Tiếng cười đoàn viên

Trả lời
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5388
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Tiếng cười đoàn viên

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           



    Tiếng cười đoàn viên (*)





    Khi tôi vừa ăn xong mấy củ khoai thay cho bữa cơm chiều, thì một người cán bộ đi vào. Như những người miền Bắc tôi thường gặp, sau chiến tranh tràn ngập cả miền Nam, dù không là bộ đội vẫn thường mặc một bộ đồ màu cứt ngựa bạc phếch, nhàu nhò và đội một cái nón cối do Trung Quốc viện trợ. Bộ đồ ông mặc hãy còn mới nhưng vẫn không che giấu được vẻ buồn bã nhàm chán của một thứ quân phục được sản xuất hàng loạt. Ông cũng có một chiếc bị lủng nhủng những túi những dây gọi là ba lô con cóc (vì đeo lên nó giống như một con cóc khổng lồ). Ông mang một đôi săng đan bằng nhựa màu nâu nhạt, loại dép mới cũng do – ông Trung Quốc chi viện thay cho dép cao su.

    Ông bước vào sân giữa lúc trời đang còn chút nắng nên mặt ông sáng lên với những giọt mồ hôi lấm tấm, nhưng hai nếp nhăn từ cánh mũi vòng qua cái miệng không râu lại sẫm đen giống như hai đường cày. Một cái bớt trên má trái giống như một giọt mực xạ bị bôi lem. Mái tóc cắt sát hai bên thái dương chỉ chừa một mảng trước trán như một cái lưỡi rìu. Cái mái tóc sắc nhọn giống nhau cả triệu người như một ấy, đã từng xuất hiện trong tết Mậu Thân trên các xác Việt cộng được kéo bỏ ngoài công viên thành phố. Tôi đã nhiều lần hoang mang tự hỏi không biết có ai trong số họ là cha tôi.

    Ông đi qua sân không một chút ngập ngừng, rồi ông bước lên thềm quay mặt nhìn ra ngõ, hơi bất ngờ khi thấy mấy con “trâu máy” của hợp tác xã trên đường trở về đang kêu phành phạch thay cho tiếng nghé ngọ. Ông đặt ba lô xuống thềm, lọ mọ lấy điếu cày, xe thuốc nhét vào nõ rồi rít một hơi dài kêu roọc roọc. Ông tựa lưng vào cột, lim dim mắt, thở ra một hơi khói đậm và gắt. Cái vẻ tự tin yên bình, cái vẻ không xa lạ với cửa nhà vườn ruộng, cái vẻ của một người đi xa về lại nhà mình khiến cho tôi trả lời đúng chóc khi nghe ông hỏi:

    • Có biết ta là ai không?
      Là cha, tôi nói.
      Giỏi đó, con còn nhìn ra cha là nhà có phước.


    Đó, cái buổi trùng phùng của hai khúc ruột lìa xa nhau hơn hai mươi năm chỉ có vậy. Không có chuyện mừng mừng tủi tủi. Không có một giọt nước mắt nào run rẩy nhỏ xuống. Cũng không oái ăm như tôi đã từng tưởng tượng mỗi khi nghĩ đến người cha chưa từng thấy mặt. Có phải vì chúng tôi là hai người đàn ông hay vì chúng tôi đã từng ở hai bờ chiến tuyến?

    Tôi đã từng vẽ ra những cảnh cha con gặp nhau rất éo le, oan trái. Như lúc ông bị thương sắp chết sau khi nhận loạt đạn của chính tôi, hay lóp ngóp chui lên từ căn hầm bí mật dưới những họng súng sẵn sàng nhả đạn, trong đó có họng súng của tôi.

    Hồi đó, tôi thường tự hỏi, trên cái dải đất mỏng manh hình chữ S này có bao nhiêu người cha và người con, người anh và người em, những người ruột rà máu mủ lại phải bắn giết nhau. Cả trăm, cả ngàn hay đến cả chục ngàn? Và vì sao bọn họ phải trở thành kẻ thù của nhau? Có phải vì chiến tranh quá dài và những kẻ cầm đầu hai bên quá hèn nhát hay quá thủ đoạn, hích vào đầu chúng tôi như bọn trẻ chăn trâu thúc sau đít để trâu bò húc nhau.

    • Lô lô ầm

      Lô lô ạt

      Thịt nạc dao phay

      Con nào hay để lại cày

      Con nào dở dao phay nước mắm…


    Bộ máy tuyên truyền của hai bên cũng y chang như vậy đó, chỉ khác là được khuếch đại to hơn và bền bỉ sâu hiểm hơn mà thôi.

    Giờ đây, tôi lại tưởng tượng khác. Nhiều người cha xấu hổ đã không muốn nhìn mặt con khi biết chúng đã từng “theo giặc cầm súng bắn vào nhân dân”. Biết con đang “học tập” họ chẳng những đã không ái ngại xót xa, còn bảo không bị giết đã là nhân đạo lắm rồi, hãy để nó học càng lâu càng tốt. Vì vậy, tôi chẳng mong gì được gặp ông một cách đề huề cảm động. Tôi chờ đợi những câu mắng chửi y như bọn họ, những người chiến thắng rồi mà vẫn chưa hết căm thù những kẻ thua trận là chính con cái anh em mình. Nhiều lúc tôi vẽ ra cảnh ông rút súng chĩa vào ngực tôi gào lên, mày là thằng bán nước và tôi nhắm mắt để cho ông bóp cò.

