- 30/04/2017 - tưởng niệm 42 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Trả lời
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20017
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

người Việt Quốc Gia - Montreal, Canada - tưởng niệm ngày Quốc Hận 2017

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          

          
Last edited by Hoàng Vân on Thứ tư 05/04/17 21:26, edited 1 time in total.
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20017
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Cộng đồng người Việt Oklahoma tưởng niệm ngày Quốc Hận 2017

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          

          
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5388
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: - 30/04/2017 - tưởng niệm 42 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           

    Tháng Tư: Gọi Tên Cuộc Chiến





    Giáo sư Drew Gilpin Faust, Viện trưởng Viện Đại Học Harvard viếng thăm Đại học Fulbright Việt Nam. Nhân dịp này bà đọc một diễn văn tại Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn. Phần khá dài của diễn văn, bà dành để nói về Chiến tranh Việt Nam, nội chiến Hoa Kỳ và hòa giải Nam Bắc Mỹ.

    Trong suốt diễn văn bà Drew Faust không hề nhắc đến sự chịu đựng của người dân miền Nam Việt Nam hay nhắc đến Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), chính phủ đại diện cho hơn một nửa dân số Việt Nam ngày đó.

    Người viết không nghĩ bà dè dặt hay không muốn làm buồn lòng quốc gia chủ nhà. Nhưng giống như một số khá đông các trí thức Mỹ trước đây, sau 44 năm từ khi các đơn vị trực tiếp chiến đấu Mỹ rút khỏi Việt Nam vào tháng Ba năm 1973, bà vẫn chưa nhìn sâu được vào bản chất của cuộc Chiến tranh Việt Nam.

    Việt Nam trong diễn văn của bà Drew Faust là Cộng Sản Việt Nam.

    Bà Drew Faust không hiểu được trên con đường Việt Nam đầy máu nhuộm chạy dài suốt 158 năm, từ khi viên đại bác của Rigault de Genouilly bắn vào Sơn Chà, Đà Nẵng sáng ngày 1 tháng 9, 1859 cho tới hôm nay, nhiều triệu người Việt đã hy sinh vì độc lập tự do dân tộc. Đảng CS là một nhóm rất nhỏ, và chỉ ra đời vào tháng 3, 1930. Cộng Sản thắng chỉ vì họ có mục đích thống trị rõ ràng, dứt khoát, kiên trì và bất chấp mọi phương tiện để hoàn thành mục tiêu đã vạch ra.

    Bà Drew Faust là người học nhiều, hiểu rộng. Chắc chắn điều đó đúng. Nhưng nghe một câu chuyện và cảm thông với những nạn nhân trong câu chuyện là một chuyện khác. Ngôn ngữ không diễn tả được hết nỗi đau và đôi mắt thường không thấy được những vỡ nát bên trong một vết thương.

    Chính sử vẫn còn sống, vẫn chảy nhưng chỉ được hiểu bằng nhận thức khách quan, tinh tế, chia sẻ với những tầng lớp người đang chịu đựng thay vì đứng về phía giới cầm quyền cai trị.

    Là một sử gia, bà biết lịch sử được viết bởi kẻ cưỡng đoạt không phải là chính sử. Chính sử vẫn còn sống, vẫn chảy nhưng chỉ được hiểu bằng nhận thức khách quan, tinh tế, chia sẻ với những tầng lớp người đang chịu đựng thay vì đứng về phía giới cầm quyền cai trị.

    Một ví dụ về chính sử. Năm 1949 tại Trung Cộng, trong cuộc bỏ phiếu bầu chức vụ Chủ tịch Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, Mao tin tưởng tuyệt đối 547 đại biểu sẽ bỏ phiếu cho ông ta. Không, chỉ có 546 người bỏ phiếu thuận, nhà nghiên cứu triết học Zhang Dongsun bỏ phiếu chống lại Mao. Ông bị đày đọa và chết trong tù nhưng lịch sử Trung Hoa ngày sau sẽ nhớ đến ông như một người viết chính sử Trung Hoa.

    Việt Nam cũng thế. Chính sử vẫn đang được viết không phải từ những người đang đón tiếp bà mà bằng những người đang ngồi trong tù, đang bị hành hạ, đày ải, trấn áp dưới nhiều hình thức. Khát vọng độc lập, tự do, từ những ngày đầu tháng 9, 1859 ở Cẩm Lệ, Quảng Nam, nơi máu của Đô Thống Lê Đình Lý chảy xuống cho đến hôm nay, vẫn cùng một dòng và chưa hề gián đoạn.

    Nhân dịp tháng Tư năm 2017, người viết xin phân tích một số định nghĩa về nội dung của cuộc Chiến tranh Việt Nam.

    Chiến tranh Việt Nam là Chiến tranh Ủy nhiệm (Proxy War)?

    Chiến tranh ủy nhiệm (Proxy War) là cuộc chiến tranh mà các quốc gia bên ngoài, thường là cường quốc, không tham gia trực tiếp cuộc chiến nhưng qua hình thức cung cấp võ khí, tài chánh cho các phe cánh, lực lượng trong quốc gia đó đánh nhau vì quyền lợi riêng của các phe nhóm này nhưng cũng tương hợp với quyền lợi của nước bên ngoài.

    Chiến tranh đang diễn ra tại Syria thường được báo chí gọi là chiến tranh ủy nhiệm. Mỹ, Nga, Iran, Thổ, Anh, Pháp, Saudi Arabia và Qatar góp phần tàn phá Syria khi yểm trợ cho các phe nhóm, nhiều khi bất cần hành vi khủng bố của các phe nhóm này, để tranh giành ảnh hưởng và tài nguyên của vùng Trung Đông.

    Không ít báo chí quốc tế và nhà nghiên cứu Chiến tranh Lạnh gọi chiến tranh Việt Nam trước khi Mỹ đổ bộ vào tháng Năm, 1965, là chiến tranh ủy nhiệm, trong đó Trung Cộng, Liên Xô một bên, Mỹ và đồng minh một bên.

    Định nghĩa chiến tranh Việt Nam là chiến tranh ủy nhiệm chỉ đúng khi nhìn cuộc chiến từ quan điểm đế quốc dù là Mỹ, Liên Xô hay Trung Cộng chứ không phải từ vết thương, từ vị trí của nạn nhân buộc phải chiến đấu để sống còn như dân và quân miền Nam Việt Nam.

    Như có lần người viết dẫn chứng, một người lính nghĩa quân gác chiếc cầu ở đầu làng để mấy anh du kích khỏi về giựt sập cũng là một biểu hiện hùng hồn của lý tưởng tự do và chủ quyền. Chiếc cầu là huyết mạch kinh tế của làng, là trục giao thông chính của làng, là vẻ đẹp của làng, và bảo vệ chiếc cầu là nhiệm vụ sống còn mà người lính nghĩa quân phải làm cho bằng được.

    Không ai “ủy nhiệm” anh lính Nghĩa Quân cả. Anh không bảo vệ chiếc cầu giùm cho Mỹ mà cho chính anh và bà con trong thôn xóm của anh. Lý tưởng tự do của một dân tộc dù thiêng liêng vĩ đại bao nhiêu cũng bắt nguồn từ những hình ảnh nhỏ nhoi nhưng đầy ý nghĩa đó.

    Trong phần lớn chiều dài của cuộc chiến, quyền lợi của Mỹ ở Đông Nam Á và quyền lợi của VNCH tương hợp. VNCH đã nhận hầu hết viện trợ quân sự của Mỹ kể cả nhân lực nhưng không đánh thuê cho Mỹ như CS tuyên truyền.

    Sau Thông Cáo Chung Thượng Hải năm 1972 và Hiệp Định Paris năm 1973, chính sách của Mỹ tại Đông Nam Á thay đổi, quyền lợi VNCH và Mỹ do đó không còn tương hợp nữa. Mỹ rút quân và cắt giảm viện trợ quân sự quá chênh lệch so với nguồn viện trợ quân sự CSVN nhận từ Liên Xô, Trung Cộng và phong trào CS Quốc Tế.

    Cho dù cạn kiệt nguồn cung cấp, quân và dân VNCH vẫn chiến đấu và hy sinh cho tự do của họ, không phải chỉ sau Hiệp định Paris 1973, không phải đến ngày 30-4-1975 mà cả sau 30-4-1975, hôm nay và cho đến khi chế độ CS còn hiện diện tại Việt Nam.

    Chiến tranh Việt Nam là Nội chiến (Civil War)?

    Nhiều người chỉ nhìn vào mái tóc, màu da, khuôn mặt, chủng tộc, dòng máu và kết luận chiến tranh Việt Nam là nội chiến. Thật ra, mái tóc, màu da, khuôn mặt, dòng máu chỉ là hình thức.

    Thế nào là nội chiến?

    Theo các định nghĩa chính trị học, Nội chiến (Civil War) là cuộc chiến tranh giữa hai thành phần có tổ chức trong cùng một quốc gia vốn trước đó thống nhất, mục đích của một bên là chiếm đoạt bên kia để hoàn thành ý định chinh phục lãnh thổ hay thay đổi chính sách nhưng không thay đổi thể chế.

    Theo định nghĩa này, chiến tranh Nam-Bắc Mỹ là nội chiến, hoặc xung đột võ trang giữa chính phủ da trắng và Nghị Hội Toàn Quốc Nam Phi (African National Congress) gọi tắt là ANC chống chính sách Phân biệt Chủng tộc tại Nam Phi là nội chiến.

    Bắc Mỹ dưới sự lãnh đạo của TT Abraham Lincoln thắng cuộc nội chiến Mỹ nhưng chỉ thay đổi chính sách nô lệ, trong lúc cơ chế chính trị và chính phủ cấp tiểu bang gần như không thay đổi nhiều.

    Tại Nam Phi cũng vậy. Sau cuộc đấu tranh dài dưới nhiều hình thức, cuối cùng ANC đã thắng nhưng cũng chỉ hủy bỏ chính sách Phân Biệt Chủng Tộc (Apartheid) tại Cộng Hòa Nam Phi nhưng không xóa bỏ nền kinh tế thị trường tư hữu. Không chỉ cựu Tổng thống de Klerk trở thành cố vấn của TT Nelson Madela trong suốt nhiệm kỳ mà nhiều viên chức trong chính phủ của de Klerk, các tư lịnh quân binh chủng, lực lượng cảnh sát quốc gia đều tiếp tục nhiệm vụ của họ.

