3 ẩn sĩ

Trả lời
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20038
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

3 ẩn sĩ

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           





    3 ẩn sĩ
    _____________________________________
    Nguyên tác: Tri Startsa (1885-1886), Leo Tolstoy (1828-1910)
    (Три Старца - Лев Никола́евич Толсто́й)
    Anh ngữ: The three Hermits (1907), Louise & Aylmer Maude
    Minh Tâm dịch





    3 ẩn sĩ
    Truyện cổ tích lưu hành ở quận Volga


    "Khi cầu nguyện, anh em đừng lặp đi lặp lại một cách vô ích như dân ngoại; họ nghĩ rằng cứ nói nhiều là được nhậm lời. Ðừng bắt chước họ, vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin".(Ma-thi-ơ 6:7-8)




    Một giám mục đáp tàu buồm từ Archangel đến tu viện Solovétsk; đi cùng tàu có một số khách hành hương trên đường đến thăm các đền thờ tại nơi đó. Chuyến du hành êm đẹp, thuận buồm xuôi gió và thời tiết tốt. Khách hành hương ngồi rải rác trên sàn tàu, ăn hoặc tựu lại từng nhóm trò chuyện.

    Đức Giám mục cũng lên boong tau, và khi ông dạo bước tới lui, ông để ý thấy một nhóm người đứng gần mũi tàu đang lắng nghe một ngư dân vừa chỉ ra biển vừa kể chuyện. Đức Giám mục dừng lại, và nhìn về hướng người đàn ông đang chỉ. Ông không thấy gì ngoài mặt biển sáng lấp lánh dưới ánh nắng. Ngài đến gần hơn để lắng nghe, nhưng khi người đàn ông nhìn thấy ngài, ông ta cởi nón trên đầu ra và trở nên im lặng. Những người khác trong nhóm cũng gỡ nón xuống, và cúi đầu chào.

    • “Đừng để tôi làm các bạn mất tự nhiên chứ” Giám mục bảo họ.
      ”Tôi đến để nghe xem anh đây đang nói gì”.

      “Anh ngư phủ đang kể cho chúng tôi chuyện những ẩn sĩ”, một người trả lời, anh ta là một nhà buôn nên dạn dĩ hơn những người trong đám.

      “Những người ẩn tu nào?” Giám mục vừa hỏi vừa đi đến bên hông tàu và ngồi xuống một chiếc thùng.
      ”Kể cho tôi nghe với. Tôi thích nghe. Anh đang chỉ gì vậy?” .

      'Hòn đảo tí xíu kia, ngài thấy không?” người đàn ông trả lời và chỉ một điểm xa phía trước, hơi xích về phía bên phải. “Đó là hòn đảo nơi những ẩn sĩ này đang tu để linh hồn họ được cứu rỗi “

      “Hòn đảo nào đâu?” Đức Giám mục hỏi,
      “tôi không thấy gì hết?”.

      “Kìa, đằng xa kìa, ngài hãy nhìn theo bàn tay của tôi. Ngài thấy cụm mây nhỏ không? Ngay dưới và về phía bên trái một chút, có một vệt mờ. Đó là hòn đảo”.


    Vị giám mục nhìn kỹ, nhưng vì mắt ngài không quen nên chẳng thấy gì ngoài nước lấp lánh dưới ánh mặt trời.

    • “Tôi không thấy được”, ông nói,
      “nhưng những ẩn sĩ sống ở đó là ai?”


      “Họ là những thánh nhân”, người đánh cá trả lời.
      “tôi đã nghe kể về họ từ lâu, nhưng chưa có dịp nhìn thấy họ cho đến năm trước năm ngoái ”.


    Và người đánh cá kể lại có một lần anh đi câu, bị kẹt lại nơi đảo này qua đêm vì không biết mình đang ở đâu. Sáng hôm sau, trong khi anh ta đang đi lòng vòng đảo, thì phát giác một căn chòi đất và gặp một ông già đứng gần đó. Cùng lúc đó 2 ông già khác bước ra, và sau khi cho anh ta ăn xong, đem đồ anh phơi khô, họ giúp anh sửa chữa chiếc tàu của anh.