    Nhưng bây giờ, “con còn nhìn cha là nhà có phước”, ông nói vậy là sao? Phải chăng ông cũng đang vẽ ra những cảnh trái ngang: con không thèm nhìn cha, hay lớn tiếng kết tội bỏ cả vợ con để đi theo Liên Xô và Tàu Cộng? Và như thế cả hai cha con chúng tôi đều vừa mong mà cũng vừa sợ cái ngày sẽ gặp lại.

    Tôi mở cửa mời ông vào nhà, nhưng ông bảo ta muốn đi dạo một chút. Rồi ông đi quanh vườn. Vườn rộng, trồng rất nhiều cây ăn trái, nhưng đã già cỗi. Những mít, những xoài ngày nào giờ đã thành cổ thụ. Dừng lại bên cạnh một cây xoài ngã rạp chắn lối trước mặt, ông nói đây là cây xoài quỳ và quay lại hỏi tôi:

    • – Lúc nhỏ con cũng thường leo lên đây?

      – Dạ.

      – Con có bị bà bắt phạt quỳ không?

      – Dạ có.

      – Bà cấm leo trèo vì sợ té gãy chân.

      – Dạ.

      – Ta nhớ cái vườn này lắm. Ngoài đó làm gì có được cái vườn như nhà mình.


    À ra vậy, tôi nghĩ, lúc nhỏ ông vẫn thường nghịch ngợm leo trèo và ông vẫn nhớ đến khu vườn xưa, ngôi nhà cũ chứ không phải chỉ nghĩ đến đảng không thôi.

    • – Ta cứ tưởng bị đốt phá hết rồi.

      – Thế nhà ngoài đó của cha cũng có vườn chứ?

      – Làm gì có nhà, chỉ có bốn thước vuông thôi. Chỉ rộng hơn cái áo quan một chút.


    Cái giọng điệu chua chát từ miệng một người miền Bắc lần đầu tiên tôi mới được nghe, thật khác xa với giọng điệu huênh hoang tự hào của những “ông”, những “bà” cán bộ trong trại cải tạo hay những người miền Nam mới theo cách mạng.

    Sau đó ông vòng ra giếng, cúi nhìn xuống sâu một lúc như tìm lại hình bóng mình rồi thả gàu múc nước. Ông xối nước rửa mặt, ngửa cổ uống một hơi, khà một tiếng: Nước giếng nhà mình ngon thiệt! Cái cách ông uống và khen cứ như vừa làm một cốc bia mát lạnh, khiến tôi rất xúc động.

    Vườn nhà mình! Nước giếng nhà mình! Những tiếng ấy dường như được ông nhốt kín trong lồng ngực suốt hơn hai mươi năm, giờ bỗng vọt ra như những cánh chim đang bay vút trên bầu trời quê hương. Tôi có cảm giác sẽ còn được nghe tiếng “mình” thêm nhiều lần nữa. Nhà của mình, ruộng của mình, vợ con của mình… Những thứ “của mình” đó làm nên một đời người, vì sao ông lại bỏ tất cả để đi tìm những thứ rất chi xa lạ không phải của mình?

    Lúc vào nhà, tôi cẩn thận đi trước, dặn ông coi chừng vấp phải ngạch cửa cao ngang đầu gối, nhưng ông bảo vấp làm sao được, ta thuộc cái nhà này như biết rõ trong lòng bàn tay.

    Đèn được thắp lên, căn nhà đã một trăm tuổi hơn mở con mắt ngái ngủ của mình ra nhìn ông. Không biết nó nghĩ gì nhưng ông chủ của nó thì bồi hồi đứng nhìn trong yên lặng. Nào cột nào kèo, nào trính nào xiên, cái bàn thờ lạnh lẽo với những bức hình trùm khăn nhiễu đỏ, những tủ giường xưa cũ, tất cả đã bị mối mọt và nhất là bàn tay của con người làm cho xệch xạc méo mó. Ngôi nhà đã hai lần bị “mượn”. Lần thứ nhất, chính quyền cũ “mượn” làm nhà tạm giam những người tình nghi Việt cộng. Lần thứ hai, cách mạng “mượn” làm trụ sở ủy ban. Cứ sau mỗi lần bị “mượn” là tiều tụy xơ xác. Giá như nó là một người vợ đẹp mà bị “mượn” đến những hai lần như thế thì không biết người chồng sẽ đau khổ đến mức nào.

    Đến trước bàn thờ, ông có vẻ muốn lật những tấm khăn nhiễu ra để nhìn lại hình những người đã khuất, nhưng tần ngần một lúc, ông lại thôi. Ông ngồi xuống cái tràng kỷ mà một chân sau được thay bằng bốn cục gạch. Tự nhiên ông trở nên bé nhỏ mặc dù ngọn đèn làm cái bóng của ông nở to ra, bôi đen cả chỗ ông ngồi. Ông có vẻ giống như một đứa con có tội đang ngồi lặng nghe những lời rầy la của mẹ cha. Phải chăng ngôi nhà đã một thời uy nghi lộng lẫy giờ suy sụp thảm hại là do ông đã bỏ nó mà đi? Bởi vì có ông thì ngôi nhà này ai dám mượn đến những hai lần. Và vợ có chồng thì ai dám thập thò tán tỉnh. Nói vậy thôi chứ trong những ngày cách mạng mùa thu, cả kinh đô nhà Nguyễn nằm soi bóng bên bờ sông Hương còn bị Bảo Đại “bỏ của chạy lấy người” huống hồ là ông.