    Sau Hiệp định Geneva 1954, Việt Nam Cộng Hòa không có ý định chiếm đoạt lãnh thổ miền Bắc hay lật đổ cơ chế CS miền Bắc. Chính phủ và nhân dân VNCH hoàn toàn không muốn chiến tranh. Sau một trăm năm chịu đựng không biết bao nhiêu đau khổ dưới ách thực dân, mục đích trước mắt của nhân dân miền Nam là có được cơm no, áo ấm, có được cuộc sống tự do và xây dựng miền Nam thành một nước cộng hòa hiện đại.

    • Giấc mơ tươi đẹp của nhân dân miền Nam đã bị ý thức hệ CS với vũ khí của Liên Xô, Trung Cộng tàn phá vào buổi sáng 30-4-1975.


    Sau khi VNCH bị cưỡng chiếm, đảng CSVN không phải chỉ thay đổi về chính sách như trường hợp Mỹ hay Nam Phi mà thay đổi toàn bộ cơ chế. Nói theo lý luận CS đó là sự thay đổi tận gốc rễ từ thượng tầng kiến trúc chính trị đến hạ tầng cơ sở kinh tế bằng các phương pháp dã man không thua kém Hitler, Mao, Stalin.

    Do đó, gọi chiến tranh Việt Nam là nội chiến chỉ đúng về hình thức, nội dung vẫn là chiến tranh của các chính phủ và nhân dân miền Nam chống ý thức hệ CS xâm lược.

    Chiến tranh Việt Nam là “Chiến tranh chống Mỹ Cứu Nước”?

    Stalin, trong buổi họp với Mao và Hồ Chí Minh tại Moscow giữa tháng Hai, 1950 đã phó thác sinh mạng CSVN vào tay Trung Cộng. Theo William J. Duiker trong Ho Chi Minh: A Life, Stalin nói với Hồ Chí Minh tại Moscow “Từ bây giờ về sau, các đồng chí có thể tin tưởng vào sự giúp đỡ của Liên Xô, đặc biệt hiện nay sau thời kỳ chiến tranh, thặng dư của chúng tôi còn rất nhiều, và chúng tôi sẽ chuyển đến các đồng chí qua ngả Trung Quốc. Tuy nhiên vì điều kiện thiên nhiên, chính yếu vẫn là Trung Quốc sẽ giúp đỡ các đồng chí. Những gì Trung Quốc thiếu chúng tôi sẽ cung cấp.” Sau đó tới phiên Mao, y cũng lần nữa xác định với Hồ “Bất cứ những gì Trung Quốc có mà Viêt Nam cần, chúng tôi sẽ cung cấp.”

    Theo Trương Quảng Hoa trong Hồi ký của những người trong cuộc, Hồ Chí Minh thưa với Mao trên xe lửa từ Liên Xô về Trung Cộng “Mao Chủ tịch, Stalin không chuẩn bị viện trợ trực tiếp cho chúng tôi, cũng không ký hiệp ước với chúng tôi, cuộc chiến tranh chống Pháp từ nay về sau chỉ có thể dựa vào viện trợ của Trung Quốc.”

    CSVN hoàn toàn lệ thuộc vào Trung Cộng, không chỉ phương tiện chiến tranh, kinh tế, quốc phòng, hệ ý thức, cơ sở lý luận mà cả cách nói, cách ăn mặc, cách chào hỏi. Mao gần như đơn phương quyết định mọi hoạt động quân sự của Việt Minh kể cả việc chọn ngày, chọn tháng cần phải chiếm Điện Biên Phủ.

    Sau xung đột Eo Biển Đài Loan, và trầm trọng hơn, sau chiến tranh Triều Tiên với gần 400 ngàn quân Trung Cộng bị giết, trong số đó có Mao Ngạn Anh (Mao Anying), con trai trưởng và gần gũi nhất của Mao, từ đó kẻ thù lớn nhất của Mao Trạch Đông là Mỹ. Mao chỉ thị toàn bộ bộ máy tuyên truyền tại Trung Cộng phải chống Mỹ bằng mọi giá. Chống Mỹ từ xa, chống Mỹ ở gần, chống Mỹ trong lý luận, chống Mỹ trong thực tế, chống Mỹ khi có mặt Mỹ và chống Mỹ khi không có mặt Mỹ.

    Tuân lệnh Mao, trong Hội nghị Lần thứ Sáu của Trung ương Đảng CSVN từ ngày 15 đến 17 tháng 7 năm 1954, Hồ Chí Minh và Bộ chính trị đảng CSVN đã nghĩ đến chuyện đánh Mỹ: “Hiện nay đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân thế giới và nó đang trở thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Đông Dương, cho nên mọi việc của ta đều nhằm chống đế quốc Mỹ.”

    Khẩu hiệu “Chống Mỹ cứu nước” được thai nghén từ quan điểm và thời điểm này.

    Nhưng “nước” trong khẩu hiệu “Chống Mỹ cứu nước” phải hiểu là nước Tàu chứ không phải nước Việt, lý do trong thời điểm này chưa có một người lính hay một cố vấn Mỹ nào ở Việt Nam. Hôm đó, ngay cả Hiệp định Geneva 1954 cũng còn chưa ký.

    Với chỉ thị của Mao và kiên trì với mục đích CS hóa Việt Nam đề ra từ 1930, vào tháng 5, 1959, Ban Chấp hành Trung ương đảng Lao Động sau khi biết rằng việc chiếm miền Nam bằng phương tiện chính trị không thành, đã quyết định đánh chiếm miền Nam bằng võ lực dù phải “đốt cháy cả dãy Trường Sơn” như Hồ Chí Minh đã nói. Gần hết đồng bào miền Bắc bị đảng lừa vào cuộc chiến “giải phóng dân tộc” và hàng triệu người đã uống phải viên thuốc độc bọc đường “chống Mỹ cứu nước” nên bỏ thây trên khắp hai miền.

    Lý luận chính phủ VNCH không thực thi “thống nhất đất nước” theo tinh thần Hiệp định Geneva chỉ là cái cớ tuyên truyền.

    Thực tế chính trị thế giới của giai đoạn sau Thế Chiến thứ Hai là thực tế phân cực và sự chọn lựa của thời đại là chọn lựa giữa ý thức hệ Quốc gia và Cộng sản. Không chỉ các quốc gia bị phân chia như Nam Hàn, Tây Đức mà cả các quốc gia không bị phân chia như Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ v.v… cũng chọn thế đứng dân chủ Tây Phương để làm bàn đạp phát triển đất nước.

    Giả sử, nếu có bầu cử để “thống nhất đất nước” và đảng CS thua, liệu họ sẽ giải nhiệm các cấp chính trị viên và sáp nhập vào quân đội quốc gia, giải tán bộ máy công an chìm nổi, đóng cửa các cơ quan tuyên truyền, từ chức khỏi tất cả chức vụ điều hành đất nước? Trừ phi mặt trời mọc ở hướng tây và lặn ở hướng đông điều đó không bao giờ xảy ra.

    • “Trên trời có đám mây xanh,
      Ở giữa mây trắng chung quanh mây vàng…”


    Câu ca dao quen thuộc mà ai cũng biết. Đó là chưa kể đến mây xám, mây đen, mây hồng, mây tím trong thơ và nhạc. Nhưng mây màu gì? Mây thực sự chỉ là màu trắng. Màu mây thay đổi do ánh nắng mặt trời tùy theo mỗi khoảnh khắc trong ngày.

    Cuộc chiến Việt Nam cũng vậy. Tên gọi của cuộc chiến khác nhau tùy theo quan điểm, góc nhìn, quyền lợi và mục đích, nhưng với nhân dân miền Nam, đó chỉ là cuộc chiến tự vệ của những người Việt yêu tự do dân chủ chống lại ý thức hệ CS độc tài toàn trị xâm lược. Không thấy rõ bản chất xâm lược của ý thức hệ CS sẽ khó có thể chọn con đường đúng để phục hưng Việt Nam.


    Trần Trung Đạo
    Tháng 4, 2017

    Nguồn:http://thoibao.com/thang-tu-goi-ten-cuo ... hoibao.com

              
Last edited by Hoàng Vân on Thứ năm 20/04/17 07:20, edited 1 time in total.
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5388
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: - 30/04/2017 - tưởng niệm 42 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Bài viết bởi Bạch Vân »

          



Tháng tư đen, nhớ điệu ru bolero của Mẹ.
Tranh Babui.

          
Last edited by Hoàng Vân on Thứ năm 20/04/17 07:19, edited 1 time in total.
Hình đại diện
thiên thanh
Bài viết: 1352
Ngày tham gia: Thứ năm 14/05/15 11:49
Nơi ở: Phố Cổ

Re: - 30/04/2017 - tưởng niệm 42 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Bài viết bởi thiên thanh »

  •           


    ĐẠI HỌC CHIẾN TRANH CHÍNH TRỊ “DI TẢN”

    Đại tá Nguyễn Quốc Quỳnh, Chỉ Huy Trưởng Trường Đại Học CTCT Đà Lạt



    • Đại tá Nguyễn Quốc Quỳnh, trong tư cách cựu Chỉ huy trưởng trường Đại Học CTCT Đà Lạt, năm 2002, đã viết bài hồi ký sau đây kể lại cuộc di tản của hai Quân trường Đà Lạt (Võ Bị và CTCT) và Tiểu khu Tuyên Đức, vào cuối tháng 3, 1975. Bài đã được đăng trong Đặc san Ức Trai (Tổng Hội ĐH/CTCT) số Đặc Biệt 30-4 năm 2002. Nhân kỷ niệm ngày Quốc Hận năm nay, chúng tôi hân hạnh được giới thiệu cùng quý độc giả bài hồi ký do Đại tá Nguyễn Quốc Quỳnh viết đã mười lăm năm.



