương phản đó: người luyện kiếm phải . . . chia tay với thằng nhỏ. Kiếm pháp này đã do một thái giám phát minh ra đầu tiên! Trong Lộc Ðỉnh Ký, Kim Dung chiếu sáng đời sống của các thái giám trong triều nhà Thanh.

    Nhất là tâm lý của các phụ nữ khi gần gũi thái giám. Họ không lo sợ gì hết. Từ công chúa cho đến các công nương kiếm khách xâm nhập hoàng thành từ phía bên ngoài. Họ coi thường thái giám qua nhận diện cách ăn mặc. Họ biết thái giám chẳng làm gì được họ bởi không có vũ khí “thằng nhỏ” đó. Thái giám hỏi họ làm vợ họ cứ nhận bừa. Nhưng tiếu lâm ở chỗ trong đó có một tay thái giám giả hiệu xuất thân từ kỹ viện là Vi Tiểu Bảo. Thế mới biết đi đêm có ngày gặp ma. Kim Dung còn cho biết thái giám bởi không còn gì hết nên rất tham tiền, tham vàng bạc của cải. Chính nhờ đó, một thái giám giả hiệu người Hán Vi Tiểu Bảo đã dễ dàng mua chuộc họ bằng tiền bạc chôm từ những nơi khác.

    · Trong “Tiếu Ngạo Giang Hồ” Kim Dung bắt đầu giới thiệu cá tính chợ trời của một kiếm khách vai chính Lệnh Hồ Xung. Ðây thật ra là một tuyệt chiêu mới về tiểu thuyết kiếm hiệp. Nó phá tung những huyền thoại cổ điển về những người võ hiệp, như kiểu Cam Tử Long – Lã Mai Nương, Càn Long du Giang Nam, Quách Tĩnh, Trương Vô Kỵ, v.v.Theo đó những vai chính thường là những người đôn hậu chất phác, đôi khi hơi . . . cù lần. Trung thực và tình nghĩa tới cùng. Lời nói nào cũng xuất phát ở tận đáy lòng.

    Lệnh Hồ Xung không hoàn toàn như vậy. Hồ Xung mồm mép và mưu lược hơn người tuy bản chất vẫn trung hậu và đầy tình nghĩa. Một týp tiến sĩ chợ trời của giới giang hồ. Sang “Lộc Ðỉnh Ký” Kim Dung mô tả Vi Tiểu Bảo – so với tiến sĩ chợ trời Lệnh Hồ Xung – như một người xứng đáng nhận giải Nobel về thành tích chợ trời của y. Từ xuất xứ không biết cha mình là ai, môi trường sống không học không hành, đánh bài gian và thảy xúc xắc, cho đến móc túi và tham nhũng . Nhưng hơn cả Lệnh Hồ Xung, Vi Tiểu Bảo được tiếp cận và giao tác với những vấn đề to lớn hơn: những người đàn bà đẹp (thường lớn tuổi hơn y), tiền tài, danh vọng, việc mất nước về tay nhà Thanh, gián điệp muôn trùng, chính trị và quyền bính. Những thử thách to tát đó thường dễ dàng làm hư thối con người. Nhưng Kim Dung cho thấy đối với một vua chợ trời kiểu Vi Tiểu Bảo, các khó khăn đầy mâu thuẫn đó đều được hoá giải như chơi. Như một cơn bài mà Vi thường vui vẻ đánh với thủ hạ.

    · Kim Dung viết xong Lộc Ðỉnh Ký vào năm 1972. Lúc đó một nhận xét về đấm đá của người Tây phương chắc không có gì lạ. Nhưng đọc nhận xét này vào năm 2003, mới nhớ chuyện xưa. Người Tây phương trước thập niên 70 của thế kỷ trước, lúc đánh nhau, họ không hề hoặc rất ít khi dùng chân để đá nhau. Kim Dung đưa ra nhận xét này trong đoạn quân Thanh đánh nhau với quân Nga, dưới quyền chỉ huy của nguyên soái Vi Tiểu Bảo. Những phim Hollywood trước thập niên 70, không bao giờ thấy các vai trò trong phim dùng chân đá nhau theo kiểu Karate, Taek Won Do, hay Kung Fu. Ðiển hình các phim như Shane (Alan Ladd, Van Heflin), Giant (Rock Hudson, James Dean) và hàng trăm phim khác, nhất là loại phim cao-bồi, người ta thấy những vai trong phim đánh nhau mệt nghỉ. Toàn đánh đấm bằng tay thôi. Những cú đá bắt đầu len vào phim Âu Mỹ có lẽ bắt đầu từ phim loạt TiVi The Avengers ở cuối thập niên 1960. Với những cú đá kiểu karate của nữ tài tử Diana Rigg. Sau đó người lăng xê các cú đá kiểu kung fu vào “văn hoá” phim ảnh rồi đời sống toàn cầu chính là Lý Tiểu Long tức Bruce Lee. Rồi đến phim loạt cho Tivi Kung Fu với tài tử David Carradine. Và bây giờ phim nào có đánh nhau đều có đấm và . . . đá. Kim Dung đưa ra quy ước bất thành văn này để đối chiếu với các quy ước trong giới kiếm hiệp giang hồ Trung Hoa. Ðó là đánh lén, thảy bột vôi vào mắt địch rồi lợi dụng cơ hội nhào tới đâm địch nhân. Núp dưới gầm bàn rồi dùng dao chém chân địch. Tất cả những ngón này Vi Tiểu bảo đều xử dụng rất thuần thục. Trong đoạn đầu mặc dù y dùng thủ đoạn hạ cấp để cứu Mao Thập Bát, nhưng Mao Thập Bát vẫn mắng chửi y và từ chối không nhận y làm đồ đệ. Ðến sau này khi phải cấp bách cứu mạng Trần Cận Nam, chủ tịch Thiên Ðịa Hội, một người tiếng tăm lừng lẫy trong chốn giang hồ, Vi tiểu Bảo lại dùng ngón “nghề của chàng” nữa. Sau đó y xấu hỗ dấu nhẹm với Trần cận Nam chuyện làm sai quy ước giang hồ của y.

    · Một điểm tiếu lâm “không chịu được” nằm ngay trong tên họ của nhân vật chính, Vi Tiểu Bảo. Vi là “Nhỏ”, Tiểu cũng “Nhỏ”, và Bảo là cái gì “quý giá”, một thứ của gì quí quí. Vi Tiểu Bảo, tên một nhân vật phái nam, có thể dịch ra theo kiểu “thuần Nôm” là “của quí nho nhỏ “ hoặc “thằng nhỏ” . . . của đàn ông. Kim Dung xác nhận điểm này khi Vi Tiểu Bảo với tư cách nguyên soái, ký tên vào bản hoà ước hoạch định biên giới Nga-Trung. Vốn mù chữ và đến tên Bảo họ Vi y cũng không biết. Y chỉ biết có Tiểu tên đệm thôi. Nhưng biết cũng không rõ ràng. Viết đúng chữ Tiểu phải viết một gạch thẳng và hai gạch nhỏ ở hai bên. Thế bởi mù chữ y ký tên nguệch ngoạc nhưng cũng đúng thật tên của y, bằng lối tượng hình của chữ Hán, bằng một đường nét đậm thẳng đứng với hai vòng tròn hai bên! Hết ý kiến. Hoà ước này có thật và có chữ ký của nhiều quan lớn đôi bên. Nhưng có lẽ chữ ký của Vi Tiểu Bảo rất khó xem nên sử gia đã không để ý và lướt qua. Phải chăng đề tài chính của truyện Lộc Ðỉnh Ký cũng là một khảo luận nhỏ về tên của Vi Tiểu Bảo, về cái khổ và cái quý của con người. Về những người có của quí, và không có của quí.

    · Thuyết Bất-nhị-nguyên của nhà Phật cũng được Vi Tiểu Bảo xử dụng khi y bốc thơm cao tăng Tây Tạng và cao thủ Mông Cổ để cầu xin tha mạng. Y nhắc lại trận đánh năm cũ của cao thủ Mông Cổ với “sư huynh” của y là phương trượng Thiếu Lâm. Thật ra trong trận đánh đó phương trượng Thiếu Lâm hạ cao thủ Mông Cổ dễ dàng. Nhưng Vi tâng bốc người Mông Cổ bằng cách nói dóc là y nhớ người Mông Cổ hạ phương trượng Thiếu Lâm. Sau đó y lâm râm khấn với phương trượng Thiếu Lâm rằng sở dĩ y nói dóc vì y tin rằng không tức sắc, sắc là không, thắng cũng như thua, thua như thắng, Thiếu Lâm thắng Mông Cổ không khác gì Thiếu Lâm thua Mông Cổ. Phải chăng Vi Tiểu Bảo trong một giây phút gần gũi với sự sống và cái chết, bất chợt đã tự giác ngộ?.

    Ảnh hưởng và vinh danh

    Trong sinh hoạt văn nghệ, nghệ thuật và văn hoá nói chung, người ta thường nghe nói nhà văn này hoặc nhà đạo diễn phim ảnh này chịu ảnh hưởng của nhà văn hay đạo diễn kia. Nhiều vị, nhất là những nhà đạo diễn một khi họ đã nổi tiếng, đều tự nhiên tuyên bố danh tánh của các vị tiền bối đã ảnh hưởng đến tác phẩm của họ. Thí dụ như đạo diễn Quentin Tarantino của các phim nổi tiếng Reservoir Dogs, Pulp Fiction, thường ca tụng John Woo của Once a Thief (Chou Yun Fat, Leslie Cheung), Face/Off (John Travolta) và Broken Arrow (John Travolta). Brian de Palma, đạo diễn những phim như Dressed to Kill với Angie Dickinson; Mission: Impossible với Tom Cruise, thường được xem có thể trở thành một Hitchcock thứ hai. Thông thường nhà làm phim thường cho xen vào phim mới của mình một cái “xen” hầu như “bắt chước” y hệt cái xen hay ho của vị tiền bối gây ảnh hưởng đó. Họ gọi công việc đó, “vinh danh” tiền bối (pay tribute to). Và một khi một đạo diễn hoặc tác giả có nhiều người vinh danh – những hoạt cảnh tuyệt chiêu đi luôn vào văn hoá của bộ môn nghệ thuật đó. Nhiều khi đi tuốt đến dân gian. Thí dụ những từ như Tú Bà, Sở Khanh phát xuất từ Kiều bây giờ trở thành những danh từ chung. I couldn’t give a damn (đại khái: Tôi chẳng màng nữa) của “Cuốn Theo Chiều Gió” do Rhett Butler (Clark Gable) thốt ra vào lúc cuối phim trở thành câu nói thông thường của tiếng Mỹ.

    Ðối với vua phim kinh dị Alfred Hitchcock, người ta có thể nhận ngay 3 xen nổi tiếng nhất, dễ bị “cóp” nhất: Xen 1: Marion Crane (Janet Leigh) đang tắm vòi sen trong phim Psycho, bị Norman Bates (Anthony Perkins) xem trộm rồi một lão bà nhảy vào đâm chết. Xen 2: Roger Thornhill (Cary Grant) trong phim North by NorthWest – sau khi bị bắt tra tấn tại một biệt thự nọ, trốn về đi báo với cảnh sát. Lúc cảnh sát dẫn y trở lại biệt thự đó, không thấy những người gian ác đánh đập y đâu hết, và trang trí bày biện đồ vật trong phòng khách tra tấn y cũng hoàn toàn thay đổi – làm cho mọi người bị bẽ mặt. Xen 3: Cũng trong phim North by Northwest, cảnh Cary Grant trên một ngọn đồi trơ trọi phải chạy trối chết vì bị một chiếc máy bay nhỏ lờn vờn rượt bắn.

    Xen số 1, một phụ nữ đang tắm vòi sen bị hung thủ lẻn vào phòng tắm rồi tấn công bằng dao hiện đã trở thành một kỹ thuật tiêu chuẩn của phim kinh dị. Có đến hàng trăm phim đâm ra bắt chước xen tắm này. Xen thứ 2 và thứ 3 cũng được phim James Bond chôm nhiều lần. Moonraker dùng xen thứ 2, From Russia with Love xử dụng xen thứ 3.

    Thế Kim Dung có xử dụng hoặc vinh danh Hitchcock hay không? Thưa có.
    – Trực tiếp: Trong “Tiếu Ngạo Giang Hồ” lúc Lâm Bình Chi đâm chết con trai Dư Thanh Hải tại một quán nhỏ bên đường. Sau đó Lâm Bình Chi về nhà kêu Cha là trưởng của Phước Oai tiêu cục dẫn một đoàn tùy tùng trở lại quán đó để dò la. Tới nơi không thấy chủ quán và người hầu bàn xinh đẹp (tức Nhạc Linh San) đâu hết. Bàn ghế bày biện của quán biến đâu mất, chỉ thấy đó là một nhà bỏ hoang. Xác chết của con Dư Thanh Hải chôn đâu đó cũng biến mất. Ðây là vinh danh Hitchcock xen thứ 2.
    – Gián tiếp và phát triển thêm: Xen thứ 1 (và xen thứ 3). Ở chỗ nào? Ở chỗ Ngô Ứng Hùng con trai Ngô tam Quế đã được chọn làm phò mã sắp cưới công chúa Kiến Ninh bị công chúa đập bá súng bất tỉnh rồi . . . cắt đứt đi thằng nhỏ của Hùng! Muốn nhìn rõ sự vinh danh Hitchcock này ta thử phân tích các thành tố chính yếu đã đưa phim Psycho đến hạng nhất về phim kinh dị có phẩm chất từ trước đến giờ. Các thành tố của xen kinh dị 1 gồm:

    (i) Nạn nhân trong trạng thái không phòng bị: đang tắm vòi sen
    (ii) Nạn nhân không có gì che chở thân thể: đang trần truồng để tắm. Từ chết đến bị thương dù có chống đỡ, nếu bị đâm hay chém.
    (iii) Ðịa điểm án mạng rất chật hẹp: chỗ tắm vòi sen không có đường chạy.

    Kim Dung vừa vinh danh Hitchcock vừa phát triển cường độ kinh dị đến tột điểm của rùng rợn [6]. Và lại áp dụng cho nam phái! Phù hợp với đề tài thái giám của câu chuyện. Kiến Ninh phải cắt thằng nhỏ của Ngô Ứng Hùng đi bởi nàng không muốn làm vợ Hùng, một phần vì đã quen sex với Vi Tiểu Bảo qua những yêu cầu sa-điết của nàng. Cảnh Ngô Ứng Hùng lúc bị Kiến Ninh thiến sống hoàn toàn nắm đủ tất cả 3 thành tố kể trên:

    (i) Nạn nhân trong trạng thái không phòng bị: bất tỉnh nhơn sự vì đầu bị đánh
    (ii) Nạn nhân không có gì che thân thể: Kiến Ninh cởi quần áo y ra trong lúc y bất tỉnh;
    (iii) Ðịa điểm “hành quyết” rất chật hẹp: Khi bất tỉnh rồi thì chạy đi đâu.

    Nhìn lại người ta để ý ngay cả vụ 9-11 cũng hoàn toàn hội đủ 3 thành tố đó. Nó gây kinh hoàng và mãi mãi biến đổi cục diện toàn cầu.

    Ngoài Hitchcock người ta để ý đặc biệt trong Lộc Ðỉnh Ký, Kim Dung vinh danh một lô các phim hoặc truyện hiệp sĩ phương Tây, như của Alexandre Dumas, của Robert Louis Stevenson, của Edmond Dantès (Bá Tước Monte Cristo). Ðặc biệt của Alexandre Dumas trong “3 người Ngự Lâm Quân” (Les Trois Mousquetaires) và “Người đàn ông trong chiếc mặt nạ sắt” (The Man in the Iron Mask – Le Vicomte de Bragellone). Cũng như trong “Tiếu Ngạo Giang Hồ”, Kim Dung đã vay mượn một ít của truyện Scaramouche của Rafael Sabatini [5].

    Trong truyện “3 người Ngự Lâm Quân” ta còn nhớ D’Artagnan lúc đầu truyện có hẹn đấu gươm với 3 anh ngự lâm kia Athos, Porthos và Aramis trên đường đi tìm ông xếp Ngự Lâm quân để xin gia nhập. Mới đọ gươm với một trong 3 anh kia được vài chiêu, quân lính hoàng triều của phe Richelieu xuất hiện, D’Artagnan quay lại hợp sức với 3 ngự lâm – một cho tất cả, tất cả cho một – đánh lại bọn lính của Richelieu một trận tơi bời te tua!

    Trong Lộc Ðỉnh Ký cũng vậy, đầu truyện Mao Thập Bát rất mong mỏi gặp Trần Cận Nam lãnh tụ phe Thiên Ðịa Hội như để ngưỡng mộ anh hùng và nếu được gia nhập luôn. Y có hẹn với 2 người kiếm khách khác ở ngoài thành Dương Châu để đấu kiếm hơn thua. Hai người kiếm khách này thuộc phe Thiên Ðịa Hội của Trần Cận Nam. Ðang mới bắt đầu so kiếm thì quân lính triều Thanh xuất hiện muốn tìm bắt Mao Thập Bát vì nghi Mao là thủ phạm một vụ án mạng. Mao cùng hai đối thủ hẹn đọ kiếm kia quay lại hợp sức với nhau, đánh trả quân Thanh. Với sự trợ giúp ti tiện của Vi Tiểu Bảo, phe phản Thanh đại thắng.

    Một chi tiết khác cũng giống như “3 người Ngự Lâm” là Hoàng hậu Sophia nước Nga có liên hệ tình cảm với một bá tước (Vi Tiểu Bảo) của nước Trung Hoa đối nghịch. Giống y như hoàng hậu Pháp có tình nhân Quận công Buckingham của Anh quốc đang sắp có chiến tranh với Pháp.

    Kim Dung còn vinh danh Alexandre Dumas với truyện “Người đàn ông trong chiếc mặt nạ sắt” qua việc dựng lên, trong Lộc Ðỉnh Ký, một Thái hậu giả mang mặt nạ đánh lừa mọi người qua nhiều năm tháng. Thái hậu thật vẫn còn sống và bị Thái hậu giả giam nhốt dưới hầm chứa quần áo. Ðọc đến đoạn này, người ta không khỏi liên tưởng đến trí tưởng tượng của Alexandre Dumas trong việc dựng lên anh em sinh đôi thay nhau làm vua Louis XIV của nước Pháp. Người không được làm vua bị mang chiếc mặt nạ sắt và lưu đày ra một hoang đảo thật xa.

    Ảnh hưởng của “Ðảo Kho tàng” của Stevenson, hoặc “Bá Tước Monte Cristo” của Dantes có thể tìm thấy bàng bạc qua chuyện Vi Tiểu Bảo khám phá ra một kho tàng thật khổng lồ của nhà Thanh. Muốn tìm kho tàng đó phải kiếm ra một bản đồ tản mác trong 8 quyển sách kinh thất tung lâu năm. Nhân vật chính cũng trở thành vương tước như ai mặc dù y chẳng có học, chẳng biết võ nghệ gì hết. Ðảo Thần Long chứa chấp một băng đảng ăn cướp, với giáo chủ võ nghệ tuyệt luân – khiến người đọc dễ liên tưởng đến truyện “Ðảo Kho Tàng” của Stevenson. Có lẽ đây, lần đầu truyện kiếm hiệp Tàu có màn cao thủ bậc nhất võ lâm là ăn cướp sinh sống ở ngoài hải đảo. Cao hơn Hoàng Dược Sư rất nhiều bực.

    Ở những đoạn Khang Hy mưu tính đòn chính trị, thường thường hội ý với Vi Tiểu Bảo, người đọc có thể nhận ra dáng dấp “The Prince” (Vương Công) của Machiavelli. Quyển sách của Machiavelli thường dùng như sách gối đầu giường của những người làm chính trị. Cũng giống như quyển Binh Thư Tôn Tử (The Art of War) cho những nhà quân sự, và ngày nay, cho những tổng lý của các công ty thương mại.

    Ảnh hưởng của các phim James Bond cũng rất đậm nét trong các truyện Kim Dung, nhất là Lộc Ðỉnh Ký. Ðiểm đặc thù nhất của phim James Bond là gì? Là những xen đấm đá hoạt động không ngừng, gọi nôm na theo tiếng Anh là non-stop action. Những phim James Bond đã tạo thành một genre-loại đặc biệt, chứa những cảnh hiểm nguy, hoạt động đấm đá không ngừng, mà nhiều phim hoạt động hoặc kinh dị bây giờ vẫn thường xuyên xử dụng. Ðiển hình các phim với những tài tử như: Sylvester Stallone (Rambo), Wesley Snipes (Passenger 57, The Art of War), và Bruce Willis (Die Hard), v.v.. Lộc Ðỉnh Ký cũng vậy. Ta thấy Vi Tiểu Bảo cứ trải qua hiểm nguy này tiếp đến hiểm nghèo khác. Không ngừng. Những cảnh đó thường dễ làm người đọc nín thở bởi Vi Tiểu Bảo không biết mấy võ nghệ. Ngoài ra Kim Dung cũng đã vinh danh James Bond bằng cách cho Vi Tiểu Bảo có thật nhiều đào, nhiều vợ, giống như điệp viên 007.

    Quay trở lại văn học Trung Quốc, Lộc Ðỉnh Ký vinh danh những văn hào nào với những tác phẩm nào? Rất nhiều, đếm không hết lại sợ thiếu sót. Nhưng rõ rệt nhất: Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần và AQ của Lỗ Tấn. Hai tác phẩm hàng đầu của Trung Hoa nhưng hãy còn hơi xa lạ đối với người Việt.

    Hồng Lâu Mộng được đứng hàng đầu trong tứ tài tử của văn đàn Trung Hoa, và đã được chính Mao Trạch Ðông hồi còn sinh thời không tiếc lời ngợi khen. Ba kiệt tác kia: Thủy Hử của Thị Nại Am, Tây Sương Ký của Vương Thực Phủ và Tam Quốc Chí của La Quán Trung.

    Tác giả chính của Hồng Lâu Mộng là Tào Tuyết Cần. Với Cao Ngọc viết tiếp thêm 40 hồi sau cùng. Theo Vương Hồng Sển [7] Hồng Lâu Mộng độc đáo ở chỗ khác với các loại tiểu thuyết khác như Tây Du, Thuyết Ðường, Chinh Ðông, Chinh Tây là một tiểu thuyết đầu tiên không kết hợp từ những mẩu chuyện nhỏ un đúc trong chốn dân gian. Một sáng tác theo cảm hứng văn nghệ của Tào Tuyết Cần, tuy có dựa vào kinh nghiệm và hoàn cảnh gia đình của chính tác giả. Hồng Lâu Mộng khởi mộng từ khoảng năm 1765 vào đời vua Thanh Càn Long năm thứ 28. Câu chuyện dựng chung quanh một hai gia đình vọng tộc, trong đó có họ Giả, với những tình tiết của những người thân thuộc họ hàng với nhau. Có sex, có đồng tình luyến ái, có những mối tình tay đôi tay ba, trong chốn lầu cao cửa rộng. Về sau gia đình gặp nạn suy sút, nhân vật chánh Bửu Ngọc thi đỗ nhưng lại chọn đường xuất gia đi tu. Hồng Lâu Mộng thành công nhờ ở nhiều điểm, nhưng điểm chánh nằm ở hội tụ được phân tích tình cảm và tâm lý của một lô các nhân vật, nhất là các nhân vật nữ phái. Từ mẹ của Bửu Ngọc đến các chị, các em, các người bà con thân thuộc và luôn cả các a-hoàn phục dịch trong nhà.

    Kim Dung vinh danh Tào Tuyết Cần bằng rất nhiều cách. Thứ nhất Kim Dung bắt chước đoạn đầu và đoạn cuối của Hồng Lâu Mộng. Hai hồi đó không liên hệ trực tiếp đến câu chuyện ở phần chính. Trong Hồng Lâu Mộng tác giả cho vào hồi đầu câu chuyện một tảng đá lâu ngày thu thập được linh khí biết di chuyển và biết viết lách ghi lại câu chuyện của Hồng Lâu Mộng. Chuyện đó được một ông sư đi ngang khám phá và chép lại cho đời sau. Sau khi kết cuộc câu chuyện, vị đại sư đó mới hỏi hòn đá tại sao câu chuyện không có nhân vật nào đại trung, đại thần hết vậy. Như vậy làm sao để đời được. Trong Lộc Ðỉnh Ký cũng vậy. Kim Dung cho vào một đoạn đầu kể chuyện những nhà trí thức ái quốc (có thật, như Cố Viêm Vũ, Hoàng Tông Hy và Lã Lưu Lương; cũng như nội tổ của chính tác giả Kim Dung Tra Lương Dung là Tra Y Hoàng) gặp gỡ nhau và trong lúc trà dư tửu hậu bàn về những chuyện vu oan giá họa do những gian thần người Hán gây nên để trừ khử các nhà ái quốc. Rồi vào hồi hai mới giới thiệu Vi Tiểu Bảo và vào câu chuyện. Gần đến kết cuộc Kim Dung mới lôi mấy nhà trí thức đó ra thuyết phục Vi Tiểu Bảo trở về Thiên Ðịa Hội để tiếp tục chuyện phục quốc. Nặng tình nghĩa với vua Khang Hy, và cũng thành thật với chính mình, Vi Tiểu Bảo đã chọn con đường rút lui về ở ẩn.