    • – Cha chắc chưa ăn gì, tôi nói, – để con kiếm cái gì làm bữa tối cho cha.

      – Khỏi, ông nói, – ta ăn quà rồi. Kiếm cái gì nhâm nhi thì được. Ta có hai chai bia đây.


    Thật là bất ngờ, thay vì sẽ phải ngồi nghe ông tra hỏi, nguyền rủa, lại được cùng ông ngồi uống la de. Tôi quá vui nhưng cũng rất lúng túng, vì mới đi cải tạo về chưa được một tuần, biết lấy gì để làm mồi nhậu đây. Tôi loay hoay mãi, sau cùng đành chạy ra quán nói thật với bà chủ cho mua chịu mấy cái trứng vịt. Tôi không đủ dầu để làm món trứng tráng chỉ còn mỗi cách là đem luộc.

    Khi trứng chín đã được bóc vỏ trắng muốt, tôi lấy thêm một chút muối tiêu, trịnh trọng bày lên bàn để mời ông. Lúc đó đã thấy ông để sẵn hai chai bia La rue hiệu con cọp, giờ là của hiếm. Hai chai bia được cột chặt vào nhau trông rất lạ, đem từ miền Nam “Mỹ ngụy” ra miền Bắc chống Mỹ anh hùng, rồi lại lộn ngược vào Nam, cứ như hai số phận long đong đã được an bài.

    • – Cái này, ông nói, – ta được phân phối đã hai năm rồi, để dành mãi đến ngày hôm nay đấy.

      – Quán hết đá, cha chờ chút để con lên chợ.

      – Khỏi, uống không cũng được.


    Đó là đại yến mừng ngày đoàn tụ mà nếu cả tộc họ nhà tôi kể từ ngày lập làng còn sống, nước mắt tủi hờn chắc cũng đựng đầy hai chai la de. Cha tôi là người mà chính tôi có bổn phận phải lùng diệt. Còn tôi là đứa con đi theo “giặc” đáng nguyền rủa của cha. Số phận nào lại đưa chúng tôi đối mặt nhau một cách nghiệt ngã như thế. Ai cũng bảo là do lịch sử, nhưng cái con mãng xà dài cả ngàn thước ấy, ai đã nhảy lên lưng khiến nó lồng lên suốt mấy chục năm? Ai đã khiến nó nuốt một lúc hàng chục tiểu đoàn ở cổ thành Quảng Trị? Ai khiến nó đuổi theo cả vạn người di tản từ Pleiku? Nếu lúc này cha tôi cầm con dao đang thái trứng kia đâm thẳng vào ngực tôi cũng là do con mãng xà ấy sao?

    • – Uống đi cha!

      – Uống đi con!


    Uống để mừng cha con mình đã thoát khỏi cái tội ác lớn nhất trong đạo làm người vì chiến tranh quá dài đủ để cho cha con giết nhau!

    Đêm hôm đó hai cha con tỉnh như sáo không phải vì bia ít quá không đủ say mà vì chúng tôi bàng hoàng nhận ra dưới đám lá mục của lịch sử, giấu mặt bao nhiêu là sâu bọ rắn rít, chúng tôi vẫn là cha và là con. Ông nói gần như suốt đêm về cái dòng họ Trần “rân rác” (ý nói danh giá), về lúa chín tràn bờ, về bắp trổ đầy soi, về những ngày giỗ chạp heo gà ngả hết con này đến con khác, về những xe trâu chở lúa từ đồng lớn, đồng dài kẽo kẹt suốt cả tháng, về bằng thành chung của ông (cả huyện chỉ có hai người đậu), về những ngày đầu cách mạng bà nội đã đem cả rổ vàng ra cúng vào quỹ cứu quốc. Nhưng tuyệt nhiên ông không nói gì về những ngày ông đi tập kết. Cũng không hỏi tôi đi lính gì, gây bao nhiêu “nợ máu” và phải học tập bao nhiêu năm mới “sáng mắt sáng lòng”. Và, im như băng giá ở Nam cực, ông không hề mở miệng ra hỏi nói gì về mẹ tôi. Tàu Titanic có ngày còn được khai quật lên để cho mọi người thấy lại cái bi kịch hàng hải đau thương nhất thế kỷ, nhưng cái mối tình mà từ đó mới có tôi sinh ra, đụng phải tảng băng của lịch sử (lại lịch sử) bị gãy làm đôi thì ông nhất định chôn chặt dưới đáy đại dương của lòng mình.

    Hai năm trước ngày ký kết hiệp định Geneve, tôi được sinh ra với một cái bớt đỏ trên môi. Bà nội nói, cha mày cũng có một cái bớt trên má, nhưng xấu hơn vì là bớt màu đen. Bà nói như thể biết trước cuộc chiến tranh sẽ còn kéo dài và cha con chúng tôi có thể phải đối mặt nhau ngoài mặt trận. Cha tôi phải nhớ là đừng bắn vào đứa có bớt đỏ trên môi, còn tôi thì đừng bắn vào người có bớt đen trên má. Hai cái bớt ấy đã được tổ tiên nhà họ Trần làm dấu để cha con nhận ra nhau.

    Mẹ tôi lấy chồng khác khi tôi lên mười. Tôi ở lại với bà nội. Điều ấy chắc làm mẹ tôi đau lòng lắm. Bà ôm tôi khóc như mưa. Tôi không biết gì nhiều về bố dượng, chỉ biết ông ở trong quân đội và cấp bực sau cùng khi Sài Gòn thất thủ là trung tá.

