Nguyễn Minh Bích: Từ Stealing Buddha’s Dinner đến Short Girl

Trả lời
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5428
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Nguyễn Minh Bích: Từ Stealing Buddha’s Dinner đến Short Girl

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           

    Nguyễn Minh Bích: Từ Stealing Buddha’s Dinner đến Short Girl





    Nguyễn Minh Bích là đại diện cho một luồng gió mới của các nhà văn nữ thế giới. Cô viết với văn phong của Isabel Allende, nhưng với ánh sáng soi rọi như hỏa châu rực rỡ từ Amy Tan, trong tác phẩm mới xuất bản đã tạo ra một công trình tốt đẹp về chân dung đời thường của một khuôn mặt phụ nữ trẻ trong một xã hội nhiều bi thảm và đời sống đã lựa chọn mà họ phải đối diện của người di dân sang sống ở một xứ sở đa văn hóa như Hoa Kỳ. Cũng như đời sống là tất cả những giây phút chiến đấu giữa những đối nghịch trong nội tâm, mà càng ngày càng tăng cường độ từ lúc khởi đầu. Cô đã tạo dựng những nhân vật mang vóc dáng của chính cô cũng như những người thân, là sự đi tìm kiếm một căn cước lý lịch cho chính mình. Lãng mạn, đầy cá tính, và yếu tố quan trọng nhất là gia đình đã là lực hút hấp dẫn độc giả vào những thông điệp mà tác giả muốn chuyên chở bằng chữ nghĩa và mô tả của mình. Ðằng sau những tác động vào tâm tư người đọc từ những kích động tâm não, cùng một lúc với những ẩn mật của tình yêu, của những nhận thức độc đáo đã làm người đọc chú mục vào trang sách từ lúc khởi đầu cho đến khi chấm dứt. Nguyễn Minh Bích là một tác giả nữ người Mỹ gốc Việt Nam có một vóc dáng nổi bật của một nhà văn vào dòng chính của văn hóa bản xứ, mà những nhánh chia của nhiều nền văn hóa đã hình thành một văn hóa đa nguyên phong phú. Có người nhận xét rằng đây là một tác phẩm lớn của những người di dân là một trong những yếu tố tạo thành một nền văn hóa hiện hữu đối với văn học thế hệ hiện đại trong xã hội Hoa Kỳ.




    Short Girls là tiểu thuyết có nét rất đặc thù của một nhà văn nữ sinh trưởng trong một gia đình tị nạn mà nhà xuất bản Viking Penguin Group vừa phát hành trong thời gian vừa qua. Những cuộc đời được phác họa lại, như một cách thế hồi sinh những mảng suy tưởng, những ý nghĩ của từng cá nhân trong một thế giới mà vòng quay của nó nhanh vô tả và trí nhớ nhiều khi không bắt gặp được vòng quay nhân sinh mù mịt ấy. Nhiều nhà phê bình đã viết những bài điểm sách giới thiệu khá nồng nhiệt tác phẩm này như các bài book review của nhật báo Los Angeles Times, của NewYork Times, của The Chicago Tribune, của Publishers Weekly, của Library Journal, của San Francisco Chronicle.. với những tên tuổi như Marion Winik, Conan Putnam, Margot Livesey, Laura Impellizzeri, Elisabeth Strout…

    Cuốn tiểu thuyết đầu tay này của Nguyễn Minh Bích quả đã có tiếng vang đáng kể với những feed-back trong giới cầm bút Hoa Kỳ. Sau khi đã xuất bản một cuốn hồi ký tự thuật về hành trình hội nhập vào dòng chính của mình qua cách ăn uống cũng như phong tục và cách sống “Stealing Buddha’s Dinner”, cuốn sách thứ hai này cũng được coi là một khám phá kỳ thú về bên trong nội tâm từ cuộc đời những người lập cuộc sống mới ở một xứ sở xa lạ.

    Chuyện kể về cuộc đời của hai chị em, Van và Linny Luong, tuy cùng sống và lớn lên trong một môi trường hoàn cảnh nhưng lại khác biệt về cách sống, sự suy nghĩ cũng như số phận riêng mỗi người. Tác giả đã chi tiết hóa những sự kiện cũng như những tính chất của từng cá nhân để tìm hiểu thấu đáo những phần ẩn mật ở sâu trong đời họ mà những di sản văn hóa cổ truyền không phải là không có những tác dụng và ảnh hưởng. Hai chị em đều thuộc thế hệ người Việt tị nạn thế hệ thứ hai và cùng lớn lên trong khung cảnh một nơi chốn của thành phố Grand Rapids tiểu bang Michigan. Van là một cô gái có vẻ thành đạt đã tốt nghiệp đại học, làm nghề luật sư về di trú và có cuộc hôn nhân bề ngoài rất lý tưởng nhưng ở bên trong là những thảm kịch ẩn khuất. Chồng Van là một hình ảnh đàn ông lý tưởng có học thức và đẹp trai người Mỹ gốc Trung Hoa là người bạn học với Van. Nhưng anh ta lại ngoại tình và đã bỏ rơi Van.