    Lộc Ðỉnh Ký cũng vinh danh Hồng Lâu Mộng bằng cách mô tả tỉ mỉ những mâu thuẫn tâm lý tình cảm của một lô các nhân vật phái nữ. Ða số đều lọt vào tay và trở thành vợ của Vi Tiểu Bảo. Tâm lý và những ước mơ, khát vọng cùng những giằng co nội tâm của Vi Tiểu Bảo, một người con trai xuất thân bần cùng và thất học, cũng được Kim Dung phân tích đến nơi đến chốn. Nếu Hồng Lâu Mộng có tả về thủ dâm mộng dâm, Lộc Ðỉnh Ký đáp ứng bằng sex theo khổ dâm sa điết của Kiến Ninh, và mặc cảm Oedipus của Vi tiểu Bảo, si mê những người đàn bà đáng tuổi má mình: Trần Viên Viên và Tô Thuyên. Lại cũng như Hồng Lâu Mộng, Lộc Ðỉnh Ký cho thấy sau bức màn nhung bên ngoài, sự xung đột vẫn thường xuyên xảy ra giữa các tầng lớp, phe phái và thế lực, phục Minh hay ngay trong triều Thanh, của xã hội phong kiến. Lộc Ðỉnh ký còn dứt khoát theo con đường Hồng Lâu Mộng đã vạch ra: Không thèm xây dựng tiểu thuyết trên những nhân vật đại thần đại trung nữa. Ðặt kính hội tụ vào một nhân vật xuất thân từ nơi đầu đường xó chợ và đưa y đến hàng đại thần nhà Thanh hay . . . gian tặc đối với người Hán, tùy theo góc nhìn của xã hội đương thời.

    Ảnh hưởng của Lỗ Tấn ra sao? Lỗ Tấn một văn hào lớn của Trung Hoa trong thế kỷ 20. Chuyên về truyện ngắn nói lên những khổ đau của con người, Lỗ Tấn nổi tiếng nhất với “AQ chính truyện” (Muốn đọc Lỗ Tấn, xem ghi chú [8]). Và Vi Tiểu Bảo của Kim Dung có nhiều điểm rất giống nhân vật AQ của Lỗ Tấn. Hai người Bảo và Q đều xuất thân từ giai cấp thấp hèn nhất của xã hội Trung Hoa. Cả hai đều thuộc lớp mù chữ. Riêng Vi Tiểu Bảo mù chữ đến nỗi ký tên thật y thành tên Tiểu viết ra như vẽ hình “thằng nhỏ”. Thật thành giả, giả thành thật. Vi Tiểu Bảo ký tên “thằng nhỏ”. “Thằng nhỏ” viết theo chữ Hán là Vi Tiểu Bảo. Cả AQ và Vi Tiểu Bảo đều thích cờ bạc đánh bài. Kim Dung đã vinh danh Lỗ Tấn bằng cách xây dựng những cá tính chánh của Vi Tiểu Bảo giông giống AQ. Tuy nhiên Vi Tiểu Bảo có số sướng hơn AQ rất nhiều và không bị đoản mệnh như AQ.

    Thấp thoáng trong Lộc Ðỉnh Ký ta còn gặp nhiều hoạt cảnh và hình dáng của những nhân vật truyện Tàu thuở trước. Ở cặp Vi Tiểu Bảo-Song Nhi, ta có thể nhớ đến Cam Tử Long-Lã Mai Nương, trong truyện Lã Mai Nương. Lã Mai Nương do vị Thầy của Cam Tử Long cho xuống núi đi theo Cam Tử Long để tìm kẻ tử thù. Song Nhi cũng vậy – được Trang gia chủ tặng riêng cho Vi Tiểu Bảo – để theo và bảo vệ chàng bôn ba trong chốn giang hồ.

    Rồi giống như Thủy Hử , Lộc Ðỉnh Ký tạo nên đám Thần Long giáo tuy ăn cướp nhưng cũng lấy được một chút chính danh, do ở việc cấu kết với Nga chống lại Thanh triều, và lo tìm kho tàng để lấy vàng bạc châu báu, cắt đứt long mạch nhà Thanh. Thủy Hử có nhà sư Lỗ Trí Thâm chuyên lén đi ăn thịt cầy, Lộc Ðỉnh Ký có sư Vi Tiểu Bảo pháp danh Hối Minh lén đi vào một kỹ viện gần chùa cho đỡ buồn trống, cho đỡ chổng. Chẳng may chưa làm ăn gì hết y bị hai cao thủ phái nữ tấn công đòi giết. Y phải hoá trang kỹ nữ trốn chạy có cờ.

    Lộc Ðỉnh Ký còn thường xuyên nhắc đến các nhân vật của Tam Quốc Chí. Vi Tiểu Bảo khi thống lãnh quân đội cũng áp dụng những chiến thuật của Khổng Minh y học lóm được từ những khách làng chơi ghé lại kỹ viện Lệ Xuân, nơi y sinh sống thuở thiếu thời. Lộc Ðỉnh Ký cũng vinh danh con ngựa xích thố của Lã Bố và Quan Vân Trường bằng cách cho vào một hồi về giống ngựa đua Vân Nam của Ngô Ứng Hùng.

    Lộc Ðỉnh ký cũng lên án một vài “minh quân” người Hán bằng cách nhắc lại sự tích Lưu Bang, được chim bẻ ná, giết tướng Hàn Tín sau khi thắng Hạng Yũ. Kim Dung mượn lời nhân vật Lã Lưu Lương nói với Vi Tiểu Bảo vào đoạn cuối, nhằm thuyết phục anh chàng họ Vi đứng ra lãnh đạo Thiên Ðịa Hội và các phong trào kháng Thanh: “Hán Cao Tổ (Lưu Bang) xuất thân đại lưu manh, làm chuyện bậy bạ còn nhiều hơn ngươi, nhưng rốt lại vẫn trở thành ông vua khai quốc của nhà Hán”. Diễn lại vở tuồng Lưu Bang hạ Hàn Tín, Lộc Ðỉnh ký cho Trịnh Khắc Sảng công tử của xếp của Trần Cận Nam dùng dao nhọn đâm lén vào lưng của Trần Cận Nam chỉ vì Cận Nam, mặc dù hết sức trung thành với Trịnh Vương, không hoàn toàn tuân những mệnh lệnh điên khùng của công tử Khắc Sảng. Lộc Ðỉnh Ký cũng vẽ lại hoạt cảnh Hàn Tín thuở thiếu thời luồn trôn một tay anh chị đứng đường, bằng cách cho Vi Tiểu Bảo chui qua háng của Tô Thuyên để trốn chạy Hồng Giáo chủ đang rượt đuổi.

    Giải hoá các mâu thuẫn

    Một trong những kỹ thuật chính yếu của nghề viết tiểu thuyết là tạo cho nhân vật các giằng co tâm lý khó xử, nhiều tình huống mâu thuẫn, và nếu được những thế lực hoặc xã hội hoặc cá nhân, tương phản, kình chống với nhau, trùm lên đầu nhân vật chính. Rồi tìm cách giải tỏa chúng vào cuối câu truyện.

    Tất cả những nhà văn nổi tiếng như cồn đều đã đề ra giải pháp ổn thoả cho các gút mắt trong truyện mà đa số các độc giả có thể chấp nhận được hoặc cảm thấy thoải mái. Thí dụ, truyện Kiều phải kết cuộc làm sao mới vừa tổng hợp được các triết lý Khổng Mạnh, triết lý nhà Phật, triết và hồn Việt [9], luân lý và đạo đức của dân tộc, đạo làm người, thuyết tài mệnh tương đố, v.v. vừa giải quyết được mâu thuẫn của câu chuyện. Văn hào Nguyễn Du đã thành công trong chuyện đó ngoài việc chấm bút tạo áng thi văn bất hủ.

    Truyện của Kim Dung sở dĩ thành công, một phần lớn nhờ ở những giải hoá các mâu thuẫn đó. Trong “Anh Hùng Xạ Ðiêu” Quách Tỉnh trái lời 7 vị Thầy đi yêu con gái một người mang danh Ðông Tà. Trước đó y đã yêu và hứa hôn với một người công chúa Mông Cổ. Trong “Lục mạch Thần Kiếm” Kim Dung cho người đọc nín thở khi thấy thái tử Ðoàn Dự chuyên đi yêu các em gái của mình. Rồi tới màn Ðoàn bị giam chung với một em gái và bị uống thuốc kích dâm sao đó. Kết cuộc người Ðoàn Dự mê mệt, Vương Ngọc Yến, do chính bà mẹ Ðoàn Dự trối trăn, thật ra không phải là em gì của Ðoàn Dự hết. Mấy người em gái kia cũng vậy. Con muốn lấy ai thì lấy. Trong “Tiếu Ngạo Giang Hồ” Lệnh Hồ Xung được nhiều người yêu. Mỗi người yêu một kiểu. Rồi Lệnh Hồ Xung lại đi yêu con gái của giáo chủ của Ma giáo. Kim Dung phải lái người đọc làm sao để ai cũng có thể chấp nhận cô dâu Nhậm Doanh Doanh với đầy lý lịch Ma giáo đó.

    Tiểu thuyết muốn được người đọc yêu chuộng hơn nữa phải luôn luôn có những mâu thuẫn tiểu tiết lồng trong những mâu thuẫn gút mắt chính. Thí dụ 1, mâu thuẫn tiểu tiết về tương quan của Ngũ Hành như đã trình bày ở trên. Thí dụ 2, một trong những mâu thuẫn tiểu tiết của Lộc Ðỉnh Ký là chuyện ăn vụng giữa Kiến Ninh với Vi Tiểu Bảo. Vua Khang Hy với mưu tính chánh trị muốn gả em gái Kiến Ninh cho Ngô Ứng Hùng con trai Ngô Tam Quế. Làm sao giải quyết chuyện động trời này, và đồng thời gây được kinh dị, tiếu lâm, thích thú, vừa thoả đáng được các đòi hỏi của luân lý – và cũng nằm trọn trong cái đề luận phụ của câu chuyện (về . . . có thằng nhỏ và không có thằng nhỏ). Kim Dung đã giải tỏa cái gút đó bằng cách cho Kiến Ninh đánh vào đầu Ứng Hùng bất tỉnh rồi lẹ tay cắt đứt . . . thằng nhỏ của Ứng Hùng đi. Rồi la to rằng Ứng Hùng vào đó tính hiếp thị cho biết mùi vợ chồng và để . . . trả thù dân tộc! Sau đó dù Ứng Hùng có trở thành chồng Kiến Ninh, Ứng Hùng cũng chỉ giống như . . . một thái giám mà thôi.

    So với các tiểu thuyết trước của Kim Dung – những mâu thuẫn chính và phụ trong Lộc Ðỉnh Ký khó khăn gấp bội phần. Khó khăn ở chỗ đó là những mâu thuẫn tình cảm, thế lực và nhất là chính trị, chủng tộc và văn minh, văn hiến, v.v. Những mâu thuẫn này Kim Dung đã giải hoá thật hay.

    Hai mâu thuẫn chính, thường xuyên giao tác với nhau, nằm ngay ở phần xương sống của câu chuyện: Phản Thanh phục Minh với lòng ái quốc và chủ nghĩa cá nhân. Lồng vào đó một ý niệm thể hiện qua thành ngữ quen thuộc của người Ăng Lê, nổi tiếng với đầu óc thực tiễn: “If you can’t beat them, join them” (Nếu bạn không hạ được đối phương, hãy nhập bọn với chúng). Nhiều khi được kèm theo: “And beat them later” (Và để rồi hạ bọn chúng sau).

    Theo với nền luân lý Khổng Mạnh và văn hoá Trung Hoa từ ngàn đời, quân dân phải luôn luôn trung thành với vua. Người ta chỉ có thể chuyển đổi sự trung thành đó khi triều đại hoàn toàn suy thoái và có một vị vua khác, do . . . mệnh trời chỉ định, đã lên được ngôi vua ở triều đình rồi. Những vị quan to có bất mãn với đương kim hoàng đế hay bị thất sủng, chỉ có nước xin vua cho trở về qui ẩn. Vua hay chúa của mình có bị thất trận, chết, và nếu không có ấu chúa cần phải bảo vệ, quần thần phải tuẫn tiết chết theo. Ðó là trường hợp Vương Thừa Ân đối với vua cuối triều Minh Sùng Trinh. Trường hợp hàng ngàn tướng sĩ theo phò các vị hoàng thân triều Minh nổi dậy chống nhà Thanh – khi chủ tướng của họ bị nhà Thanh dẹp tan. Những đám tàn quân cấp dưới có thể di tản sang một nước khác để chờ ngày trở về. Như trường hợp một nhóm Thiên Ðịa Hội di tản sang nước An Nam, sau những cuộc khởi nghĩa chống nhà Thanh bị thất bại.

    Thêm vào đó, cho mãi đến thế kỷ 20, lối sống dân tộc Trung Hoa vẫn luôn dựa vào hệ thống giá trị của văn hoá ngàn đời, thể hiện bằng những câu “thánh ngữ” như: “Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách” hoặc “Quân xử thần tử – thần bất tử bất trung”. Hay tam cương ràng buộc “thần phải trung thành với quân vương, con cái phải hiểu để với cha, vợ phải tòng phục chồng”. Giá trị của con người nằm ở ngũ thường: “Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”. Còn rất nhiều, nhiều “thánh ngữ” biểu tượng cho hệ thống văn hoá, và giá trị cổ truyền Trung Quốc. Nhưng hay cũng như dở, hợp lý hay vô lý, chính các “thánh ngữ” này đã giúp Trung quốc không ít trong việc tồn tại như một quốc gia cho mãi đến ngày nay. Chủ nghĩa cá nhân theo kiểu Tây Phương có một chỗ đứng rất nhỏ, nếu không nói không có, trong xã hội Trung quốc cổ xưa, nhất là trong tầng lớp quyền bính. Thánh ngữ “quân xử thần tử – thần bất tử bất trung” lan tràn mạnh mẽ sang những nước láng giềng, và lên đến tột đỉnh tại Nhật Bản tại các lãnh địa sứ quân. Như rất nhiều phim hiệp sĩ đạo của Nhật cho thấy [11]. Chủ nghĩa cá nhân, mặc dù luôn tiềm ẩn với mọi con người, làm sao phát triển được khi vua hay sứ quân bảo mình chết – không cần biết vì lí do gì – mình cũng phải chết. Nhỡ các quân vương đó bảo mình chết vì muốn chôm đào nhí hay giựt bạn trai của mình thì sao?

    Cái văn hoá phong kiến đó đã chui vào xương tủy dân Hoa suốt cả ngàn năm. Không nhúc nhích. Văn chương chữ nghĩa lúc nào cũng nhồi vào sọ người dân những thứ “thánh ngữ” này. Ngay đến các tiểu thuyết trước thời Hồng Lâu Mộng – như chính Hồng Lâu Mộng có nhắc nhở – thường phải có vai trò của một vị đại trung đại thần bảo vệ giang san và . . . triều đình. Hồng Lâu Mộng chính lần đầu tiên một truyện dài đã không xử dụng vai chính những đại trung đại thần. Và Kim Dung chính tác giả đầu tiên đã đối diện trực tiếp đến những “thánh ngữ” đó và hùng hồn biện minh cho việc dung hoà với một số điều hay việc tốt của văn hoá phương Tây. Hành trình của Vi Tiểu Bảo chính là hành trình của một người mang chủ nghĩa cá nhân xuyên qua những xung đột và mâu thuẫn về chính trị, văn hoá, hệ thống giá trị Khổng Mạnh, biên giới quốc gia, quân sự, võ biền, tình cảm, luyến ái, và mưu cầu tự do và hạnh phúc cuộc đời. Tất nhiên hành trình đó đầy chông gai hiểm nghèo và người phiêu lưu bất đắc dĩ đó chỉ được trang bị bằng bản lĩnh chợ trời, và bản năng sinh tồn tự nhiên con người, mô tả bằng câu thành ngữ của người Anh: “Nếu bạn không hạ được đối phương – hãy nhập bọn với chúng, để rồi hạ chúng sau”.

    Vi Tiểu Bảo trước hết bị giam lỏng trong hoàng cung. Sau đó sợ chết, y phải gia nhập đoàn thái giám. Rồi tình cờ y quen biết với hoàng đế Khang Hy trạc tuổi y, ưa tập võ nghệ. Sau khi giết Ngao Bái y bị phe Thiên Ðịa Hội câu lưu vì thấy y người Hán sao lại có chức trong triều đình Thanh. Y phải gia nhập Thiên Ðịa Hội. Sau đó vài năm y bị bọn Thần Long giáo bắt ép gia nhập. Hai người y yêu Phương Di và Mộc Kiếm Bình cũng vậy. Cũng bị cho uống thuốc độc bắt phải theo Thần Long giáo. Y phải gia nhập vì sợ chết nhưng trong bụng y ghét nhất Thần Long giáo, chỉ trừ Hồng phu nhân Tô Thuyên thôi. Nhiều năm sau, chính y được Khang Hy giao sứ mệnh đi dẹp Thần Long giáo. Ðối với Thần Long giáo, đặc biệt Vi Tiểu Bảo vì “không hạ được chúng, nên đã nhập bọn với chúng, để rồi hạ chúng sau”. Và gần như bản năng sinh tồn của Vi Tiểu Bảo trong những lúc nguy biến đều có thể được mô tả một trăm phần trăm như kiểu thành ngữ này. Cứ mỗi khi Vi Tiểu Bảo áp dụng thành ngữ Ăng Lê này, y đều thành công. Tuy nhiên, một đôi khi nó cũng đưa y đến bên bờ vực thẳm, mất mạng như chơi.

    Thế nhưng chiến thuật kiểu cơ hội chủ nghĩa đó hiển nhiên rất mâu thuẫn với hệ thống giá trị cổ truyền Trung Hoa. Ngoài đó ra, Lộc Ðỉnh Ký còn chất chứa hàng chục thứ mâu thuẫn khác nữa. Kim Dung đã giải quyết mâu thuẫn của xung đột giữa hệ thống giá trị cổ truyền Trung Quốc với mưu cầu tự do và hạnh phúc cho con người Vi Tiểu Bảo ra sao?

    Quan trọng nhất, Kim Dung cho Vi Tiểu Bảo hoàn toàn thất học. Nhưng cho Vi một mớ hiểu biết lờ mờ về lịch sử . . . theo kiểu chợ trời bởi những kiến thức đó của anh tiến sĩ chợ trời đã được thu lượm và nghe lóm từ những “tiên sinh” kể chuyện ở đầu đường hay tại kỹ viện nơi Vi sinh sống. Ðặc biệt Vi Tiểu Bảo gần như bị dị ứng đối với vấn đề học hành, từ chữ nghĩa đến võ nghệ. Ðiểm này hơi vô lý bởi Tiểu Bảo làm quan lớn một thời gian dài – y chỉ cần thuê một số lão sư đến dạy chữ nghĩa cho y, ngay cả vừa ngủ vừa học cũng được. Nhưng không, từ đầu đến đuôi Vi hoàn toàn không chịu khó học được một câu, viết được một từ đàng hoàng. Mặc dù y biết y nói sai bởi có nhiều người, kể cả Khang Hy, sửa sai những câu thánh ngữ y thốt ra, hoặc những điển tích y muốn ví von so sánh. Tại sao vậy? Tại vì nếu cho y biết chữ y sẽ bị kẹt vào thế: “nước nhà lâm nguy, người trí thức phải có trách nhiệm”! Phải gia nhập Thiên Ðịa Hội, hoặc phong trào của mấy vị hoàng thân vương tôn tàn dư của Minh Triều, một cách nghiêm túc. Không thể nào cù cưa với Khang Hy hoặc ăn nằm với Kiến Ninh được trừ phi muốn … trả thù dân tộc. Có chữ một chút khộng được, bởi có chữ có nghĩa Vi biết cái giá trị chính giữa của xã hội, của dân tộc Trung Hoa, biết phân biệt theo với hệ thống giá trị đó, phe ta phe thù. Những giá trị và quan niệm Trung Hoa đó không cần biết hay hoặc dở, đúng hay sai, kinh điển hay không, vẫn là một hệ thống giá trị của một dân tộc. Vi mang nợ núi sông vì đã được hưởng thụ thành quả của hệ thống giá trị đó. Do đó Vi phải trả nợ đó. Vi cũng, bởi ràng buộc của hệ thống giá trị cũ, không thể theo được chủ nghĩa cá nhân, mưu cầu tự do hạnh phúc cho riêng mình. Chính bởi ở lý do đó, muốn được tự do hành động theo riêng bản năng mình, phù hợp với chủ nghĩa tự do cá nhân, Vi không thể biết gì đến chữ nghĩa.

    Vi Tiểu Bảo cũng không thể học võ với ai, bởi môi trường võ nghệ lại chỉ có một mục đích tối thượng. Người chốn giang hồ hay võ biền phải lo bênh vực kẻ yếu thế cô. Phải lo đáp ơn sông núi. Phải dùng tài võ nghệ của mình để điều binh khiển tướng hòng đánh đuổi quân xâm lăng ra khỏi bờ cõi nước nhà. Người kiếm khách Trung Hoa còn luôn luôn có những quy ước hành động bất thành văn. Trong đó, không bao giờ có cái chuyện “Nếu bạn không hạ được đối phương, hãy nhập bọn với chúng” mà Vi Tiểu Bảo hằng xử dụng như một ngón võ tuyệt chiêu không những bảo vệ tính mạng của mình, mà còn dùng nó để thăng quan tiến chức. Không được, Vi Tiểu Bảo không được biết đến chữ và võ. Kim Dung giải hoá các mâu thuẫn đó bằng cách cho Vi Tiểu Bảo hoàn toàn bị dị ứng từ chuyện học chữ đến chuyện luyện võ. Vi Tiểu Bảo vẫn mù chữ và dốt võ từ đầu đến cuối truyện. Lộc Ðỉnh Ký đã cho thấy những tình huống, những màn kịch rất hợp nhất với lô gích. Từ lô gích ngũ hành đến lô gích của hệ thống các giá trị, cũ và mới.Với một bố cục thật chặt chẽ.

    Tuy nhiên, ở điểm này ta thấy, Kim Dung đã dung hoà hay đúng hơn “nhượng bộ” thế lực của hệ thống giá trị cũ của Trung Hoa. Luận đề chính vẫn không hề hấn, không bị suy suyển: Thời đó vẫn có một con người đã có thể hợp tác với Thanh triều. Vô học hay có học theo nguyên lý bất nhị cũng y như nhau! Chỉ quan trọng ở chỗ có một người Hán làm lớn trong triều nhà Thanh và làm được nhiều điều ích lợi cho dân Trung Hoa và nước Trung Hoa. Và động cơ mạnh mẽ để thúc đẩy và giúp y làm nên việc, là chủ nghĩa cá nhân, mưu cầu tự do hạnh phúc con người. Và cá nhân y thành công – không bị Khang Hy giết chết, hay các phe kháng Thanh cho đi mò tôm, dù biết y một dạ hai ba lòng – chung qui cũng nhờ ở những giá trị cổ truyền Trung Hoa vẫn có trong người y: lòng chung thủy, trung thành, và hai chữ tín nghĩa. Y cũng có trí, dù đó là một loại trí chợ trời. Trí chợ trời với trí khoa bảng, qua Lộc Ðỉnh Ký, không biết loại nào hơn loại nào. Nếu so sánh cái trí của y với cái trí của sư phụ y là Trần Cận Nam. Trần Cận Nam học sâu hiểu rộng, thường là thần tượng, người hùng kiểu mẫu trong giới giang hồ. Thế nhưng cái trí của Trần Cận Nam bị mớ giá trị cổ truyền kia làm cho Nam mù mờ không biết rằng Nam đang phục vụ một sứ quân bất tài như Trịnh Khắc Sảng để rồi về sau bị Sảng đâm lén sau lưng. Trong khi Vi Tiểu Bảo nhờ thất học nhưng với trực giác và trí thông minh của giới chợ trời biết tẩy ngay con người của Trịnh Khắc Sảng ngay khi mới gặp. Nhưng đối với lễ, y hoàn toàn không có. Kim Dung cho y chửi thề từ đầu đến cuối. Rồi lây tính chửi thề qua Khang Hy. “Con mẹ nó,…”. Thỉnh thoảng y cũng khoái ăn mặc đẹp theo cách nhà quan nhưng dường như y có vẻ không được thoải mái mấy.

    Phải chăng chi tiết “thất học” của Vi Tiểu Bảo được Kim Dung dùng để đưa một thông điệp chính. Với hai thành tố. Thứ nhất có nên dung hoà hoặc bổ xung hệ thống giá trị cổ truyền Trung Hoa với một số giá trị Tây phương hay không. Bút hiệu của Kim Dung đích thị mang ý nghĩa của thành tố này. Kim mạng Kim theo Ngũ hành, chỉ phương Tây, cũng có nghĩa hiện đại. Dung tức dung hoà! Kim Dung tức dung hoà với giá trị hiện đại, phương Tây? Thành tố thứ hai phải chăng khi cho Vi Tiểu Bảo, một người trẻ tuổi, hoàn toàn vô học cả văn lẫn võ Kim Dung có ngụ ý những người mù chữ, bởi không biết gì hết đến hệ thống giá trị cổ truyền và những ràng buộc của nó, và hãy còn trẻ, nên dễ hành động theo bản năng con người mình hơn và dễ . . . tiếp thu được cái hay cái mới hơn?