    • “Và anh thấy họ như thế nào?” vị giám mục hỏi.

      “Một ông người nhỏ thó và khòm lưng. Ông ta mặc áo thầy tu và trông rất già; có thể là hơn trăm tuổi, theo tôi nghĩ. Ông già đến độ hàm râu bạc phơ ngả sắc xanh lục, nhưng luôn tươi cười, và mặt ông sáng như mặt thiên thần từ trời xuống.
      Ông thứ nhì cao hơn và cũng rất già. Ông ta có bề ngang, và nước da màu vàng xậm. Ông là một người đàn ông khỏe mạnh. Tôi chưa kịp phụ thì ông đã lật thuyền của tôi qua giống như lật một xô nước. Cũng như ông trước, trong ông rất tử tế và vui vẻ.
      Ông thứ 3 thì cao và có hàm râu trắng như tuyết và dài tới đầu gối. Ông có vẻ nghiêm nghị với cặp chân mày nhô ra; và ông ta chỉ mặc vỏn vẹn một manh chiếu thắt ngang eo”


      “Và họ có nói chuyện với anh không?” vị giám mục hỏi.

      “Phần lớn họ làm mọi việc trong im lặng và ít nói chuyện, kể cả nói với nhau. Ông này chỉ cần thoáng nhìn là 2 ông kia đã hiểu ý. Tôi hỏi ông cao nhất là họ sống ở đây lâu chưa. Ông châu mày, lầm bầm ra vẻ tức giận; nhưng ông lớn tuổi nhất nắm lấy bàn tay của ông ta và mỉm cười, và thế là ông cao im lặng. Ông lớn tuổi nhất chỉ nói “Xin thương xót chúng tôi” và mỉm cười”.


    Trong khi anh đánh cá nói chuyện, con tàu tiến đến gần hòn đảo.

    • “Đây, bây giờ thấy rõ ràng đây, nếu ngài chịu khó nhìn”

    Đức giám mục nhìn, và bây giờ ông thấy một vệt đậm -- là hòn đảo. Nhìn một hồi lâu, ông rời mũi tàu và đi về phía đuôi tàu, hỏi người lái:

    • “Đảo đó tên gì vậy?”

      “Hòn đảo đó”, người đàn ông trả lời,
      “không có tên. Ở biển này, có nhiều hòn đảo như vậy”

      "Có đúng là có 3 ông ẩn sĩ sống ở đó để linh hồn họ được cứu rỗi không?”

      “Dạ thưa ngài, nghe người ta nói vậy, nhưng tôi không biết có đúng không. Những người câu cá kể là đã thấy họ, nhưng mà cũng có thể họ nói phét.”

      “Tôi ước muốn đáp lại hòn đảo và gặp các ông này” vị giám mục nói.
      ”Có cách gì không?”

      “Tàu không đến gần đảo được”, anh lái tàu trả lời,
      “nhưng có thể chèo thuyền nhỏ đưa ngài đến đó. Ngài hãy hỏi thuyền trưởng thử xem”


    Thuyền trưởng được mời đến.

    • “Tôi muốn gặp các ẩn sĩ này “ Đức Giám mục nói.
      “Ông có thể nào cho thuyền đưa tôi đến bờ không? Làm ơn cho tôi mượn một chiếc thuyền"

    Thuyền trưởng cố gắng khuyên can ông

    • 'Tất nhiên là được ,' ông nói,
      'nhưng chúng ta có thể mất nhiều thời gian. Và tôi dám thưa cùng ngài, những ông già này không đáng để phí công của ngài đâu. Tôi đã nghe nói rằng họ là những ông già khờ khạo, không hiểu biết gì, và không nói năng gì nhiều, không hơn gì cá ở biển'


      “Tôi mong được gặp họ” vị giám mục nói,
      “và tôi sẽ trả anh thêm tiền công và tiền giờ".