    Tác giả đã phác họa ra nhân vật Van với nhiều chi tiết có khi như đối nghịch nhau. Có khi cô là một luật sư, đại diện cho những người thấp cổ bé miệng và luôn luôn hướng vọng về sự công bằng trong cách ứng xử với mọi người trong xã hội. Nhưng, trong đời sống gia đình, cô lại là một người vợ thụ động và bị người chồng khống chế. Những chi tiết ấy xem ra làm giảm bớt sự thuyết phục độc giả. Với tâm tính ấy, với những công việc chuyên môn mà cô đã làm có nhiều khuyết điểm, thì nhân vật ấy khó có thể có tính chất của những nhân vật thành đạt.

    Còn Linny thì khác xa với Van, cô bỏ ngang những lớp đại học, đến Chicago làm việc trong một công ty biến chế thực phẩm và là một thành phần nổi loạn trong hôn nhân với những tiêu chuẩn đặt trên xúc cảm mà người bạn trai đã có với cô.

    Khi người cha, ông Ðinh Luong, một công nhân bất đắc dĩ, nhưng lại rất nhiệt thành với ý hướng thăng tiến trong cuộc sống của những người mà ông gọi là short people- những người lùn – ám chỉ những người di dân đến định cư ở xứ sở này. Người cha thường nhắc nhở hai người con gái Ðây là xứ sở của những người cao- tall people.” Trong gia đình họ Lương, sự lùn thấp là một chứng tích di truyền rõ rệt nhất.

    Và chính sự hạn chế về chiều cao này cũng là một sự hạn chế về đời sống của những người không phải là da trắng. Chiều cao từng người trong gia đình được đo trên vách tường của căn nhà ở vùng ngoại ô Michigan: ông Ðinh cao 5 feet 3; Van cao 5 feet 1/8; bà Lương cao 4 feet 11 ½, Linny cao 4 feet.

    Ông Ðinh Luong có mặc cảm về chiều cao của mình nên ông phí hàng giờ hàng ngày quanh quẩn trong nhà kho, để lắp ráp ra những vật dụng khá tủn mủn mà ông gọi là những sáng chế vĩ đại, mà có khi chỉ là cái cần cẩu nhỏ được đặt tên là “Lương Arm” chỉ dùng để nối dài cánh tay ngắn để kẹp gắp những vật dụng đặt trên kệ cao, một vật dụng xem ra không có tác dụng gì nhiều trong cuộc sống nhưng lại biểu lộ cái tính tự ty của một người thiếu thước tấc. Nguyễn Minh Bích đã dùng một ẩn tượng khá linh hoạt và một nhân vật cũng đặc biệt nhiều cá tính. Cô nêu lên nỗi ám ảnh của những người luôn luôn sống ở dười thấp kể cả về ngoại hình và cả đời sống, đầy mặc cảm về sự thua sút của mình. Họ muốn tự nâng cao cá nhân mình lên bằng cách này hay cách khác nhưng xem ra nỗ lực ấy nhiều khi đã tạo thành những phản động lực và đôi khi dìm sâu vào bi kịch với những người di dân muốn sống ngang hàng không mặc cảm với người bản xứ…

    Khi người cha loan báo tin mừng là ông được vào công dân Mỹ, thì cả gia đình tụ họp và hai cô con gái về thăm cha trong một buổi tiệc ăn mừng. Và ông muốn hai người con gái cùng xuất hiện với ông trong một cuộc họp mặt trên truyền hình ở Detroit. Ông nài nỉ hai người con gái cùng ông trình diễn sống động chương trình “Tomorrow’s Great Invention” là những khám phá lớn của ngày mai. Trong chương trình ấy, ông sẽ phác họa rõ ràng những khám phá của mình, như “Lương Arm”, như “Lương Eye”, như “Lương Wall”– là những vật dụng có mục đích hỗ trợ những người lùn “short people”. Cũng như từ đời sống hai đứa con gái của ông những gợi ý hầu có thể sống trong một thế giới có chiều hướng nâng cao hơn.Trong khi kể chuyện giữa những cuộc đối thoại giữa hai chị em, Van và Linny, họ đã xem xét lại những quan hệ bất toàn với nhau và cả với những người đàn ông bạn đời của họ. Ðây là một tiểu thuyết đầu tiên rất tình cảm đã bắt đầu mô tả nhiều hơn những nhận thức về cuộc sống và văn hóa của những người di dân mà mỗi người lùn – “short person”- cố gắng muốn nâng cao lên trong lúc hội nhập vào xã hội dòng chính ở Hoa Kỳ.