    Còn thêm một thông điệp nhỏ nữa trong vấn đề Vi Tiểu Bảo không biết nhiều võ công. Bởi có biết cũng không giúp ích được cho y trong những công tác trọng đại Khang Hy giao phó. Thời Vi Tiểu Bảo bắt đầu là thời thế lực mạnh mẽ của súng đạn Tây Phương. Nước Tàu từ đó về sau cho dù có đến “Võ Lâm Ngũ Thiên Bá” cũng khó lòng thay đổi được cục diện quốc phòng, và an ninh quốc gia. Giới giang hồ đang bắt đầu lo gác kiếm.

    Nếu nhìn kỹ, chi tiết bắt Vi Tiểu Bảo phải thất học, từ văn đến võ, thật ra là một “nhượng bộ” giả của Kim Dung. Chính ra đó là lối thuyết phục nhẹ nhàng của tiểu thuyết. Vừa để giải toả mâu thuẫn vừa đưa những người đọc khó tính, và bảo thủ đối với hệ thống giá trị cổ truyền của Trung Hoa, đến chỗ chấp nhận các hành vi của Vi Tiểu Bảo. Kim Dung đã làm người đọc khó tính dễ bị lôi cuốn bởi phiêu lưu vô bờ bến, tuy thiếu chất võ hiệp của chàng Hán tộc họ Vi. Trong lúc tác giả âm thầm tấn công hệ thống giá trị cổ và đồng thời rót nhẹ vào tai người đọc những điểm nóng hay nguội cần phải dung hoà với văn hoá và văn minh Tây phương.

    Mặt khác, có nhiều chi tiết cho thấy Kim Dung vẫn chấp nhận tam cang ngũ thường nhưng đưa ra một thông điệp mới: Cần phải xem lại từng giá trị một và áp dụng theo tùy trường hợp. Thí dụ, Vi Tiểu Bảo vẫn có thể trung thành với vua gốc Ðông Di là Khang Hy, bởi vua chơi đẹp với y. Trước công tác nào cũng vậy vua hứa nếu y làm được việc vua sẽ trọng thưởng. Và vua luôn luôn giữ lời hưá. Y trung thành với vua đến nỗi sẵn sàng chết thay vua, hay không thèm đi phá long mạch người Mãn để cho nhà Thanh tiêu tùng. Trong khi đó các phe phục Minh chưa gì đã xâu xé lẫn nhau và tuy cùng chung mục tiêu vẫn thường xuyên tranh chấp với nhau, bởi mỗi phe đi phò một ông hoàng thân khác nhau. Họ không bao giờ nhất thống, trong tư tưởng và hành động. Tệ hơn nữa Trịnh Khắc Sảng chưa chi đã đâm lén công thần số 1 của mình là Trần Cận Nam chỉ vì Cận Nam chỉ tuân theo lệnh của Trịnh Vương, cha của y. Tiếu lâm hơn, Kim Dung vạch ra mặt trái của loại “tam cang” chồng chúa vợ tôi bằng cách mô tả, công chúa Kiến Ninh hành hạ Vi Tiểu Bảo trong những lần chăn gối vì sa điết, và lúc “xuất giá tòng phu” Kiến Ninh lại “xuất chiêu” cắt đứt cái phụp “thằng nhỏ” của phu quân Ngô Ứng Hùng. Vi Tiểu Bảo đã từng chui qua háng Tô Thuyên, một người vợ sau này của y. Vi Tiểu Bảo theo người yêu công chúa Sophia trở về Mát-Cơ-Va, v.v. Trong nhiều chi tiết về vợ chồng, Kim Dung cho thấy người vợ vẫn có thể trên cơ, hay nằm trên người chồng như thường.

    Lộc Ðỉnh Ký cho thấy Kim Dung cũng không hoàn toàn phá tung toàn bộ hệ thống giá trị cổ truyền Trung quốc. Ta để ý Vi Tiểu Bảo sau cùng phải . . . cưới tất cả những người đàn bà nào y iêu hay iêu y. Ðặc biệt gồm cả 4-5 bà y đã xơi tái nhân cơ hội mấy người này bị hôn mê bất tỉnh. Rồi kể cả Kiến Ninh người như đã …. hiếp dâm y và cho y biết mùi khổ lụy của tình ái. Y đều cưới tất cả và đem về trình diện với má y đàng hoàng. Chỉ trừ công chúa Sophia của nước Nga, y chỉ yêu sơ sơ rờ-măng thôi. Ở điểm này ta thấy Kim Dung lại rất cẩn thận, nói lên quan niệm, luyến ái phương Tây không nhất thiết phải dẫn đến vợ chồng.

    Tạo ra Vi Tiểu Bảo một người thất học trèo lên địa vị cao sang Kim Dung cũng đưa một thông điệp nhỏ: Vi Tiểu Bảo không tham lam quá độ. Lúc nào cũng thấy mình được như vậy là quá rồi. Ngay cả chết y cũng (giả bộ?) không sợ. Chỉ nhờ ở chỗ y biết y dốt và sức y có hạn. Phải chăng đó cũng là chìa khoá để đưa đến giác ngộ, tự do và hạnh phúc? Một điểm tiếu lâm nhỏ ở cuối câu chuyện phải kể, các nhà nhân sĩ đi kiếm Vi và thuyết phục y ra làm minh chủ Thiên Ðịa Hội. Họ tính gạt y bằng cách xin y tên tuổi của bố y để đi xin cho y một lá số tử vi. Chắc chắn số tử vi đó sẽ nói y có mạng đế vương để y ham mà nhảy ra lãnh chức minh chủ các phong trào kháng Thanh. Nhưng không, y không ham gì cả và đáp chính y không biết cha là ai, và nói làm lãnh tụ cực lắm y không đủ sức. Thông điệp về “tri túc”, về biết đủ là đủ, lại được Kim Dung nhấn mạnh qua lời nói của Hồng phu nhân tức Vi phu nhân sau này, trước khi Hồng An Thông từ giã cõi đời. Lúc đó Hồng giáo chủ đòi giết Vi Tiểu Bảo, và lẩm bẩm đòi sống thọ ngang . . . với trời. Hồng phu nhân che chở cho Vi và nói đại khái: “Ông đã oai danh cả đời. Như vậy là đủ quá rồi”.

    Trong việc cấu tạo nhân vật Vi Tiểu Bảo, Kim Dung còn để ý đến gốc gác của Vi bằng cách cho bà mẹ Vi tiết lộ với Vi thật ra bà không biết cha y là ai. Bởi bà có đủ thứ khách tại kỹ viện: Hán, Mông, Tạng, Mãn, v.v. chỉ trừ người Tây dương mà thôi! Với mục đích gì? Có lẽ cho Bảo có gốc gác về huyết thống mù mờ Bảo có thêm một lý do khác để hợp tác với người Mãn Thanh. Y có thể nói cha tôi có lẽ là người Mãn. Ðể ý Kim Dung còn bảo hiểm và tránh tiếng cho Vi Tiểu Bảo bằng cách cho Vi sống trên một hòn đảo với bảy người vợ trong suốt những năm vua Khang Hy đem quân dẹp hết các nhóm phản Thanh phục Minh. Ðể Vi Tiểu Bảo hoàn toàn không bị mang tiếng Hán gian. Thật ra Kim Dung chỉ muốn Vi Tiểu Bảo được an toàn trên hệ thống xa lộ của giá trị cổ truyền, không phải đơn thuần vì lí do nhượng bộ (giả). Nhưng có lẽ bởi những thông điệp chính cần được chải chuốt đến mức tối đa, không thể bị cọ xát bởi ảnh hưởng của lý lịch.

    Khi bật mí lí lịch có vẻ hợp chủng của Vi Tiểu Bảo về huyết thống của người Cha phải chăng Kim Dung lại đưa thêm một hai thông điệp nữa. Ðó là, người Tàu thật ra cũng đã là một thứ hợp chủng như người nước Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ rồi. Về huyết thống nó đã có đầy những cái hay, không thiếu chi “chất xám”. Chỉ cần dung hoà thêm về quan niệm và chủ nghĩa cá nhân của Tây phương nơi khối óc. Khối óc nhỏ bé của Vi Tiểu Bảo. Thông điệp đó cũng khơi lên “giấc mộng Mỹ” nơi đó nếu có cố gắng, giấc mơ nào cũng thực hiện được. Một người nửa Hán nửa tạp chủng như Vi có thể hiện thực được giấc mơ của mình giữa triều đại quân chủ phong kiến của người rợ Ðông Di, thì triều đại đó phải là một thứ triều đại số dách rồi.

    Mâu thuẫn của một người Hán, hay nửa Hán nửa gì đó, phục vụ cho một triều đại ngoại chủng còn được Kim Dung giải hoá thật hay qua chồng hồ sơ lí lịch khác của Vi Tiểu Bảo. Ðó là chồng hồ sơ một chuyên gia hay một nhà chuyên nghiệp. Chuyên gia là gì và tại sao Vi Tiểu Bảo hội đủ lí lịch đó. Một nhà chuyên nghiệp, hay chuyên gia, theo ý nghĩa “pro” thông thường của Tây phương là một người xử dụng kỹ năng của mình để kiếm sống và không để ý đến căn cước hay lí lịch của khách hàng, hay người mình phục vụ. Một bác sĩ y khoa vẫn phải chăm sóc sức khoẻ cho một bệnh nhân có thành tích ăn cướp giết người. Một chuyên viên giải phẫu khi phải lắp nối lại một “thằng nhỏ” bị cắt không bao giờ hỏi người bị cắt đó có phải là một tội nhân chuyên hiếp dâm hàng loạt hay không. Nguời luật sư luôn luôn phải bênh vực thân chủ mình dù người đó có bị cáo về tội khủng bố, ăn cướp, giết người. Hay một nhà độc tài vừa bị bắt hay truất phế. Ý niệm “nhà chuyên nghiệp” ngày nay đã lan tràn qua rất nhiều lãnh vực, nhiều ngành nghề và vượt khỏi biên giới, tinh thần quốc gia. Và hình như chỉ còn bị giới hạn ở những lãnh vực “chuyên nghiệp” liên quan đến quốc phòng mà thôi. Người ta thấy những giáo sư đại học, những khoa học gia, những tài tử và đạo diễn như Antonio Banderas, Catherine Zeta-Jones, Nicole Kidman, Penelope Cruz, Ang Lee, John Woo, Chou Yun Fat, v.v. – những nhà chuyên nghiệp với niềm hãnh diện của các quốc gia sản xuất ra họ – chẳng mấy chốc đều trở thành Mỹ kiều hết ráo. Các nhà thể thao nổi tiếng, nhất là các ngôi sao về tennis, về bóng rổ – như Martina Navratilova, Yao Ming – thường xin nhận nước Mỹ làm quê hương. Kim Dung cho Vi Tiểu Bảo là một nhà chuyên nghiệp. Dù đó, một chuyên gia chợ trời. Ở chỗ Vi Tiểu Bảo là con của một người đàn bà mang nghiệp chuyên gia xưa cũ nhất lịch sử nhân loại. Con vua thì được làm vua – con người kỹ nữ phải là thằng điếm chuyên nghiệp. Bởi Vi Tiểu Bảo một nhà chuyên nghiệp, y có thể xuyên qua hết những bức thành trì kiên cố của giá trị cổ truyền. Y muốn phục vụ ai thì phục vụ. Không cần để ý tới khách hàng hoặc người y phục vụ. Miễn y không làm suy giảm tìềm năng, tài nguyên, tài sản của đất nước và làm phương hại đến nhân dân. Vi Tiểu Bảo đã thoả mãn những yêu cầu đó và lại còn vinh danh được vai trò của chuyên gia.

    Ở sự ví von chuyên gia này, ta thấy tầm nhìn của Kim Dung vào năm 1972 đã phóng thật xa. Bởi vào đầu thế kỷ 21, ngay những người được xem là “anh hùng” dân tộc như Russell Coutts và Brad Butterworth của Tân Tây Lan trong cuộc đua thuyền America’s Cup, vào năm 2003 đã bỏ Tân Tây Lan nhảy sang làm việc cho thuyền đoàn của Thụy Sĩ, chỉ bởi Thụy Sĩ trả lương họ gấp đôi lương kiếm được tại Tân Tây Lan.

    Thay lời Kết

    Người dịch Cao Tự Thanh hiện nổi tiếng như cồn tại Việt Nam. Bản dịch của Cao có rất nhiều chú thích giúp người đọc am tường vấn đề hơn. Những chú thích đó thường cho biết chi tiết nào có vẻ hư cấu chi tiết nào đúng với lịch sử. Hành văn cũng rất dễ đọc. Duy có điểm, một số các từ và thành ngữ, chơi chữ phải giữ nguyên tiếng Hán mới tôn trọng được tính chất . . . kiếm hiệp của Kim Dung. Nhiều lối chơi chữ chính dịch giả phải thú nhận bó tay trong phần ghi chú. Một sơ sót rất nhỏ, tác giả dịch thẳng theo tiếng và âm Tàu Russia thành La Sát. Người đọc dễ thấy chới với không ít bởi không biết La Sát là nước nào mà to lớn dữ vậy. Ðến xong vài quyển rồi mới có một ghi chú nhỏ nói đó chính là nước Nga. Âm R không có trong tiếng Hán và tiếng Nôm khi xưa, và vẫn không có trong tiếng Quảng Ðông cho đến ngày nay. R đọc thành L. Russia Tàu phiên âm thành La Sát.

    Nếu hỏi trong mười mấy bộ tiểu thuyết, Kim Dung đã dồn hết mười thành công lực vào bộ tiểu thuyết nào để nhằm đưa ông lên tột đỉnh của sự nghiệp. Câu trả lời chắc chắn là bộ Lộc Ðỉnh Ký.

    Lý do dễ hiểu. Lộc Ðỉnh Ký không phải đơn thuần là một tiểu thuyết võ hiệp. Như người dịch Cao Tự Thanh đã viết, nhân vật chính không biết ‘võ’ mà cũng chẳng ‘hiệp’ gì. Lộc Ðỉnh Ký có lẽ là một tổng hợp lớn của đề luận về ước mơ của tuổi trẻ, của con người thời tao loạn, của tâm lý phái nữ, dục vọng con người, của chính trị, tranh chấp chủng tộc và văn hoá, của chiến tranh và bang giao quốc tế, của những ám ảnh về “tiểu bảo” tức thằng nhỏ, về sex, về vấn đề tranh sống hoặc tìm chỗ đứng trong xã hội, trong lịch sử của con người. Của chuyện lớn, triều đình – chính trị, được vận hành thành công bởi con người nhỏ, nhỏ tuổi (Tiểu Bảo và Khang Hy). Của chuyện nhỏ (thằng nhỏ) xít ra chuyện lớn (Cắt thằng nhỏ Ngô Ứng Hùng đưa đến chuyện Ngô Tam Quế làm phản một lần nữa / Vi Tiểu Bảo, người nhỏ, ăn nằm và nên duyên vợ chồng với những người đàn bà chức lớn, lớn tuổi / Từ cuộc tình nhỏ của Sophia và Bảo đến bang giao hai nước Nga-Hoa).

    Lộc Ðỉnh Ký còn đưa ra một luận đề chính nữa, theo lý giải bút hiệu Kim Dung của chính tác giả, nhằm dung hoà hệ thống giá trị cổ truyền của Trung Hoa với những gì hay ho, hiện đại của phương Tây. Chính sự dung hoà Ðông và Tây này có thể tác động cho việc mưu cầu tự do và hạnh phúc cuộc đời. Thế, Kim Dung có đặt câu hỏi dân chủ có phải một yếu tố hàng đầu trong mưu cầu tự do hạnh phúc hay không? Có lẽ, không và cũng có lẽ, có. Không, ở chỗ nhiều cuộc hội họp và hội nghị toàn quốc giữa các phe chống Thanh thường không đi đến kết quả nào, theo với đa số. Họ chỉ đồng ý nhau trên căn bản kiếm hiệp giang hồ. Và chủ ai nấy giữ. Trung thành mù quáng, không cần biết chủ mình có thật tài, có đức hay không. Phe nào trừ được gian tặc Ngô Tam Quế trước, phe đó sẽ được làm minh chủ. Không, cũng ở chỗ Khang Hy thường quyết định về chuyện quốc gia đại sự một mình. Không có quốc hội gì hết. Và những quyết định của Khang Hy thường rất tốt, rất . . . minh quân. Có, có chút đỉnh, ở chỗ trong nhiều trường hợp, Khang Hy ưa hỏi ý kiến của Vi Tiểu Bảo. Hỏi ý kiến của một người tiêu biểu thuộc Hán tộc, thuộc dân bị trị. Xuất thân từ chốn bần cùng.

    (Nói đến dân chủ, những người mê đọc truyện Tàu thuộc các thế hệ trước thời Kim Dung đều có thể nhớ đến truyện Phong Thần của Hứa Trọng Lâm, viết vào thời Minh. Phong Thần thuật chuyện nổi dậy của vua nước Châu chống lại nhà Thương. Mỗi bên được những đạo sĩ, những võ tướng thần thông cái thế thuộc hai phe đối nghịch nhau phò tá: Xiển giáo và Triệt giáo. Qua những chiến trận phù phép giữa hai bên, các đạo sĩ, võ tướng đều tử trận. Họ trở về cõi Trời và được phong thánh phong thần. Rồi cùng nhau “làm việc” cho Ngọc Hoàng Thượng đế. Cả hai phe đối nghịch nhau cùng làm việc cho một đấng chí tôn – chính là một ý niệm cơ bản của dân chủ theo kiểu Westminster của Anh quốc, hay kiểu nước Nhật ngày nay. Hưá Trọng Lâm có vẻ đã mơ hồ nhận thức được ý niệm này qua pho truyện Phong Thần, vào khoảng thế kỷ 16.)

    Ở một góc cạnh nào đó, ta có thể thấy Lộc Ðỉnh Ký mang ít nhiều luận đề của Hồng Lâu Mộng và AQ. Nhưng những luận đề đó được viết ngược lại. Viết theo cái nhìn của Kim Dung về các vấn đề nhân sinh và mâu thuẫn giữa những hệ thống giá trị của xã hội. Viết theo một chiều hướng hiện đại và một bối cảnh rộng lớn, quốc tế hơn. Lồng trong những đường gươm lưỡi kiếm và súng đạn. Hồng Lâu Mộng cho một gia đình từ giàu sang đến suy sụp. Lộc Ðỉnh Ký cho một người từ chốn thấp hèn leo đến địa vị giàu sang phú quý. Hồng Lâu Mộng cho người giàu sang giao lạc với mọi a-hoàn trong nhà. Lộc Ðỉnh Ký ngược lại cho một người nghèo hèn đi ngủ với các công chúa, các mỹ nhân của thời đại. Hồng Lâu Mộng và AQ cho nhân vật chính đi trốn nợ đời ở chốn Phật, hay lên đoạn đầu đài để đi về bên kia thế giới. Lộc Ðỉnh Ký cho vai chính hưởng được cuộc đời hạnh phúc ẩn danh trong cõi trần gian.

    Xin ghi lại lời của chính Kim Dung (ngày 22 tháng 6, 1981) đăng trong trang cuối bản dịch của Cao Tự Thanh: “Lúc gặp các độc giả gặp nhau lần đầu, câu hỏi mà tôi thường gặp nhất là ‘Ông thích bộ tiểu thuyết nào của mình nhất?’. Câu hỏi này rất khó trả lời, nên tôi thường không trả lời. Còn nếu bàn về ‘mình thích’, thì tôi thích mấy bộ có tình cảm mãnh liệt hơn như ‘Thần Ðiêu Hiệp Lữ, Ỷ thiên Ðồ long Ký, Phi hồ ngoại truyện, Tiếu ngạo giang hồ. Lại thường có người hỏi ‘Theo ông bộ tiểu thuyết nào của mình là hay nhất?’, thì bộ Lộc Ðỉnh Ký này là hay nhất. Có điều rất nhiều độc giả hoàn toàn không đồng ý. Tôi rất thích sự không đồng ý của họ.”

    Trong quyển “Thú Xem Truyện Tàu” [7] Vương Hồng Sển đã viết:

    “Như chúng ta đều biết, một tác phẩm văn nghệ muốn trở nên bất hủ, chẳng những phải cống hiến cho loài người những thành thực về phương diện nghệ thuật mà còn phải có tác dụng nhứt định đối với cuộc sống. Nghệ thuật chơn chính phải giúp cho nhơn loại về mặt xã hội và tinh thần để giành lấy được tự do và bình đẳng. Nghệ thuật không gây ảnh hưởng trực tiếp đối với đời sống như chánh trị, triết học, nhưng nhứt định sẽ có ảnh hưởng gián tiếp bằng cách thông qua những lý tưởng và hành động của những nhơn vật điển hình mà nó đã tạo ra trong tác phẩm.

    Vì thế, nghệ thuật tuyệt vời là phải tổng hợp và thể hiện cho được cái thiện chân thiện mỹ đó làm cơ sở, hơn thế nữa, làm mục tiêu cao nhất mà nghệ thuật mình phải đạt tới.”

    Với Lộc Ðỉnh Ký, Kim Dung đã đạt đến nghệ thuật tuyệt vời đó.

    Sydney, đầu mùa đông 2003


    Nguồn: http://maivantran.com

              
Last edited by Bạch Vân on Thứ ba 01/12/15 19:09, edited 1 time in total.
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5388
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: Thử Đọc Lại Kim Dung

Bài viết bởi Bạch Vân »

          
  • Thử đọc lại Kim Dung V: Cô Gái Đồ Long


    Tác Giả Nguyên Nguyên

    Viết xong “Thử Đọc Lại Kim Dung 4: Lộc Đỉnh Ký”, mặc dù rất muốn khoá sổ loạt bài về truyện kiếm hiệp của Kim Dung, tại hạ vẫn thấy có một cái gì lấn cấn ở chỗ kết thúc loạt bài “Thử đọc lại Kim Dung” bằng bài viết thứ 4 đó. Trong vòng con số 4 của bốn bài viết. Hứng khởi ban đầu khi thử đọc lại các truyện chưởng và tái khám phá Kim Dung xoay quanh “thuyết Ngũ Hành” với 5 hành, sinh khắc lẫn nhau. Kim Dung đã thật sự say mê quá độ về “thuyết Ngũ Hành” và luôn tạo dựng nhân vật dựa vào 5 hành tố Kim, Mộc, Thủy, Hoả, Thổ. Như vậy muốn được cân xứng trong lô-gích - muốn được xem cho đẹp trong toàn bộ, tại hạ bắt buộc phải tìm cách viết thêm một bài nữa, cho tròn con số 5. Số 5 của Ngũ Hành. Ngoài ra trong văn hoá người Hoa, người ta rất kiêng kị con số 4. Số 4, tiếng Hán đọc “tứ” có âm gần giống với “tử” mang nghĩa “chết”. Tương tự con số 7, đọc theo Hán Việt ‘thất’ cũng mang nghĩa ‘thất thoát’ - thường được người Hoa… tránh né. Tất cả nhà cửa ở các khu người Hoa thường cư ngụ tại Sydney, nếu mang địa chỉ số 4 hoặc 14, 24, … hay các số như 7, 74, 77 rất khó bán. Cách đây vài năm, báo chí có tường thuật chuyện một người Hong Kong cư ngụ tại Úc đành chịu mất tiền đặt cọc 10% mua nhà, sau khi khám phá rằng cái nhà mình định mua mang số 44 - bởi lúc thương lượng ban đầu, người mua đã quên không để ý đến số nhà. Số điện thoại, cell phone hay mobile phone - hoặc bảng số xe hơi cũng vậy. Nếu cho người Hoa lựa số điện thoại, lựa số xe - họ sẽ tránh số 4, số 7, và chỉ mê số 3 (“san” đọc gần giống với “sheng” tức “sinh” tức “sống”) hay số 8 (“bát” giống với “phát”). Xe nào mang số 168 hay 333 hoặc 888 sẽ rất dễ bán. Nhiều cao ốc ở các khu Chinatown của người Hoa cũng vậy, họ hoàn toàn dẹp bỏ số 4 cho tầng lầu thứ tư. Tầng 3 rồi nhảy ngay lên 5, bỏ qua số 4.

    Như vậy để cân xứng với “ngũ hành” - một đề mục dàn dựng tuy phụ nhưng rất thiết yếu trong hầu hết các truyện Tàu, kể cả Tây Du Ký (gồm Tam Tạng và bốn ngài đệ tử), và đặc biệt tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung - và cũng để tránh né con số 4 người Hoa thường không thích, bài Kim Dung số 5 này được cấp tốc ra đời.