    Nếu trên đời này có những người đàn bà rất tần tảo, rất giỏi giang, nhưng cũng rất đau khổ chắc phải kể đến mẹ tôi. Sau 1975, chồng bị bắt đi cải tạo, nhà bị tịch thu, con cái bị đưa đi kinh tế mới… Bao nhiêu tiền của dành dụm bị mất sạch khi đổi tiền. Vậy mà vẫn phải mua đường sữa, mắm cá đi thăm nuôi, hết lặn lội ra tận Bắc để thăm chồng sau, lại lộn vào Nam thăm con chồng trước. Như lúc này đây, nghe đâu mẹ đang ở Bắc.

    Những điều ấy tôi muốn tâm sự với cha nhưng ông đã coi như không có người đàn bà ấy trên đời, thì tôi cũng đành biết vậy mà thôi. Ông ăn ít, ngủ ít, không ra ủy ban thôn, không lên huyện, lại càng không vào tỉnh và chưa hề hỏi han hay gặp gỡ những người bạn chiến đấu cũ nay đã là đồng chí bí thư này, chủ tịch nọ.

    Có một lần, tôi rụt rè hỏi, cha cũng có gia đình ngoài đó chứ, thì ông bảo, hỏi làm chi chuyện đó. Hãy lo cho con đi. Con phải kiếm một người đàn bà mới giữ được cái nhà này. Ta có còn gì nữa đâu. Cuộc đời ta như một con cá, khúc ngon nhất là khúc giữa thì bị mèo tha chó đớp. Chỉ còn lại cái đầu và khúc đuôi, giữ lại mà làm gì.

    Giọng ông u uẩn quá, nghe rất thương. Cái khúc giữa đời ông phải chăng là hơn hai mươi năm ông đi tập kết. Và trong hai mươi năm đó, với cái lý lịch con địa chủ chắc là ông đã run sợ xiết bao.

    Đến ngày thứ năm, mẹ tôi từ vùng đất đỏ Long Khánh ra thăm. Bà được tin tôi ra khỏi trại cải tạo ngay lúc bà đến thăm nuôi. Khi nghe mấy tiếng đã được tha, không kịp quay về nhà, bà liền đón xe đi suốt đêm để ra gặp con. Lúc bà kêu cửa thì trời chưa kịp sáng.

    Không như lúc gặp cha, tôi khóc nức nở khi gặp mẹ. Bà cũng khóc, nhưng tỉnh táo hơn, hỏi: “Khổ lắm phải không con?” Tôi lắc đầu, chỉ tay vào trong nhà, nói nói thầm vào tai bà: “Cha con đang ngủ trong đó”.

    Tự nhiên tôi cảm thấy như đầu và ngực bà lạnh ngắt. Bà rời tôi, ngồi sụp xuống đất, cả người bà rung lên. Tôi hiểu bà đang cố kìm giữ tiếng khóc. Giá như có thể được, chắc bà đã kêu thét lên rồi.

    Tôi dìu bà lên thềm, mẹ và con cùng lặng im ngồi chờ sáng.

    Bên trong có tiếng ho nhỏ, rồi có ánh đèn lọt qua khe cửa.

    Cha tôi bước ra sân, ngửa mặt lên trời, làm một vài động tác cho đỡ mỏi. Ông định đi ra giếng nhưng khi thấy mẹ con tôi, ông chớp mắt mấy cái, nói như thể hai người chưa từng xa nhau:

    • – Kìa, sao hai mẹ con lại không vào trong nhà?


    Mẹ tôi đứng lên, một tay nắm tay tôi, một tay quệt nước mắt nói:

    • – Ông mới về?

      – Phải, mới về được mấy bữa.

      – Ông vẫn khỏe?

      – Ờ, vẫn khỏe. Bà thế nào? Đường xa chắc là mệt lắm. Này Tân, con đưa mẹ vào nhà nghỉ, ta ra vườn một lát.

    Tôi chưa bao giờ nghĩ tới lúc cha và mẹ gặp nhau. Mọi sự đã trôi qua rất xa. Phải nói là thật xa, tận trong mịt mờ của quá khứ. Liệu cuộc trùng phùng không được báo trước này có làm cho họ vì thế mà bớt xa nhau chăng.

    • – Mẹ chỉ mang theo đồ khô, chẳng có gì mời cha con ăn sáng. Hay là để mẹ lên chợ kiếm thứ gì.

      – Thôi mẹ, chắc cha không thích bày vẽ. Mẹ có mì gói không?

      – Có đây, để mẹ đi nấu nước.

      – Việc đó để con, có cái chõng của con, mẹ nằm tạm mà nghỉ.


    Một lúc sau, cha tôi vào. Ba bát mì bốc khói được tôi mang lên.

    • – Mời cha, mời mẹ, tôi nói.

      – Mời bà, cha tôi nói.

      – Mời ông, mẹ tôi nói.


    Những sợi mì ngập ngừng trôi qua miệng cha.

    Tiếng húp nước rụt rè chảy qua miệng mẹ.

    Tiếng nhóp nhép trong miệng tôi.

    Bỗng mẹ tôi đặt bát xuống mâm, nhìn thẳng vào mặt cha hỏi:

    • – Ông thù tôi lắm phải không?

      – Không.

      – Ông nói dối.

      – Để làm gì?