    Chỉ còn vài ngày nữa là Tết Nhâm Ngọ 2002 khi tôi viết về cuộc hành quân “di tản” Đại Học CTCT, quân trường rất quý mến, tôi được vinh dự chỉ huy, tái phối trí từ Đà Lạt (31/3/75) về Vùng 3 Chiến Thuật (V3CT), Tam Hiệp (8/4/75), Sài Gòn (29/4/75). Thấm thoát đã 27 mùa xuân, sắp bước sang một Xuân mới.

    Dùng từ “di tản” trong ngoặc kép tôi muốn bày tỏ ý kiến riêng, “di tản” là cách nói miệng, không phải từ ngữ trong lệnh chuyển quân, nhưng là lối nói phổ biến trong truyền thông, báo chí của thời điểm QLVNCH buông súng chống Cộng. Buông súng vì đồng minh phản bội: thỏa hiệp ngầm với kẻ thù, rút quân, cắt viện trợ vũ khí, đạn dược, xăng dầu, ngưng oanh tạc Cộng sản bằng B52 và nhất là thỏa thuận cho Cộng sản ở lại miền Nam sau Hiệp định 27/1/1973, làm ngơ cho chúng công khai chuyển quân xuống miền Nam giữa ban ngày trong khi chúng được Liên Sô, Trung Cộng tăng viện mọi mặt.

    Tình hình đầu Xuân Ất Mão 1975

    Đầu năm 1975, sau khi quân đội Cộng sản chiếm Phước Long, Ban Mê Thuột, tình hình quân sự của VNCH xấu dần. Các tỉnh địa đầu Quảng Trị, Thừa Thiên lần lượt rơi vào tay Cộng sản. Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi không còn. Các đơn vị thuộc Quân Đoàn I, Vùng I Chiến Thuật rã ngũ về Cam Ranh, Hàm Tân. Quân Đoàn II, V2CT chuyển quân qua Phú Bổn về Qui Nhơn, Tuy Hòa theo Liên tỉnh lộ 7B, Bộ Tư Lệnh tái phối trí tại Nha Trang. Quảng Đức, Lâm Đồng bỏ trống, Tuyên Đức, Đà Lạt trong thế cô đơn, không được chỉ thị nào của Bộ Tổng Tham Mưu hay Quân Đoàn II, cũng phải theo số phận các tỉnh lân cận. Thiếu tướng Lâm Quang Thơ, chỉ huy trưởng trường Võ Bị Quốc Gia (VBQG), triệu tập phiên họp ba người gồm Thiếu tướng Thơ, Đại tá Nguyễn Hợp Đoàn, tỉnh trưởng Tuyên Đức kiêm Thị trưởng Đà Lạt, và tôi, Chỉ huy trưởng trường Đại Học CTCT, kiểm điểm tình hình, thảo luận việc phòng thủ Đà Lạt, di chuyển về V3CT khi cần.

    Quyết định rời Đà Lạt, tái phối trí tại Bình Tuy (Hàm Tân)

    Hai ngày sau, phiên họp thứ hai tại Trường VBQG tái nhóm. Kiểm điểm tình hình: Không liên lạc được với các thẩm quyền Bộ Tổng Tham Mưu (TTM), Tổng Tham Mưu Trưởng, Tham Mưu Trưởng Liên Quân, và QĐ II, V2CT, Tư Lệnh Vùng, Tham Mưu Trưởng, mất liên lạc với Quảng Đức, Lâm Đồng đã di tản. Quyết định: Đà Lạt, Tuyên Đức, và các đơn vị quân trường trú đóng, trường VBQG, trường ĐH/CTCT di chuyển về V3CT. Trường VBQG chuyển Sinh Viên Sĩ Quan (SVSQ), lực lượng cơ hữu tới các vị trí cao độ chung quanh quận Đơn Dương trong ngày 31 tháng 3 bảo vệ các đơn vị Địa phương quân, Nghĩa quân, Chính quyền Đà Lạt, Tuyên Đức; trường ĐH/CTCT và các thành phần trường VBQG còn lại chuyển quân. Giờ G: chạng vạng tối 31. Mật lệnh: VC tấn công thị xã Đà Lạt.

    Không tin vào ngày giờ tốt xấu hoặc cái khâu, cái mốc trong chu kỳ hàng năm sinh hoạt của trường ĐH/CTCT nhưng SVSQ, sĩ quan tu nghiệp các khóa căn bản, trung cao cấp CTCT và quân nhân cơ hữu, nhân viên dân chính quốc phòng đều phập phồng lo âu trước ngày 1 tháng 4 mỗi năm, vì 1 tháng 4 năm 1970 trường bị Cộng sản tấn công, tổn thất nhân mạng: 4 quân nhân cơ hữu, 4 SVSQ, 17 sĩ quan khóa sinh tuyên úy. Ngày 1 tháng 4 những năm kế tiếp thường có những việc không may xảy đến: xe lật, SVSQ bị thương tích khi thực tập quân sự hoặc thể dục thể thao.

    Rời bỏ quân trường thân yêu, đồi 4648 vị trí tiên khởi, đồi 4650 vị trí kế tiếp (nguyên cơ sở trú đóng của trường Chỉ Huy Tham Mưu trước khi rời về Long Bình) cũng đêm 31 tháng 3 rạng 1 tháng 4, 1975.

    Từ 15 tháng 3, 1975, gia đình quân nhân cơ hữu từ sĩ quan đến hạ sĩ quan, binh sĩ, nhân viên quốc phòng đã được khuyến cáo di tản về Sài Gòn và các tỉnh phía Nam bằng phương tiện tự túc: hàng không, đường bộ cùng với đồng bào Đà Lạt, lúc đó đã hoang mang tột độ. 21 giờ tối 29 tháng 3, phóng viên đài Quân Đội điện thoại cho tôi xin phỏng vấn. Tôi hỏi:
      • - Anh lên đây, hay ngay bây giờ qua điện thoại?
        - Ngay bây giờ.
        - Tôi không có thẩm quyền vì chỉ là chỉ huy một quân trường trú đóng tại Đà Lạt.
        - Không sao! Vì chúng tôi chỉ xin biết trường ĐH/CTCT còn ở Đà Lạt không hay đã di tản?
        - Tôi vẫn ở đây, đang nói chuyện với anh và tham gia với trường Võ Bị Quốc Gia, các lực lượng Tuyên Đức bảo vệ Đà Lạt.
        - Xin cám ơn.


    Sáng hôm sau, 30 tháng 3 tham dự phiên tái nhóm với Thiếu tướng Thơ, Đại tá Đoàn. Quyết định của vị chủ tọa: di chuyển tái phối trí tại V3CT. Tôi băn khoăn về câu trả lời phóng viên Đài Tiếng Nói Quân Đội. Sự thực, tôi vẫn còn ở Đà Lạt vì lòng còn muốn bảo vệ thành phồ duyên dáng này, nhưng chưa tới 24 tiếng đồng hồ, tình thế đã khác hẳn.

    Trưa ngày 31, tôi đang dùng cơm, mấy bà con thân hữu tại Đà Lạt đến thăm, dò hỏi hai quân trường: “Võ Bị, CTCT có rời Đà Lạt không?” - “Tôi còn ở đây, các ông có thấy gì khác lạ trong nhà tôi không?” Trấn an các thân hữu hoang mang, bối rối, nhưng chính mình cũng không khỏi suy nghĩ mông lung. “Chuyển quân, rút quân” phải bí mật, bất ngờ, kín đáo. Không thể tiết lộ với thân hữu được vì trách nhiệm chỉ huy, vì bảo vệ an ninh cho quân trường với bao nhiêu sinh mạng trong tay, hớ hênh để CS nằm vùng biết rõ chi tiết di tản thì vô cùng nguy hiểm. Lui binh, rút quân trên bình diện chiến lược quy mô lớn, chuyển quân, tái phối trí trên phạm vi chiến thuật nhỏ cũng đều tôn trọng các yếu tố: Kín Đáo, Bí Mật, Bất Ngờ. Vì vậy các chiến hữu gần gũi tôi nhất trong giờ phút chót chuyẻn quân, rời Đà Lạt, tái phối trí cũng không biết quân trường có di tản hay không, và nếu có thì lúc nào? Vào buổi sáng 31/3/1975, tôi ra lệnh vắn tắt: Sẵn sàng đối phó với mọi tình huống, cấp phát cho SVSQ theo Tiêu Lệnh Hành Quân 3 ngày lương khô, 2 đơn vị đạn dược, sau cơm chiều, vũ khí cá nhân, cộng đồng trên người, quân phục tác chiến, bi đông nước, đem theo đĩa ăn, muỗng nĩa (SVSQ được trang bị một bộ đĩa, muỗng nĩa, loại tốt, thường ngày dùng ở phạn xá, nay mang theo).

    - Sĩ quan khoá sinh các khóa các khóa căn bản, trung, cao cấp CTCT cũng được cấp phát lương khô.
    - Khối Hành Chánh Tiếp Vận: Chuẩn bị cho phạn xá 1 GMC đem đủ dụng cụ nhà bếp hành quân di chuyển. Đem theo gạo tùy quân số khi dùng
    - Quân xa các loại đầy đủ nhiên liệu.
    - 2 xe bồn: xăng, dầu cặn.
    - Xe buýt sinh viên
    - 2 đơn vị đạn dược trừ bị.
    - Bệnh xá: dụng cụ cứu thương, thuốc men.

    Giã từ Đà Lạt

    Giờ G: 19 giờ ngày 31 tháng 3, 1975: Điện thoại của Tỉnh trưởng Thị trưởng Tuyên Đức-Đà Lạt cho Chỉ huy trưởng trường ĐH/CTCT: VC tấn công thị xã (mật khẩu). Tôi bèn ra lệnh tập trung:
    - Sĩ quan khóa sinh Căn bản, trung, cao cấp CTCT tại trại Lam Sơn đồi 4648, dưới quyền chỉ huy của Trung tá Đồng Văn Chân, Quân Huấn Vụ trưởng. SVSQ/ĐH/CTCT: Trại Chi Lăng đồi 4650 dưới sự chỉ huy của Bộ Chỉ huy Trường. Di chuyển khi có lệnh.