    Thế nhưng, bài “Thử đọc lại Kim Dung” số 5 này sẽ viết cái gì đây? Tại hạ đắn đo không ít khi nghĩ đến và sau đó, phải lựa chọn giữa, Cô Gái Đồ Long (tức Ỷ Thiên Đồ Long ký) và Thiên Long Bát Bộ. Nếu viết về Thiên Long Bát Bộ có vẻ gay cấn hơn, nhưng đọc lại dù có “thử đọc lại” đi chăng nữa cũng tốn không ít thì giờ, nhất là phải đọc từ máy điện toán. Thử đọc lại Cô Gái Đồ Long mặt khác có vẻ dễ hơn bởi hồi ở tuổi Trương Vô Kỵ, mười mấy đến hai mươi, tại hạ đã đọc được vài lần. Sau này cũng xem qua vài bộ phim tập Hongkong về truyện này. Cũng chưa vội gì quyết định. Bỗng vào một dịp thư giãn, xem phim cũ của Alfred Hitchcock trên TiVi: ‘The 39 steps – Ba mươi chín bậc thềm’ [1], tại hạ chợt “phát hiện” thêm một vài điểm chứng tỏ truyện Kim Dung chịu ảnh hưởng phim kinh dị Hitchcock rất nhiều [2], ngay cả trong “Ỷ Thiên Đồ Long Ký”. Phát hiện đó, hợp với tính tò mò muốn tìm lại một vài cảm xúc thuở còn nhỏ tuổi khi đọc Kim Dung lần đầu - qua Cô Gái Đồ Long (CGĐL) bản dịch của Tiền Phong Từ Khánh Phụng – đã khiến tại hạ chọn Ỷ Thiên Đồ Long Ký làm đề tài cho bài số 5 này. Biết đâu, nhờ ở CGĐL, chúng ta sẽ có dịp để ý đến, và phân tích những thành tố và kỹ thuật chính đã khiến truyện ‘chưởng’ của Kim Dung được hâm mộ khắp nơi, qua nhiều thế hệ - và đưa tác giả lên hàng nhà văn lớn của Trung Quốc [3].

    Tóm Lược Ỷ Thiên Đồ Long Ký

    Câu chuyện CGĐL xảy ra tại Trung Quốc vào khoảng cuối đời nhà Nguyên (Mông Cổ) ở bên Tàu - thế kỷ 14. Trương Tam Phong, hồi còn tiểu đồng có gốc gác Thiếu Lâm Tự, khi đã thành danh sáng lập nên phái Võ Đang. Trương Tam Phong có hết thảy 7 người đệ tử, và chỉ trong một thời gian ngắn phái Võ Đang gây nên tiếng tăm trong chốn giang hồ. Ngày nọ, đệ tử thứ 3 Dư Đại Nham đi xuống miền Nam hành hiệp mong lấy thành tích về làm quà cho lễ thượng thọ sư phụ. Dư Đại Nham tình cờ phát hiện báu đao Đồ Long đang được nhiều phe phái trên chốn giang hồ chém giết giành giật. Đồ Long đao tình cờ lọt vào tay Đại Nham. Nhưng liền sau đó Đại Nham bị trúng độc của Hân Tố Tố, ái nữ Bạch Mi giáo chủ Hân Thiên Chính, và đao Đồ Long bị Bạch Mi giáo chiếm đoạt. Sợ lôi thôi với phái Võ Đang, Hân Tố Tố đến một tiêu cục thuê họ chở Đại Nham, đang bị thương và trúng độc, về núi Võ Đang. Gần đến núi Võ Đang có một nhóm người đến đón nhận Đại Nham về núi. Tiêu cục giao lại Đại Nham rồi cáo từ, không biết rằng nhóm người đó là một băng đảng lạ muốn tìm đao Đồ Long. Họ đưa Đại Nham đến một chỗ vắng rồi bẻ tay bẻ chân Đại Nham để tra khảo về đao Đồ Long. Đám đệ tử Võ Đang của Tam Phong sau đó tìm thấy Đại Nham và đem về chùa Võ Đang lo chữa trị. Nhưng võ công của Đại Nham đã bị phế hủy, và chàng không thể đi đứng được nữa.

    Trong lúc đó, Trương Tam Phong gởi đệ tử thứ 5 Trương Thúy Sơn xuống núi để điều tra manh mối vụ Đai Nham và đao Đồ Long. Trương Thúy Sơn gặp Hân Tố Tố nhưng hoàn toàn không biết liên hệ của nàng với vụ Đại Nham bị đả thương. Trương Thúy Sơn cũng để ý đến những hành vi ác độc của Hân Tố Tố, một người thuộc loại… tà ma ngoại đạo dưới mắt của bất cứ kiếm khách nào, thuộc các thứ danh môn chính phái như Thiếu Lâm, Võ Đang, Nga Mi, …

    Để gây ấn tượng đẹp với Thúy Sơn, Tố Tố mời Thúy Sơn đi dự lễ tuyên bố đao Đồ Long đã chính thức thuộc Bạch Mi giáo của cha nàng. Quần hùng tham gia rất đông, nhưng đa số thuộc hàng … tà ma ngoại đạo. Đến khi buổi lễ gần kết thúc một quái nhân tóc vàng râu vàng mang tên Tạ Tốn, hiệu Kim Mao Sư Vương, xuất hiện. Với võ công vô cùng lợi hại, Tạ Tốn giết rất nhiều người tại đó và cướp được đao Đồ Long. Những người còn sống sót trở nên điên khùng do tiếng rống đầy nội công thâm hậu của y. Tuy nhiên y tha mạng cho Thúy Sơn và Tố Tố, và dặn Thúy Sơn Tố Tố bịt tai lại trước khi rống lên. Nhưng để bảo mật tung tích của đao Đồ Long, y uy hiếp Thúy Sơn và Tố Tố - bắt hai người lên thuyền căng buồm đi về phía Bắc với y. Lý do chính: y cần tìm một nơi vắng vẻ để suy nghiệm ra các bí mật của Đồ Long đao. Chừng nào tìm ra bí mật rồi và … thành tài với đao Đồ Long, y sẽ trở về Trung Thổ tìm cừu nhân trả thù.

    Không may thuyền bị bão làm đắm và 3 người trôi dạt vào một hoang đảo, đầy băng tuyết. Vì bị thống khổ nhiều năm và học các loại võ nghệ không đúng cách, Tạ Tốn bị tẩu hoả nhập ma, điên điên khùng khùng, nhất là khi bị nắng chói. Khi khùng y định làm hỗn với Tố Tố nên trong lúc kém đề phòng, bị Tố Tố phóng kim đâm mù đôi mắt. Thấy tuyệt vọng chuyện trở về đất liền, và đứng trước nguy cơ hàng ngày của Tạ Tốn, Thúy Sơn và Tố Tố che chở nhau, rồi yêu nhau và trở thành vợ chồng trên Băng Hoa đảo. Tố Tố sinh ra con trai mang tên Trương Vô Kỵ - cho Tạ Tốn nhận làm con nuôi. Tạ Tốn rất thương, và dạy hết võ nghệ cho Vô Kỵ, bởi ngày trước y cũng có vợ con – nhưng cả gia đình bị chính sư phụ y là Thành Khôn giết hại. Mục đích chiếm đoạt đao Đồ Long của Tạ Tốn thật ra cũng không ngoài việc tập luyện một vũ khí tối thượng để có ngày trả mối thù xưa. Trong nhiều năm đi truy tầm kẻ thù Thành Khôn - Tạ Tốn giết hại không biết bao nhiêu người và thường xưng danh Thành Khôn để buộc Thành Khôn phải xuất hiện. Nhưng Thành Khôn, rất khôn ngoan giảo huyệt,vẫn biệt tích giang hồ.

    Sau 10 năm trên Băng Hoả đảo, Tạ Tốn dần dà phát hiện được chiều gió mùa và cùng vợ chồng Thúy Sơn - Tố Tố làm thuyền, rồi bảo vợ chồng Thúy Sơn và Vô Kỵ căng buồm trở về Trung thổ. Y không chịu đi, viện lẽ y bị mù và vẫn chưa khám phá được bí mật của đao Đồ Long.

    Trở về đất liền, Thúy Sơn mới phát hiện cả mười năm qua giới giang hồ đã chém giết nhau loạn xạ vì ai cũng ham tìm kiếm đao Đồ Long, Tạ Tốn và vợ chồng y. Dọc đường Vô Kỵ bị kẻ gian bắt cóc, để truy tầm tông tích của Tạ Tốn. Đến khi vợ chồng Thuý Sơn - Tố Tố về đến Võ Đang, Vô Kỵ mới được thả ra. Nhưng để chống trả Trương Tam Phong, kẻ lạ đã đánh vào người Vô Kỵ một chưởng kịch độc để lại vết bầm bàn tay đen, khiến thằng nhỏ bị nội thương trầm trọng.

    Ngày hôm đó cũng là ngày lễ mừng Trương Tam Phong. Các võ phái ùn ùn kéo về Võ Đang. Tuy bên ngoài họ nói đi mừng Tam Phong, nhưng bên trong, mọi người mang ý đồ bắt Thuý Sơn-Tố Tố phải khai chỗ trú của Tạ Tốn. Họ kiếm chuyện, đòi thanh toán những ân oán giang hồ do Hân Tố Tố và Thúy Sơn gây ra (do ở việc Tố Tố giả làm Thúy Sơn giết các tiêu cục, thuộc phái Thiếu Lâm, năm xưa đã không đưa Đại Nham đến nơi đến chốn, v.v.). Trong lúc phe chủ nhân Võ Đang đang bối rối chuẩn bị ứng chiến, Dư Đại Nham phát hiện em dâu Hân Tố Tố chính là người chịu trách nhiệm ban đầu về việc thân thể mình bị tàn phế. Quá xấu hổ về việc làm xằng bậy của người vợ Ma giáo của mình năm xưa, Trương Thúy Sơn tự vẫn trước mặt sư phụ và quần hùng. Hân Tố Tố cũng ‘tuẫn tiết’ theo chồng.

    Trương Vô Kỵ trở nên mồ côi và lâm bệnh nan y. Trương Tam Phong cố chữa trị bằng Cửu Dương chân kinh ông học được từ Giác Viễn đại sư năm xưa. Nhưng không đủ ‘liều’, bởi ông chỉ nhớ có phân nửa Cửu Dương chân kinh thôi. Tam Phong mới hạ mình dẫn Vô Kỵ lên Thiếu Lâm Tự mong đánh đổi phân nửa Cửu Dương của ông với phân nửa kia của Thiếu Lâm – hầu chữa trị bệnh cho Vô Kỵ. Thiếu Lâm Tự đưa một thanh niên tên Trần Hữu Lượng ra làm việc với Trương Tam Phong, rồi sau đó tìm cách chôm phân nửa Cửu Dương kinh của Tam Phong, rồi tiễn đưa Tam Phong và Vô Kỵ ra cửa [4].

    Trên đường trở về Võ Đang bằng thuyền, Trương Tam Phong cứu được một viên tướng thuộc phe kháng Nguyên, Thường Ngộ Xuân – có mang theo một cô bé gái, Châu Chỉ Nhược [5], nhỏ hơn Vô Kỵ một chút. Ngộ Xuân tuy kháng Nguyên, nhưng nằm trong một giáo phái kiểu của Hân Tố Tố mà Trương Tam Phong thường không ưa: Ma giáo, cũng được gọi Minh giáo với dấu hiệu Ngọn lửa, xuất phát từ nước Ba Tư bên Trung Đông. Ngộ Xuân hỏi ra biết Vô Kỵ bị bệnh nặng mới xin Tam Phong để y đưa Vô Kỵ đến một danh y quen biết trong Ma giáo tên Hồ Thanh Ngưu. Còn Chu Chỉ Nhược [5], y giao cho Tam Phong đem lên núi Nga Mi cho Diệt Tuyệt Sư Thái, chủ nhân Ỷ Thiên kiếm, nhận làm đồ đệ.

    Hồ Thanh Ngưu chữa không nỗi bệnh của Vô Kỵ. Nhưng y cứu được Vô Kỵ qua cơn hiểm nghèo, và kéo dài mạng sống Vô Kỵ thêm vài tháng. Vô Kỵ ở lại đó và trở thành phụ tá cho y-dược sĩ Thanh Ngưu, học được gần hết nghề bí truyền. Sau khi Hồ Thanh Ngưu và vợ bị một cừu nhân năm xưa Kim Hoa Bà Bà giết chết, Vô Kỵ luân lạc giang hồ. Nhờ ở y thuật học được của Hồ Thanh Ngưu, Vô Kỵ cứu được nhiều cao thủ danh môn chính phái, nhưng đều bị ‘lấy oán báo ơn’ – chung qui cũng ở chỗ nhiều người muốn dùng Vô Kỵ để truy tìm chỗ ở Tạ Tốn hầu chiếm đoạt đao Đồ Long. Sau cùng Vô Kỵ rơi vào một sơn cốc không lối thoát. Tại đây Vô Kỵ ăn được những con nhái đỏ rất nhiều chất bổ dương. Rồi một ngày nọ Vô Kỵ cứu được một con vượn bị đau ở giữa bụng. Khi giải phẫu bụng con vượn, Vô Kỵ khám phá cuốn bí kíp Cửu Dương chân kinh gói trong bọc giấy dầu nằm phía dưới da bụng con vượn. Quyển kinh này thất lạc đã nhiều năm và chính là quyển bí kíp duy nhất có thể chữa bịnh cho Vô Kỵ và tăng cường nội công của chàng lên hàng đệ nhất thiên hạ. Vô Kỵ ở dưới thung lũng núi nhiều năm, trị được bệnh và lớn lên thành một thanh niên anh tuấn, râu ria xồm xoàm.

    Vận nội công leo trở ra khỏi hang núi, Vô Kỵ mang tên khác để mọi người không nhìn ra và trà trộn vào đoàn của phái Nga Mi, trong đó có Chu Chỉ Nhược một trong những đệ tử hàng đầu của chưởng môn Diệt Tuyệt Sư Thái. Phái đoàn Nga Mi – cùng với các môn phái khác, gồm cả Thiếu Lâm, Võ Đang, Côn Luân, v.v. - đang trên đường lên đánh Quang Minh Đỉnh, tổng hành dinh của Ma giáo. Đang đi, bất ngờ Vô Kỵ bị một cao thủ của Ma giáo bắt bỏ vào một cái bị da cứng mang lên Quang Minh Đỉnh trước. Tại đây Vô Kỵ nằm trong bị nghe được cuộc cãi vã, tranh chấp quyền lực giữa những người lãnh đạo Ma (Minh) giáo. Bởi từ hồi giáo chủ Dương Phá Thiên tạ thế vì bị tẩu hoả nhập ma khi tập luyện võ trong hang – Ma giáo vận hành như rắn không đầu. Trong lúc những nhà lãnh tụ Ma giáo đang đấm đá nhau - tất cả đều bị đánh lén bởi một người lạ mặt ở ngoài lẻn vô. Người đánh lén này cũng bị phản kích lại một chưởng, bị thương. Người lạ mặt này không ai khác hơn Thành Khôn, kẻ thù không đội trời chung với Tạ Tốn. Thành Khôn thay tên đổi dạng và bây giờ là nhà sư Viên Chân thuộc Thiếu Lâm Tự. Viên Chân tiết lộ với bọn Minh giáo tại đó, xưa kia y chính là sư đệ của giáo chủ Minh giáo họ Dương. Một ngày nọ giáo chủ khám phá người vợ yêu quí tư tình với Thành Khôn nên bị tẩu hoả nhập ma rồi chết. Bà vợ cũng tự tử theo trong hang bí mật. Thành Khôn thoát được ra khỏi hang và thề nguyện sẽ làm tiêu tan Ma giáo.

    Một khoảng thời gian sau, Trương Vô Kỵ vận dụng được Cửu Dương chân kinh và phá tung, thoát ra khỏi túi da. Trong lúc rượt đuổi Thành Khôn tức Viên Chân, Vô Kỵ gặp a hoàn Tiểu Siêu của Tả Sứ Dương Tiêu, lãnh tụ cấp cao Ma giáo. Tiếp theo, chàng và Tiểu Siêu bị Viên Chân gài nhốt trong thạch động bí mật của giáo chủ họ Dương năm xưa. Bị kẹt trong thạch động Vô Kỵ tìm thấy toàn bộ võ công Càn Khôn Đại Nã Di tâm pháp, đặc thù của Ma giáo. Chính môn võ này đã khiến Dương giáo chủ bị chấn động mà chết – dù chỉ học được đến chừng phân nửa các cấp bậc - sau khi bắt gặp vợ tư tình với Thành Khôn. Vì nhu cầu cấp bách Vô Kỵ khấn vong hồn giáo chủ và ngồi xuống dò theo sách Càn Khôn mà học. Nhờ có căn bản Cửu Dương chân kinh, Vô Kỵ học được hết toàn bộ Càn Khôn võ học của Minh giáo trong vòng vài tiếng đồng hồ mà một cao thủ bình thường phải tốn ít lắm 10 năm mới thành đạt.

    Luyện xong Càn Khôn Đại Nã Di, Vô Kỵ đẩy được phiên đá rồi kéo Tiểu Siêu trốn ra khỏi thạch động. Tới bên ngoài Võ Kỵ thấy Minh giáo đang bị 6 môn phái tiêu diệt gần hết. Những cao thủ Ma giáo bị Thành Khôn đả thương hồi nảy - đều không thể ứng chiến. Chỉ trừ ông ngoại Vô Kỵ là Hân Thiên Chính, và đám lâu la Bạch Mi giáo của ông ta. Bạch Mi giáo thật ra chỉ là một chi nhánh của Ma giáo tách ra, vì nội bộ chia rẽ, nay trở về tiếp cứu. Trương Vô Kỵ - một thanh niên lạ quắc, không ai nhìn được vì biệt tích lâu năm - nhảy ra can gián các giáo phái không nên tiêu diệt Ma giáo, và giảng hoà đôi bên. Tất nhiên không được – nhưng vì võ công của Vô Kỵ giờ đây đã quá cao siêu nên dù có đấu chiến, cũng không ai hạ được chàng. Đa số vì thể diện đều muốn rút lui. Chỉ trừ Diêt Tuyệt Sư Thái, biết đánh không lại, mới sai đệ tử Chu Chỉ Nhược nhảy ra dùng Ỷ Thiên kiếm, đâm Vô Kỵ trọng thương, trong lúc anh ta đang ngẩn ngơ nhớ tới lúc gặp Chỉ Nhược hồi còn nhỏ. Các cao thủ Võ Đang nhìn ra Vô Kỵ chính là con của đồng môn Trương Thuý Sơn, và Hân Thiên Chính nhìn ra cháu ngoại của mình - tưởng đã chết từ lâu vì Huyền Minh thần chưởng.

    Sau đó Vô Kỵ được tôn làm giáo chủ Minh giáo vì đã học được hết Càn Khôn võ pháp và có công cứu Minh giáo. Vô Kỵ thối thác và chỉ nhận chức tạm thời trong khi đi tìm và rước nghĩa phụ Tạ Tốn về để nhậm chức này theo như di chúc của Dương giáo chủ tìm thấy ở trong động.

    Sáu giáo phái kể cả Thiếu Lâm sau khi đi đánh Quang Minh Đỉnh về đều bị quân Mông Cổ, do một quận chúa trẻ đẹp tên Triệu Minh thống lãnh, đánh thuốc mê bắt trọn, và giam tại chùa Vạn Pháp. Vô Kỵ tình cờ gặp được Triệu Minh, và Triệu Minh gần như bị tiếng sét ái tình khi gặp Vô Kỵ. Biết tin quân Mông Cổ sắp tấn công Võ Đang, Vô Kỵ dẫn các cao thủ Minh giáo về Võ Đang cứu thái sư phụ Trương Tam Phong. Trương Tam Phong mừng gặp lại người cháu tưởng đã tuyệt mạng từ lâu. Trương chân nhân truyền hết toàn bộ Thái cực quyền và Thái Cực kiếm cho Vô Kỵ để chống trả các cao thủ Mông Cổ do Triệu Minh dẫn đến. Qua cuộc đụng độ đó, Vô Kỵ phát hiện được hai người bắt cóc và đánh chàng một cú thần chưởng năm xưa chính là Huyền Minh nhị lão phục vụ cho Triệu Minh.

    Triệu Minh sau đó phải lòng Vô Kỵ, dụ chàng tới lui uống trà đàm đạo và sau cùng cho chàng thuốc chữa bệnh cho Dư Đại Nham và một sư thúc nữa mang tên Hân Lợi Hanh – cũng như thuốc giải độc cho các cao thủ sáu môn phái bị nàng tạm giam giữ nơi chùa Vạn Pháp. Nhưng trước khi trao thuốc cho Vô Kỵ nàng bắt Vô Kỵ thề hưá sẽ làm cho nàng 3 công tác mà sau này nàng sẽ cho biết là gì.

    Vô Kỵ và Minh giáo sau đó tới cứu các cao thủ võ lâm bị Triệu Minh giam giữ. Nhưng Diệt Tuyệt sư thái tự tử vì nhục nhã. Trước khi nhắm mắt bà truyền chức chưởng môn cho Chu Chỉ Nhược và bắt Chỉ Nhược thề sẽ không thành hôn với Vô Kỵ (vì y là … Ma giáo), và phải tìm cho được đao Đồ Long. Dùng Đồ Long đao với Ỷ Thiên kiếm sẵn có, chặt đao kiếm gảy ra - sẽ tìm thấy quyển binh thư và võ công bí kíp dấu trong ruột của chúng. Phái Nga Mi sẽ trở thành võ lâm minh chủ, mang công đầu trong việc đánh đuổi quân Nguyên.

    Sau khi thả cao thủ các môn phái, Triệu Minh gặp Vô Kỵ và cho biết công tác đầu tiên phải làm là đi tìm Tạ Tốn để nàng được xem đao Đồ Long một chút. Chu Chỉ Nhược, mang Ỷ Thiên kiếm theo giúp sức. Dọc đường họ gặp Kim Hoa Bà Bà và mới hay Tạ Tốn đã được Kim Hoa bà bà rước về ở Linh Xà đảo. Tại đây, Trương Vô Kỵ đụng độ với một nhóm cao thủ Minh giáo gốc, từ Ba Tư đến. Rốt cuộc, Vô Kỵ chiếm lại được Thánh hoả lệnh biểu tượng uy quyền của Minh giáo - phe cánh Trung quốc. Nhưng phe Vô Kỵ phải nhượng bộ giao trả lại cựu công chúa Ba Tư là Kim Hoa bà bà giả dạng xấu xí nhiều năm, và ái nữ Tiểu Siêu, a hoàn theo phục dịch Vô Kỵ từ lúc Quang Minh đỉnh, trở về Ba Tư thống lãnh Ma giáo ở đó.

    Trên đường về Trung thổ, và trong đêm lúc mọi người ngủ say, em cô cậu Vô Kỵ tên Hân Ly - từng theo hầu hạ Kim Hoa bà bà lâu năm - bị ai đả thương, và đao Đồ Long không cánh mà bay. Tiếp theo, Tạ Tốn cũng biến đi đâu mất. Sau đó, Vô Kỵ và Chỉ Nhược quyết định làm lễ tơ hồng xe duyên. Giữa đám cưới, Triệu Minh nhảy vào phá đám, đưa Vô Kỵ xem vài sợi tóc vàng của Tạ Tốn và bắt chàng phải theo nàng, như lời thệ hứa, đi làm công tác thứ 2, tức đi tìm Tạ Tốn. Châu Chỉ Nhược nổi khùng và tung thế võ cực kỳ ác hiểm xuất phát từ Cửu Âm chân kinh nhắm chụp sọ Triệu Minh, khiến quận chúa Mông Cổ bị thương ở vai.

    Triệu Minh và Vô Kỵ lên đường tìm Tạ Tốn và cuối cùng phát hiện Tạ Tốn bị Thành Khôn tức Viên Chân bắt giam ở một cái hầm trên Thiếu Lâm Tự - do ba nhà sư võ công trác tuyệt canh giữ. Thiếu Lâm Tự mời giới giang hồ đến chùa để xử Tạ Tốn và truy tầm đao Đồ Long. Ai hạ được 3 vị cao tăng kia sẽ được bàn giao Tạ Tốn. Vô Kỵ cuối cùng phải nhờ đến Chỉ Nhược hợp sức, mới chống trả lại được 3 vị cao tăng kia và cứu được Tạ Tốn. Chỉ Nhược thừa cơ hội muốn giết Tạ Tốn để bịt miệng, nhưng có một nữ cao thủ áo vàng họ Dương xuất hiện đánh cho đại bại. Thì ra chính Chỉ Nhược theo lệnh của Diệt Tuyệt Sư Thái đã đánh thuốc mê cho mọi người ngủ say trên hoang đảo, đả thương Hân Ly, rồi chôm đao Đồ Long. Nàng dùng Ỷ Thiên kiếm chặt Đồ Long, để đao kiếm gảy đôi, rồi moi ra 2 quyển bí kíp dấu trong đó: Binh thư Nhạc Phi và Cửu Âm chân kinh do Quách Tỉnh chép lại. Sau đó, nàng lén tập luyện Cửu Âm - rồi uy hiếp bắt Tạ Tốn. Tạ Tốn lại bị bọn Viên Chân bắt lên chùa Thiếu Lâm để tra khảo về đao Đồ Long.