    Trong câu chuyện giữa họ, biểu lộ những tâm tình của những cuộc tìm kiếm khởi đi từ chính cuộc đời họ, văn hóa của dân tộc họ, và nghệ thuật truyền thống của đất nước họ. Trong việc tự nhìn ngắm lại chính mình, họ đã tự khám phá được những số phận cá nhân đã đeo đuổi và ảnh hưởng đến chính bản thân. Chương trình trên truyền hình đầy cảm tính ấy đã đánh động vào tâm thức con người rất lạc quan cho dù khởi đi từ những mất mát bất toàn- cuộc sống vẫn lừng lững mỗi ngày đi tới…

    Những truyền kỳ về người di dân muôn đời vẫn là những nguồn gốc được đổi mới, có lúc khát vọng muốn thay đổi để sáng tạo ra những tiếng nói mới, những chi tiết mới, những kinh nghiệm mới trong khi vẫn còn tồn tại những truyền thống cũ. Nơi nào mà chúng ta không kể tới ngoài hình dáng tự mãn nhưng lại đầy lo âu Augie March của Saul Bellow, hoặc những Portnoy’s Complaint trong thần kinh xung động của Philip Roth? Người Nga, người Ý, người Mễ Tây Cơ, người Somali,…tất cả đều hình thành những vai trò chính của thế hệ đầu tiên với trộn lẫn giữa năng lực và buồn nản, giữa xấu hổ và tự hào, giữa ao ước và phản kháng. Nguyễn Minh Bích là một phụ nữ Việt Nam người đã trải qua nhiều năm ở một thành phố Grand Rapids nơi mà người da trắng bảo thủ chiếm tuyệt đại đa số và giữ vai trò tuyệt đối chi phối cuộc sống. Cô đã viết hồi ký về khoảng thời gian thập niên 80 này. Cùng một thời gian ấy, cô đã mang đến những thay đổi hoàn toàn cá nhân để điều chỉnh lại những sự pha trộn văn hóa: với Philip Roth, nước Hoa kỳ có thể là một cô gái tóc bạch kim, nhưng với Nguyễn Minh Bích thì có thể là một cupcake của người chiêu đãi viên ở tiệm ăn.

    Với một ý niệm tuy không rõ nét lắm, tác giả muốn đi vào thực chất của sự kiện mà nhiều khi con người đã vì hoàn cảnh nào đó mà sống một cuộc sống không phải chính mình. Những nhân vật, sống những phận đời riêng, với mối tương quan lỏng lẻo, như muốn cuộn mình vào một thế giới riêng và thấm thía những ẩn mật của chính mình mà chẳng thể nào có sự thông cảm với người khác để chia sẻ.

    Từ những góc cạnh ngắm nhìn cuộc sống, những chi tiết bao quanh từng nhân vật có lúc phảng phất của tưởng tượng hư cấu nhưng cũng có lúc là những câu chuyện mà người đọc đã biết và hiểu rằng có thể là hiện thực trên trái đất này. Giữa thế hệ đi trước và thế hệ đi sau dường như có những điều thầm kín ngăn cách. Có thể đó là những cách nghĩ cách sống khác thường của người cha, nhưng cũng có thể là mồi tình gây ra sự bất an của Linny hay cuộc hôn nhân mà Van đã gắng hết sức mình để đóng một vai trò không thực.

    Những cảnh thổ, những môi trường sống cũng tạo ra một nét riêng cho tiểu thuyết của Nguyễn Minh Bích. Các nhà văn ở vùng ven biển Thái Bình Dương hay các nhà văn sống ở New York chắc chắn sẽ có đời sống khác, sinh hoạt khác, suy nghĩ khác với các nhà văn sống ở vùng dịa dư khác. Truyện của Nguyễn Minh Bích lấy khung cảnh là vùng Trung Tây mà thời trước nét đặc trưng là cuộc sống êm đềm của những vùng văn hóa ảnh hưởng nhiều từ tôn giáo. Nhưng, từ đời sống mà tác giả phác họa thì là sự thay đổi lớn lao. Sự êm đềm dường như giảm bớt đi và thay thế vào đó là những cảm giác vội vã của một nỗi bất an không tên của một cuộc sống mà nỗi phiền toái lúc nào cũng chập chờn bên cạnh.

    Dù họ thuộc thế hệ thứ nhất, một rưỡi hoặc thứ hai, nhưng cái tâm cảm của đất nước là nguồn gốc họ đã ảnh hưởng rất nhiều và đó cũng là một nét đặc biệt.