      – Tôi biết, ông hận tôi. Nhưng nếu như tôi đợi ông đến hơn hai mươi năm thì tôi được gì?

      – Tôi có muốn bà đợi tôi đâu. Chẳng ai đợi ai. Thành thực mà nói, tôi rất có lỗi với con và bà.


    Đột nhiên tôi vọt ra câu hỏi suốt bao nhiêu lâu cứ đè nặng trong lòng:
    • – Cha có biết là mình lầm đường không?


    Cha tôi hơi bối rối nhưng cũng nói:

    • – Vấn đề là đừng hỏi biết hay không biết. Một người đã rơi xuống đáy vực thì có gào lên cũng chẳng ai nghe.


    Tôi nói lớn:

    • – Vậy thì rõ rồi. Xin cha và mẹ hãy cùng con ăn hết bát mì. Dẫu sao cũng là một ngày vui.


    Chiều hôm đó mẹ tôi xuôi Nam.

    Sáng hôm sau cha tôi ra Bắc.

    Tôi còn lại một mình.

    Thôi hãy lấy vợ, sinh con.

    16/9/2010

    ———————————————————–

    *Tựa bài mượn trong lời nhạc của Phạm Đình Chương:

    • Ngày nao tan đao binh

      Mẹ bồng con sơ sinh

      Chiều đầu xóm xôn xao đón người trường chinh

      Ngậm ngùi hân hoan tiếng cười đoàn viên


    Khuất Đẩu

    Nguồn:http://vietluan.com.au


              
Ngoc Han
Bài viết: 1577
Ngày tham gia: Thứ tư 20/05/15 14:24

Re: Tiếng cười đoàn viên

Bài viết bởi Ngoc Han »

Bạch Vân
Mượn đất đọc lại chuyện xưa

Nhớ lại một vùng trời - Mai Thảo
Mười năm trước đây, ở một nửa đêm về sáng lất phất mưa bụi, tôi đã bước lên một xe nhà binh, giã từ Hà Nội, vượt qua Hồng Hà. Để từ vùng lạt sạt ẩm ướt của cỏ sớm nơi phi trường Gia Lâm còn nhòa nhạt trong biển sương mù trắng xóa, làm một người lữ hành của một chuyến bay lên vùng trời đất nước mênh mông. Tôi đi, đi suốt mấy ngày ngàn cây số, đi từ những tia sáng lung linh những vì sao cuối cùng đang rụng xuống một tàn đêm miền Bắc, đi tới cái chói chang của nắng lớn miền Nam.

Nhớ đêm đó, tôi không ngủ được. Như Hà Nội của 5 cửa ô và 36 phố phường bồi hồi không ngủ. Như những con sông chở lũ ngàn tháng 8 của Hồng Hà, những con sóng ấy nức nở dưới chân cầu, khi 10 bánh nặng nề của chiếc xe vận tải bít bùng thả hết tốc lực băng qua. Như những thân cỏ xôn xao, [âm thanh ồn ào] không ngủ của một phi trường Gia Lâm đã thức với những chuyến bay 5 phút một lần, và những giàn đèn trần truồng chiếu giải xuống khuôn mặt trầm tư của tôi, phút ôm va-ly ngồi trong phòng đợi.

Đêm lên đường, người ta không ngủ được, những đêm khởi hành đó của người Hà Nội 1954. Hiệp định chia đôi đất nước. Vĩ tuyến 17 nghe thấy và nói tới lần đầu tiên. Miền Bắc chỉ còn là một sự chuyển động bạt ngàn của một chuyến đi lớn. Hằng hà sa số đàn bà trẻ con, ông già bà lão, những người mẹ tay bồng tay bế, những người chị đầu đội, vai gánh, lũ lượt, bất tận, dằng dặc, từng xâu, từng chùm, từng dòng, từng đợt, điệp điệp, trùng trùng, đêm ngày mai miết, từ những hình bóng li ti chân trời, tới những hình nét cận ảnh sát mắt, luôn luôn nối nối, vần vũ, chuyển đi. Sống hết mình với những dấu chân thi nhanh với thời hạn, đuổi gấp những chặng đường, để đến một Hải Phòng, một phi trường. Một triệu bước chân. Tôi là một những dấu chân một triệu. Tháng 8 1954 và tôi là một trong cái biển di chuyển họp lại từ muôn vạn nhánh của lớp công dân Việt Nam đổi đời, khởi từ thay đổi một vùng trời không thở được thứ không khí nhiễm độc của nó nữa. Mười một năm nay, bây giờ hồi tưởng lại. Đêm vượt Hồng Hà, đêm tới Gia Lâm, đêm mượn những đồi cỏ bồng bềnh của phi trường tảng sáng như một bàn đạp xanh biếc làm sức đu đẩy bay lên; đêm đó không hề được sống trong tôi bằng những xúc động lớn. Một đêm của cả một đời người? Một đêm của một chói sáng ý thức vĩ đại? Khẳng định chỉ là giả dối. Trong đêm đó thật ra chỉ thấp thoáng những lén thầm, những xao xuyến của một tâm sự riêng tư vật vờ. Đành rằng là cấu thành nhiều chia sẻ đau đớn của một lựa chọn. Nhưng đừng có phóng lớn cái gì ở hiện tượng phát sinh chỉ có một kích thước tầm thường thu nhỏ. Hành động mưu sinh thường nhật nào chẳng chuyên chở và hình thành trong nó bằng và từ một lựa chọn? Đêm giã từ Hà Nội, tôi chưa biết yêu miền Nam. Tôi mang cái tâm trạng hoài nghi của kẻ vô thần thiếu vắng niềm tin thần thánh không lay chuyển, không đổi dời ở một đất hứa bông hoa, nơi người lữ hành dừng lại, cắm xuống một cái cọc đánh dấu chỗ nẩy mầm nhánh sống ngày tới, ở lại đó, và làm lại cuộc đời.