    Theo ước hiệu giữa Thiếu tướng Thơ và tôi, khi nào Thiếu tướng đi xe jeep ngang qua trường ĐH/CTCT theo lối tắt từ BCH cũ trường VBQG xuyên qua ĐH/CTCT, gặp tôi báo cáo “xong” Thiếu tướng mới cho lệnh nổ mìn phá kho xăng và phòng thí nghiệm nặng (heavy lab) của trường Võ Bị và đó là lệnh di chuyển. Chiều ấy tại trại Chi Lăng tôi đang điều động Bộ Tham Mưu trường, Liên Đoàn SVSQ, liên lạc vô tuyến với Trung tá Đồng Văn Chân chỉ huy các bộ phận bên trại Lam Sơn gồm có các sĩ quan khóa sinh các khóa căn bản, trung, cao cấp CTCT, khối Hành Chánh Tiếp Vận thì Thiếu tướng Thơ, trên xe jeep ngang qua hỏi tôi: “Xong chưa?” Tôi xin 15 phút nữa, nhưng xe của Thiếu tướng vừa tới cổng mới đang xây của trường ĐH/CTCT và Bệnh xá Tiểu Khu thì hai tiếng nổ long trời, lửa bùng lên cao, kho xăng, kho đạn, heavy lab của trường Võ Bị đã cháy. Lệnh di chuyển rời Đà Lạt đã ban hành hơi sớm.

    Đoàn quân xa trường ĐH/CTCT từ từ chuyển bánh, ra khỏi cổng trường Chi Lăng, ngay Bệnh xá Tiểu khu Tuyên Đức rẽ trái, hướng về phía Đơn Dương, đèo Ngoạn Mục. Màn đêm buông xuống. Xe nối đuôi nhau khoảng cách không quá một trăm thước, tốc độ vừa phải theo kỹ thuật di chuyển “công voa” (convoi), không dùng đèn pha chiếu sáng, mở đèn “mắt mèo” (black out) vì đường đèo nhiều khúc quanh, khúc khuỷu. Đà Lạt lùi dần về phía sau, chìm trong sương. Đến Trại Mát (10 cây số cách Trung tâm Đà Lạt), đoàn xe dừng lại, 5 xe GMC quay về hướng Đà Lạt chuyển các thành phần cơ hữu và SVSQ phải di chuyển đợt 2. SVSQ, sĩ quan khóa sinh, Bộ Chỉ huy Trường đi bộ, nhường xe, kể cả xe buýt của SVSQ, cho gia đình binh sĩ, chuyển nhanh đến Cầu Đất phía trước, rồi quay lại đón đoàn người đi bộ, đưa nhanh họ vào đèo Ngoạn Mục, quay lại đón đoàn người đến lúc trước ở Cầu Đất, chuyển họ nhanh lên đỉnh đèo, cứ như thế, trường ĐH/CTCT di chuyển sinh viên các khóa 4, 5, 6 (600 người), sĩ quan khóa sinh các khóa căn bản, trung, cao cấp CTCT (300 người), quân nhân cơ hữu (200 người), không có phương tiện di tản về Sài Gòn và các tỉnh phía Nam trước 31 tháng 3. Hai trăm quân nhân và gia đình thuộc trường VBQG, Tiểu khu Tuyên Đức-Đà Lạt tự động nhập vào đoàn di tản (trường ĐH/CTCT). Tổng cộng 1200 người, con số phỏng định khi rời Đà Lạt và đến quận Sông Pha, chân đèo Ngoạn Mục, nhà máy thủy điện Đa Nhim. Từ Sông Pha xuống Phan Thiết, ngược lại Phan Rí Cửa, số quân nhân trường VBQG, Tiểu khu Tuyên Đức-Đà Lạt và gia đình không theo đoàn quân di chuyển trường ĐH/CTCT nữa.

    Hành quân di chuyển theo cách đi “con vẹt” (marche perroquet – parrot march). Vì thế chậm, mất nhiều thì giờ. 9 giờ sáng ngày 1 tháng 4, 1975, trường ĐH/CTCT mới chuyển quân xong, tới địa điểm tập hợp đấu tiên của trường VBQG, ĐH/CTCT, và Tiểu khu Tuyên Đức-Đà Lạt.

    Chuyển quân giai đoạn 2

    Thiếu tướng Thơ, Đại tá Đoàn, Trung tá Nhất, quận trưởng quận Sông Pha, và tôi họp kiểm điểm tình hình: tổng quát, tình hình xấu. Đà Nẵng thất thủ 31 tháng 3. VC có tăng 54, cơ giới hóa, đang tiến xuống Nam. Nha Trang bị áp lực, có thể từ Pleiku, Kontum xuống bao vây các tỉnh duyên hải bằng nhiều sư đoàn. Các đơn vị từ Đà Lạt xuống tiếp tục chuyển quân tái phối trí giai đoạn 2 về Bình Tuy (Hàm Tân). Đợi lệnh Bộ TTM. Đơn vị nào có đủ phương tiện, chuyển quân trước.

    Trong trường hợp này, trường VBQG có đủ xe GMC chuyển SVSQ về Bình Tuy sớm. Tiểu khu Tuyên Đức-Đà Lạt không còn nhiều đơn vị, ít người, cũng chuyển quân nhanh. Chỉ có trường ĐH/CTCT không có đủ xe GMC chuyển quân, lại còn nhân viên cơ hữu, dân chính quốc phòng, và gia đình binh sĩ đi theo. Đến 10 giờ sáng ngày 1 tháng 4 mới tập trung được đủ người, chậm trễ vì phải đi bộ hành quân với đội hình “con vẹt”. Tôi lo ngại nhưng vẫn tin tưởng vào tinh thần kỷ luật của toàn thể quân trường.

    Tập trung xong cho mọi người nghỉ chân, ăn cơm trưa, tôi vào nhà thờ Quảng Thuận, thuộc Trung tâm định cư của đồng bào Quảng Trị sau mùa hè đỏ lửa 1972, tìm gặp cha Đỗ Bá Ái, cựu tuyên úy QLVNCH, để được biết thêm tình hình, an ninh trên lộ trình sắp di chuyển. Cha đi vắng, tôi trở lại với đoàn quân, ra khỏi nhà thờ, tình cờ gặp cha Maïs, giáo sư Pháp ngữ Viện Đại Học Đà Lạt, người tôi đã nhờ nhuận sắc bản dịch sang Pháp ngữ cuốn Tổng Công Kích Mậu Thân 1968 do Phòng 5 Bộ TTM phát hành khi tôi còn là Trưởng Phòng trước khi nhận nhiệm vụ Chỉ Huy ĐH/CTCT. Vốn có cảm tình từ trước, Cha hỏi tôi đi đâu bây giờ?
    - Chúng tôi di chuyển tái phối trí, tôi trả lời bằng Pháp ngữ (nous devons nous re-déployer).
    Cha hỏi tiếp:
    - Nhưng ở đâu? (mais où alors?).
    - Chúng tôi đang ở trên lãnh thổ Phan Rang (nous sommes sur le territoire de Phan Rang).
    Tôi hỏi lại Cha:
    - Thế còn Cha ? Cha đi đâu?
    - Tôi vừa ở Nha Trang về sau khi thu xếp cho các Nữ tu Dòng Kín về Sài Gòn rồi về Pháp, tôi sẽ trở lên Đà Lạt.

    Từ giã Cha Maïs, tôi nghĩ đến giải pháp: mượn xe? trưng dụng? thuê xe đò? Đến chỗ dừng chân, tạm nghỉ, tôi nêu ý kiến hỏi các sĩ quan tham mưu. “Suốt từ sáng đến giờ, không thấy bóng dáng một chiếc xe nào ngoại trừ xe của mình –tất cả đồng thanh trả lời– Phải trưng dụng thôi.”

    Tôi trầm ngâm. Là một ĐH/CTCT, sao có thể trưng dụng... Nhưng một lát sau, một xe chở cây gỗ (loại xe rừng) được anh em chặn lại, tỏ ý kiến trưng dụng. Ông chủ xe đến trước mặt tôi sụp lạy như tế sao, mếu máo: “Xin Đại tá làm phước cho vợ con tôi ở Đà Lạt đang trông chờ tôi về.” “Chính tôi phải lạy ông, ông đừng làm thế...” Tôi đỡ ông dậy, ôn tồn: “Ông giúp chúng tôi chuyển quân đến Bình Tuy, một chuyến thôi, xong ông về. Tôi đang chỉ huy, không thể lạy ông được, xin ông thông cảm.” Ông miễn cưỡng xuôi lòng.

    Trung tá Đồng Văn Chân đi xe jeep được chỉ định chỉ huy một toán tiền thám gồm đa số khóa sinh trung, cao cấp CTCT, leo lên xe cây. Xe chuyển bánh, hướng về Phan Thiết, Hàm Tân. Tôi có chủ đích dùng các sĩ quan khóa sinh có khả năng chiến đấu, phản ứng tốt hơn nếu bị VC phục kích chặn đường. Nhưng lòng thấy ngậm ngùi, bất đắc dĩ phải trưng dụng. Nếu ông chủ xe không may mắn ngày ấy có cơ hội đọc được những dòng này, xin nhận lời tạ ơn muộn màng của tôi.

    Trung tá Đồng Văn Chân và đội tiền thám với xe cây đi rồi, tôi sực nhớ chưa hỏi Cha Maïs tình hình Nha Trang và đường về đến đây qua Phan Rang có VC không thì vài đồng bào gốc Quảng Trị quen biết tôi đem xôi, thịt gà luộc tiếp tế cho tôi, có gia đình xin đi theo đoàn quân. Cha Đỗ Bá Ái xuất hiện. Có lẽ buổi sáng người giúp việc cho Cha không biết tôi là ai nên trả lời Cha đi vắng, nay đồng bào Quảng Trị biết tôi, tiếp tế cho tôi, nên Cha đến gặp vì là chỗ thân tình cũ. Câu hỏi đầu tiên của Cha không khác của Cha Maïs : “Đến đây rồi đi đâu nữa?” “Về Hàm Tân, V3CT. Rồi ra ngoại quốc nếu cần.” Tôi thành thực trả lời, không giấu giếm Cha, đầu óc đang mông lung, thoảng nhớ câu dặn dò của Sĩ Quan Cố Vấn trưởng Trung Hoa Dân Quốc tại ĐH/CTCT nói với tôi tháng 1,1975 khi tôi chuẩn bị đi Đài Bắc trong nhiệm vụ đại diện Bộ Quốc Phòng và Bộ TTM/QLVNCH ký thỏa hiệp giữa hai Đại Học CTCT Đài Bắc và Đà Lạt là Tỷ Muội Học Đường (Sister Academies): “Có biến cố lớn, việc ký thỏa hiệp sẽ hoãn. Nếu yên ổn tháng 5/75 sẽ ký. Nếu có biến cố, chúng tôi có tàu biển sang đón các cán bộ CTCT cần đi.”