    Hồi ký này đã giải thích một cách rốt ráo về trường hợp một đứa trẻ tị nạn đã đối đầu với những xung đột văn hóa để tạo dựng một đời dống mới thích hơp hơn ở Hoa Kỳ.Chủ tâm khi viết hồi ký, cô muốn mang chính đời sống của chính bản thân mình để như một lăng kính phản chiếu lại một dữ kiện mà các nhà nghiên cứu xã hội phải quan tâm đến. Từ những tập quán, thói quen, từ những sở thích, ăn uống vui chơi, để phác họa một chặng đường hội nhập vào dòng chính của những người Mỹ gốc thiểu số. Nguyễn Minh Bích đã xác định căn cước của mình là người Mỹ gốc Việt Nam, cả trong lý lịch nhà văn và lý lịch đời thường.

    Viết tiểu thuyết, viết Short Girls, Nguyễn Minh Bích vẫn mang vào trong truyện những chi tiết của đời sống người tị nạn qua cách nhìn ngắm ít chủ quan hơn và có thêm vào nhiều hư cấu. Nhưng, tiểu thuyết này cũng là một ví dụ cho những trăn trở, những tìm kiếm của những người tị nạn Việt Nam. Cô đã dùng hình ảnh những “người lùn” để tượng trưng cho những nhân dáng bất toàn. Cả ba cha con, đều là những người thất bại trong cuộc sống. Cô chị, Van, cố gắng vớt vát một cuộc hôn nhân thất bại. Cô em, Linny, yêu người có gia đình và có tâm tính nổi loạn, một cuộc tình thất bại. Người cha, ông Lương Ðinh, cố gắng sáng tạo ra những phương cách để cải tiến đời sống những người lùn như mình nhưng xem ra chỉ là những công việc vụn vặt chẳng có tác dụng, một người sáng tạo thất bại. Căn bản gia đình, với những cuộc sống biệt lập của mỗi thành viên, cũng là một gia đình thất bại. Người cha, người chị, người em, đều cố gắng tìm kiếm một lối thoát để làm cho họ cao hơn, cả trong cả hai đời sống tinh thần và vật chất. Nhưng xem ra, những cố gắng ấy cũng là cố gắng thất bại. Họ rướn cao lên để có thêm một vài phân nhưng chiều cao ấy dường như chưa đủ để họ có thể mặc nhiên hòa mình vào cuộc sống ở dòng chính. Nỗ lực vẫn là nỗ lực, diện mạo, tâm cảm, chiều cao vẫn là của “người lùn” dù là thế hệ nào đi chăng nữa!

    Ðọc một tác phẩm của một phụ nữ Việt Nam viết về đề tài xoay quanh đời sống của người Việt Nam, chúng ta sẽ có cảm giác như thế nào? nhất là cuốn sách ấy đã được nhắc nhở và giới thiệu từ những nhà phê bình văn học có uy tín và những tờ báo có tầm vóc thế giới như New York Times, Los Anggeles Times, Chica go Tribune, USA Today, Boston Globe, San Francisco Cheonicle, Christian Science Monitor,…Với tôi là nỗi vui mừng và sự lạc quan. Nhưng cũng pha chút ngậm ngùi khi nghĩ đến những quan hệ với đất nước của những thế hệ người Mỹ gốc Việt của những thế hệ sau dần dần phai nhạt đi và bản sắc quê hương dân tộc sẽ chỉ là những bàng bạc không rõ nét. Nhưng làm sao được, chúng ta không thể nào đẩy ngược lại bánh xe đời sống. Huống chi, hôm nay, bây giờ, chúng ta vẫn phải chạy hoài chạy miết đến hụt hơi theo vòng quay nhân sinh xứ người trong cái tâm cảm của một người rượt đuổi theo để tìm bắt những điều tương tự như là hư không. Dù là thực tế, nhưng là một thực tế buồn…

    Riêng với người Việt Nam, chiến tranh đã có một dấu ấn không thể phai mờ. Ở thế hệ thứ nhất đã đành, mà cả ngay thế hệ một rưỡi hoặc thứ hai, bóng dáng của quá khứ, của một đất nước đã chia xa vẫn còn ảnh hưởng.

    “Stealing Buddha’s Dinner” của Nguyễn Minh Bích cũng là một trường hợp mà đất nước và đời sống Việt Nam đã có chỗ đứng rất quan trọng trong văn chương của những người tị nạn lớn lên và ảnh hưởng rất nặng từ văn hóa và giáo dục Hoa Kỳ.