Tôi không nghĩ tới kết thân vĩnh viễn được với Saigon, bằng thứ tâm hồn nhão mỏi, nhiều nếp nhăn của phần đời còn lại. Cho nên đêm đó, đêm thiên đô, lên đường đã thiếu vắng thứ ánh sáng rực rỡ của ý thức. Chỉ là một trận mưa tình cảm ướt sũng, tăm đẫm cái vũng tâm sự lướt thướt, những sầu nhớ cái phải chia lìa, cái phải đoan tuyệt. Rời Hà Nội miễn cưỡng, nghe sự xa như một vách núi âm u cao ngất đội đập lại não nùng những vang ngăn không cùng của một mất mát xót đắng. Chỉ như thế. Có thế đấy mà thôi.

Ngồi trong phòng đợi, như phút ra khỏi căn phòng gác thấp ở phố Mã Mây tôi ở từ những ngày tháng học trò, như lúc xe lăn trên dốc Long Biên, xe băng qua Sông Cái, như lúc đang chôn chân trên cái xôn xao bồng bềnh của bãi sớm phi trường, trước mắt nhìn lên vòm trời Hà Nội, chỉ thấy thân thể là cái lãng đãng cuối đời ấy của một vì sao đang rơi nốt cái chu kỳ rơi rụng và phai tàn của sao.

Suy tư của đêm vượt tuyến 11 năm trước là kiểu suy tư u uất không hề một giây phút nào trao được vào lòng tay tôi chiếc chìa khóa vàng mở cho sáng choang, cho dồn đuổi được hết những ép khuôn ngột ngạt dồn nén của căn phòng tâm thức tối đặc. Chỉ là gào lớn trong trái tim một nỗi nhớ kết chùm. Chỉ là thất thanh kêu lên trong cõi lòng cái mất không lấp đầy được bằng vô thức trong hoài nghi ngày tới. Lịch sử quật đạp dữ dội vào mặt mãi là thế. Mà cũng phải sáng. Điếc cũng phải nghe. Bàng hoàng sấm sét. Ấy thế mà vuốt mặt, chỉ thấy những chuỗi kỷ niệm, kỷ niệm bằng hình ảnh, của nơi chốn quá khứ. nặng chĩu tiếc thương không nguôi khuây chút nào. Và thắp nó lên mà vượt Hồng Hà.

Bỏ Hà Nội đêm đó, tôi đi giật lùi.

Thay vì ngẩng cao nhìn xa để đo lường khả năng phục hồi của bản thân có thái độ với không gian tổ quốc mênh mông, từ cất cánh đến đậu xuống, tới trầm nét mặt lại, đi những bước giật lùi cho được còn đối diện với những ràng buộc đằm thắm, từng sợi, từng đốt một, rã rời bỏ lại sau lưng. Cái trạng thái khôn ngủ thở dài của kẻ thất tình.

Hà Nội như người đàn bà mình không giữ được, chứng kiến tận mắt cái sự nó lõa thể nằm trong tay kẻ khác... Hà Nội như người yêu, che mặt bước lên xe hoa về phía bờ sông đối nghịch, và mình là kẻ bị hất hủi phụ bạc tan nát ngẩn ngơ đứng chôn chân trên cái lạnh tanh hắt hiu của bãi bờ.

Thành tượng trên cỏ phi trường Gia Lâm chập chờn trong sương mù kín đặc, vào máy bay, và máy bay cất cánh bay lên, máy bay tới mây, đụng trời, độ cao lạnh buốt cũng không làm tôi hồi tỉnh. Mê đi. Ngây ra. Đắm chìm vào hồi tưởng, vất vả trong gợi nhớ và choáng váng trong thương tiếc. Cứ thế, suốt chuyến đi, tôi ngó đăm đăm vào tâm thức ráo hoảnh của mình treo cao thành cái kính chiếu hậu. Nó chiếu hậu một Hà Nội mịt mùng dấu tích. Nó chiếu hậu một Hà Nội đã bên này sông, đã giới tuyến chia đôi, đã những tầng mây cao xa bổng khỏi một đứa lìa dưới thấp. Hà Nội bỏ lại sao mà đẹp. Cái đã mất, mất vào cái đẹp; định lý bất biến ủa cái mất và trở thành của cái mất đó. Trong tưởng tượng lúc bay, hồn tôi mọc thành mười ngón run rẩy. Nó ve vuốt những con đường Hà Nội, rưng rưng và âu yếm lần đi trên từng gốc cây, từng mái hiên, từng chân tường, từng thước nhựa đường Hà Nội, như trên da thịt thiếu nữ một hình hài đương hoa, ngây ngất tiếp thu bằng tình yêu thứ nhất. Nó ôm lấy Hồ Gươm, vòng lấy Hồ Tây. Nó ghì nghẹt Trúc Bạch. Nó nắm chặt Tháp Rùa.