    Lúc Tạ Tốn được tha ra khỏi hầm, mặc dù đã mù nhưng nhờ ở những giác quan sâu sắc khác, y phát hiện Viên Chân đang trà trộn ẩn núp trong đám quần hùng. Y thách đấu và vạch trần tội ác của Thành Khôn. Chính Thành Khôn là người đã gây ra bao ân oán giang hồ mấy mươi năm nay. Nhờ trời bị nhật thực, Thành Khôn cũng đâm ra ... mù như Tạ Tốn, nên bị đệ tử cũ đánh bại. Sau đó Tạ Tốn tạ lỗi với quần hùng, được tha mạng, và quy y cửa Phật.

    Châu Chỉ Nhược cũng hối lỗi, đến núi Võ Đang và xuống tóc trước mặt Trương Tam Phong. Trương Vô Kỵ được tôn làm minh chủ võ lâm trong công cuộc kháng Nguyên, nhưng không lâu, bị một tướng cầm quân mang tên Chu Nguyên Chương, người đánh đuổi được quân Mông và sáng lập nên nhà Minh sau này, đánh thuốc mê ngủ vùi. Tỉnh dậy, Trương Vô Kỵ chán nản, rút khỏi chính trường. Nhưng liền sau đó, Vô Kỵ tìm được một việc làm mới, có vẻ hay và thú vị hơn - theo yêu cầu thứ 3 của Triệu Minh, trong toàn bộ 3 công tác chàng đã hứa chu toàn ngày trước: Ngày ngày kẻ lông mày cho Triệu Minh.

    Nhận xét về kỹ thuật Kim Dung trong Ỷ Thiên Đồ Long Ký

    CGĐL kéo dài trên 100 hồi khác nhau và ngày trước, trong ấn bản dịch sang Việt ngữ đầu tiên tại Sàigòn vào khoảng 1964, toàn bộ gồm có 6 quyển. Chính dịch giả Từ Khánh Phụng đã cho bộ truyện cái tên Cô Gái Đồ Long - thật ra không dính dáng trực tiếp đên nhân vật chính của truyện. Nhưng “Cô Gái Đồ Long” có vẻ hấp dẫn hơn “Ỷ Thiên Đồ Long Ký” bởi rất nhiều người đọc, nhất là giới thanh thiếu niên, thường tò mò muốn đọc để biết cô gái Đồ Long là ai?

    Ỷ Thiên Đồ Long ký, sáng tác thứ 6 của Kim Dung, có lẽ tác phẩm được quay thành phim tập nhiều lần nhất trong lịch sử điện ảnh Hongkong, và thế giới. Cứ chừng 3-4 năm người ta thấy bộ bộ phim tập mới, dựa trên truyện này, ra đời. Có hai điềm ta cần để ý đối với các ấn bản Ỷ Thiên Đồ Long Ký (YTĐLK), và các phim tập Hồngkông/ Đài-Loan và lục địa. Điểm thứ nhất: chính tác giả Kim Dung đã nhiều lần hiệu đính, thêm thắt và cắt bớt nhiều đoạn trong tác phẩm của ông, đáng kể nhất YTĐLK. Trong bản hiệu đính sau cùng, Kim Dung cũng thay đổi vài tên họ các nhân vật. Ví dụ, Triệu Mẫn thay cho Triệu Minh, Hân Tố Tố / Hân Lợi Hanh được thay bằng Ân Tố Tố / Ân Lê Đình, v.v. Bởi tại hạ chưa đọc bản chuyển ngữ mới của YTĐLK – có thể tìm thấy trên các mạng vietkiem.com hay nhanmonquan.com – nên chỉ ước đoán những sửa đổi đó chắc không ngoài việc tránh nhầm lẫn và hài hoà hơn với cái thế âm dương ngũ hành giữa các nhân vật. Bởi mấy mươi năm về trước, truyện CGĐL được viết, và sau đó in thành sách, theo dạng phơi-yơ-tông đăng báo hàng ngày. Mỗi ngày viết một đoạn ngắn đủ chữ để đăng trên nhật báo. Nên CGĐL và nhiều tác phẩm khác của Kim Dung thường bị phải một sơ suất nhỏ: Rất nhiều nhân vật phụ bị tác giả bỏ quên đâu mất! Điển hình trong CGĐL, nhân vật Đinh Mẫn Quân - một đệ tử trưởng tràng của phái Nga Mi, thâm niên và ‘xiê-nho’ hơn Chu Chỉ Nhược – vô hình chung không được tác giả nhắc đến nữa, sau khi Chỉ Nhươc thay thế Diệt Tuyệt sư thái làm chưởng môn.

    Điểm thứ hai, khi nói đến phim tập, nhiều người xem các bộ mới sau này có lẽ không thích mấy, nếu không nói bị thất vọng, vì – khi phải quây lại một truyện cũ nhiều lần - người làm phim đã thay đổi một số chi tiết để cố gắng thu hút khán giả. Theo kiểu bình mới rượu cũ. Một vài chi tiết đổi thay này đã vô hình chung làm suy giảm bố cục chặt chẽ, và những cá tính độc đáo của nhân vật. Thí dụ, phim tập YTĐLK mới nhất (2003) lại cho Thành Khôn nhảy qua làm việc với quân Mông Cổ, rồi chính Thành Khôn đánh Vô Kỵ cú âm hàn chưởng Huyền Minh khiến thằng nhỏ bị bịnh gần chết! Hai chi tiết nữa làm các loại phim tập hiện đại đâm ra mất hay, bớt đi sâu sắc. Thứ nhất, các phim mới ưa dài dòng về mối tình đầy bi thương giữa Tả sứ của Ma giáo Dương Tiêu với một đệ tử Nga Mi (chính phái) Kỷ Hiểu Phù. Kỷ Hiểu Phù trước đó có đính hôn với sư thúc Hân Lợi Hanh của Vô Kỵ Cuộc tình trộm lén giữa Phù và Tiêu bị chưởng môn Diệt Tuyệt biết được – do Đinh Mẫn Quân tâu lại – và Hiểu Phù bị Diệt Tuyệt đập chết. Nhưng Hiểu Phù có con gái với Dương Tiêu mang tên Bất Hối (ngụ ý Hiểu Phù không hối hận đã yêu một người ma giáo ngoại đạo như Dương Tiêu!). Bất Hối được Vô Kỵ cứu và đưa gặp lại cha. Mười mấy năm sau, trong tình huống éo le, Bất Hối gặp gỡ rồi thành hôn với Hân Lợi Hanh, tình mẹ duyên con.

    Thứ hai, các phim mới ưa cho nhiều nhân vật, nhất là Dương Tiêu và Hiểu Phù ôm nhau hôn, bằng môi kiểu Tây phương, rất mùi mẫn. Hôn nhau bằng môi hoàn toàn không có mô tả trong YTĐLK của Kim Dung [7]. Những phim tập xưa, như bản Lương Triều Vĩ đóng vai Vô Kỵ khoảng giữa thập kỷ 80, cũng không có cái màn hôn môi này. CGĐL ngược lại thường mô tả những cảnh cắn nhau chí choé, cắn tay, giữa Hân Ly với Vô Kỵ, giữa Vô Kỵ với Triệu Minh – như để minh chứng ngạn ngữ: “yêu nhau lắm cắn nhau đau”. Tuy nhiên, ta cũng để ý Kim Dung tuy không dám nói thẳng nhân vật tiểu thuyết ông ta hôn nhau bằng … môi, nhưng cũng đã gián tiếp đề cập đến việc KISS này ở đoạn một nhân vật nữ sau khi bị Vô Kỵ cắn lại, than phiền nàng bị chảy máu ở môi! Nhét vào hôn môi, hoặc hàm ý tí xíu, để lôi cuốn giới độc giả “trẻ”, thuộc thế hệ sung sinh, babyboom, trở về sau.

    Bây giờ, qua CGĐL, xin thử phân tích những thứ chất xám hoặc kỹ thuật chính yếu nào, đã khiến truyện chưởng Kim Dung được hàng triệu người say mê, qua nhiều thế hệ, và đưa tác giả lên hàng nhà văn lớn hiện đại của Trung quốc.

    (i) Kinh dị kiểu Hitchcock và phim truyện phương Tây

    Truyện chưởng Kim Dung có lẽ thứ truyện Tàu đầu tiên mang nhiều ảnh hưởng tiểu thuyết và phim ảnh Tây Phương.

    Qua những điểm giống nhau giữa các phim Hitchcock và truyện chưởng Kim Dung, đề cập đến trong bài số 3 (Tiếu Ngạo Giang Hồ) và số 4 (Lộc Đỉnh Ký) – ta thấy rõ Kim Dung đã chịu ảnh hưởng rất nhiều của Hitchcock. Nhiều xen kinh dị và bí ẩn, đặc thù Hitchcock, thường dễ tìm trong nhiều tác phẩm nổi tiếng của Kim Dung, đặc biệt Cô Gái Đồ Long.

    Xen rùng rợn nhất của Hitchcock là cái màn người đàn bà bị đâm chết lúc tắm vòi sen trong phim Psycho. Trong Lộc Đỉnh Ký, Kim Dung lọc hết các thành tố chính xen rùng rợn này (bất ngờ, không vũ khí và không vật che thân, nạn nhân không chỗ chạy) và dựng nên màn một công tử bị công chúa Mãn Thanh đập báng súng bất tỉnh để rồi tiện tay … thiến mất thằng nhỏ của công tử. Công thức này cũng đã được áp dụng trong YTĐLK. Ở chỗ lúc Trương Vô Kỵ từ hoang đảo về Trung thổ với cha mẹ bị bắt cóc. Trước khi thả, kẻ gian đã đánh vào Vô Kỵ một cú Huyền Minh chưởng khiến Vô Kỵ bị trọng thương, không thuốc chữa trong nhiều năm. Xen rùng rợn này đã áp dụng công thức “vòi sen” của Hitchcock như sau:
    - bất ngờ: Không ai có thể ngờ kẻ lạ lại gian ác như vậy.
    - người bị đánh không có vũ khí chống trả hoặc thân thể trơ trọi: trong Psycho, người bị đâm đang trần truồng tắm vòi sen. Trong Lộc Đỉnh Ký, công tử đang bị mê man bất tỉnh. Trong CGĐL, người bị đánh chỉ là một đứa nhỏ mới lên 10, đang bị điểm huyệt.
    - nạn nhân không chỗ tránh né: hoàn toàn không chỗ chạy. Trong Psycho, nạn nhân bị bít lối trong phòng tắm. Trong Lộc Đỉnh Ký, công tử bị bất tỉnh, chạy không được đề hòng cứu thằng nhỏ. Ở đây, Vô Kỵ đang bị ôm chặt bởi cao thủ Mông Cổ - trước khi bị đánh chưởng âm hàn.

    Từ đầu đến cuối, CGĐL lúc nào cũng mang những bí ẩn kiểu thriller của Hitchcock, đặc biệt The 39 steps, The man who knew too much, Vertigo, North by NorthWest,…. Tạ Tốn là ai? Tại sao võ công y cao siêu mà lại khùng khùng điên điên? Kẻ thù Thành Khôn của Tạ Tốn là ai? Chừng nào y mới xuất hiện? Lúc xuất hiện tại sao y lại mang pháp danh Viên Chân đại sư! Ai đả thương Dư Đại Nham để suốt đời bị tàn phế? Ai giết Hân Ly, rồi ai ăn cắp đao Đồ Long trên hoang đảo? Bí mật của bảo đao Đồ Long là gì? Thiếu nữ áo vàng cứu Tạ Tốn khỏi tay Chu Chỉ Nhược, muốn giết để bịt miệng, là ai? Làm cách nào Vô Kỵ có thể chữa được bệnh nan y của mình? Vô Kỵ sau cùng sẽ lấy cô nào, hay sẽ có một lượt hai ba vợ? Ai giết sư thúc Mạc Thanh Cốc của Vô Kỵ để rồi Vô Kỵ bị hàm oan! Kim Hoa Bà Bà và Tiểu Siêu gốc gác từ đâu?

    Người đọc luôn được Kim Dung đưa dẫn đưa từ chỗ bí ẩn này đến chỗ kinh ngạc khác. Và gần như tất cả những bí ẩn đó được kéo dài qua nhiều hồi, có khi đến cuối truyện, mới được giải thích thoả đáng.

    Hai xen khác vinh danh Hitchcock được thể hiện trong CGĐL phải kể: (i) Trương Vô Kỵ bị kẻ gian bắt cóc khỏi tay cha mẹ, giống như con trai ông bà bác sĩ, James Stewart và Doris Day thủ vai, bị bắt cóc trong phim Hitchcock: ‘The man who knew too much - Người biết quá nhiều’, với bản nhạc Que sera sera bất hủ. Và (ii) Đoạn Vô Kỵ được một trang chủ có nhiều chó săn nuôi nấng, nói gạt y rằng họ là những người chịu ơn Tạ Tốn – mong y dẫn đi tìm Tạ Tốn để rước Tạ Tốn về phụng dưỡng trả ơn. Sau khi Vô Kỵ tình cờ phát hiện được âm mưu của họ, họ tìm cách bắt Vô Kỵ tra khảo. Nhưng Vô Kỵ thoát được và rơi vào một sơn cốc rất sâu. Đoạn này xử dụng ý niệm “Ngủ với kẻ thù – Sleeping with the Enemy’, Hitchcock đã lăng xê trong phim The 39 steps. Trong phim đó, Hitchcock cho vai chính (Robert Donat) khám phá ra một bí mật - người chủ mưu có tật ở ngón tay út - và được biết phải đi trình báo với một người ở tận Tô Cách Lan. Vai chính mò lên Tô Cách Lan, ở trọ nhà người đó. Ít lâu sau mới biết chủ nhà chính là người có tật ở ngón tay, chủ mưu một cuộc ám sát sắp được thi hành. Vai chính chỉ còn nước bỏ chạy, bị đám gian manh kia và chó săn rượt đuổi.

    Những thành tố khác thuộc dạng vinh danh hay áp dụng kỹ thuật kinh dị của Hitchcock đã được mô tả khá đầy đủ trong ‘Thử đọc lại Kim Dung 3 và 4’.

    Cũng như Lộc Đỉnh Ký, CGĐL đã áp dụng công thức phiêu lưu của truyện nổi tiếng phương Tây “Robinson Crusoe” cho 3 người Tạ Tốn, Thúy Sơn và Tố Tố lạc đến một hoang đảo miền Bắc Cực và phải sinh sống ở đó nhiều năm. Chỉ nội câu chuyện thuyền bị đắm rồi trôi giạt và sống sót trên một hoang đảo - đã luôn là một đề tài được giới phim ảnh Hollywood xào đi nấu lại nhiều năm, bằng nhiều phim khác nhau [8]. Việc sống còn trên một hoang đảo sau khi thuyền bị đắm – luôn luôn khơi động trí tưởng tượng lý thú của mọi giới, qua nhiều thế hệ. Chôn dấu phía sau 1 cuộc phiêu giạt đến một hoang đảo giữa 1 người nam và 1 người nữ là gì? Đó là dù muốn dù không, dù có hợp nhau hay không, hai người đó sớm muộn cũng thành vợ chồng – ăn cá và ở chung trong một túp lều lá với nhau! Sinh tồn đi trước bản chất! Và Kim Dung đã không quên cơ hội xử dụng nó nhuần nhuyễn trong nhiều tác phẩm để đời của ông.

    Áp dụng phim, truyện Tây phương của Kim Dung còn có thể tìm thấy trong vai Kim Hoa Bà Bà và con gái Tiểu Siêu. Kim Hoa Bà Bà chính thật là một công chúa rất đẹp, thủ lãnh của Ma giáo chính gốc ở xứ Ba Tư. Nhưng bà ta lưu lạc trốn chạy vào Trung thổ với mục đích tìm quyển sách dạy võ bí truyền mang tên Càn Khôn Đại Nã Di rồi ở đó luôn. Trong Ma giáo Trung quốc Bà Bà đảm nhận vai trò rất cao, và được rất nhiều nam lãnh tụ trồng cây si. Từ đầu đến cuối truyện, bà giả dạng thành một người đàn bà xấu xí, lưng hơi gù.Khi quân Ma giáo Ba Tư tìm ra Bà Bà, bà mới cùng con gái Tiểu Siêu lột bỏ hoá trang hoàn hình những người đẹp nghiêng thành đổ nước. Đành phải trở về Ba Tư để cứu mạng giáo chủ Vô Kỵ như đã hứa. Lối hoá trang ‘gù lưng’ rất giống với một nhân vật hiệp sĩ Pháp trong phim Le Bossu (hiệp sĩ lưng gù) - phỏng theo một tiểu thuyết nổi tiếng Pháp - được điện ảnh Pháp và Âu Châu quay đi quay lại tất cả chừng 6 lần. Trong đó có lẽ bản do Jean Marais và Bourvil đóng (1960), từng chiếu tại rạp Casino ở Saigon là hay nhất. Trong Le Bossu, một hiệp sĩ cứu được con gái nhỏ của lãnh chúa mình, đem về nuôi cho đến lớn. Về sau, hiệp sĩ đó giả dạng thành một anh gù lưng len lỏi vào thành kẻ địch, đánh bại họ trả thù cho chủ. Rồi cưới con gái chủ.

    Kim Dung cũng cho thấy rất nhiều tác phẩm của ông mang nặng ảnh hưởng của lối flashbacks - kể lại chuyện xưa - được lăng xê qua “phim classic” rất nổi tiếng Citizen Kane (1941) của Orson Welles. Phim bắt đầu bằng cái chết của một tay cự phú, chủ nhân ông một cơ sở báo chí lớn lao. Sau đó một người muốn tìm hiểu về nguyên do đưa đến cái chết của nhà triệu phú, đã gặp và phỏng vấn những người thân và quen biết - rồi được kể lại những chuyện cũ, qua flashbacks. Trong Xạ Điêu Anh Hùng truyện, ta thấy chuyện từng người trong 5 đại cao thủ: Hoàng Dược Sư, Âu Dương Phong, Đoàn Nam Đế, Hồng Thất Công và Vương Trùng Dương tranh chấp với nhau ra làm sao, được nhiều người lần lượt flashback, thuật lại. Thành ra truyện Anh Hùng Xạ Điêu thật ra bao gồm thêm hai ba câu chuyện phụ nữa! Nhân vật trong các câu chuyện phụ của flashbacks đều liên hệ, trà trộn và giao tác với nhân vật trong truyện chính. Kiểu đó gây cho người đọc nhiều hồi hộp và lý thú. Bởi sẽ có cảm tưởng lúc nào họ cũng khám phá thêm vài bí ẩn, tìm ra một số lý giải cho câu chuyện đang đến hồi gay cấn. Hoà mình cùng nhân vật chính nghe chuyện đời xưa. Độc giả cũng dễ cảm chừng như được ‘mua một tặng một’. Trong CGĐL, rất nhiều bí mật và gốc gác nhân vật được tuần tự quay lại theo hồi ức của một vài chứng nhân. Đáng kể nhất, hồ sơ lí lịch của Kim Hoa Bà Bà, Tiểu Siêu, Phạm Dao – một gián điệp Ma giáo nằm trong hàng ngũ của Triệu Minh, của Viên Chân tức Thành Khôn, của Dương giáo chủ, v.v.

    Đối với những người khó tánh, không dễ bị thuyết phục bởi luận chứng về ảnh hưởng Hitchcock và các tiểu thuyết / phim ảnh nổi tiếng phương Tây trong truyện chưởng Kim Dung, một chi tiết nhỏ sau đây chắc chắn sẽ làm tăng sức thuyết phục về luận chứng đó. Chi tiết đó, trong CGĐL, được dàn dựng chung quanh nhân vật Thanh Dực Bức Vương Vi Nhất Tiếu - một trong những lãnh tụ của Ma giáo. Đó là một chất xám loại ‘kinh dị’ được Kim Dung đem ứng dụng từ các tiểu thuyết-phim ảnh lừng danh Tây phương. Kim Dung đã cóp toàn bộ ‘cá tính và hành vi’ hút máu người ở cổ của quỷ nhập tràng DRACULA để tạo dựng nên nhân vật Vi Nhất Tiếu. Bá tước Vlad Dracula là một nhân vật có thật trong lịch sử của vùng Transylvania thuộc nước Romania (Lỗ Ma Ní) ngày nay. Trong khi cai trị cư dân trong vùng, vào thế kỷ 15, Dracula có những biện pháp trừng trị kẻ thù và tội phạm rất tàn ác. Đến năm 1897, nhà văn Bram Stoker viết nên một tiểu thuyết bán rất chạy, huyền thoại hoá bá tước Dracula thành một con quỷ nhập tràng chuyên hút máu người làm thức ăn chính. Đến lúc nền điện ảnh Hollywood phát triển người ta cho quay phim Dracula, và quay đi quay lại rất nhiều lần. Có lẽ phim Dracula là phim loạt quay nhiều nhất, chỉ sau loại phim James Bond mà thôi. Tài tử từng đóng vai Dracula nhiều lần chính là Christopher Lee, tướng người hơi cao, cằm nhọn.

    Trong CGĐL, Kim Dung cho nhân vật Vi Nhất Tiếu mang biệt danh Thanh Dực Bức Vương – con dơi xanh – chuyên dùng bữa bằng máu cắn hút ở cổ người, y hệt như Dracula. Vi Nhất Tiếu có tài khinh công, chạy bộ như bay. Khi đấu chiến y chỉ cần ôm được đối thủ rồi nhe hai hàm răng ra cắn vào cổ đối phương, hút máu để giải quyết cả cơn đói lẫn cơn ghiền! Thật kinh dị.

    Ỷ Thiên Đồ Long Ký cũng cho ta thấy Kim Dung đã không quên vinh danh những đóng góp đáng kể của nền điện ảnh Nhật Bản. Nhất là các phim: ‘The Seven Samurai – 7 người võ sĩ đạo’ qua 7 đệ tử Võ Đang của Trương Tam Phong; phim ‘Rashomon - Địa Ngục Môn’ qua cách kể chuyện flashback về nguyên ủy chuyện xưa (Kim Hoa Bà Bà, Tạ Tốn, v.v.), mỗi người thuật lại một kiểu theo trí nhớ đầy chủ quan của mình; và nhất là phim ‘Hiệp Sĩ Mù’ qua kiếm khách mù Tạ Tốn.

    Một trong những kỹ thuật then chốt làm cho truyện Kim Dung được nhiều người hâm mộ do đó có thể qui vào thành tố kinh dị, Kim Dung đã áp dụng từ các tiểu thuyết và phim ảnh thuộc genre kinh dị của Tây phương, đặc biệt các phim của Hitchcock.

    (ii) Tình huống éo le mới trong dàn dựng cũ

    Đọc lại các truyện chưởng Kim Dung mà không đọc lại các bộ truyện kiếm hiệp xưa như ‘Càn Long hạ Giang Nam’, ‘Lã Mai Nương’, có lẽ ta sẽ dễ quên một điểm quan trọng: truyện Kim Dung rất khác những pho truyện kiếm hiệp cổ điển.

    Kỹ thuật tiểu thuyết của Kim Dung đã biến đổi công thức của loại truyện kiếm hiệp Tàu, rất,… rất nhiều.

    Trước hết Kim Dung áp dụng kỹ thuật tiểu thuyết của Tây phương, ngày trước ta thường gọi tiểu thuyết luận đề. Đại khái, lồng vào nhân vật chính những mâu thuẫn to tát do ở giá trị của xã hội đương thời – lúc nào cũng biến đổi, mặc dù biến đổi rất chậm. Rồi dùng những phép thần chú của ngòi bút, dần dà hoá giải các mâu thuẫn đó ở phần cuối truyện. Những tiểu thuyết lừng danh ở phương Tây như ‘Cuốn theo chiều gió – Gone with the wind’, ‘Kiều Giang – Jane Eyre’, ‘Buồn ơi ta chào mi – Bonjour tristesse’, ‘Romeo & Juliet’ đều giải tỏa rất hay, những mâu thuẫn trong giao tác giữa, hoặc hay hơn, mâu thuẫn trong nội tâm của, nhân vật.

    Nếu so sánh với tiểu thuyết võ hiệp Tàu cổ điển với truyện chưởng Kim Dung, ta sẽ thấy mâu thuẫn trong truyện Kim Dung được nhấn mạnh rất rõ nét. Võ hiệp cổ điển thường quay chung quanh việc ‘trả thù nhà nợ nước’: Cao thủ nào đó giết hết cha mẹ nhân vật, xong rồi nhân vật được một đại sư hay đại ni cô nào đó cứu, và dạy thập bát ban võ nghệ cho. Khi thành tài và lớn lên, đi truy tìm kẻ thù thách đấu rồi hạ sát địch thủ, móc tim ra tế khấn vong hồn song thân. Kim Dung đã dùng những bối cảnh cũ của truyện võ hiệp Tàu và truyền vào đó những nội công thâm hậu của kỹ thuật tiểu thuyết phương Tây. Thí dụ, trong CGĐL, Triệu Minh một quận chúa Mông Cổ lại phải lòng một người Hán có võ công trác tuyệt đang lãnh đạo một lực lượng mong lật đổ nhà Nguyên của triều đình. Hoặc Hân Tố Tố một yêu nữ gốc ma giáo lại thành hôn với đệ tử đẹp trai Trương Thúy Sơn của Võ Đang, thuộc hàng danh môn chính phái. (Kim Dung chọn lối Romeo & Juliet để giải toả cho Thúy Sơn và Tố Tố). Kỷ Hiểu Phù người thuộc danh môn chính phái, bỏ hôn phu Hân Lợi Hanh, đi yêu cao thủ ma giáo Dương Tiêu. Rồi con gái Hiểu Phù và Dương Tiêu về sau lại thành thân với Hân Lợi Hanh, nối lại tơ vương đính ước giữa mẹ nàng với Lợi Hanh.