    Tác phẩm của Nguyễn Minh Bích đã đoạt giải thưởng The PEN/ Jerard Fund Award. Ðây là một giải thưởng văn học nhằm vinh danh những công trình thuộc lãnh vực văn học được chọn lựa bởi đặc tính văn chương cao của những cây bút nữ giới. Giải thưởng này được điều hành bởi The New Yoek Community Trust.

    Một trong những giám khảo của giải, Lynne Tillman đã giới thiệu đại ý:

    “Chân thành, dịu dàng, tự nhiên, Stealing Buddha’s Dinner (Ăn trộm cơm Phật) viết bởi Nguyễn Minh Bích đả làm độc giả theo dõi chuyển động từ biến cố này tới hình ảnh khác. Bà nội của Bích đã cùng cả gia đình rời khỏi Việt nam để khởi đầu tất cả mọi sự ở một nơi chốn xa xôi như ở bên kia bờ đại dương từ năm 1975. Bích và gia đình thấm thía về sự va chạm văn hóa khá thô bạo ở Grands Rapids, Michigan, đã mô tả sự thực và hiển nhiên với sự tưởng tượng thuần khiết của người cầm bút. Trong thể tiểu thuyết và không tiểu thuyết, thực tại của tính chất đời sống ràng buộc nhau để cấu thành kinh nghiệm. Thời thơ ấu người di dân của gia đình Nguyễn là cộng hưởng của nhiều lãnh vực cũng như là biểu hiện của hai nền văn hóa với những va chạm về mùi vị, về tôn giáo, về kiểu cách của mái tóc, của trang phục, của nếp sống và đặc biệt nhất, món ăn. Như tác giả đã viết, bà nội cô đã mang nấm độc về trồng ở vườn sau nhà khiến hàng xóm kỳ thị xa lánh, là thực tại tuyệt đối nhưng cũng là vấn đề khó diễn tả bởi sự khác biệt của hai văn hóa Đông và Tây. Truyện truyền kỳ cấu thành văn hóa Mỹ Quốc là những câu chuyện về người di dân, và, với những công dân mới, đất nước tiếp tục chuyển đổi từ đó. Giống như, Nguyễn Minh Bích đã đồng nhất cái nhìn văn chương, âm vọng đổi mới và cay đắng, rao truyền lại và canh cải lại một đề tài đáng ngưỡng mộ.”

    Tại sao tác giả lại chọn nhan đề “Ăn trộm cơm Phật”? Một trong những ấn tượng của thời niên thiếu của cô là pho tượng Phật bằng đồng của bà nội cô được đặt trang trọng trên kệ tủ cao nhất của căn phòng, và trên đó chung quanh là đèn nhang và những hoa trái hay món ăn để cúng kiếng, và đó là một hình tượng đầy quyền năng nhưng lại là một hình tượng yên lặng. Cô ưa thích những tư tưởng của Phật Giáo, cô nhận thức rằng đó là những điều đáng tuân phục. Nhưng, trong thời gian giữa thập kỷ 1980 ở Grand Rapids – ảnh hưởng môi trường chung quanh thì không những đó là những điều đã tàn tạ và thậm chí còn là quê mùa và kệch cỡm nữa. Giáo lý về địa ngục thiên đường, về kiếp sau, về nơi chốn của thế giới bên kia quả thực là cực kỳ xa lạ với một cô bé. Thế mà hình ảnh pho tượng đức Phật có vai trò quan trọng trong việc cô bé phải chọn lựa giữa việc hoặc giữ gìn bản sắc dân tộc hoặc hội nhập vào cuộc sống và sinh hoạt của người da trắng. Cô cảm thấy bối rối thực sự khi muốn đi tìm một căn cước cho đời sống mình, là người Việt Nam hay người Mỹ. Và cảm thấy có khi mình đã ăn cắp một sở hữu tinh thần nào đó không thuộc về mình. Nhan đề của Stealing Buddha’s Dinner từ nguồn gốc của giây phút, khi bị phân vân trong ý tưởng sâu thẳm của tâm hồn, cô đã có những suy tưởng bất ngờ không thể nghĩ đến được là mình lấy cắp từ những tặng vật của Phật cho riêng cô. Hình ảnh bà nội cô và những món ăn cúng Phật trên bàn thờ là những níu kéo tâm thức cô trở về nguồn cội của mình. Cô như đang ở trong một xung đột văn hóa. Một bên là đời sống hiện tại, với bà kế mẫu, với những người chung quanh ở nhà, ở trường học luôn luôn kéo vào một cuộc sống như một người bản xứ chính hiệu. Một bên là bà nội, với những món ăn quê hương, với bàn thờ Phật gợi nhớ đến sự linh thiêng. Giằng kéo, xô đẩy, khiến cô phân vân. Và, như thế cô đã viết được những tiểu luận và hồi ký để trang trải tâm sự của mình.