    Không còn cách gì khác, thuyền trưởng phải ra lệnh. Các thủy thủ chỉnh buồm, tài công chuyển lái theo chiều gió, và con tàu trực chỉ về hướng đảo. Một chiếc ghế được đặt ở mũi cho ông Giám mục ngồi và nhìn về phía trước. Tất cả hành khách tụ tập ở mũi tàu, và chăm chú nhìn lên đảo. Những người có đôi mắt sắc nhất nhìn ra được các tảng đá trên đảo, rồi một hồi sau nhận ra được một túp lều đất. Cuối cùng có một người thấy chính các ẩn sĩ. Thuyền trưởng đem ống nhòm ra và sau khi nhìn xong, đưa qua cho giám mục.

    • “Đúng là vậy. Có ba ông đang đứng trên bờ. Đó, phía tay mặt của hòn đá to.”

    Giám mục cầm lấy ống nhòm, nhắm đúng vị trí, và nhìn thấy ba ông: một ông cao, một ông lùn, và một ông rất nhỏ và khòm, đứng trên bờ nắm tay nhau.

    Thuyền trưởng quay qua nói với Giám mục.

    • “Tàu không thể đến gần hơn được nữa, thưa ngài. Nếu ngài muốn lên bờ, xin ngài lên thuyền để chèo vào, trong khi tàu thả neo nơi đây.”


    Giây cáp được tháo nhanh chóng, neo thả xuống và các cánh buồm xếp lại. Thình lình khựng lại, cả tàu rung động. Sau đó một thuyền nhỏ được thả xuống, các tay chèo nhảy vào, và vị Giám mục leo thang xuống ngồi vào chổ của ông. Khi họ đến gần đảo, vừa tầm ném đá, họ nhìn thấy ba ông già: ông cao với vỏn vẹn tấm chiếu thắt ngang lưng, ông lùn hơn với chiếc áo choàng nhà nông rách tả tơi, và một ông thật già lưng còm mặc áo thày tu – cả ba đang đứng nắm tay nhau.

    Các anh chèo thuyền tấp vô bờ, và móc thuyền lại giữ yên cho giám mục xuống. Các ông già cúi đầu chào, và khi ngài ban phước lành cho họ, họ cúi đầu sâu hơn. Sau đó, giám mục lên tiếng nói với họ.

    • “Tôi được nghe” ông ta nói,
      “các ông là những người sùng đạo, sống nơi đây để linh hồn được cứu rỗi, và cầu nguyện cho đồng bào. Tôi đây là một đày tớ bất xứng của Đức Christ, được ơn kêu gọi của Chúa nhân từ để chăn dắt và dạy dỗ đàn chiên của Người. Tôi muốn gặp các ông, là những tôi tớ của Chúa, và sẽ làm hết sức tôi để dạy cho các ông.

    Các ông già nhìn nhau và cười tủm tỉm, nhưng giữ im lặng.

    • ‘Xin các ông nói cho tôi biết, các ông làm gì để cứu linh hồn các ông?’ Giám mục hỏi,
      ’ và các ông làm cách nào để phụng sự Chúa trên hòn đảo này?’

    Ông già thứ nhì thở dài, và quay nhìn ông cao tuổi và xưa cổ nhất. Ông này mỉm cười nói:

    • ‘Chúng tôi không biết phụng sự Chúa. Chúng tôi chỉ phụng sự nhau và nương tựa nhau, thưa ngài tôi tớ của Chúa.'

      ‘Nhưng mà các ông cầu nguyện như thế nào?’, Giám mục hỏi.

      ‘Chúng tôi cầu nguyện như vầy’ ẩn sĩ trả lời.
      ‘Đấng 3 ngôi, chúng tôi có 3 người, xin thương xót chúng tôi’

    Và khi ông già nói câu ấy, cả 3 nhìn lên trời , và lặp lại:

    • ‘Đấng 3 ngôi, chúng tôi là 3 người, xin thương xót chúng tôi’

    Giám mục mỉm cười .