    Sau câu chuyện giữa Cha Ái và tôi qua vài câu hỏi ngắn ngủi trên, tôi chia tay với Cha để chuẩn bị tiếp tục hành trình. Sau này tôi biết Cha cũng mượn được tàu Hải Quân VN đưa một số đồng bào Quảng Trị đến Phú Quốc nhưng không có tàu ra hải phận quốc tế, phải trở về. Cha đi tù cải tạo, nay quản nhiệm một giáo xứ VN ở Pennsylvania.

    Tàu biển Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) tham gia chuyên chở các toán quân và đồng bào di tản từ Đà Nẵng về Cam Ranh, Vũng Tàu cùng với Đệ Thất Hạm Đội của Mỹ, tàu của Úc, Đại Hàn... trong những ngày đen tối cuối tháng 3 đầu tháng 4, 1975 theo Olivier Todd trong cuốn Cruel Avril (bản tiếng Pháp), Cruel April (bản tiếng Anh) hay Tháng Tư Đen (bản tiếng Việt, Phạm Kim Vinh chuyển ngữ).

    Thị trấn Tháp Chàm

    Các đơn vị của trường VBQG, Tiểu Khu Tuyên Đức-Đà Lạt chuyển quân gần xong về hướng Hàm Tân, trường ĐH/CTCT mới ăn xong bữa trưa. Có tin hỗn loạn xảy ra tại Phan Rang vì các đơn vị rã ngũ.

    Số xe GMC của trường ĐH/CTCT (khoảng 14, 15 chiếc) không đủ chuyển một chuyến hết số người còn lại –gần 1000 sau khi gia đình binh sĩ trường VBQG, Tiểu khu Tuyên Đức-Đà Lạt không đi theo đoàn quân ĐH/CTCT nữa. Phải chấp nhận mỗi GMC chỉ chở toán vũ trang nhẹ gồm 10 SVSQ và 20 đến 25 người không chiến đấu (gia đình binh sĩ) chạy chậm ngang qua thị trấn Tháp Chàm 5 cây số, tập trung gia đình binh sĩ tại đó, trở lại chuyển dần những người còn đi bộ.

    Đến thị trấn Tháp Chàm, đoàn quân đang di chuyển trật tự, bỗng một người mặc thường phục chạy theo xe jeep của tôi (chạy chậm dưới 10/giờ) hớt hãi nói: “Thưa Đại tá, tôi là sĩ quan Tiểu khu Tuyên Đức, gia đình tôi đang bị cướp phá, xin Đại tá cho người đến cứu chúng tôi”. - “Chúng tôi đang chuyển quân, không thể giúp ông được”.

    Buồn, đáng thương. Sau này có người nói với tôi khi Trường ĐH/CTCT di chuyển qua Tháp Chàm, cả một đoàn quân đi ngang qua mà không giúp được dân bị đám người vô kỷ luật cướp phá. Một lời chê trách tôi không trực tiếp trả lời được. Hy vọng những dòng này sẽ được ông bà nào trong hoàn cảnh đó đọc và thông cảm chúng tôi có trách nhiệm về sinh mạng của gần ngàn người, có dân trong đó, nên không làm được một công tác “chiến tranh chính trị đúng là phải làm”.

      • Viết đến đây thì Đại tá Nguyễn Quốc Quỳnh bị bệnh, không thể tiếp tục. Và ông mất ngày 13/6/2014, hưởng đại thọ 92 tuổi. Xin quý vị, quý bạn đọc thêm hai đoạn trích về cuộc di tản dưới góc cạnh khác, tường thuật bởi Trần Thanh Sơn, SVSQ khóa 4, hiện ở Irvine (cf. Ức Trai, số đặc biệt 30/4, 2002), và bởi Kim Thanh, Đại úy Trưởng khoa Nhân Văn Xã Hội, Văn Hóa Vụ...



    ***


    THÁNG TƯ, BỎ LẠI


    Trần Thanh Sơn, SVSQ/CTCT khóa 4



    ... Khi đến Phan Rang, thành phố này đã thực sự mất kiểm soát, náo loạn khắp nơi. Đoàn xe chúng tôi đã thật khó khăn khi chen chúc vượt qua thị trấn này. Nhiều thường dân, binh sĩ xin theo đoàn không được, có người làm hoảng. Chính tại nơi đây, lần đầu tiên và có lẽ duy nhất trong đời cận vệ, trung úy Thạch Minh Lợi đã có dịp thi thố khả năng của mình, khi Đại tá CHT suýt bị làm hỗn. Có một điều ai nấy cũng đều ngưỡng mộ người chỉ huy trưởng khả kính này, trong mọi thời điểm suốt những chặng đường dù nguy hiểm đến đâu, ông cũng theo sát cả đoàn để ban hành những khẩu lệnh kịp thời, kể cả những khi cùng lội bộ, bất chấp an ninh của cá nhân ông. [...].

    Sau đó thì có lệnh Tiểu khu trưởng Phan Thiết cho bắn pháo, ngăn chận không để mọi thành phần di tản vào thành phố, do đó đoàn di tản phải quay ngược trở về Phan Rí, toán trinh sát không bắt tay được với Trường Mẹ [...].

    Trở lại với đoàn di tản, đã bước sang ngày thứ năm, chúng tôi ai nấy đều thấm mệt, có đêm hoàn toàn không chợp mắt hay kê lưng vì cứ phải chạy, có đêm may mắn nằm ở trưòng học nhắm mắt được chỉ đôi ba tiếng, tuy nhiên tinh thần thì rất vững, chấp hành kỷ luật quân trường tối đa, một phần vì tất cả các cấp chỉ huy đều vẫn còn giữ kỷ cương, phẩm cách và sự gương mẫu của cán bộ quân trường, nên quyết cùng sống chết với nhau.

    Ở Lương Sơn, Bộ chỉ huy Trường sau khi nhận định tình hình, để tránh thiệt hại nếu cứ tiếp tục dùng đường bộ, vì lúc này đường Phan Thiết đã mất an ninh và đã bị cấm cửa, Đại tá chỉ huy trưởng đã có một quyết định, mà cho đến giờ này sau gần 30 năm, khi già rồi, chúng tôi mới thấy rõ đó là một quyết định rất sáng suốt và nhậy bén của một cấp chỉ huy, biết tiết kiệm xương máu cho tất cả thuộc cấp. Ông đã ra lệnh, vẫn với cung cách cố hữu của con nhà nghèo: tất cả mọi người dốc hết tiền đang có để thuê ghe chở toàn bộ Trường Mẹ từ Phan Rí Cửa về Vũng Tàu. Tiền đóng góp đã nhanh nhẹn được thu vào những chiếc nón sắt, nhất là với sự tự giác cao độ của người SVSQ trong những lúc hiểm nghèo, cộng thêm số ngân quỹ do Khối Tài Chánh mang theo. Sau này Tổng Cục CTCT đã hoàn trả lại số tiền kể trên cho mọi người. Tất cả di chuyển về Phan Rí Cửa, nơi đây đã được hẹn trước cùng đoàn ghe đánh cá. Cuối cùng, lúc 2 giờ 30 phút trưa ngày 6 tháng 4, toàn bộ trường ĐH/CTCT đã sẵn sàng trên những chiếc ghe đánh cá đã được thỏa thuận thuê mướn sòng phẳng, lộng gió hướng thẳng về Vũng Tàu – vùng đất Tự Do còn lại.


    ***


    ĐÀ LẠT, MỘT THỜI YÊU DẤU CŨ


    Kim Thanh, Trưởng khoa Nhân Văn Xã Hội, Văn Hóa Vụ



    [...] Tối 31/3/1975, nghe Trường có lệnh di tản, tôi bỏ lại chiếc Peugeot 203, trước căn nhà thuê, khu chợ Chi Lăng, vì không có xăng, và đi bộ, lưng đeo ba lô (đựng đồ lặt vặt, một bộ quân phục sạch, vài quyển sách, và một chai cognac XO Courvoisier do anh bạn Tây Alain Bichet mua tặng), lên Trường xin quá giang xe jeep của Thiếu tá Lê Ân, Văn Hóa Vụ trưởng, xếp trực tiếp của tôi. Cùng chung xe, có Bác sĩ Đặng Phùng Hậu, trưởng bệnh xá Trường (cũng bỏ lại xe hơi riêng, có lẽ bởi thiếu xăng, giống tôi), và Thiếu úy Nguyễn Ngọc Chẩn, sĩ quan phụ khảo, thuộc Khoa. Xe jeep của chúng tôi bắt đầu chuyển bánh lúc 12 giờ đêm 31/3, rạng sáng ngày 1 tháng 4, cùng với đoàn xe Trường Đại Học CTCT. Khi ai nấy an tọa xong, tôi bắt đầu khui chai cognac, rót ra bốn ly nhựa nhỏ, mời mọi người uống. Tôi nói, giọng có vẻ cải lương kiểu Hùng Cường, “xin tất cả cạn chén ly bôi, xem như những giọt rượu nồng cay này là những giọt nước mắt quê hương, để khóc cho đêm giã từ thành phố Đà Lạt thương yêu”. Thiếu tá Ân không uống, lấy cớ bị đau bao tử kinh niên, và đang lái xe. Càng uống, không hiểu sao, tôi càng thấy lòng buồn vời vợi, trước viễn ảnh tang thương, mịt mờ của đất nước. Càng buồn lại càng uống thêm. Làm nhớ bài thơ “Tương tiến tửu” của thi hào Lý Bạch: Ngũ hoa mã, Thiên kim cừu / Hô nhi tương xuất hoán mỹ tửu / Dữ nhĩ đồng tiêu vạn cổ sầu (Ngựa năm sắc, Áo ngàn vàng / Hãy bảo nhau lấy ra đổi rượu ngon / Để ta cùng các bạn diệt tan nỗi sầu - dịch bởi Nguyễn Danh Đạt, 1988).