    Khi Nguyễn Minh Bích cùng chồng lái xe từ North Carolina đến Washington DC, chợt nẩy ra ý viết một cuốn hồi ký. Từ ý tưởng ban đầu ấy, như những làn sóng lan ra xa, những mục tiêu mà cô thường nghĩ tới trong cuộc đời mình là đề tài về thực phẩm, về di dân, về về căn cước đời sống cũng như hồi tưởng về thời thơ ấu. Trong tiểu thuyết và thi ca, cô khó lòng viết một cách chân thành về những mảnh đời sống nho nhỏ, riêng tư. Ðiều đó thật đúng khi cô cố tâm viết về những món ăn trong hồi ký, những mô tả phải luôn giữ được sự trung thực của cuộc sống, để hiện thực được nét sống động khi đề cập đến những món đã ăn hoặc những món mà cô thèm muốn. Thực sự cô đã bỏ ra khá nhiều thời giờ để suy nghĩ về những món ăn của thời tuổi trẻ: ice cream, chả giò, bánh tôm, pizza, bánh kem,.. cũng như làm sao thể hiện thời thơ ấu của cô ở vùng ngoại ô Michigan, nơi chốn mà cô luôn nhắc nhở mình là một người ngoại quốc. Cũng như, ở đây một cô bé hàng xóm đã nói cô sẽ sa vào địa ngục vì không chịu theo đạo Baptish. Cô cũng hiểu rằng chẳng bao giờ mình sẽ thành một người Mỹ chính cống như mọi người khác nhưng cô đã quyết định phải tự mình thay đổi và cô muốn Anh Ngữ và phát âm của mình phải bằng hoặc hơn mọi người. Cũng như cô cũng ăn được tất cả những gì mà mọi người ăn, cũng như bà nội cô bỏ đi món canh đậu hũ và thay vào bằng lát bánh mì kẹp thịt.

    Cuốn sách cô viết cũng một phần là sự nhớ lại từ pho tượng Phật mà bà nội thờ trong phòng, và hồi tưởng lại thời kỳ mà cô cố tâm mà không thành công để trở thành một Phật tử. Thiên hồi ký còn ghi nhận thêm nhiều điều khác, tất cả có từ sự tìm kiếm nguồn gốc căn cước qua thức ăn, qua âm nhạc hoặc truyền hình. Tất cả xuất hiện trong ý định làm rõ ràng hơn nguồn gốc văn hóa của cô. Cô luôn là một người háu ăn, luôn đói bụng và đi tìm kiếm nguồn gốc mình trong món ăn. Viết một cuốn hồi ký như thế, như là một cách ăn ngấu nghiến những món khoái khẩu.

    Cô tìm tòi được rằng cô có thể viết hồi ký những gì mà cô không thể xử dụng thích ứng một cách hoàn toàn trong tiểu thuyết hoặc thi ca. Như gia đình cô đã rời khỏi Việt Nam ngày 29 tháng 4 năm 1975 thế nào cũng như cô rời bỏ người mẹ ruột ra sao. Hay gia đình cô đã định cư để tham gia vào cuộc sống ở Grand Rapids, một nơi mà tư tưởng mọi người khá thủ cựu và giáo điều. Hoặc cô nghĩ về người cha tóc vương đầy lông sau mỗi ca làm ở hãng nhồi lông nệm, luôn nhậu nhẹt và cờ bạc với mấy người bạn đồng hương. Cũng như cô nghĩ về người mẹ kế người Mễ cùng với những người con gia nhập vào gia đình bé nhỏ và làm thay đổi đến tận gốc rễ nếp sinh hoạt thường ngày. Cô không muốn dấu diếm bất cứ một điều gì như trong tiểu thuyết hoặc thi ca, nên viết hồi ký. Viết hồi ký trong tâm thức của một người hiểu được giá trị của sự thực và sự trung thực với chính mình, nên sự thành thật đã là một thành tố quan trọng.

    Bắt đầu từ chuyện gia đình cô bé rời khỏi Sài Gòn năm 1975, Stealing Buddha’s Dinner cũng là chân dung của những người trong gia đình bé nhỏ này. Người cha, siêng năng. Người chị, tên Anh, dễ thương. Bà nội, rộng rãi, thương yêu con cháu. Người mẹ kế, Rosa, người gốc Latina, là giáo viên dạy Anh Ngữ cho những người ngoại quốc, đã gây nhiều thay đổi trong sinh hoạt gia đình. Và thêm vào là hình bóng của người mẹ đẻ ra Bích, thất lạc sau khi gia đình di tản. Trong hồi ký, có bi thảm nhưng có những cảm tính dịu dàng, có những suy tưởng sâu sắc nhưng cũng có những nhận định từ sự quan sát thoáng qua, Stealing Buddha’s Dinner có một cái nhìn nhất quán về một trường hợp di dân, với sự đi truy tìm nguồn gốc chính mình.