    • ’Rõ ràng là các ông đã được nghe về Chúa ba Ngôi hiển linh’, ông nói.
      ’Nhưng các ông thật là không biết cầu nguyện cho đúng. Các ông đúng là những người sùng đạo đáng mến. Ta thấy các ông có ước muốn làm đẹp lòng Chúa, nhưng các ông không biết cách phụng sự Ngài. Đó không phải là cách cầu nguyện; các ông hãy nghe ta, và ta sẽ dạy cho các ông. Ta sẽ dạy cho các ông, không phải là cách của riêng ta, nhưng là cách mà Chúa đã ra lệnh cho tất cả mọi người theo lời Kinh Thánh’

    Và giám mục bắt đầu giảng cho các ẩn sĩ về cách Chúa đã biểu hiện cho con người; nói cho họ biết về Đức Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.

    • ‘Đức Chúa Con xuống thế’, ông nói,
      ”để cứu nhân loại, và đây là cách ngài dạy tất cả chúng ta cầu nguyện. Các ông nghe và lặp lại theo ta:
      ‘Lạy Cha chúng tôi.’

    Và ông già thứ nhất lặp lại theo ,’Lạy Cha chúng tôi,’ và ông thứ nhì nói,’Lạy Cha chúng tôi’ và ông thứ ba nói,’Lạy Cha chúng tôi’.

    • ‘Ở trên trời’, Giám mục đọc tiếp.

    Ẩn sĩ thứ nhất đọc theo, “Ở trên trời’, nhưng ông thứ hai vấp váp, và ông già cao không thể nói những chữ đó cho đúng vì râu của ông mọc lấp miệng khiến ông không thể nói rõ ràng. Ông già nhất, vì không có răng nên cũng lẩm bẩm không rõ rệt.

    Giám mục lặp đi lặp lại những chữ này, và các ông già cũng bắt chước ông. Giám mục ngồi xuống một tảng đá và các ông già đứng trước mặt ông, nhìn kỹ miệng ông và lặp lại những chữ ông vừa nói. Giám mục dốc sức nhắc lại một chữ hai chục, ba chục, cả trăm lần, và các ông già lặp lại theo. Họ nói trật và ông sửa họ, và bắt họ lặp lại từ đầu.

    Giám mục không ngừng nghỉ cho đến khi họ thuộc nguyên cả kinh Lạy Cha, chẳng những họ có thể đọc theo ngài, mà họ còn tự đọc được một mình. Ông đứng giửa là người thuộc trước nhất, và có thể lặp lại nguyên bài kinh một mình. Giám mục bắt ông lặp đi lặp lại, và cuối cùng là cả 2 ông kia cũng đọc được.

    Trời bắt đầu tối, và trăng mọc rọi trên mặt nước khi Giám mục đứng dậy trở về thuyền. Khi ngài từ giả các cụ, tất cả cúi chào sát đất. Ngài đở các cụ lên, hôn từng người, và dặn các cụ cầu nguyện theo như ngài đã dạy. Và ngài lên thuyền trở về tàu.

    Khi ngài ngồi trên thuyền và thuyền được chèo trở về tàu, ngài nghe ba cụ lớn tiếng lặp lại kinh Lạy Cha. Khi thuyền đến gần tàu thì không còn nghe được giọng các cụ nữa, nhưng vẫn thấy được mặt các cụ dưới ánh trăng, giống như khi ngài rời đảo, ông lùn nhất đứng giửa, ông cao nhất bên phải và ông vừa người bên trái. Khi giám mục đến tàu và leo lên, tàu lập tức nhổ neo căng buồm. Gió thổi lộng, tàu rời bến, vị Giám mục lấy chiếc ghế ra ngồi ngay phía đuôi tàu và nhìn về hòn đảo. Có một lúc ông còn thấy các ẩn sĩ, nhưng bây giờ thì họ biến mất khỏi tầm nhìn, mặc dầu ông vẫn còn thấy hòn đảo. Cuối cùng hòn đảo cũng mất dáng, và chỉ còn mặt nước gợn sóng dưới ánh trăng.