    Ngoài những mâu thuẫn về tình cảm Kim Dung còn tô đậm nét và giải toả những mâu thuẫn giữa các xu hướng chính trị, hệ thống Khổng Mạnh, Lão Trang, và những hệ thống giá trị cổ truyền Trung quốc. Triệu Minh từ giã cha anh, vinh hoa phú quý, phản bội triều đình – đi theo tiếng gọi ơi ới của con tim. Trương Vô Kỵ lên được đến võ lâm minh chủ chính nhờ ở tính tình bộc trực ngay thẳng, đôn hậu. Nhưng không thể nào trở thành nhà lãnh đạo chính trị được. Vai trò đó phải nhường cho những người như Chu Nguyên Chương. Giải pháp Kim Dung chọn cho Vô Kỵ mang nhiều ảnh hưởng Lão Trang: Dong ruổi cưỡi ngựa cùng với Triệu Minh đi về hướng mặt trời lặn, để rồi ngày ngày kẻ lông mày cho nàng.

    Các nhân vật chính đều có kẻ thù, nhưng hầu hết ân oán giang hồ đều được giải toả theo triết lý của Phật giáo, lấy đức báo oán, dụng nghĩa tha Tào. Trương Vô Kỵ rất oán hận các chính phái bởi cha mẹ chàng đã bị các chính phái bức tử, nhưng chàng vì nghiệp lớn, đứng ra hoà giải các chính phái với nhau. Vô Kỵ cũng thù Huyền Minh nhị lão đánh cú âm hàn chưởng, nhưng cuối truyện vẫn không giết Huyền Minh nhị lão, mà chỉ làm cho hai cao thủ đó đâm ra gây gổ hục hặc với nhau. Hân Tố Tố đâm mù mắt Tạ Tốn, nhưng Tạ Tốn sau đó lại kết nghĩa anh em với Tố Tố và Thúy Sơn, rồi nhận Vô Kỵ làm con nuôi. Tạ Tốn giết không biết bao nhiêu người nhưng sau cùng y phế bỏ võ công và sẵn sàng chịu chết để đền tội, lại được giang hồ tha chết. Chỉ vì y bắt đầu giác ngộ. Tạ Tốn thù hận Thành Khôn nhưng khi đánh mù mắt và biến Thành Khôn thành người tàn tật mất hết võ công, Tạ Tốn dừng lại tha chết Thành Khôn.

    Điểm tổng quát thứ hai trong việc áp đặt mâu thuẫn lên nhân vật, chính là tình huống rất éo le luôn được dàn dựng trong truyện Kim Dung. Trong CGĐL, các mối thù hận mang đầy phức tạp, những mối tình toàn éo le ngang trái - chứ không giản đơn như truyện Tàu xưa cũ.

    Thù hận phức tạp: (i) Kẻ thù bất cộng đái thiên của Tạ Tốn là Thành Khôn, chính ra sư phụ ruột của y; (ii) Kẻ thù của Trương Vô Kỵ rất khó xác định! Vì đâu cha mẹ y phải tự vẫn trước mặt đông đủ giới giang hồ? Vì đâu y bị một cú Huyền Minh thần chưởng để bị bệnh nhiều năm? Rất khó thiết lập nguyên do chính và kẻ thù chính của Vô Kỵ. (iii) Đến ngay kẻ thù của dân tộc là người Mông Cổ, nhưng một quận chúa Mông Cổ lại đâm ra mê chàng! (iv) Kẻ thù Dư Đại Nham là ai? Lại không truy ra được ‘nguyên do trực tiếp’ khiến chàng bị bẻ tay bẻ chân! V.v.

    Tình yêu ngang trái, éo le: (i) Hân Tố Tố (ma giáo) yêu Trương ThuÍ Sơn (chính phái); (ii) Trương Vô Kỵ ban đầu yêu Châu Chỉ Nhược, nhưng cứ bị Diệt Tuyệt sư thái ngăn cản hoài, rồi bị Chu Chỉ Nhược đâm cho trọng thương trước sau 2 lần; (iii) Hân Ly, em cô cậu ruột Vô Kỵ, gởi trọn trái tim cho Vô Kỵ; (iv) Triệu Minh, gái Mông Cổ, say mê trai Hán Trương Vô Kỵ, rồi rốt cuộc phải chọn một trong hai ở nhà hay bỏ nhà theo chàng; (v) Kỷ Bất Hối – con gái của ma giáo Dương Tiêu và chính phái Hiểu Phù – sau này trong dịp săn sóc Hân Lợi Hanh đang bị trọng thương, đâm ra yêu người tình cũ của mẹ, và xin cha và Vô Kỵ cho phép tác hợp với Lợi Hanh. Kim Dung có vẻ áp dụng kỹ thuật ăn khách của ‘Un certain sourire - Một nụ cười đáng nhớ’, và ‘Aimez-vous Brahms – anh có thích nhạc Brahms không’ của Francoise Sagan, trong mối tình Bất Hối - Lợi Hanh. Tình yêu không phân biệt tuổi tác, hơi chéo, đối với suy nghĩ cổ kính của xã hội Trung Hoa thời xưa.

    Một điểm đượm sắc chu hồng mà truyện chưởng Kim Dung vẫn thường xuyên đề cập và phân tích, phải kể: tính cách Hiệp Chủng quốc của xã hội Trung Hoa, và giao tác giữa những cao thủ khác sắc tộc với nhau, trong bối cảnh lịch sử Trung quốc. Đây có lẽ là lối tạo dựng nhân vật mới lạ nhưng rất sát với thực trạng xã hội, mà những nhà văn trước Kim Dung đều lướt nhanh qua hoặc hoàn toàn thiếu sót. Trong nhiều truyện ta thấy rất nhiều nhân vật chính không phải Hán tộc. Thiên Long Bát Bộ có Kiều Phong, Mộ Dung Phục, các nhà sư từ Thổ Phồn, từ Tây Tạng đến… Xạ Điêu Anh Hùng truyện có Tây Độc Âu Dương Phong, Hoa Tranh công chúa, … Ỷ Thiên Đồ Long ký bắt đầu với Côn Luân Tam Thánh Hà Túc Đạo từ miền Tây Vực, rồi Kim Hoa Bà Bà với Tiểu Siêu từ Ba Tư xa xôi, Triệu Minh quận chúa gốc Mông nhưng yêu trai Hán, Huyền Minh nhị lão, v.v. Kim Dung đã nêu lên rồi dùng ngòi bút, khi cương khi nhu, hoá giải các mâu thuẫn tiềm tàng tính chất sắc tộc trong xã hội Hoa.

    Tóm lại, Kim Dung đã hiện đại hoá tiểu thuyết kiếm hiệp Tàu bằng cách cho vào đó những tình huống éo le của xã hội hiện đại - với những giải pháp sẵn có của tiểu thuyết, phim ảnh thuộc xã hội tiên tiến Tây phương. Và đã trực tiếp nhìn thẳng vào những vấn đề ắt có của một xã hội đa diện, đa văn hoá, đa sắc tộc của Trung quốc trong dàn dựng dã sử của thời xa xưa.

    (iii) Thế võ mới – chưởng pháp mới

    Những người từng đọc truyện Tàu hồi xưa chắc còn nhớ trong những truyện như Thuyết Đường, Tiết Nhơn Quí, Tiết Đinh San, Càn Long, Lã Mai Nương, v.v. các thế võ, đường côn, ngọn cước đều được mô tả rất có bài bản. Tức người viết phải biết qua các thế võ có thật của Thiếu Lâm Tự, hoặc Võ Đang, Côn Luân rồi mới đặt bút viết mô tả lối đánh của các thế võ đường quyền đó.

    Đến lúc truyện của Kim Dung xuất hiện, người đọc khắp nơi bắt đầu làm quen với những thế võ … mới mẻ, những đường kiếm tuyệt chiêu, theo kiểu xạo hết chỗ nói. Hoàn toàn phản khoa học, nhất là khoa vật lý Newton. Nhưng ngòi bút của Tra Lương Dung tiên sinh cao siêu đến độ ai cũng biết tiên sinh ba xạo, phóng bút phịa ra những thế võ, đường kiếm đó mà vẫn phải mê. Phải thức đêm thức hôm đọc cho hết đoạn kế. Hoặc xem đến bét mắt cho hết toàn bộ phim tập, mới được!

    Đóng góp đáng kể nhất của Kim Dung trong võ công phải kể…CHƯỞNG. Rồi đến Nội Công, Khinh công. Những màn chữa trị nội thương, ngoại thương bằng các danh y kiểu Hoa Đà Biển Thước, hoặc đơn thuần bằng nội công do các tay cao thủ truyền sang người bệnh bằng đầu ngón tay - cũng được Kim Dung khai thác triệt để. Ở truyện chưởng Kim Dung ta thấy rất nhiều thế võ cao siêu gán đặt cho nhiều môn phái khác nhau, nhưng thường thường lại bị… thất truyền lâu năm.

    Kể sơ sơ: Giáng Long Thập Bát Chưởng, Hàm Mô Công, Cửu Âm chân kinh, Nhất Dương Chỉ, Đả Cẩu Bổng Pháp, Độc Cô Cửu Kiếm, Tịch Tà Kiếm Phổ, Song thủ hỗ bác, … Trong Cô gái Đồ Long đáng kể nhất: Huyền Minh thần chưởng, Càn Khôn Đại Nã Di tâm pháp, Cửu Dương chân kinh, Cửu Âm chân kinh, Cửu Âm bạch cốt trảo, v.v. Chỉ có Thái Cực kiếm và Thái Cực quyền là có thật. Kim Dung còn xạo hết chỗ nói ở một truyện nào đó, tiên sinh đặt ra một cái màn ‘cách sơn đả ngưu’ = đứng bên này núi dùng chưởng pháp đánh chết một con trâu đứng bên kia núi!

    Trước Kim Dung, ít thấy màn đánh chưởng trong truyện Tàu. Đánh chưởng, tức đánh vào đối phương nguyên lòng bàn tay, được đẩy mạnh tới - với năm ngón tay chổng thẳng lên trời. Đây là một thế võ độc đáo do Kim Dung ‘phát minh’ ra. Nếu một thế chưởng được một người có nội công thâm hậu, tức sức mạnh hùng tráng, tung ra, người bị đánh có thể bị trí mạng như chơi. Được thế, Kim Dung lại nhào nặn ra vài biến đổi của chưởng pháp.

    Biến đổi thứ nhất phân chia hai loại chưởng: chưởng mang âm khí, như Huyền Minh thần chưởng - truyền âm khí và hơi lạnh vào người bị đánh; và chưởng mang dương khí – như thứ chưởng pháp nhiều cao thủ thường xử dụng, mang nhiều chất nóng thuộc dương khí. Vô Kỵ bị trúng phải chưởng âm hàn Huyền Minh thuộc hành Thủy – nên bị bệnh nhiều năm. Và chỉ có thể chữa trị được bệnh khi nội công – bên dương khí - được gia tăng trong cơ thể. Nhờ ăn con ếch màu đỏ - màu của hành Hoả, thuộc dương - lại có duyên tìm đưọc và luyện được Cửu Dương chân kinh, Vô Kỵ mới khỏi bệnh.

    Biến đổi thứ hai: nhiều loại chưởng pháp, không chạm thân thể, chỉ đánh vào không khí về hướng đối thủ. Tạo nên một làn sóng sức ép, của không khí bị nén, đả thương đối thủ như chơi. Hoặc đánh được cây tróc gốc. Đánh được trâu chết, đứng bên kia núi! Giáng Long thập bát chưởng của vua hành khất Hồng Thất Công, sau này truyền lại cho Quách Tỉnh (trong Xạ Điêu Anh Hùng Truyện), là thứ chưởng độc đáo kiểu này.

    Trước phong trào tiểu thuyết Kim Dung vẫn có khinh công và nội công. Nhưng Kim Dung cho vào một ý niệm mới về nội công. Trong đó, nội công giống như một thứ dầu xăng cần cho xe hơi. Xe xịn có xăng dầu tốt, xe cũ, xe tồi ưa hết xăng và máy chạy yếu xìu xìu. Nội công cũng vậy. Khi cần hỗ trợ sức mạnh cho một người bạn cùng phe, cao thủ chỉ cần dí ngón tay vào phía sau lưng bạn, nội công sẽ chuyền qua cơ thể người bạn – y như hút chuyền xăng từ xe này qua xe kia (cũng giống như chuyền điện, sạc ‘pin’) - để người bạn đó mạnh hẳn lên, và có thể tung chưởng mạnh ra đối kháng với kẻ địch. Nhưng, cũng lại y như xe hơi chuyền xăng, người cao thủ nếu cứ tiếp tục truyền nội lực cho bằng hữu – thì trong chính cơ thể y, nội công sẽ bị phân tán, và chính y sẽ mất hết sức lực, mất hết nội công. Phải ngồi yên hít thở vận lại sức hàng giờ. Nhưng đôi khi, vẫn có trường hợp nội lực bị mất, thì mất luôn không thể tập trung lại được nữa [Xem: Hấp tinh đại pháp trong ‘Tiếu Ngạo Giang Hồ’]. Thật ngộ, thật hay, nhưng cũng thật xạo hết chỗ chê [9].

    Một mốt khác cũng do Kim Dung lăng xê bao hàm nhiều tính hài: Tẩu hỏa nhập ma. Một cao thủ bị tẩu hoả nhập ma khi y cố gắng hết sức để tập một môn võ công quá khó, quá phức tạp đòi hỏi một nội công cao siêu hay tư duy đặc biệt mà y không có. ‘Tẩu hỏa nhập ma’, theo Kim Dung, vô phương cứu chữa. Và có lẽ được tác giả vay mượn từ ‘bệnh quỷ ám’ của Tây phương, nhiều khi được trị liệu bằng thầy trục quỷ, exorcist. Sau khi được lăng xê, ‘tẩu hoả nhập ma’ được dùng theo nghĩa rộng, thường để mô tả một khoa học gia ngược đời, eccentric hay mad scientist, hay người bị quẩn trí vì học quá nhiều sách vở. Với âm tiết và ý nghĩa ngộ nghĩnh, nghe vui tai, nên không mấy chốc, cụm từ này đã du nhập và biến thành từ vựng của tiếng Việt.

    Kim Dung còn ba phịa hết chỗ chê trong những mô tả về đường kiếm, thế võ: Kiếm Khí, đánh nhau bằng một luồn khí do nội công thâm hậu tiết ra – thay cho kiếm thật. Cách không điểm huyệt, điểm huyệt đối phương không cần va chạm vào thân thể. Nhất Dương chỉ, chỉ ngón tay vào một điểm nhược trên mặt đối thủ - chạm thật hay không không cần, và chỉ một và một cú mà thôi – đánh bại đối thủ ngay. Các lối luyện võ, như dùng sọ người để tập đâm 5 ngón tay vào (Cửu Âm Bạch cốt trảo), cho nhện độc cắn vào mặt và hút máu, trao đổi với độc tố để luyện một môn võ thật ...kỳ bí và độc hại, v.v.

    Thế nhưng Kim Dung lại thành công. Thành công trong việc thuyết phục nhanh chóng độc giả chấp nhận rồi đâm ra say mê toàn bộ các thế võ, chưởng pháp, đường kiếm tưởng tượng phong phú đó. Thành công ấy có thể làm chúng ta liên tưởng đến nghệ thuật ‘nhái điệu bộ’ của những impersonators. Rất nhiều impersonators có vóc dáng và khuôn mặt khác xa những người họ muốn nhái, như Elvis Presley, Richard Nixon, Jimmy Carter, Burt Lancaster, v.v., nhưng họ biết người xem chú ý nhiều nhất đến điệu bộ và cách nói, và chỉ ăn tiền ở chỗ đó thôi. Truyện chưởng Kim Dung cũng vậy. Mặc dù ai cũng biết những đường kiếm thế võ đó dóc tổ, nhưng lối mô tả đến hình thức chung quanh các lối xuất chiêu, các kỹ thuật luyện tập, cùng với những suy tính nhanh chóng của những cao thủ đang lâm trận - lại tạo được người đọc cảm giác hồi hộp hoặc sảng khoái – hơn những lối đánh võ, thế kiếm thứ thiệt. Từ đó người đọc dễ quên tính cách hoang đường của chưởng, kiếm pháp, nội công, v.v. và ngược lại sẽ bị ma lực của truyện chưởng Kim Dung lôi cuốn và hút hết nội công!

    Nhìn chung, người đọc Kim Dung phải nhìn nhận tài năng có một không hai của tiên sinh khi biết phóng túng hoá các thế võ – đưa chúng ra ngoài các ràng buộc xưa cũ. Nhưng cũng đồng thời, giữ vững lô-gích và mạch lạc cho câu truyện, cho kết cấu. Mô tả thật hay, thật sâu sắc về những tình tiết éo le, những mâu thuẫn xã hội nhiều tác giả khác ít chú tâm đến, và phân tích tỉ mỉ tâm lý nhân vật cùng những thắc mắc vô tận về hệ thống giá trị cổ truyền của Trung quốc.

    (iv) Thắc mắc về hệ giá trị cổ truyền

    Có lẽ nhờ ở thành tố nhiều chất xám này, truyện chưởng Kim Dung đã thành công ngoài sức tưởng tựợng. Trong bất cứ truyện nào của Kim Dung, ta cũng thấy tiên sinh đặt ra những nghi vấn về hệ thống giá trị cổ truyền của xã hội Trung quốc. Trong ‘Tiếu Ngạo Giang Hồ’, Kim Dung quan sát ý niệm người quân tử, và giới thiệu hạng ‘ngụy quân tử’ như kiểu Nhạc Bất Quần. Cũng trong truyện này, tiên sinh đưa vào đó một số kiếm khách ‘pêđê’ đồng tính luyến ái bất đắc dĩ. Qua Lục Mạch Thần Kiếm và Thiên Long Bát Bộ, Kim Dung đặt câu hỏi về kỳ thị chủng tộc - của người Hán đối với các sắc tộc như Khiết Đan, với vai trò của người hùng Cái Bang mang tên Tiêu Phong. Đến câu hỏi về nguyên do của chiến tranh, về tham vọng khôi phục lại cơ đồ nước Đại Yên của Mộ Dung Công Tử. Rồi đến Lộc Đỉnh Ký, tác giả đánh giá lòng yêu nước của những người bên ngoài thường mang tiếng hợp tác với giặc, qua nhân vật Vi Tiểu Bảo. Lộc Đỉnh Ký cũng lại một luận đề về tự do cá nhân, xuất phát từ Tây Phương. Về tình yêu không ranh giới tuổi tác, chủng tộc, xu hướng chính trị, và giai cấp. ‘Anh Hùng Xạ Điêu’ hay nhất ở nhân vật Đông Tà Hoàng Dược Sư và con gái ông, mang tên Hoàng Dung. Gàn gàn, tà ác, dưới mắt xã hội, nhưng độc giả lại rất thích. Gàn và tà ác, nhưng có thể vẫn liêm khiết và yêu nước như thường. ‘Thần Điêu Hiệp Lữ’ kéo cho xụp bức tường kiên cố của hệ Khổng Mạnh: Thầy nữ và trò trai - tuổi tác chênh lêch lại yêu nhau. Thầy Tiểu Long Nữ lại bị mất trinh bởi một cao thủ thuộc danh môn chính phái. Nhưng trò Dương Qua không hề quan tâm và vin theo giá trị mới của Tây phương (do Kim Dung giới thiệu), phớt lờ như không, tiến mạnh lên đỉnh cao của tình yêu tuyệt đối.

    Chú ý nhất, YTĐLK đem ra chất vấn các hệ giá trị sau đây:
    - phân biệt và kỳ thị giữa các phái võ chính tông như Thiếu Lâm, Nga Mi, Côn Luân, Võ Đang, v.v. và những băng đảng tà ma ngoại đạo, điển hình Ma giáo, tức Minh giáo của Trương Vô Kỵ. Đọc CGĐL xong, người đọc chợt cảm thấy ghét các phái chính tông bởi những phái đó chứa chấp rất nhiều cao thủ đạo đức giả, khẩu phật tâm xà.
    - Phân biệt và kỳ thị chủng tộc, giai cấp, môn phái trong tình yêu: Triệu Minh, gái Mông, và Trương Vô Kỵ, trai Hán. Hân Tố Tố, Ma giáo với Trương Thuý Sơn, chính phái.
    - Câu nệ tuổi tác, tình mẹ duyên con - bị đánh đổ qua mối tình của Hân Lợi Hanh và Kỷ Bất Hối. Lợi Hanh ngày trước đáng lẽ đã cưới mẹ của vợ là Kỷ Hiểu Phù.
    - Phá đổ hàng rào luyến ái của Khổng Mạnh. Trai gái cầm tay nắm chân cho nhau là chuyện thường. Ai yêu ai trước cũng được. Người nữ, như Hân Tố Tố thấy thích người nam, Trương Thúy Sơn, thì mời chàng sang thuyền uống rượu nghe đàn. Triệu Minh, thấy cảm Vô Kỵ, cứ việc ngỏ lời trước – đá lông nheo trước, để rồi cuối cùng nhờ Vô Kỵ ngày ngày kẻ lông mày, cho khuôn mặt trăng tròn cùng nét ngài của nàng, luôn được nở nang. Đây chắc chắn là một tuyệt chiêu của Kim Dung. Lôi cuốn giới trẻ thuộc thế hệ sung sinh ở thời thập niên 60. Lý do: Thanh niên phái nam, thấy thích vì có trường hợp người con gái ‘cua’ mình trước. Phái nữ, dĩ nhiên cũng thích vì thấy Kim Dung cổ xúy quyền tự do phái nữ được bắn tiếng trước! Cảnh Triệu Minh mời mọc Vô Kỵ đến tửu điếm để cùng nàng đối ẩm buổi tối là một xen lãng mạn nhất nhì trong CGĐL. Lãng mạn không kém phải kể đến đoạn Triệu Minh và Vô Kỵ giả thành đôi vợ chồng mới cưới, phải giả uống rượu ôm, ngủ ôm, lúc được tạm tá túc ở chòi tranh dưới chân núi Thiếu Lâm để dò la tông tích Tạ Tốn.
    - Ranh giới phân biệt giữa chính và tà hoàn toàn bị tiểu thuyết Kim Dung biến ra mơ hồ, không phân minh. Trong suốt những năm lưu lạc giang hồ Vô Kỵ luôn luôn nhận thức lấy điều đó kinh qua nhiều lần gặp phải truân chuyên, hiểm nghèo. Trong giới tà ma ngoại đạo cũng có người tốt có người xấu. Chính phái cũng vậy. Chỉ có điểm khác nhau: chính phái lúc nào cũng rất chủ quan, lúc nào cũng tự mãn phe ta tốt, phe ta thuộc giữa giòng. Nhưng rất ít khi dừng lại, nghiêm túc khắt khe tự chất vấn về giá trị và bản chất thực của mình, nhất là đối với một xã hội luôn biến chuyển, thay đổi không ngừng, mặc dù thường rất chậm. Trong Ỷ Thiên Đồ Long ký, chính phái cũng bị thối nát như thường qua trường hợp Hà Thái Xung-Ban Thục Nhàn chưởng môn phái Côn Luân, hoặc cố chấp, thành kiến và chổng cực đoan như Diệt Tuyệt Sư thái, của Nga Mi.
    - Tính chủ quan và tự cao, cố chấp dễ đưa đến chia rẽ. Chỉ có đoàn kết mới gây sức mạnh. Điểm này cũng đã được Kim Dung nhấn mạnh qua mô tả chia rẽ giữa các môn phái với nhau, và ngay cả trong nội bộ từng môn phái. Ma giáo (Minh giáo) cũng chia rẽ, nhưng sớm nhất thống và theo Kim Dung, sau này tạo dựng được một lực lượng nòng cốt trong công cuộc đánh đuổi quân Mông Cổ. Chu Nguyên Chương – lãnh tụ công cuộc kháng Nguyên đó, theo Kim Dung, đã xuất thân từ, hay ít nhất được hậu thuẫn của, nhóm Minh giáo này.
    - Giá trị cũ: con gái trước khi lấy chồng phải còn trinh. Kim Dung đề xuất: Không cần thiết, bởi phương Tây đã thay đổi. Trong rất nhiều truyện ta thấy vấn đề trinh tiết được đề cập thường xuyên. Dương Qua vẫn yêu thầy mình Tiểu Long Nữ mặc dầu biết thầy đã bị mất trinh với một người khác. Trương Vô Kỵ sẵn sàng kêu Chu Chỉ Nhược làm đám cưới gấp với mình, để che mắt thiên hạ, khi nghe Chỉ Nhược nói gạt rằng nàng đã bị thất thân với một cao thủ khác. Về sau, Chu Chỉ Nhược lại tuyên bố trước toàn thể quần hùng, đệ tử đời thứ 2 của Võ Đang, Tống Thanh Thư là hôn phu của nàng. Mặc dù nét chu sa - dấu chứng của trinh tiết - vẫn còn trên tay của nàng. Nếu đem so sánh vấn đề chữ trinh trong hệ giá trị Trung quốc, với hệ của đạo Hồi, ta sẽ thấy hệ Trung quốc mặc dù cũng rất xưa cũ, mang tính mềm dẻo uyển chuyển dễ thích ứng với biến chuyển tất yếu của xã hội hơn. Và Kim Dung, có lẽ nhà văn đầu tiên của Trung Hoa đã nhìn thẳng và mạnh dạn tiến sâu vào con đường đầy kiêng kỵ taboo này.