    Tác giả nói về trường hợp sáng tác hồi ký này:

    “Là người Mỹ gốc Việt sống ở Grand Rapids, tuổi ấu thơ của tôi gói tròn trong ý nghĩa của cảm giác bị cô lập. Tôi rời Sài Gòn khi vừa 8 tháng tuổi, lẽ ra thì thuộc thế hệ di dân thứ nhất nhưng lại có những kinh nghiệm của thế hệ di dân thứ hai. Như tôi ước chừng mình thuộc thế hệ ở giữa, trước tôi chẳng có một chút ảnh hưởng nào của những thế hệ già hơn tôi, và tôi chỉ có những cảm giác của người di dân không liên tục và thay đổi khi sống trong một thành phố mà người da trắng đã làm chủ tất cả sinh hoạt đã thành nếp từ lâu đời. Thành ra, kinh nghiệm của tôi khác với những người Việt lớn lên và sống ở những nơi như Little Sài Gòn hoặc những thành phố vùng West Coast đã khai sinh ra những cộng đồng người Mỹ gốc Việt. Tôi chẳng hiểu nếu tôi sống ở đó thì tâm trạng của mình sẽ ra sao. Có phải cảm nhận của một người từ môi trường bên ngoài đã dẫn dắt ngòi bút hay là những cảm giác thiên phú tạo nên? Người cầm bút luôn luôn viết từ thế giới bên ngoài, họ là chứng nhân và cũng là người quan sát. Họ không bao giờ có khuynh hướng lẩn khuất vào bên trong. Họ chỉ “out” chứ không “in”. Trong tình trạnh ấy, lớn lên ở một nơi chốn dễ dàng có nhiều chi tiết để khai triển cho một người cầm bút. Nhưng ở mặt khác, nó đẩy tôi vào tình trạng không thoải mái, cũng như bắt tôi phải luôn luôn chăm chăm quan sát nhìn ngắm để cảnh giác, để kinh ngạc.”

    Với những người tị nạn như gia đình Bích, Sài Gòn và Grand Rapids đã liên hệ với nhau như ngày và đêm. Một nơi, của hoảng loạn, dù là quê hương, nhưng vừa rời bỏ sau khi chế độ Cộng Hòa sụp đổ và khói lử sẽ đe dọa tàn phá cả thành phố ấy. Ở đó, còn lại người mẹ bị thất lạc. Một nơi, thành phố lạ, mà phần đông cư dân là người Mỹ trắng gốc Ðức và theo đạo Christian, rất bảo thủ và ngoan đạo. Họ đến định cư ở đó, tạo dựng cuộc sống, Người cha đi làm. Bà nội ở nhà nấu ăn và coi sóc hai chị em, Anh và Bích. Cuộc sống tiếp diễn với đời sống nhiều thay đổi. Ở nhà, ở trường học, chị em Anh và Bích phải tập tành theo một lối sống của những người bản xứ. Phải ăn, nói, giải trí, nghe nhạc, xem truyền hình, đọc sách như người bản xứ. Và như thế, cái căn cước tị nạn với đất nước dần dần xa xôi lu mờ đi. Nhưng có một điều, ngay chính Bích cố công như vậy mà cũng ngầm hiểu rằng chẳng bao giờ mình trở thành một người bản xứ chính hiệu. Có lẽ, đó là tình trạng chung của những di dân, của những người Mỹ gốc Việt, gốc Trung Hoa, gốc Ðại Hàn, gốc Châu Phi… Sự va chạm văn hóa ngấm ngầm đã tạo thành một đời sống khác biệt, nó ở giữa nền văn hóa bản xứ và nền văn hóa của quê xa.

    Tập hồi ký ghi chép lại từng ngày tháng với giọng văn lẫn lộn giữa hài hước và những ghi nhận bình thường hàng ngày. Tác giả phác họa chân dung đời sống của một cô bé tị nạn Ðông Dương sống ở miền Trung Tây Hoa Kỳ vào thập niên 80. Những chi tiết được kể lại dù chỉ là của một cá nhân nhưng lại có tính chất chung của nhiều người. Là giáo sư dạy môn sáng tác văn chương Anh ngữ tại đại học Purdue nên Bích đã rất cẩn trọng để tạo thành một văn phong giản dị trong sáng nhưng nhiều âm điệu. Ngôn ngữ của “Stealing Buddha’s Dinner” là ngôn ngữ kể chuyện, được tạo dựng bằng những hình ảnh và nhân vật điển hình, có chất bàng bạc của ký ức không thể nào quên của một đời người.