    Trưa hôm sau, đến ngoại ô Phan Rang, sau khi đổ đèo Ngoạn Mục một cách khá nguy hiểm, và chậm rì, vì đêm tối đen và chỉ được phép mở đèn mắt mèo. Tại nơi này, các sĩ quan cơ hữu hiện diện được lệnh tham dự buổi họp dã chiến chớp nhoáng với Đại tá Chỉ huy trưởng Nguyễn Quốc Quỳnh để nhận chỉ thị và tin tức cập nhật về tình hình. Sau đó, ăn cơm trưa – do giáo dân Quảng Trị định cư tại xóm đạo Quảng Thuận, quen biết Đại tá khi ông là tỉnh trưởng Quảng Trị, khoản đãi.

    Rồi được lệnh tiếp tục di chuyển về Sài Gòn qua ngả Phan Thiết. Đoàn xe CTCT nhích lên từng thước một vì hỗn loạn đã diễn ra trên thành phố Phan Rang. Những binh sĩ rã ngũ từ Miền Trung chạy vào, quân phục tả tơi, không vũ khí, nhưng bên hông đeo đầy lựu đạn, không có chỉ huy, và vài người dân trong cơn tuyệt vọng, bất mãn, không còn biết phải đi đâu, đã “xuống đường” chận xe và người di tản, la lối, dọa nạt, khiến ai nấy hoảng sợ. Xe Đại tá Quỳnh cũng bị chận, nhưng không việc gì, nhờ sự can thiệp hữu hiệu của các cận vệ, trông rất ngầu. Theo sau, bốn người chúng tôi, không ai bảo ai, chĩa họng súng Carbine và M16 ra ngoài, đề phòng trường hợp bị làm ẩu [...]

    Trong khi ấy, tôi chợt thấy một chiếc Mustang màu vàng óng ánh quen thuộc, từ hướng Nha Trang vào, đậu sát lề đường theo một hàng dọc, gồm rất nhiều xe nhà binh và dân sự, bị kẹt, dài cả cây số. Bên trong xe Mustang thoáng thấy bóng ba mẹ tôi, bốn đứa em nhỏ và hai thằng nhóc con của em gái tôi, Thể Trân, và ngồi ở tay lái là Thư, đứa em rể. Xe jeep ngừng lại, tôi nhảy xuống. Cả nhà ngạc nhiên và mừng rỡ trước cuộc tái ngộ bất ngờ, hi hữu này. Mẹ cười qua màn lệ: “Trọng đâu con?”. Nguyễn Kim Trọng, em kế tôi, là Trung úy dạy Anh văn tại trường Võ Bị. Tôi đáp: “Trọng đi chung với Võ Bị, con chưa gặp, nhưng chắc cũng quanh quẩn đâu đây thôi.” Ba hỏi: “Bây giờ con sẽ đi đâu?”. Tôi trả lời: “Trường con sẽ tiếp tục di chuyển đến Phan Thiết.” Tôi dặn Thư chạy bám sát chiếc jeep của chúng tôi.

    Quá trưa thì đến cửa ngỏ Phan Thiết. Bỗng nghe có nhiều tiếng nổ, nghe giống tiếng pháo kích, ầm vang trên đầu, trước mặt, sau lưng, không biết từ đâu, của ai. Đám người di tản, tưởng VC tấn công, hoảng hốt, chạy táng loạn, tìm chỗ trú ẩn. Một binh sĩ địa phương quân Bình Thuận xuất hiện, la lên: “Tiểu khu bắn súng cối đó, bà con ơi. Không cho ai vô Phan Thiết”. Và khoát tay: “Tất cả de xe lại. De xe lại”. Đoàn xe của CTCT bèn quay đầu, hướng về tỉnh lỵ Bình Tuy, tức ra biển, kéo theo bao nhiêu là người và xe dân sự, giờ này chỉ còn biết giao phó sinh mệnh cho Trường CTCT.

    Đường đi đến Bình Tuy còn xa, và mặt trời còn chói lọi và cái nóng như thiêu, khiến đoàn người di tản mồ hôi đổ ra như tắm, và vì thế càng thêm khát, phải uống cả nước ruộng. Tôi xuống xe, với ba lô và cây carbine, xin phép Thiếu tá Ân được rời nhóm, để theo gia đình, và hẹn gặp lại nhau một nơi nào đó.

    Đến Bình Tuy, cả Trường CTCT được phép dừng quân và nghỉ ngơi ngay trước sân trụ sở Tiểu khu, cùng với vô số quân nhân từ khắp nơi kéo về. Đồng thời, tôi nghe tin toàn bộ Trường Võ Bị đã được C130 bốc về Sài Gòn. Mẹ bớt lo cho Trọng. Bỗng một người lính đến hỏi, “Ai là Đại úy Nguyễn Kim Quý, trường Đại Học CTCT?”, và trao cho tôi một mảnh giấy có dòng chữ viết vội của Bội Trân, em gái tôi, tiếp viên Air Việt Nam: “Anh Hai chéri, em đang ở trong máy bay, tại phi trường Bình Tuy, không bỏ đi gặp anh được. Anh đến phi trường gấp để em đưa về Sài Gòn. Bisous”. Rõ ràng Bội Trân, và Trọng, không biết gia đình đã di tản từ Nha Trang vào đây. Thư bèn chở cả nhà ra phi trường. Còn tôi không muốn bỏ đơn vị. Một giờ sau, Thư lái xe trở lại và cho biết, Bội Trân nghe Trọng báo tôi đang ở Bình Tuy, nên, dù không đến phiên, em đã tình nguyện theo chuyến bay Air Việt Nam chở đồ tiếp tế (sữa hộp, mì gói, bánh mì) cho tỉnh Bình Tuy, để đón tôi. Máy bay trở về Sài Gòn đầy nghẹt người, toàn là thân nhân của những ông lớn và những người đi chui. Ba mẹ và Thư đành ở lại, nhường chỗ cho Thể Trân và mấy đứa nhỏ. Buổi tối, mẹ dọn bữa ăn với cơm nắm và thịt kho, làm từ sáng sớm tại nhà. Thêm nửa chai cognac của tôi. Tôi đi tìm Thiếu tá Ân, Bác sĩ Hậu và Thiếu úy Chẩn, mời đến ăn cho vui, nhưng không thấy họ đâu giữa một rừng người dày đặc.

    Sáng hôm sau, Đại tá Quỳnh cho lệnh tập họp toàn Trường và quyết định di chuyển về cửa Phan Rí, để thuê ghe vô Vũng Tàu, vì tiếp tục đường bộ, ông nói, rất nguy hiểm. Để khỏi mang tiếng đào ngũ, tôi đưa ba mẹ đến chào Đại tá, và xin phép ông cho tôi tách khỏi Trường, để đi cùng với gia đình. Ông vui vẻ chấp thuận, đồng thời báo cho biết địa điểm tập họp là doanh trại Tiểu đoàn 30 CTCT, tại Tam Hiệp, Biên Hòa. Tôi theo ba mẹ và Thư ra làng chài trước mặt, trên bờ biển, và thuê bao một chiếc ghe với giá cắt cổ, vì phải chở theo chiếc Mustang [...].

    Ghe rời bến Bình Tuy khoảng 11 giờ sáng và 3 giờ trưa mới đến Vũng Tàu. Chậm, vì sóng lớn, biển động. Tại đây, người dân hiếu kỳ chung quanh cho biết, trường CTCT Đà Lạt, khoảng một ngàn người (gồm cả những sĩ quan khóa sinh Căn Bản và Trung Cấp CTCT, và gia đình quân nhân cơ hữu của Trường), đã lên bờ an toàn. Tôi mừng lắm. Thư lái xe chở ba mẹ và tôi về căn nhà trọ của Bội Trân, tạm nghỉ qua đêm, cùng với Thể Trân và đám trẻ. Sáng hôm sau, Thư đưa tôi lòng vòng qua các khu phố, thuê được một căn lầu của một cao ốc, có cửa sổ bên hông nhìn xuống khu chợ Trương Minh Giảng. Cả nhà, gồm có Trọng, tôi, và gia đình người cháu ruột của mẹ bất ngờ được gặp lại, trú ngụ trên đó cho đến một tuần sau ngày 30 tháng 4, mới trở về Nha Trang […].


    Portland, Mùa Quốc Hận, 6/4/2017

    (nguồn: nhận qua email)

              
Last edited by Hoàng Vân on Thứ năm 20/04/17 07:18, edited 1 time in total.
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5388
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: - 30/04/2017 - tưởng niệm 42 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           



    Tìm về những ngôi mộ thuyền nhân


    Thuyền nhân vượt biển trong trại tị nạn ở Galang, Indonesia 1986. (Ảnh: Bùi Văn Phú)


    Trong suốt tuần qua, Đài phát thanh Saigon ở Houston, tiểu bang Texas, đã truyền đi các bản tường trình trực tiếp về chuyến đi thăm mộ phần những tuyền nhân Việt Nam đã bỏ mình ở Biển Đông trên đường tìm tự do. Theo đó, một phái đoàn khoảng 60 người đến từ Hoa Kỳ, Canada và Úc Châu, phần nhiều là những thuyền nhân đã sống sót sau các cuộc vượt biển đầy hiểm nguy với sóng gió và hải tặc. Chuyến đi thăm này dự định kéo dài trong ba tuần đi đến một số hải đảo trong vịnh Thái Lan, Mã Lai và Nam Dương, nơi có nhiều xác thuyền nhân bị chôn vùi dưới ba tấc đất, không quan tài, không kim tĩnh!

    Theo những thuyền nhân vượt thoát trong những phoản thời gian khác nhau các năm trước đây, nay tham gia phái đoàn cho biết, mục đích và ý nghĩa chuyến đi này là để thăm viếng, tưởng niệm và cầu nguyện theo niềm tin tôn giáo cho các thuyền nhân có số phận không may đã bỏ mình trên biển cả do sóng dữ hay bị hải tặc sát hại trên đường vượt biển.Vì vậy trong phái đoàn này có sự tham gia của một số tu sĩ như một linh mục Công giáo và một Hòa thượng ở thành phố Houston, Hoa Kỳ và một linh mục Công giáo đến từ Đài Loan.