    Tuy vậy Kim Dung vẫn đề cao những giá trị cổ truyền Trung Hoa. Điển hình:
    - Đề cao ngũ thường: Nhân (hay Trung), Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Hành động hy sinh của Vô Kỵ tại Quang Minh Đỉnh, nhằm hoà giải Minh giáo và các chính phái, cùng toàn bộ CGĐL đều đề cao giá trị của Ngũ thường. Ta cũng để ý, Kim Dung đã không bỏ sót việc mô tả cái cảm giác kỳ lạ của người Trung thổ, nhóm Vô Kỵ - Tạ Tốn, khi gặp toán cao thủ người Ba Tư từ Trung Đông đến. Khi Tạ Tốn thấy người Ba Tư hành động khác hẳn người Hán: Không tôn trọng hai chữ Tín, Nghĩa và dễ nuốt lời. Bởi trong văn minh Ba Tư, nơi có nhiều sa mạc và lạc đà, những ý niệm đó, hệ giá trị đó có thể khác với kiểu Hán tộc rất nhiều.
    - Giải pháp cho rất nhiều trường hợp ân oán giang hồ, mâu thuẫn xã hội thường dựa vào lời dạy ‘lấy đức báo oán’, thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo, của nhà Phật, và vào thuyết Trung-Dung của hệ Khổng Mạnh. Với DUNG trong bút hiệu Kim Dung viết ra y như Dung trong Trung-Dung. Trung Dung tức chọn một con đường ở giữa, không cực đoan quá khích. Trả thù cũng vậy. Tạ Tốn trả thù Thành Khôn cũng chỉ giới hạn ở chỗ làm cho Thành Khôn bị phế huỷ võ công để y không còn quậy được nữa. Rồi thôi. Rồi tự mình phế bỏ võ công. Sau khi được giang hồ thông hiểu và tha mạng, Tạ Tốn giác ngộ, và đi tu.
    - Một trong những hệ luận của thuyết Trung Dung tìm thấy trong truyện chưởng Kim Dung: Người đọc khó tìm thấy một người hùng trở thành vô địch, minh chủ võ lâm cho đến hết truyện. (Những người đọc nhiều truyện Tàu xưa trước khi đọc Kim Dung, sẽ thấy rõ điểm lạ kỳ này trong truyện chưởng Kim Dung). Trung-Dung có vẻ rất hợp khi đi đôi với ngũ hành, để đưa đến việc không xác định cao thủ vô địch về đường quyền hoặc thế kiếm. Lúc đầu ai cũng có cảm tưởng Trương Tam Phong phải là võ sư hạng 1. Nhưng Tam Phong có vẻ sợ Huyền Minh thần chưởng và bó tay trước bệnh trạng Dư Đại Nham và Vô Kỵ. Rồi đến Tạ Tốn tức Kim Mao Sư Vương. Cướp đao Đồ Long trước hàng trăm cao thủ như chơi. Nhưng lại sơ ý bị Tố Tố, phận gái, đâm mù mắt. Đến Vô Kỵ luyện được Cửu Dương chân kinh, Càn Khôn Đại Nã Di, tưởng như vô địch - rồi cũng bị Châu Chỉ Nhược trên rơ, đâm cho bị thương trước sau 2 lần. Sau lại xính vính khi đấu với ba sư cụ Thiếu Lâm, phải nhờ đến Chỉ Nhược tiếp sức mới xong. Diệt Tuyệt Sư Thái tài giỏi như vậy nhưng cũng bị Triệu Minh và đám lâu la Mông Cổ bắt được. Dương Tiêu, người tài Ma giáo, lo tranh chấp bị Thành Khôn đánh lén suýt vong mạng. Trương Tam Phong sáng tác được Thái Cực quyền, lại bị cao thủ Mông Cổ giả dạng sư Thiếu Lâm, đến đánh lén bị trọng thương – sau nhờ Vô Kỵ đến cứu viện kịp thời.

    Những phân tích và đặc biệt, chất vấn, hoài nghi về các hệ giá trị cổ truyền Trung Hoa, trước thời Kim Dung gần như không có. Kim Dung đã hiện đại hoá tiểu thuyết kiếm hiệp Tàu bằng những đóng góp lớn lao đó. Và đã thành công.

    (v) Cấp bậc trong võ lâm

    Một trong những kỹ thuật Kim Dung thường xử dụng để gây thích thú cho độc giả: sắp xếp cấp bậc cao thủ trong giới võ lâm. Đó chính là một cải cách truyện võ hiệp hoàn toàn do Kim Dung ‘đề xuất’ và sáng tác.

    Điển hình nhất trong Xạ Điêu Anh Hùng truyện. Lúc đầu truyện, người giỏi võ nhất là Khâu Xứ Cơ thuộc phái Toàn Chân. Xong rồi nhóm Giang Nam thất quái, sư phụ của Quách Tỉnh. Theo truyện kiếm hiệp cổ điển có lẽ đến đó là cao cấp nhất. Nhưng không, sau đó xuất hiện Mai Siêu Phong và Trần Huyền Phong với thế võ rùng rợn Cửu Âm Bạch cốt trảo, trên cơ Giang Nam thất quái rất xa. Xong rồi đám cao thủ chạy theo bảo vệ bọn giặc Hoàng Nhan Liệt. Võ công cũng rất cao siêu. Rồi lần lượt Võ Lâm Ngũ Bá xuất hiện, trong đó có flashback thuật lại hành tung Vương Trùng Dương lúc còn sinh thời. Qua ngón Nhất Dương Chỉ mượn từ Đoàn Nam Đế. Rồi đến Cừu Thiên Nhận, và Châu Bá Thông, tức lão ngoan đồng với ngón Song Thủ Hỗ Bác [10], sáng chế trên đảo Đào Hoa sau nhiều năm bị Hoàng Dược Sư giam lỏng. Quách Tỉnh sau cùng gần như học được hầu hết các thế võ chính của tất cả các cao thủ. Nhưng đến cuối truyện người đọc vẫn không thấy Quách Tỉnh đánh hạ được Âu Dương Phong.

    Như vậy, truyện Kim Dung mang hai thành tố vừa lạ, dễ thu hút độc giả, vừa gây bực tức, nhưng cũng kích thích được độc giả, buộc họ phải suy nghĩ. Thành tố thứ nhất: tiếp tục giới thiệu người giỏi sẽ có người giỏi hơn, và hơn cả một quantum, một cấp nhảy vọt. Mục đích: gây ngạc nhiên thích thú, lôi cuốn người đọc. Và thành tố thứ hai: Do ở ràng buộc của thuyết âm dương ngũ hành, thuyết Trung Dung của Khổng Mạnh, thuyết Bất Nhị Nguyên của Phật giáo, không bao giờ ta có thể thấy vai chính hay một vai nào đó trở thành vô địch thiên hạ, trong các truyện chưởng của Kim Dung. Đây chính là thắc mắc của tại hạ suốt mấy mươi năm không lý giải được, kể từ lúc đọc Xạ Điêu Anh Hùng truyện và Cô Gái Đồ Long.

    Trong Cô Gái Đồ Long, thoạt đầu ta thấy Trương Thúy Sơn, học trò cưng của Trương chân nhân, có vẻ một người rất giỏi võ nghệ. Hân Tố Tố cũng vậy. Nhưng rồi Tạ Tốn xuất hiện, võ công cao cường, kiến thức yêm bác. Trên cơ Thúy Sơn, Tố Tố mấy cấp. Lúc Thúy Sơn và Tố Tố trở về Trung thổ sau 10 năm sống chung với Tạ Tốn ngoài hoang đảo, ta thấy xuất hiện một hai cao thủ lạ mặt đem Huyền Minh thần chưởng ra đối chọi với Trương Tam Phong và đánh vào Vô Kỵ một chưởng chí tử. Rồi Vô Kỵ có cơ duyên tìm được Cửu Dương Chân kinh, luyện được thêm Càn Khôn Đại Nã Di, cứu được Ma giáo. Sau đó lại học được thêm Thái Cực quyền và Kiếm do Tam Phong vừa sáng chế. Nhưng về sau vẫn bị Chu Chỉ Nhược đâm cho một nhát, và vẫn không thể hạ được ba vị đại thiền sư của Thiếu Lâm. Cũng không kết liễu được mạng sống của Huyền Minh nhị lão. Rồi cuối cùng vẫn bị Chu Nguyên Chương đánh thuốc ngủ vùi.

    Trong khi đó, lúc nào Kim Dung cũng ca ngợi Trương Tam Phong, như một cao thủ hạng nhất thời đó. Nhưng tác giả lại cho Tam Phong già đến 100 tuổi, ít đụng độ với các cao thủ khác chỉ trừ một hai lần - choảng với đám cao thủ lạ mặt trong đội quân của Triệu Minh. Lần đầu đụng độ với Huyền Minh nhị lão chỉ chớp nhoáng nhưng chân nhân phải khựng lại đề phòng. Lần thứ hai, chân nhân bị mắc phải gian kế bị đòn trọng thương. Cửu dương nội công của Tam Phong cũng không trọn vẹn như Vô Kỵ. So với tam đoạn luận Tây phương Trương Tam Phong rất khó thành vô địch thiên hạ - đúng y như ước muốn, dụng ý sâu sắc của Kim Dung.

    Mơ hồ trong việc phân chia cấp bậc được Kim Dung lý giải trong đoạn cuối của YTĐLK. Lý giải theo kiểu Bất Nhị Nguyên, sắc không, không sắc, không có, có không. Ở chỗ lúc Tạ Tốn được một trong 3 vị đại tăng, Độ Ách, cho phép quy y, nhận làm đệ tử. Độ Ách, với pháp danh họ Độ thuộc cấp cao nhất đương thời. Cấp bậc thầy của phương trượng Thiếu Lâm, Không Văn. Pháp danh Không, như Không Văn, Không Tín, Không Kiến, lại vai vế bậc thầy của các sư với pháp danh bắt đầu bằng Viên, như Viên Chân, tức Thành Khôn, thầy cũ Tạ Tốn. Tạ Tốn khựng lại, toan từ chối, vì như vậy cấp bực của y sẽ quá cao, cao ngang hàng với phương trượng của chùa Thiếu Lâm. Độ Ách cười và đại khái bảo Tạ Tốn: ‘Không là không, Viên cũng là không, ngươi là không, ta sư phụ của ngươi cũng là không. Vô tội, vô nghiệp, vô đức, vô cùng. Ta chỉ cần biết người là Tạ Tốn thôi’

    Tóm lại, một kỹ thuật mới lạ khác, so với truyện Tàu xưa, của truyện chưởng Kim Dung nằm ở chỗ luôn dành ngạc nhiên cho người đọc về những cao thủ chưa hoặc sắp sửa xuất hiện, và sự phân chia cấp bậc cao thấp giữa các cao thủ thường bị ràng buộc bởi lô-gích Ngũ Hành, rất đồng điệu và hài hoà với thuyết Trung Dung, và Bất Nhị Nguyên.

    Âm Dương Ngũ Hành trong Cô Gái Đồ Long

    Đóng góp tiêu biểu của Kim Dung trong việc canh tân cải cách tiểu thuyết võ hiệp kỳ tình, ngoài những thành tố, chất xám ở trên còn phải kể, sáng chói và đặc thù nhất, thuyết Âm Dương Ngũ Hành.

    Thật vậy Ngũ Hành với Kim, Mộc, Thủy, Hoả và Thổ, mặc dù luôn luôn có trong hầu hết các truyện Tàu - đã được khai triển tối đa qua ngòi bút Kim Dung. Tất cả các giao tác, đụng trận giữa những nhân vật trong truyện chưởng Kim Dung đều được chi phối chặt chẽ bởi chu kỳ sinh khắc của Ngũ Hành, phối hợp với sinh động thịnh-suy Âm và Dương. Cũng vì vận hành và giao tác dưới sự điều phối của Ngũ Hành, các võ sư kiếm khách trong truyện hầu như không ai lên được đến võ công tuyệt đỉnh. Hoặc, một kiếm khách A không dễ đánh lại một địch nhân B, để trả mối thù xưa, trừ phi Châu Dịch hay Kinh Dịch đã thay đổi hành tố của A, để A trở thành tương khắc với B, khắc phục được B. Trong ‘Tiếu Ngạo Giang Hồ’, Nhậm Ngã Hành mạng Thổ bị Đông Phương Bất Bại (phía Đông, mạng Mộc) đảo chánh tiếm quyền giáo chủ Ma giáo. Nhậm Ngã Hành sau đó bị giam nhiều năm dưới lòng đất ở Tây Hồ - Hàng Châu, lại luyện được Hấp Tinh đại pháp. Vì ở dưới lòng Tây Hồ, Nhậm Ngã Hành sau đó biến dần sang mạng Kim thuộc phương Tây. Trốn khỏi Tây Hồ và được nhiều người tài giỏi hỗ trợ, trở lại đánh bại Đông Phương Bất Bại, Tây khắc Đông.

    Thuyết Âm Dương Ngũ Hành [11] đã xuất hiện tại Trung quốc từ thời xa xưa, cả vài thế kỷ trước Công Nguyên. Có giả thuyết cho thuyết này xuất thân từ môn phái Zoroaster ở Trung Đông. Tóm lược, trong vũ trụ và trời đất có 5 hành: Kim, Mộc, Thủy, Hoả, và Thổ. Mỗi Hành được liên kết với một phương hướng địa lý và một màu sắc khác nhau. Hành cũng liên hệ đến cá tính tổng quát con người, thường gọi Mạng.

    Kim= phương Tây, màu Trắng. Kim khắc, hay trị được Mộc. (Tây khắc Đông)
    Mộc= phương Đông, màu Xanh. Mộc khắc Thổ. (Đông khắc Trung)
    Thủy= hướng Bắc, màu Đen. Thủy khắc Hỏa. (Bắc khắc Nam)
    Hỏa= phương Nam, màu Đỏ. Hoả khắc Kim. (Nam khắc Tây)
    Thổ= miền Trung, màu Vàng.Thổ khắc Thủy (Trung khắc Bắc)

    Đó là chu kỳ tương khắc. Còn chu kỳ tương sinh như sau:

    Kim sinh (hỗ trợ) Thủy (Tây trợ Bắc)
    Mộc sinh Hoả (Đông trợ Nam)
    Thủy sinh Mộc (Bắc trợ Đông)
    Hoả sinh Thổ (Nam trợ Trung)
    Thổ trợ Kim (Trung trợ Tây)

    Tóm tắt bằng sơ đồ đính kèm.



    Song song với Ngũ hành, còn có Thái Cực. Thái Cực sinh ra Lưỡng Nghi, tức Âm và Dương. Âm chỉ những gì lạnh, mát, thế tĩnh, vật mềm, ban đêm. Dương, ngược lại chỉ cái gì nóng, ấm, thế động, vật cứng, ban ngày. Lưỡng Nghi sinh ra Tứ tượng: Thái dương, thiếu âm, thiếu dương, thái âm. Tứ tượng sinh ra Bát quái: Càn, đoài, ly, chấn, tốn, khảm, cấn, khôn.

    Sơ lược Âm Dương: Dương bắt đầu thịnh ở mùa Xuân, lên đến cực thịnh ở mùa Hè. Sau đó bắt đầu suy. Âm thịnh lên vào mùa Thu và tiến đến cực thịnh ở mùa Đông, lúc đó Dương lại suy. Trong bốn mùa:

    Mùa Xuân: Mộc
    Mùa Hạ: Hoả
    Cuối Hạ - đầu Thu: Thổ
    Mùa Thu: Kim
    Mùa Đông: Thủy.

    Âm Dương Ngũ Hành chính là lý thuyết căn bản và nền tảng cho khoa Phong Thủy (Feng Shui) rất thịnh hành trong việc định phương hướng tiện lợi trong việc trang trí và xây cất nhà cửa.

    Bây giờ xin thử quan sát nhân vật trong CGĐL đã được bố trí ra sao theo với Âm Dương Ngũ Hành.

    Trước hết xin ghi nhận một vài định luật về sinh khắc ngũ hành, rút tỉa được từ Kim Dung, sau khi ‘Thử đọc lại’ vài tác phẩm của tiên sinh.

    Giữa hai người, thông thường nam và nữ, nếu người này cảm người kia trước, A thấy thu hút bởi B, Kim Dung sẽ cho: Mạng hay hành của A bị ‘khắc’ bởi hành của B. Thí dụ, Hoa Trân (Tây/Kim) mê Quách Tỉnh (Nam/Hoả). Hoả khắc Kim. Mặc khác, nếu A thường giúp đỡ B, để sau đó B thương lại A, rồi A và B yêu nhau, hành của A tương ‘sinh’ cho hành B: Hoàng Dung giúp Quách Tỉnh học võ công của Hồng Thất Công. Mộc sinh Hỏa. Tình yêu cũng có thể xảy ra giữa bạn đồng môn – cùng chung một hành với nhau: Dương Qua và Tiểu Long Nữ, cùng hành Thổ vì sống và tập võ trong Cổ Mộ - dưới mặt đất. Thổ hợp với Thổ.

    Đặc biệt trong CGĐL, Kim Dung ưa nhắc nhở và giúp độc giả nhận ra hành hoặc mạng của nhân vật bằng màu quần sắc áo, màu tóc, hay màu vũ khí của họ. Tiên sinh cũng ưa cho thêm vào những nhân vật một hai mạng xơ cua, để giải toả mâu thuẫn ở hạn chế sinh khắc Ngũ Hành.

    Hân Tố Tố và Trương Thúy Sơn mang hành gì. Kim Dung mô tả Thuý Sơn ưa mặc complet, quần áo trắng. Màu trắng biểu tượng mạng Kim hành Tây. Tây khắc Đông. Thật rõ, Hân Tố Tố ưa mặc áo xanh, chỉ hành Mộc, phương Đông. Hân Tố Tố cảm ngay Thuý Sơn ngay khi lúc đầu gặp gỡ. Hành Mộc dễ bị hành Kim khắc.

    Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn mang hành gì. Tạ Tốn, một quái nhân có râu vàng, tóc vàng. Mạng Thổ, màu vàng, miền Trung. Sư phụ dạy võ, tức từng giúp đỡ, Tạ Tốn là ai? Thành Khôn tức Viên Chân, về sau. Hỏa sinh Thổ. Thành Khôn thuở ban đầu mang mạng Hoả. Tạ Tốn mạng Thổ, nên dù võ công rất cao siêu, vẫn bị mạng Mộc của Hân Tố Tố khắc trị. Tạ Tốn trong lúc sơ ý bị Tố Tố phóng kim châm đâm mù đôi mắt. Trong Ma giáo, chỉ có Tạ Tốn, mang hành Thổ, mới ưa giúp Kim Hoa Bà Bà, hành Kim, mà thôi. Thổ và Kim, không ai khắc ai – nhưng Thổ sinh Kim. Rồi mạng phụ Tạ Tốn, lại là Kim (Kim Mao Sư Vương), vẫn giúp mạng phụ Kim Hoa Bà Bà là Thuỷ. Bởi Kim Hoa Bà Bà có biệt danh Tiá Sam Long Vương, Long tức rồng, sống dưới nước, Thủy. Rõ rệt: hồi hai người còn trẻ, Kim Hoa Bà Bà được nhiều người để ý, theo đuổi nhưng cuối cùng lại chọn một cao thủ bên ngoài Ma giáo. Những cao thủ Ma giáo bị chổng, bị thất tình do đó sàm tấu với giáo chủ làm tình làm tội Bà Bà. Chỉ có mình Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn đứng ra bênh vực Bà Bà. Bố cục ngũ hành chỗ này thật chặt chẽ. Tạ Tốn tương sinh Kim Hoa Bà Bà – trên hành chính lẫn mạng phụ.

    Tạ Tốn lúc bị giam dưới đất tại chùa Thiếu Lâm, ngày ngày được nghe kinh kệ do ba cao tăng canh giữ đọc. Xin thử phân tích chi tiết: ‘Bị giam ở hầm dưới đất’, đất tức thổ, Kim Dung khẳng định họ Tạ hành Thổ. ‘Tại chùa Thiếu Lâm’, Lâm nghĩa rừng, có nhiều cây, màu xanh: Thiếu Lâm có mạng Mộc. Mộc khắc chế Thổ. Đông khắc Trung. Mộc Thiếu Lâm giam Thổ Tạ Tốn. Sau cùng Tạ Tốn cảm hoá, giác ngộ và quy y với ba vị cao tăng Thiếu Lâm kia. Thật rõ: Mộc khắc Thổ. Thiếu Lâm (Mộc) khiến Tạ Tốn (Thổ) dữ dằn cách mấy cũng phải ‘phọt phe’. Nhưng có thể để ý, Kim Dung đã rất cẩn thận trong chi tiết. Ba vị cao tăng họ Độ đó người mang hành Thuỷ (bị hành Thổ của Tạ Tốn khắc), người hành Kim (Thổ sinh Kim), và chỉ có Độ Ách (khuôn mặt màu vàng) mang hành Thổ giống Tạ Tốn. Kim Dung cho Độ Ách nhận Tạ Tốn làm đệ tử.

    Kim Hoa Bà Bà mang hành Kim từ phương Tây đến. Tóc bạc trắng. Hành Kim màu trắng. Kim lại khắc Mộc. (Cưa sắt cắt được gỗ). Tây khắc Đông. Đông ở đây được biểu tượng bằng y-dược sĩ Hồ Thanh Ngưu. Hồ Thanh Ngưu chuyên cắt dược thảo hằng ngày, mang tên lót ‘Thanh’ nghĩa màu xanh, đích thị mạng Mộc. Thanh Ngưu và vợ bị Bà Bà tống cho một gậy táng mạng, trả thù riêng trong Ma giáo năm xưa. Nhưng Mộc ‘sinh’ Hoả. Cây cối dễ làm mồi cho lửa. Mộc - Thanh Ngưu giúp Hoả - Vô Kỵ rất nhiều, khi y truyền hết nghề hốt thuốc chữa bệnh cho chú bé họ Trương.

    Chu Chỉ Nhược hành gì? Chu Chỉ Nhược con gái của một tướng quân kháng Nguyên bị mồ côi, và gặp Vô Kỵ trên sông, ở một chiếc thuyền với Tam Phong và Ngộ Xuân. Chỉ Nhược đút cơm cho Vô Kỵ ăn, vì thằng bé bị bệnh nặng. Hai yếu tố: giúp Vô Kỵ - mạng Hoả, và gốc gác có liên hệ đến sông nước. Giúp mạng Hỏa, chỉ có Mộc mới sinh Hoả. Chỉ Nhược ban đầu mạng Mộc - về sau Châu Dịch chuyển sang mạng Thủy. Kiểm chứng: Chỉ Nhược mớm cơm cho Vô Kỵ= Mộc sinh Hoả. Chỉ Nhược ưa mặc áo màu xanh. Thỉnh thoảng áo màu khác nhưng thường thường màu xanh, màu mạng Mộc, phương Đông. Chỉ Nhược khắc chế Tạ Tốn, bắt dời Tạ Tốn đi chỗ khác sau khi ăn cắp đao Đồ Long. Mộc khắc Thổ. Lúc trên Quang Minh Đỉnh, Chu Chỉ Nhược đứng ngoài mách thế võ cho Trương Vô Kỵ đang đấu chiến với từng cao thủ thuộc chính phái: Mộc giúp hay sinh Hoả. (Vô Kỵ mạng Hoả). Diệt Tuyệt Sư Thái tức giận kêu Chỉ Nhược dùng Ỷ Thiên Kiếm nhảy ra đâm Vô Kỵ. Ỷ Thiên kiếm màu xanh, mạng Mộc. Nhưng Chỉ Nhược tránh chỗ nhược và chỉ đâm Vô Kỵ trọng thương mà thôi. Khi Chỉ Nhược chôm được đao Đồ Long rồi, hành của Chỉ Nhược được Châu Dịch hay Kinh Dịch chuyển dần sang hành Thủy. Bởi Chỉ Nhược chính là chủ nhân ‘có chất lượng’ thực thụ của đao Đồ Long. Đồ Long đao màu đen, chỉ mạng Thủy, phía Bắc. Đồ Long, mang nghĩa chính ‘giết rồng’, cũng liên hệ đến Rồng. Rồng sống dưới nước, mạng Thủy. Dù mạng Mộc hay Thủy, hôn nhân Chỉ Nhược với Vô Kỵ, nếu thành tựu, cũng đều thích hợp. Mộc sinh Hoả, và Thủy khắc Hoả. Có điều nếu Vô Kỵ lấy Chỉ Nhược và nếu Chỉ Nhược vẫn giữ mạng Thủy, có thể Vô Kỵ sẽ trở thành chủ tịch hội sợ vợ không chừng, bởi Thủy khắc Hoả. Chỉ Nhược biến sang hành Thủy khi luyên xong Cửu Âm chân kinh và trở thành cao thủ võ lâm. Nàng khắc chế Vô Kỵ như chơi, mặc dù dùng mưu kế, và đâm soẹt vào người Vô Kỵ một nhát kiếm nữa tại Thiếu Lâm tự.