Hà Nội trong hồi tưởng vượt tuyến, là một cuốn từ điển 1000 trang của những cái đẹp bị tước đoạt kỳ hết. Lất phất mưa tơ trên cái nét kiến trúc phong kiến cổ cũ của ô Quan Chưởng vào những tháng đầu của thủy tiên Yên Phụ và hoa đào Thụy Khuê. Phiên chợ Đồng Xuân trong đèn lửa tinh sương, ngăn ngắn xanh chảy trong văn xuôi Thạch Lam ngợi ca những kho tàng mỹ thuật của 36 phố phường mà sống là một nghệ thuật vươn tới cùng độ của tế nhị, ngọn đỉnh của chuốt lọc. Phượng vĩ chói lòa từng trưa hè Quán Thánh. Từng chùm màu đỏ trong từng ôm trời xanh. Hà Nội của ta ơi! Hàng Bạc. Hàng Đào, mái nhà cong thủng, những đời ngói cũ mặc áo rêu đầy, đựng lá mùa thu như từng nấm mộ lộ thiên rào rào cái mưa cái nắng Hà Nội, cái ấm hơi hơi của Hà Nội lập xuân, cái gây gấy vừa vừa, cái thứ xăn xăn lả tả của Hà Nội vào thu, cái lạnh ngọt che cao áo mưa nghiêng nghiêng vành mũ, xúyt xúyt xoa xoa của Hà Nội trọng đông và tiếp giáp Nguyên Đán. Chiếc đồng hồ to bằng cái nia phơi trên nóc ga Hàng Cỏ mỗi buổi tàu hảo từ Thường Tín Văn Điển xình xịch vào ga, Hà Nội ơi của người Hà Nội! Với những sướng thỏa cho khứu giác, những kỳ thú cho vị giác. Bánh tôm Cổ Ngư, nuốt vào nuốt cả cái ngon Yên Phụ. Tô cháo bò cửa trường Gia Long hút hết hút trọn cái ngon của tuổi học trò. Những sớm Hà Nội bốc khói thơm nghi ngút bằng bánh cuốn Ngõ Huyện. Những đêm Hà Nội tỏa hết cái thứ không khí bình dân thân mật giữa người Hà Nội hàng rong, từ cái nóng bỏng đầu lưỡi của một ly cà phê bờ đường Phố Mới ninh chín trên than hồng. Nam Hoa xe đạp lăn những vòng vui thú tròn đầy trên Tràng Tiền nhạt nắng. Bách Thảo tìm vào như thi sĩ, đầu tựa gốc cây khi đêm qua đã đứng cho sương ướt mái đầu cửa sổ người yêu. Bạch Mai lầm lụt từ nối dài phố Huế ồn ào. Gia Ngư như đẹp nhất của ngõ. Mã Mây như cong nhất. Hàng Bạc như xưa nhất. Hàng Giấy như ngắn nhất của đường. Lá vàng dệt chiếu hoa dẫn vào thư viện Phúc Xá như một thành phố khác dưới thấp. Hà Nội như một thôn xóm nghỉ ngơi giữa cái không nghỉ của phố phường chung quanh. Và mầu đỏ nào bằng mầu đỏ Thê Húc. Và mầu xanh nào bằng mầu xanh Hồ Gươm. Ba miền tổ quốc đất nước nằm dài 5 năm mùa thu chỉ ở riêng một vòm trời Hà Nội.

Mười năm sau khu trục ào ạt bay ngược lại một phần của đoạn đường không gian xuyên Việt mà 11 năm trước, một chiếc 4 máy vẽ phù hiệu Hàng không dân sự trưng tập cho đổi dời lịch sử đã nhấc bổng thân thể tôi khỏi vùng trời nhiễm độc của Hà Nội trút tưới- hạt- sen cái sợ, cái chết, qua giới tuyến; lên những tử huyệt cháy bùng của hình hài địch 11 năm phây-phây yên ổn, trả đòn có phần muộn màng. Nhưng với tôi, oanh kích 1965 vẫn là một dội đáp bàng hoàng vào những đầu dây thần kinh của tâm sự tưởng đã nhận chìm vẽ lân đường 1954. Trong tôi, thoát để lại rì rầm tiếng sóng phả lên 10 bánh xe lăn qua một Hồng Hà tàn đêm. Lại gờn gợn cái cảm giác lạt sạt ẩm ướt ấy của cỏ sớm phi trường nhấc bổng bước chân đợi chờ chuyển dịch của mình. Tên mũi nhọn sáng hồng của ý thức phóng tới, giờ mới nhận thức được châu đáo đêm không ngủ 11 năm trước đêm giã từ 11 năm cũ, là khoảng ráo hoảnh của thanh bình, và thực hiện một lựa chọn dũng liệt. Cỏ Gia Lâm đêm đó qủa là những thân cỏ và những đời cỏ bàn đạp. Từ đó, tôi đã cất nổi thân thế mình bay về 11 năm sau, bay về phần đời còn lại sáng ngời lên thành một bắt đầu.

Sinh hoạt thường nhật của tôi và những bạn hữu cùng làm nghề viết chữ, trong thứ trò chuyện cắm mốc trên hồi tưởng trong kỷ niệm, Hà Nội vắng khuất thường vẫn được nói lại nhắc tới. Vùng trời vô sản ấy trong giai đoạn phản công oanh kích hiện giờ của ta như thế nào? Mưa miền Nam vào mùa rồi, và lại thoang thoáng trước tầm mắt mơ màng, những sợi tóc những sợi tơ của trời Hà Nội thải hơi nước tầm cao thành những nghiêng nghiêng bay trên 36 phố phường dưới thấp. Phố Mới ướt át, Chợ Hôm lướt thướt chảy dài tới. Bạch Mai đầm đìa. Nắng miền Nam sau mưa dấy bừng lên rực rỡ chứa chan, lại loà lòa trong hồn lắng lắng mầu đỏ của phượng vĩ Quan Thánh mầu xanh của mùa hạ Hồ Tây, những tháng 6, tháng 7 miền Bắc bão lớn.