    Khi thơ ấu, Bích có vẻ khác lạ so với những trẻ cùng trang lứa trong trường. Cô có vẻ nhút nhát trong khi cô chị thì dạn dĩ và dễ thương. Khi Bích đến tuổi vào trường thì người cha tái hôn với một người đàn bà Mỹ gốc Mễ và bà này đã làm thay đổi cả sinh hoạt của gia đình. Rosa dạy dỗ hai chị em thế nào là nếp sống văn hóa của một gia đình Hoa kỳ da trắng xứ Trung Tây.

    Nhân vật bà nội được Bích mô tả với sự kính mến và thương cảm. Bà nội tượng trưng cho những lớp tổ tiên của tầng lớp di dân. Bà thờ Phật và cúng những người đã chết và nấu những món ăn cổ truyền cho cả gia đình. Tượng Phật được tác giả xử dụng như một hình tượng tiêu biểu, nó nhắc nhở đến đời sống tâm linh ở quê nhà. Bà nội đã chiên những bánh tôm, đã nấu những tô phở nóng hổi hay nồi canh cá ngon lành, nhưng cô bé vẫn thích mang trong lunch box đến trường những món mà cô gọi là “real food”, những món ăn mà các học sinh quen thuộc.

    Một chương sách khá độc đáo là tác giả viết về sự tìm kiếm người mẹ bị thất lạc từ biến cố hoảng loạn năm 1975 ở Sài Gòn. Câu chuyện về bà mẹ này là một bí mật được giữ trong gia đình suốt bao năm trời và chẳng ai muốn nhắc đến sự kiện ấy. Cô được biết bà vẫn còn sống và hiện đang ở Pennsylvania. Là một sinh viên đại học, Bích không muốn nhớ lại quá khứ của gia đình, dù đã hiểu biết được sự thật, đã trôi qua và cô đã né tránh sự gặp gỡ mẹ cô trong một thời gian dài. Nhưng tính hiếu kỳ đã thắng làm cô tìm đến. Cuộc gặp gỡ và cuộc về thăm Việt Nam lần đầu đã làm độc giả thấy được tâm cảm của người viết. Người mẹ đã trải qua những cảnh đoạn trường tại Việt Nam sau ngày bị thất lạc gia đình tại phi trường và người con lúc ấy mới hiểu được những ẩn tình mà cả gia đình cố dấu kín và quên đi.

    Hồi ký của Nguyễn Minh Bích đã giải thích một cách rốt ráo về trường hợp một đứa trẻ tị nạn đã đối đầu với những xung đột văn hóa cố gắng tạo dựng một đời sống mới tại Hoa Kỳ. Viết hồi ký, cô muốn nêu ra một trường hợp của chính bản thân mình, với cả những tập quán, thói quen, sở thích, ăn uống, vui chơi trong tiến trình hội nhập vào dòng chính của những người Mỹ gốc thiểu số. Cô muốn xác định căn cước của mình là một người Mỹ gốc Việt Nam và, cũng là một người cầm bút với lý lịch như thế.

    Viết tiểu thuyết thì cô có cảm giác thoải mái hơn viết hồi ký hoặc những bài essay. Cô được quyền tự do sắp xếp những “sự thực” và có thể chọn lựa những chi tiết cho tiểu thuyết của mình. Cô tìm kiếm rằng đề tài chính mà mình muốn khai triển phải ở tầm mức có khuynh hướng đi về phía trước và nêu ra được một vấn đề cần phải suy nghĩ hoặc bàn cãi.

    Ðọc một cuốn sách của một người Việt Nam viết về một đề tài của người Việt Nam, được rất nhiều tờ báo lớn và uy tín của Hoa Kỳ giới thiệu như New York Times, Los Angeles Times, Chicago Tribune, USA Today, Boston Globe, San Francisco Chronicle, Christian Science Monitor,.. độc giả sẽ nghĩ gì? Riêng tôi, là một vui mừng và lạc quan. Dù đôi khi cũng có chút ngậm ngùi khi nghĩ về những quan hệ của những thế hệ Việt Nam về sau dần dần sẽ phai nhạt đi bản sắc của quê hương. Nhưng làm sao được, khi đời sống cứ đẩy mãi để chúng ta phải chạy mãi chạy hoài như rượt đuổi một điều gì tuy là hư không nhưng vẫn là một thực tế hiển hiện trước mắt…


    Nguyễn Mạnh Trinh


    Nguồn:http://vietluan.com.au


              
Trả lời

Quay về “Nguyễn mạnh Trinh”