    Các người hành hương đều đi ngủ và boong tàu thật im lặng. Giám mục không muốn ngủ, ông ngồi một mình ở đuôi tàu, chăm chăm nhìn biển và nghĩ đến các cụ già hiền lành. Ông nghĩ họ sung sướng biết bao khi học được kinh Lạy Cha, và ông tạ ơn Chúa đã đưa ông đến chỉ dạy và giúp cho người thật sùng đạo.

    Và ngài Giám mục ngồi, trầm ngâm suy nghĩ và nhìn chăm chăm ra biển nơi hòn đảo đã mất dạng. Ánh trăng lung linh trước mắt ngài, chập chờn rọi sáng những ngọn sóng.

    Đột ngột ông thấy một điểm trắng sáng, trên đường ánh trăng rọi. Phải chăng là một con hải âu, hay cánh buồm lập lòe của con thuyền nhỏ nào đó? Giám mục dán mắt nhìn chăm chú, và thắc mắc.

    ‘Có lẽ là một chiếc thuyền nhỏ đang đuổi theo tàu’, ngài nghĩ,
    ‘nhưng đang vượt rất nhanh. Từ xa, mà chỉ trong một phút, đã đến gần. Không thể là thuyền vì không thấy buồm; không biết là gì, nhưng nó đang theo tàu và sắp bắt kịp.’

    Và ông không thể nhận ra là vật gì. Không phải thuyền, không phải chim, hay cá. Nó to hơn hình dáng con người, vả lại nếu là người thì làm sao đi giửa biển. Giám mục đứng dậy và nói với người cầm lái:

    • ‘Nhìn kìa, vật gì đó anh bạn? Là gì vậy?’

    Giám mục lặp lại, nhưng bây giờ thì ông đã thấy rõ hình vật -- 3 cụ ẩn sĩ bay trên mặt nước, cả ba lấp lóe trắng, hàm râu bạc sáng chói, và đến gần tàu một cách nhanh chóng trước khi trời chưa sáng.

    Anh lái tàu nhìn khiếp đảm và bỏ tay lái,

    • ‘Trời ơi, các cụ ẩn sĩ rượt theo chúng ta trên mặt nước cũng như đang đi trên đất liền!’

    Hành khách nghe tiếng anh, nhảy dậy, và chen nhau ra đuôi tàu. Họ nhìn thấy các cụ ẩn sĩ chạy đến, nắm tay nhau, và 2 người ngoài bìa ra dấu cho tàu ngừng lại. Cả ba lướt trên mặt nước, chân bất động. Trước khi tàu dừng lại được, các cụ ẩn sĩ đã đến nơi, và cả ba ngẩng đầu, đồng thanh cất tiếng:

    • ‘Chúng tôi đã quên bài ngài dạy, hởi đày tớ Chúa. Khi chúng tôi lặp đi lặp lại thì chúng tôi nhớ, nhưng rồi không đọc chốc lát, chỉ quên một chữ thôi, thì tất cả tan biến đâu mất hết. Chúng tôi không còn nhớ gì hết. Xin dạy lại cho chúng tôi’.

    Giám mục làm dấu thánh giá, và nghiêng mình qua thành tàu, ông nói:

    • ‘Lời cầu nguyện riêng của các ông sẽ đến tai Thiên Chúa, hởi người của Chúa. Tôi không dạy được các ngài đâu. Xin cầu cho chúng tôi là những người tội lỗi.’

    Vị Giám mục cúi rạp người chào các cụ, và họ lướt biển quay trở về. Và một làn ánh sáng chiếu ở điểm họ mất dạng cho đến khi trời hừng đông.






    ______________________________________




    Nguyên tác : Tri Startsa, Leo Tolstoy, 1885
    Dịch bởi: Minh Tâm

              

              

    Leo Tolstoy__________
Trả lời

Quay về “của người”