    Thế rồi Vô Kỵ muốn cứu Tạ Tốn. Và muốn cứu Tạ Tốn phải nhờ Chỉ Nhược tiếp sức mới đánh lại 3 nhà sư kia - sẽ bàn đến sau. Tiếp đó Chỉ Nhược muốn giết Tạ Tốn để giữ bí mật xấu xa chôm Đồ Long đao, hoặc tung tích của Đồ Long đao. Nhưng thình lình có một thiếu nữ mặc áo vàng từ đâu xuất hiện cứu nguy Tạ Tốn và dùng cây trúc đánh bại Chỉ Nhược, chớp nhoáng trong vòng đôi ba chiêu. Thế tại sao Kim Dung không để thiếu nữ kia mặc áo trắng hay áo tím, áo xanh cho nó thơ mộng, thay vì áo vàng? Bởi áo vàng có màu Vàng, màu của mạng Thổ, của con cháu Thần Điêu Hiệp Lữ Dương Qua chuyên sống dưới đất nơi Cổ Mộ. Mạng Thổ mới trị được mạng Thủy của Chu Chỉ Nhược.

    Cuối truyện, Kim Dung cho Chỉ Nhược mặc áo xanh trở lại. Dùng mưu khiến Hân Ly lộ diện chứng tỏ Hân Ly hãy còn sống, nhưng hơi quẩn trí, để Vô Kỵ tha thứ Chỉ Nhược. Xong rồi Mộc - Chỉ Nhược mới giúp Hoả - Vô Kỵ lần cuối bằng cách nhường cho chàng chức chưởng môn Nga Mi, rồi nàng thế phát trước mặt Tam Phong.

    Như đã đề cập phía trên Trương Vô Kỵ mang mạng Hỏa. Bởi ngay từ nhỏ chàng đã bị Huyền Minh thần chưởng, in dấu bàn tay đen - mạng Thủy – làm cho xính vính gần chết. Thủy khắc Hỏa. Lửa dễ bị nước tưới tắt phụt. Vô Kỵ luôn luôn kiêng kị, bị khắc bởi mạng Thủy, cái gì màu đen, và phương Bắc. Vô Kỵ chỉ có thể chữa được bệnh bằng Cửu Dương chân kinh, thuộc Thái Dương chỉ mạng Hoả. Con nhái Vô Kỵ ăn được ở sơn cốc cũng màu đỏ, màu mạng Hoả, bổ dương. Để chống trả âm hàn khí do Huyền Minh thần chưởng gây ra. Làm giáo chủ Minh giáo, cũng lại chúng tỏ y mang mạng Hỏa. Bởi biểu hiệu Minh giáo là ngọn lửa. Sau này Vô Kỵ lại có nhiệm vụ đi tìm Thánh Hoả lệnh, một thứ ấn dấu của lãnh tụ Ma giáo, cũng có chữ ‘Hoả’, mạng Hoả. Và chàng tình cờ giật được Thánh hoả Lệnh từ các cao thủ Ba Tư, lúc họ sang tìm Kim Hoa Bà Bà.

    Trừ Châu Chỉ Nhược, gần như tất cả những người nữ khác mê Vô Kỵ mang hành Kim. Hoả khắc Kim. Người mang hành Kim có gốc gác từ phương Tây. Tiểu Siêu, công chúa Ba Tư, ái nữ của Kim Hoa Bà, theo hầu Vô Kỵ và rất thương chàng. Hân Ly, em cô cậu Vô Kỵ, rất mê y – nhưng không biết có bà con. Hân Ly cũng có dính dáng đến mạng Kim, vì là đệ tử lâu năm của Kim Hoa Bà Bà. Và cũng mang mạng Kim bởi Hân Ly là cháu nội của Bạch Mi giáo chủ Hân Thiên Chính. Bạch Mi có nghĩa lông mi màu trắng. Trắng: màu của mạng Kim. Nhất là Triệu Minh, người Mông Cổ - cũng hành Kim. Bởi nước Mông Cổ nằm về hướng TÂY Bắc nước Tàu. Hoả - Vô Kỵ khắc được nhiều thiếu nữ đẹp từ phương Tây - mạng Kim

    Để ý, Hoả sinh Thổ. Chính Tạ Tốn (mạng Thổ) khi nghe tiếng khóc oe oe chào đời của Vô Kỵ (mạng Hoả) đã trở nên bớt khùng. Hoả giúp Thổ. Sau đó Tạ Tốn xin nhận làm cha đỡ đầu cho Vô Kỵ.

    Cũng nên để ý, Vô Kỵ mang mạng Hoả cực Nam nên không bao giờ chế khắc hay giết được Huyền Minh nhị lão - bởi họ mang mạng Thủy – màu đen. Kim Dung, tôn trọng định luật Ngũ Hành, không thể để Vô Kỵ giết Huyền Minh nhị lão được. Vô Kỵ chỉ có thể dùng Càn Khôn Đại Nã Di, khiến cho hai người giận và cãi vã nhau suốt đời. Nhưng hay nhất vẫn trong trận đánh của Vô Kỵ và 3 đại sư tại chùa Thiếu Lâm. Ba đại sư đó mang hành gì? Đây cũng là điểm ngũ hành gút mắt của CGĐL. Tiên sinh mô tả: một nhà sư mặt đen, tức mạng Thủy. Một nhà sư mặt khô đét màu trắng bệt, rõ ràng mạng Kim. Một nhà sư có khuôn mặt vàng khè, mạng Thổ. Trừ nhà sư mạng Thuỷ - hai nhà sư kia đối với Vô Kỵ (mạng Hỏa) không khắc được Vô Kỵ. Đấu chiến rất khó phân thắng bại. Thế nhưng Kim Dung cho thêm một chi tiết lý thú: Ba nhà sư đó kinh kệ lâu năm với nhau nên khi đánh nhau suy nghĩ cùng một lượt và y hệt như nhau, tức tuy 3 mà 1. Và xử dụng cùng một thứ vũ khí. Cây roi dài, màu ĐEN! Tức 3 đại sư hợp lại với nhau ra mạng Thủy. Mạng Thủy hoàn toàn khắc được mạng Hoả của Vô Kỵ.

    Khó quá, Vô Kỵ rất khó cứu được Tạ Tốn. Kim Dung lập tức nhét vào 2 chi tiết, khá lý thú nhưng rất khó ‘phát hiện’, để bảo toàn lô-gích ngũ hành, giúp Vô Kỵ thắng 3 đại sư:
    - Kim Dung bày ra cái trò Thiếu Lâm tự gởi thiệp mời quần hùng đến tham dự việc xét xử Tạ Tốn được tổ chức vào ngày Tết ĐOAN NGỌ.
    - Trương Vô Kỵ biết mình khó thắng, do ở trực giác: mạng Hoả sẽ bị Thủy khắc, nên nhờ Châu Chỉ Nhược tiếp sức.

    Tiết Đoan Ngọ là gì, và tại sao lại phải tổ chức xét xử Tạ Tốn vào tiết Đoan Ngọ? Tiết Đoan Ngọ lập ra để tưởng niệm thi sĩ yêu nước Khuất Nguyên (thế kỷ thứ 3 trước Công Nguyên), đã đứng ra can gián tệ nạn tham nhũng tại triều đình, nhưng không được, về sau trầm mình xuống sông tự vẫn.

    Kim Dung cho Thiếu Lâm tổ chức buổi xử Tạ Tốn vào tiết Đoan Ngọ - thay vì tiết Trung Thu, tiết Nguyên Đán - bởi tiết Đoan Ngọ rơi vào ngày mồng 5 tháng 5, giữa muà HÈ, đúng vào lúc Dương thịnh Âm suy. Dương thịnh, mạng Hoả của Vô Kỵ mới sung mãn tột độ, mới có thể cự lại 3 đại sư kia mang hành hỗn hợp là Thủy - vốn khắc tinh với hành Hỏa của chàng. Muốn cho chắc ăn, Kim Dung còn gởi Chu Chỉ Nhược sang trợ sức cho Vô Kỵ. Chu Chỉ Nhược mang biểu tượng mạng Thủy chính tông: phái nữ thuộc Âm, thông thạo Cửu Âm chân kinh, võ công bí kíp xuất phát từ Ỷ Thiên kiếm nhờ ở đao Đồ Long màu đen xì, màu đen của hành Thủy.

    Mạng của Thành Khôn là một vấn đề nhức đầu không ít. Thành Ngôn thoạt đầu học chung thầy với giáo chủ Ma giáo Dương Phá Thiên. Sau lại đi tu ở chùa Thiếu Lâm lên đến cấp cao mang pháp danh Viên Chân. Thành ra Thành Khôn ban đầu mạng Hỏa (Ma giáo) sau đó dần dần sang Mộc (Thiếu Lâm). Nếu phân tích về tên, Khôn, trong Thành Khôn, có chữ Thổ - Thành Khôn có thể mang mạng Thổ, màu vàng như Tạ Tốn. Tác giả xác nhận điều này: Lúc tàn trận ở Quang Minh Đỉnh người ta thấy xác chết (giả) của một nhà sư mặc áo màu Nâu - nhận ra chính là xác của Viên Chân. Thử để ý đến màu Nâu. Màu nâu thông thường là hỗn hợp của hai ba màu, trong đó thường có màu đỏ, xanh, vàng và đen. Mạng của Thành Khôn rất khó xác định bởi y là một người quậy. Gây rối rắm trong chốn giang hồ. Ai y cũng phá hết thì y khắc ai, giúp ai đây. Bởi vậy Kim Dung cho y mặc một chiếc áo màu nâu để không xác định một hành thường trực của y. Nhưng vào đoạn cuối, trong cái khung thù hận giữa y và Tạ Tốn, với đệ tử cũ mang mạng Thổ, Kim Dung bắt buộc phải trả mạng Hỏa nguyên thủy lại cho y. Cho y dùng lửa (mạng Hỏa) đem đốt chùa Thiếu Lâm hòng giết một sư phụ bị y nhốt sau chùa, để tẩu thoát. Và cho nhật thực xuất hiện lúc y đang gay gắt đấu với Tạ Tốn. Ý nghĩa ngũ hành chỗ này cũng rất hay. Nhật thực làm trời đang sáng biến ra tối. Dương biến thành Âm. Mạng Thủy chế ngự. Thủy sẽ hạ Hoả - mạng của Thành Khôn. Tạ Tốn đui mù lâu năm nên đã quen. Thành Khôn bị nhật thực trở nên như mù. Sau đó bị Tạ Tốn móc mắt cho mù luôn, để rồi khi hết nhật thực, bị Tạ Tốn bẻ tay chân thành ra người tàn phế.

    Tóm lại, có thể nói mặc dù Âm Dương Ngũ Hành rất dễ tìm thấy trong tất cả các truyện Tàu, toàn thể 5 hành tố đã được Kim Dung khai thác sâu sắc trong các truyện của ông. Qua dàn dựng, bố cục thật chặt chẽ, hợp lý, cũng như qua cá tính của, và giao tác giữa, các nhân vật. Chi tiết và lô-gích của Ngũ Hành đã được viết thật hay, thật sâu sắc. Nhất là ở đoạn cuối của Ỷ Thiên Đồ Long Ký.

    Thay Lời Kết

    Một trong những điểm đặc thù của truyện Tàu, giới mộ điệu có thể để ý: các nhân vật thường được liên kết với nhau từ truyện này sang truyện kia. Thí dụ: đọc Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân, ta thấy Tề Thiên đại thánh lúc náo loạn nơi thiên đình có đánh với Lý Tịnh và con trai Na Tra. Đọc truyện Phong Thần, của một tác giả khác, Hứa Trọng Lâm, người ta sẽ gặp lại Na Tra, Lý Tịnh rồi các tướng lãnh chỉ huy các lực lượng bảo vệ an ninh trên trời như: Dương Tiễn, Thiên Lý Nhãn, Thuận Phong Nhĩ, v.v. Ngay đến những tiên ông như Trần Đoàn, Quỷ Cốc tiên sinh, Đông Phương Sóc, … ta thấy họ vẫn xuất hiện trong nhiều truyện Tàu của các tác giả khác nhau. Riêng Quỷ Cốc, thầy của các nhà thuyết khách Tô Tần và Trương Nghi trong Đông Châu Liệt quốc, cũng lại là thầy dạy bùa phép cho Tôn Tẩn và Bàng Quyên tại một nước khác, trong một truyện khác.

    Rồi cái màn đầu thai, để thanh toán ân oán giang hồ trong một kiếp trước, trá hình bằng luật nhân quả của nhà Phật, lại được áp dụng, mang từ truyện này sang truyện kia. Hàn Tín bị vua nhà Hán và Thái Hâu giết, về sau đầu thai thành Tào Tháo với chủ đích quậy cho nát nhà Hán và thắt cổ giết một Thái Hậu khác [12]. Hạng Võ đầu thai làm Quan Công. Trong truyện Thuyết Đường, La Thành có tướng tinh Thanh Long (mạng Mộc), Đơn Hùng Tín tướng Bạch hổ (mạng Kim). Cả hai lại đụng độ với nhau trong một kiếp khác, ở một truyện khác (Tiết Nhơn Quí chinh Đông).

    Truyện chưởng Kim Dung vẫn áp dụng truyền thống và công thức này trong liên kết giữa nhân vật từ truyện này sang qua truyện nọ. Rồi ‘liên kết’ luôn cả thế võ đường kiếm. Xạ Điêu Anh Hùng truyện (XĐAHT) giới thiệu Võ Lâm Ngũ Bá và câu chuyện về Cửu Âm Chân Kinh với thế đánh cực kì hiểm ác: Cửu Âm Bạch Cốt trảo, dùng 5 ngón tay móc vào sọ đối phương. Ỷ Thiên Đồ Long ký móc nối với Xạ Điêu Anh Hùng bằng Cửu Âm Chân Kinh chôn dấu trong Ỷ Thiên Kiếm, bằng nhân vật Quách Tường con gái Quách Tỉnh, sáng lập ra phái Nga Mi, rồi Cửu Âm bạch cốt trảo được Mai Siêu Phong xử dụng ngày trước, nay lại được Chu Chỉ Nhược luyện tập thành thục làm quần hùng kinh hãi, v.v. Thần Điêu Hiệp Lữ tiếp nối theo Anh Hùng Xạ Đìêu nhưng chú tâm đến các nhân vật khác. Và Ỷ Thiên Đồ Long ký vẫn không quên Thần Điêu Hiệp Lữ khi cho con cháu của Hiệp Lữ, thiếu nữ áo vàng họ Dương, nhảy vào hoá giải đánh bại Chỉ Nhươc vào đoạn cuối của YTĐLK.

    Kỹ thuật liên kết nhân vật của truyện Tàu cổ điển được Kim Dung chế biến thêm bằng lối liên kết chưởng pháp, đường kiếm chắc không nằm ngoài mục đích đánh vào tiềm thức hoài cổ nostalgia, người đọc thường có. Hoặc làm tăng tính khả tín của câu chuyện: Nghe nói dóc lập đi lập lại nhiều lần, thét rồi người nghe cũng phải tin! Hoặc tiếp tục dùng hay khai thác một công thức đã thành công.

    Kỹ thuật liên kết nhân vật gần như hoàn toàn không có trong truyện văn xuôi hay tiểu thuyết Việt Nam.

    * * *

    Trong mấy năm rồi, thỉnh thoảng vào những lúc trà dư tửu hậu, một vài bạn người Hoa - cả Lục địa lẫn Hongkong – có cho biết truyện chưởng Kim Dung vẫn còn được hâm mộ tại các cộng đồng người Hoa trên toàn thế giới. Phong trào quay phim tập dựa theo các truyện Kim Dung hiện được truyền nhiễm từ Hongkong, Đài Bắc sang lục địa. Nhiều công trình nghiên cứu cấp bậc học sĩ (cử nhân), thạc sĩ và tiến sĩ, dùng đề tài truyện Kim Dung - vẫn thường được sinh viên lựa chọn - tại nhiều đại học ở Á Châu, kể cả Việt Nam.

    Nhiều mạng chuyên về Kim Dung bằng nhiều thứ tiếng khác nhau đã được thiết lập trên internet. Muốn tìm các mạng bằng tiếng Anh để đọc truyện chưởng Kim Dung chuyển ngữ sang tiếng Anh, có thể truy cập - qua Google, Yahoo, webcrawler, v.v. - bằng hai từ chính yếu: Jin Yong (tức Kim Dung). Điểm đáng chú ý: Đa số những bạn người Hoa đều không mấy ngạc nhiên khi họ nghe nhân vật trong truyện Kim Dung theo ngũ hành rất sát. Bởi đối với người Hoa – đó là một chuyện dĩ nhiên. Cũng y như ta nói hay bàn về ảnh hưởng Khổng Mạnh hay Lão Trang, hoặc triết học Đông phương, trong truyện Tàu này hay truyện Tàu nọ. Một chuyện đương nhiên. Người Tàu viết truyện tất nhiên phải mang rất nhiều chất Tàu, từ Âm Dương Ngũ Hành đến triết lý Tàu, ảnh hưởng Khổng Mạnh và Lão Trang, v.v. vào truyện của họ. Như người Tây phương viết truyện xảy ra ở Mỹ, ở Âu Tây - tự nhiên sẽ chứa đựng các hệ giá trị xã hội, truyền thống, tôn giáo, cùng triết học Tây phương. Nhưng có một điểm gây nhiều phấn khởi. Cũng bởi người Hoa mặc nhiên thừa nhận như vậy, họ ưa dẫm vào vết chân của những người đi trước, y hệt như tính chủ quan, rồi tự mãn của các chính phái trong truyện CGĐL. Họ thường phớt qua và không bao giờ ngồi xuống nghiên cứu những điểm cơ bản đó. Và những bạn người Hoa đều xác nhận như vậy: Họ chưa tìm thấy một bài viết nào từ phía lục địa hay Hongkong phân tích kỹ về chi phối của định luật ngũ hành trên các nhân vật và tình tiết trong truyện chưởng Kim Dung.

    Điểm phấn khởi đó sinh ra cảm hứng viết và hoàn tất bài này.

    GHI CHÚ

    [1] Phim được thực hiện vào năm 1935, với vai chính do tài tử nổi tiếng thời đó: Robert Donat, thủ diễn. Lúc đó Hitchcock hãy còn ở Anh quốc, chưa sang Mỹ.
    [2] Xem: “Thử đọc lại Kim Dung 3: Tiếu Ngạo Giang Hồ” và “Thử đọc lại Kim Dung 4: Lộc Đỉnh Ký” trên các mạng ‘vietkiem.com’ hoặc ‘nhanmonquan.com’, ‘aihuucongchanh.com’, ‘talawas.org’, ‘perso.wanadoo.fr/charité’, hoặc các báo ‘Đi Tới’ tại Quebec – Canada, ‘Thời Luận’ ở Orange County – California, ‘Vietnam Daily’ – San Jose, ‘Việt Luận’ Sydney, Úc.
    [3] Một người bạn Hongkong cho biết tác giả Tra Lương Dung (Kim Dung) đã được chính quyền Bắc Kinh cấp cho một căn nhà nghỉ mát tại khu Tây Hồ ở Hàng Châu - để ông tùy nghi xử dụng cho đến cuối đời. Tin này chưa được kiểm nhận.
    [4] Trong bản Ỷ Thiên Đồ Long Ký mới hiện nay, đoạn Trương Tam Phong gặp Trần Hữu Lượng tại Thiếu Lâm tự hoàn toàn bị cắt bỏ. Trần Hữu Lượng là một nhân vật lịch sử có thật, sau này lãnh đạo một nhóm kháng Nguyên khác với nhóm Chu Nguyên Chương, người đánh đuổi được quân Mông Cổ và sáng lập ra nhà Minh. Trong CGĐL, Kim Dung mô tả Trần Hữu Lượng như một người cực kỳ xảo quyệt, quậy chỗ này, quậy chỗ kia. Có một tài liệu đâu đó, chưa được phối kiểm, cho rằng Trần Hữu Lượng mang giòng máu An-Nam (Xem: ‘Thử đọc lại Kim Dung 2: Nguồn Việt’).
    [5] Chu Chỉ Nhược phải viết họ Châu mới đúng với chữ Hán. Họ Châu và Chu là hai họ khác nhau! Lại một yiệc lộn xộn của mấy Thầy quốc ngữ ban đầu. Họ Châu như Châu Ân Lai (Zhou En Lai) và họ Chu như Chu Dung Cơ (Zhu Rong Ji) - cả hai đều là Tổng Lý (thủ tướng) của Trung quốc - viết, đọc và mang nghĩa khác nhau. Châu mang nghĩa “vòng” hay “cứu tế”, và Chu mang nghĩa chính “đỏ thắm” (chu hồng) – viết gần giống với “Tru”, có nghĩa “giết” (tru di tam tộc). Họ Châu đã có từ thời cổ đại, thời Nhà Châu, rồi Đông Châu như trong ‘Đông Châu Liệt Quốc’. Người Việt phía Nam, có lẽ vì kị húy chúa Nguyễn Phúc Chu, nên tống hết Chu sang Châu. Người phía Bắc gọi hết bằng “Chu”. Còn sót vài ngoại lệ do ở thói quen bị lộn xộn: Phía Bắc vẫn gọi “Châu báu”, “Bích Châu” mà đáng nhẽ gọi “Chu báu/ Bích Chu” – và ta vẫn gọi lầm “chu toàn /chu du / chu kỳ” – đáng lý ra: ‘châu toàn/ châu du / châu kỳ”. Những người mang họ Chu hay Châu gặp rắc rối không ít khi muốn suy tìm gia phả thật chính xác.
    [6] Chu Nguyên Chương, tức Minh Thái Tổ, mang họ CHU như Chu Dung Cơ, chứ không phải Châu.
    [7] Xin xem: Nguyên Nguyên, “Thử viết về hôn” tại mạng Aihuucongchanh.com hoac Vietnamdaily.com (Vietnam Nhat Bao, xuất bản tại San Jose).
    [8] Gần đây nhất: Phim ‘6 Ngày 7 Đêm – 6 Days 7 Nights’ (1998) với Harrison Ford và Anne Heche. Phim ‘Cast Away’ (2000) với Tom Hanks.
    [9] Một người bạn (T.T.D.) góp ý: Kim Dung cũng hoang đường trong vấn đề ngôn ngữ. Không biết nhân vật trong các truyện nói thứ tiếng gì mà mọi người dù xuất phát từ các tỉnh, các khu vực khác nhau của nước Tàu đều nói cùng một thứ tiếng, một phương ngữ, hiểu nhau nhanh chóng, không cần thông dịch viên. Điểm hoang đường này ngày nay vẫn thường thấy trên phim ảnh Hollywood.
    [10] Đính chính: Trong ‘Thử đọc lại Kim Dung 4: Lộc Đỉnh Ký’, có một lỗi nhỏ: Song hổ đả bác. Xin sửa lại: Song thủ hỗ bác. Mạng ngũ hành của Châu Bá Thông sau khi luyện được Song Thủ Hỗ Bác chính là mạng Mộc. Bời Châu Bá Thông bị giam cầm tại đảo Đào Hoa – cây cối chung quanh xanh tươi, màu xanh mạng Mộc - gần 20 năm. Mỗi tay đánh một kiểu võ khác nhau, hỗ tương nhau. Ngoài ra, Hỗ trong Hỗ Tương có phát âm gần giống với Hổ, con cọp - chúa Sơn Lâm. Lâm chỉ cây cối, rừng rậm: mạng Mộc. Nhờ ở Châu (kinh) Dịch biến mạng dần ra mạng Mộc, Châu Bá Thông đánh trả được Hoàng Dược Sư, biệt danh Đông tà - hướng Đông, mạng Mộc. Mộc ngang ngửa với Mộc.
    [11] Lê Văn Sửu (1998) Học thuyết Âm Dương Ngũ Hành. Nxb Văn Hoá – Thông Tin.
    [12] Vương Hồng Sển (1989) Thú Xem Truyện Tàu. Nxb Xuân Thu in lại, theo bản cũ đã từng xuất bản tại Sàigòn, năm xưa.

    Nguồn:http://www.aihuucongchanh.com


          
Trả lời

Quay về “câu chuyện văn chương”