    Ngoài ra còn có năm Nhà sư và một số tu sĩ Phật giáo Thái Lan tình nguyện tham gia phái đoàn đến các hải đảo để cầu nguyện cho linh hồn các thuyền nhân tử nạn còn vất vưởng nơi đây được sớm siêu thoát. Đồng thời, phái đoàn cũng mang theo khoảng 70 bảng mộ bia đề tên những người mà thân nhân họ biết đã bị vùi chôn trên các hoang đảo mà họ từng trôi dạt vào bờ, đã chết đói chết khát hay bị hải tặc hãm hiếp, sát hại…

    Chuyến đi này gợi nhớ thảm cảnh của những người Việt Nam tìm đường vượt biên, khởi sự chỉ vài năm sau ngày 30-4-1975, ngày cộng sản Bắc Việt cướp được chính quyền Việt Nam Cộng Hòa ở Miền Nam Việt Nam, thiết lập chế độ độc tài toàn trị trên cả nước, khiến nhiều người phải liều thân bỏ nước ra đi tìm tự do. Hành động cướp chính quyền này của nhà cầm quyền CSBV 42 năm trước đây (1975-2017) từng bị coi là vi phạm trắng trợn Hiệp Định Paris ngày 27-1-1973 do chính họ là một trong bốn bên đã hợp soạn và ký kết.Vì theo khoản (b) điều 9 Chương IV quy định “Việc thực hiện quyền tự quyết của nhân dân Miền Nam Việt Nam” đã ghi như sau:

    “b) Nhân dân Miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị của Miền Nam Việt Nam thông qua tổng tuyển cử thực sự tự do và dân chủ, có giám sát quốc tế.”

    Khoản (a) điều 11 thì ghi “Ngay sau khi ngưng bắn, hai bên Miền Nam Việt Nam sẽ hiệp thương trên tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc, tôn trọng lẫn nhau và không thôn tính lẫn nhau để thành lập Hội Ðồng Quốc Gia Hòa Giải và Hòa Hợp Dân Tộc gồm ba thành phần ngang nhau...”.

    Đây là điều 15 của chương V Hiệp Ðịnh Paris quy định rất rõ ràng: “Việc thống nhất nước Việt Nam sẽ được thực hiện từng bước bằng phương pháp hòa bình trên cơ sở bàn bạc và thỏa thuận giữa Miền Bắc và Miền Nam Việt Nam, không bên nào cưỡng ép hoặc thôn tính bên nào... Thời gian thống nhất sẽ do Miền Bắc và Miền Nam thỏa thuận...”

    Thế mà thực tế đã xảy ra hoàn toàn trái ngược trước sự làm ngơ của những cam kết quốc tế bảo đảm cho việc thực thi ghi trong bản “Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình cho Việt Nam.” Hệ quả là, tuy chấm dứt được thảm trạng của cuộc chiến tranh “cốt nhục tương tàn,” nhưng đã xô đẩy cả một dân tộc vào nhiều thảm trạng khác trong hòa bình (theo nghĩa không còn tiếng súng) sau cuộc chiến. Vì sau khi nắm quyền thống trị độc tôn trên cả nước, đảng và cầm quyền CSVN đã thi hành các chủ trương, chính sách cực kỳ gian ác gây nhiều khổ lụy cho nhân cả nước, nhất là với dân Miền Nam mới “giải phóng” mà họ miệt thị gọi là “dân ngụy, ngụy quân, ngụy quyền.”

    Ngay những ngày tháng năm đầu sau 30-4-1975, Việt cộng đã thực hiện chủ trương chính sách tập trung lao động cải tạo hàng trăm ngàn sĩ quan quân đội và các viên chức chỉ huy hành chánh các cấp chính quyền Việt Nam Cộng Hòa; đưa đến thảm cảnh ly tán gia đình, đẩy những người vợ trẻ con thơ vào cuộc sống bơ vơ, quẫn bách đến cùng cực, phải bươm trả kiếm sống bằng đủ mọi nghề. Một số đông vợ con những người tù cải tạo không biết làm gì để sống ở các thành thị, đã phải tự nguyện hay bị dụ dỗ, cưỡng ép đi lập nghiệp các vùng kinh tế xa thành thị, ở những nơi rừng thiêng, nước độc, cực khổ, thiếu thốn trăm bề.Nhiều người trong số họ đã chết vì thiếu ăn, thiếu thuốc điều trị khi bệnh hoạn. Tiếp theo sau là các cuộc đổi tiền, đánh tư sản đợt I, đợi II, hầu hết dân Miền Nam dân thường cũng như những người bị ghép vào diện bị đánh tư sản đều trắng tay… Nhưng đây mới chỉ là những thảm cảnh mà nhà cầm quyền Việt cộng đã gây trước mắt cho những quân, dân, cán chính chế độ VNCH ở Miền Nam, còn có một thảm trạng lâu dài khác sau hòa bình cho các thế hệ con cháu họ, được tóm gọn trong ba câu thơ (1)

    • “Hòa bình, thống nhất, tự do đâu?

      “Lý lịch bao đời đeo thân phận?

      “Con thơ cam chiu đến bạc đầu…”


    Đứng trước những thảm trạng sau chiến tranh, trong hòa bình trên, tất cả dân Miền Nam như bị nhà cầm quyền chế độ mới dồn vào con đường cùng. Nhiều người đã tìm cách vượt thoát ra cảnh khốn cùng bằng cái chết hay tìm đường vượt biên bằng mọi cách và mọi giá, kể cả đánh đổi mạng sống để “tìm sự sống trong cái chết.” Chính hiền thê của tôi dã có lúc quẫn bách vì quá khổ cực kiếm sống nuôi ba con thơ dại với một mẹ chồng, đã có ý định bỏ lại tôi trong tù tìm đường vượt biên. Nếu ngày đó (1979), vợ con tôi đi vượt biển, liệu có đến được bến bờ tự do hay cùng chung số phân với hàng triệu thuyền nhân phải vùi thân trong bụng cá hay trong lòng biển cả? (2). Theo ước đoán của cơ quan tỵ nạn Liên Hiệp Quốc, thì có khoảng 5 triệu người việt Nam đã vượt biên sau ngày 30-4-1975, nhưng chỉ sống sót đến được các trại tỵ nạn trong vùng khoảng ba, bốn triệu; số còn lại mất mạng trong rừng sâu (một số ít vượt biên bằng đường bộ) hay bỏ xác trên biền cả hay bị nạn hải tặc sát hại (với đa số vượt biên bằng đường biển).

    Thành ra, chuyền đi thăm mộ phần và cầu nguyện cho linh hồn các thuyền nhân Việt Nam bỏ mình trên Biển Đông trên đường tìm tự do của phái đoàn 60 người lúc này, ngoài mục đích và ý nghĩa linh thiêng cao đẹp mà những người tham gia phái đoàn bày tỏ, thiết tưởng còn có ý nghĩa đặc biệt hơn. Vì nó diễn ra trong thời khoảng gần ngày 30-4-1975, ngày đánh dấu kết thúc cuộc chiến tranh “nồi da xáo thịt” để lại nhiều di hại cho dân tộc. Vì sự kết thúc này, nếu đã chấm dứt được những thảm cảnh trong chiến tranh, thì lại xô đẩy nhân dân cả nước Việt Nam vào một thảm trạng trong hòa bình mà thực tế còn tệ hại hơn nhiều, do chế độ độc tài toàn trị CSVN gây ra.

    Giờ đây sau 42 năm kết thúc cuộc chiến tranh Quốc-Cộng (1975-2017), thiết tưởng phe Việt cộng (đảng và nhà cầm quyền CSVN hiện nay) đã gây ra các thảm trạng trước và sau chiến tranh, trong hòa bình, cho nhân dân và đất nước, cần cúi mặt ăn năn thống hối, thay vì tiếp tục ăn mừng như một “chiến thắng” (mà thực chất chỉ là chiến thắng giả tạo); tuy có trễ nhưng chưa muộn. Đồng thời, phe Việt quốc (các chính đảng quốc gia, các tổ chức, cá nhân chống cộng vì dân chủ cho đất nước) cũng cần cúi mặt ân hận thay vì nuôi dưỡng hận thù. Vì trong quá khứ đã không làm được những điều cần làm để bảo vệ chế độ dân chủ pháp trị ở Miền Nam, tao cơ hội cho phe Việt Cộng có tư thế và điều kiện thủ ác, không chỉ gây ra những thảm trạng trước mắt mà còn di hại nhiều mặt lâu dài cho nhân dân và đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta.


    Thiện Ý

    Houston, ngày 4-4-2017.


    Nguồn: http://www.voatiengviet.com

              
Last edited by Hoàng Vân on Thứ năm 20/04/17 07:13, edited 1 time in total.
Hình đại diện
thiên thanh
Bài viết: 1352
Ngày tham gia: Thứ năm 14/05/15 11:49
Nơi ở: Phố Cổ

Re: - 30/04/2017 - tưởng niệm 42 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Bài viết bởi thiên thanh »

          



[youtube][/youtube]

Quốc Hận 30 Tháng 4 - 40 Năm Nhìn Lại
Bích Huyền & Uyển Diễm trình bày




Last edited by Hoàng Vân on Thứ năm 20/04/17 07:11, edited 1 time in total.
Hình đại diện
thiên thanh
Bài viết: 1352
Ngày tham gia: Thứ năm 14/05/15 11:49
Nơi ở: Phố Cổ

Re: - 30/04/2017 - tưởng niệm 42 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Bài viết bởi thiên thanh »

          

          

[youtube][/youtube]

Bảo Bình - Tạ Tình Em!
Nhạc & trình bày: Nguyễn Văn Thành


1. Ba mươi năm, vết thương trên người anh vẩn chưa lành
Ba mươi năm, một mảnh chiến trường xưa đã chung thân
một mảnh nát tan của núi sông
một mảnh hiên ngang giòng máu hồng
một mảnh hy sinh vợ yêu chồng
một mảnh tình trọn vẹn anh biết không?