Bây giờ kiềm điểm lại với nhau về tương quan tình cảm của mình với Hà Nội, đều vỡ nhẽ ra rằng trong cái hồ rung động nội tâm từng người, lượng nhớ thương ngậm ngùi cứ rút thấp mãi xuống. Phản công oanh kích. Những cái hay của vũ khí ta ngay ngày vượt tuyến. Mặt nước Bến Hải động bởi ào ạt từng đoàn lớn lướt qua. Rồi là cái ngần ngật hỏa táng của đồn trại, cầu cống đường xá địch tiếp nhận sự trả đũa của 11 năm đỡ đòn dồn cộng lại. Thời sự bốc lửa bằng những phi vụ sấm động trên đầu lại nở hoa thành những phát biểu cảm tưởng mới về Hà Nội. Vết thương cũ lành rồi. Mầu Hồng Hà 11 năm sau, sao không chảy nữa trên những đau đớn mất mát cũ của người Hà Nội vượt tuyến. Bây giờ là đo lường được tầm bay rồi lưng chừng Hải Vân qua dằng dặc Trường Sơn tới cuối đáy mênh mông. Cà Mau sóng vỗ. Bây giờ là đã nhìn thấy những rễ mẹ rễ con tươi khỏe vạm vỡ hội nhập được vào cái lớn bồng vững chãi, cái thỏa thuê tràn đầy là đời sống chúng ta trải đi, mênh mông dưới vùng trời bên này của chúng ta. Bây giờ là khoan thai và chính xác đòn trả lại đòn.

Một người bạn mang trên tay áo binh phục hình ngọn lửa hồng của [Cục] Tâm lý chiến đã tả cho tôi về một tấm hình chụp từ mấy ngàn thước cao trên vùng trời Hà Nội xuống một Hà Nội thất kinh từng hồi còi báo động rùng rợn. Người Hà Nội trong những hồi còi gào rú trên lũ cây cối nín thở của Hà Nội trên những mái nhà run rẩy của Hà Nội, mất 11 năm sau mới phải biết thế nào là cái tâm trạng của đồng bào miền Nam thôn dã chúng ta trong những đêm phục kích, khủng bố, và tàn sát cuồng tín miền Bắc. Ghi được trên tấm hình tuần thám ấy, một Hà Nội vắng và chết. Một Hà Nội ngừng sống. Một Hà Nội thôi cười. Một Hà Nội không thể đi đứng đường hoàng ngang ngược được nữa. Mà đào những hầm sâu, cuống cuồng nhào đại xuống đó, dúm dó và co quắp lại. Tôi nghĩ oanh kích còn hàm chứa và phát hiện được cái ngọn lửa hồng ấy nhìn thấy trên vai áo người bạn tâm lý chiến, thuật tả cho tôi về Hà Nội phòng thủ và Hà Nội kinh hoàng hiện ra dưới kia; trong khoảng khắc ngắn ngủi của một phi vụ tuần thám. Như thế cho người miền ngoài như người miền trong cùng nhau nhận thức được như nhau, về thế nào là phi lý và thê thảm của chiến tranh tương tàn. Để đòi chấm dứt nó. Để trả lại bình yên cho tất cả những vùng trời tổ quốc chúng ta. Để sống còn là một nhìn lên. Để thấy tự do mình như mây trời bay.

Hà Nội cũ ơi của người Hà Nội mới! Mười một năm sau, 5 cửa ô và 36 phố phường cũ vẫn là hình thể của kỷ niệm còn đằm đằm trong trí nhớ. Nhưng người Hà nội trong tôi, trong từng chúng ta, trong 1 triệu dấu chân làm thành ngọn triều bát ngát kín trùm cái toàn thể còn phải cắt đôi của hình hài tổ quốc; thôi đã đeo bám suy tư, và thái độ mình vào cái dấu chấm than lướt thướt hèn đớn. Gia Lâm. Phi trường ướt sương. Những thân cỏ sạt bồi hồi, và những đời cỏ thao thức không ngủ. Bước chân 11 năm cũ đặt hẫng xuống vùng ẩm lướt, mượn cái xanh biếc tảng sáng của bãi bay cũ làm bàn đạp cất bổng thân thể có lựa chọn vào đổi đời và làm lại từ đầu. Hồng Hà nức nở. Cầu Sông Cái vắt qua vùng âm thanh thao thao chảy trong đêm tàn. Hà Nội không nhìn thấy nữa. Đêm đứng trên cỏ sớm của phi trường bên này Hà Nội, tôi đến đó để đi, đã chỉ làm một việc phải. Hà Nội không nhìn thấy nữa; thì hướng tầm mắt vui thú bỡ ngỡ vào những cái đáng nhìn thấy gấp trăm nghìn lần Hà Nội bỏ lại đang nguy nga hiện hình trên những cửa ngõ mới của đời sống chúng ta.


Mai Thảo
1965

(Trong "Tập Thơ Truyện Không Quân Thời Chiến", nxb vàng son, Saigon 1974)
Trả lời

Quay về “của người”