Bên tai anh, đâu đó vẫn còn nghe giọng pháo gầm
Chung quanh anh, tâm trí vẫn cuồng quay đoạn phim nhanh
Tàu đã trúng thương, vẫn can trường
mặc giòng máu tươi, lệnh mở đường
một mảnh đời vĩnh viễn dâng quê hương.

ĐK:
Giờ còn mảnh tình này, anh cho em, người yêu hỡi
Ba mươi năm bên em người bạn đời
tảo tần sớm hôm, tháng ngày quên lãng
cho anh Bảo-Bình
và mảnh đạn oan khiên mà vô cùng thân thiết.

Giờ còn mảnh đời này anh bên em giờ phút cuối
Ba mươi năm chưa nguôi lời tạ tình
Ba mươi năm chưa quên người Bảo Bình
Bảo-Bình, Bảo-Bình - tạ tình em!
Bảo-Bình, Bảo-Bình - tạ tình em!
Bảo-Bình, Bảo-Bình ... vĩnh biệt em!

2. Ba mươi năm, sông núi vẫn còn đau lòng Bảo-Bình
Ba mươi năm, nhức nhối vẫn từng đêm nặng con tim
đạn thù vẫn mang ở bên lòng
một đời sắt son chỉ yêu chồng
như Bảo Bình một đời yêu non sông...







Về Mục Lục
Last edited by Hoàng Vân on Thứ năm 20/04/17 07:11, edited 2 time in total.
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20017
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: - 30/04/2017 - tưởng niệm 42 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          

          
Nhóm Vinh Danh Cờ Vàng Việt Nam
& Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản Việt Nam

tại Hòa Lan


______________________________________



THƯ MỜI
tham dự biểu tình
nhân ngày Tưởng Niệm Quốc Hận 30/4/1975





Kính gởi:
  • Quý đồng hương cùng các tổ chức, đoàn thể trong cộng đồng người Việt tị nạn cộng sản Việt Nam tại Hòa Lan,


Thưa quý vị,

Từ ngày 30.4.1975 Miền Nam Việt Nam bị cộng sản Miền Bắc dùng võ lực cưỡng chiếm. Với trận chiến kéo dài 30 năm (1945-1975) do đảng cộng sản Việt Nam từ Miền Bắc Việt Nam phát động và đeo đuổi, với sự tiếp tay mạnh mẽ của Nga cộng và Trung cộng, đã làm cho hàng triệu người Việt Nam tử vong, hàng trăm ngàn người bị thương tật tàn phế.

Tưởng chừng khi chiến tranh chấm dứt thì người Việt Nam có thể sống trong hòa bình, nhưng với chính sách hận thù, ngu dân của nhà cầm quyền độc tài cộng sản, chúng đã giam cầm lao động khổ sai hàng triệu quân cán chính đã làm việc cho chính thể Việt Nam Cộng Hòa, đã cướp đoạt tài sản của hàng triệu người dân Miền Nam và đẩy họ vào những vùng Kinh Tế Mới rừng sâu nước độc.

Kế tiếp là hàng triệu người đã phải liều chết vượt biên - vượt biển để thoát ra khỏi sự kềm kẹp, khủng bố, kỳ thị của chế độ chính trị độc tài - độc đảng của đảng Cộng sản.

  • Việc người dân Việt bị cướp đoạt tài sản,
  • bị cướp đoạt những quyền căn bản của con người;
  • làn sóng người dân tìm cách rời đất nước bằng nhiều cách khác nhau để tránh oan khiên từ chế độ cộng sản,
vẫn tiếp diễn cho đến nay.


Ngoài ra, để làm giàu cho một nhóm thiểu số đảng viên quyền lực của đảng cộng sản Việt Nam,
  • chúng đã tham nhũng khốc liệt,
  • khai thác vô tội vạ tài nguyên thiên nhiên,
  • chúng đã giao bán từng phần đất đai cùng biển đảo cho Trung cộng,
  • để cho những nhà máy công nghiệp lỗi thời của Trung cộng hủy hoại môi trường, .v.v.

Tổ quốc Việt Nam đang mất dần về tay Trung cộng;

người dân Việt Nam càng lúc càng lâm vào sự cùng khốn
vì sự tham quyền, ham danh lợi và bạo lực của đảng cộng sản Việt Nam.

Người Việt chúng ta không thể đành lòng thờ ơ trước thảm họa khủng khiếp này!


Cho đến nay, cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản ở hải ngoại trên khắp thế giới đều cùng nhau tổ chức tưởng niệm Ngày Quốc Hận 30/4/1975 để nhắc nhở nhau về những thảm họa cộng sản mà đảng Cộng sản Việt Nam đã gây ra cho toàn dân tộc và tổ quốc Việt Nam, để cảnh cáo đảng Cộng Sản và nhà cầm quyền Việt Nam về những sai lầm và tội ác mà chúng đã và đang gây ra.

  • Việc tổ chức Tưởng Niệm Ngày Quốc Hận 30/4/1975 là bổn phận và trách nhiệm chung của người Việt tỵ nạn cộng sản,
  • và cần phải trực diện với cái hệ thống chính trị cộng sản đang cầm quyền,
  • tại Vương quốc Hòa Lan này thì đó là tòa Đại Sứ Việt Cộng ở Den Haag.


Để Tưởng Niệm Ngày Quốc Hận 30/4/1975,
Nhóm Vinh Danh Cờ Vàng Việt Nam với sự yễm trợ của Ban Thường Vụ Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản Việt Nam tại Hòa Lan tổ chức một cuộc

biểu tình
trước tòa Đại Sứ Việt Cộng ở Den Haag

(Javastraat 1, 2585 AA Den Haag - Hòa Lan)
vào chiều ngày
thứ sáu 28/4/2017, từ 14:00 đến 15:30 giờ

(nếu có gì thay đổi, chúng tôi sẽ nhanh chóng thông báo đến quý vị)


Kính mời quý vị cùng đến tham dự để thể hiện ý chí, chính kiến và nguyện vọng của chúng ta.
Trân trọng trong tinh thần đoàn kết vì Tự Do - Dân Chủ - Trường Tồn của dân tộc và tổ quốc Việt Nam.



Hòa Lan, ngày 18 tháng 4 năm 2017
t/m Nhóm Vinh Danh Cờ Vàng Việt Nam,

Lưu Phát Tấn.

          

          
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20017
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: - 30/04/2017 - tưởng niệm 42 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          

          


THƯ MỜI
THAM DỰ LỄ TƯỞNG NIỆM NGÀY QUỐC HẬN 30 THÁNG TƯ


TẠI OAKLAND

_____________________________________________





Trân trọng kính mời :

  • Quý Niên Trưởng
  • Toàn thể Đồng Hương Oakland và Phụ Cận
  • Quý Cơ Quan, Hội Đoàn, Truyền Thông Báo Chí, Diễn Đàn
    Vùng San Jose, San Francisco, Oakland
  • Toàn thể Anh Em Cựu Tù Nhân Chính Trị Ái Tử Bình Điền Bắc Cali,
    Hội HO San Francisco,
    và Quý Cụ Cao Niên Diên Hồng Oakland
Vui lòng dành thì giờ quý báu đến tham dự Lễ Tưởng Niệm Tháng Tư Đen 2017:

  • Để chia sẻ niềm đau chung của cả dân tộc trong mùa Quốc Hận Tháng Tư Đen sau 42 năm VC cưỡng chiếm Miền Nam,

    để tưởng nhớ và ghi ơn đến toàn thể Quân Dân Cán Chính Việt Nam Cộng Hòa đã anh dũng hy sinh chiến đấu đến giờ phút cuối của cuộc chiến để bảo vệ VNCH,

    để thương tiếc các hy sinh mất mát của nhân dân Miền Nam từ sau ngày 30 tháng Tư 1975 trong các trại tù khổ sai, trên các vùng kinh tế mới và trên đường vượt biên vượt biển.


Gia đình Cựu Tù Nhân Chính Trị Ái Tử Bình Điền Bắc California phối hợp cùng Hội Cao Niên Diên Hồng Oakland, Nhóm Thân Hữu Thương Huế Oakland và Nhóm Tù Ca sẽ tổ chức Buổi Lễ Tưởng Niệm Tháng Tư Đen :

- Thời gian:
Từ 10g sáng đến 3g chiều
Chủ Nhật 30 tháng 4, 2017

- Địa điểm:
638 International Blvd, Oakland CA 94606
(Giữa đường 6 Ave và 7 Ave Oakland).


Chương trình Lễ Tưởng Niệm
  • ngoài việc mọi người tham dự thắp nén hương trên bàn thờ Tổ Quốc,
  • Giáo sư Nguyễn Văn Canh sẽ cùng đại diện các Hội đoàn phát biểu quan điểm về biến cố đau buồn này
  • và cuối cùng là phần văn nghệ đấu tranh nhằm hỗ trợ tinh trần cho đồng bào Quốc Nội đang dũng cảm đứng lên đấu tranh chống sự xăm lăng VN của bọn Tàu Cộng và loại trừ bọn VC bán nước tàn bạo vô nhân với đồng bào ruột thịt trong nước do Ban Văn Nghệ Ái Tử Bình Điền, Nhóm Tù Ca phối hợp cùng ban nhạc Brother Band thực hiện.


Sự tham dự của Quý vị là sự hỗ trợ tích cực nhất cho Ban Tổ Chức và góp phần thành công buổi lễ.
Trân trọng kính mời.




Thay mặt Ban Tổ Chức, đồng Trưởng ban
Ông Hoàng Hữu Vui
LS Trần Minh Nhựt


Mọi chi tiết xin liên lạc :
- Hoàng Hữu Vui : ( 408 ) 569 3592
- Đặng Công Phồn : ( 510 ) 388 7666
- Võ Bào : ( 510 ) 282 1602
- Trần Kiêm Thiều : ( 510 ) 533 9980
- Trần Minh Nhựt : ( 510 ) 333 9117
          
Last edited by Hoàng Vân on Thứ sáu 21/04/17 07:47, edited 1 time in total.
Trả lời

Quay về “Tưởng niệm ngày Quốc Hận 30/04/1975”