Tháng Mười, Ngậm ngùi nhớ Quang Dũng

Trả lời
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5433
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Tháng Mười, Ngậm ngùi nhớ Quang Dũng

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           

    Tháng Mười, Ngậm ngùi nhớ Quang Dũng





    Năm 1986, nhà xuất bản Tác Phẩm Mới tại Hà Nội in Mây Đầu Ô, tập thơ của Quang Dũng. Cuốn sách mỏng, đúng 104 trang kể cả bìa, chỉ gồm có 22 bài thơ. Nhưng đó là giấc mơ khiêm nhượng cuối đời của ông, trong lúc ông đang bị bệnh nặng gần đất xa trời. Và, hai năm sau, ngày 13 tháng 10 năm 1988, ông từ trần. Vậy, tấm lòng thi nhân yêu quê hương lúc cuối đời chỉ có thể biểu hiện bằng tập thơ giấy vàng in nhem nhếch với những bài thơ viết để minh họa chế độ. Nhưng hình như lúc nào trong tâm thức ông cũng lẩn quẩn những bước chân hay những hình bóng của quê nhà từ những bài thơ làm thuở đi Tây Tiến. Với Quang Dũng, quê hương là con sông Đáy hiền hòa một dòng lửng lơ chậm rãi giữa hai bờ xanh tươi những bãi mía nương dâu. Quê hương là Bương, Cấn, là núi Sài Sơn, là những làng đồi, có những giếng nước trong soi đôi mắt cô thôn nữ đa tình:
    • “Bao giờ trở lại đồng Bương, Cấn
      Về núi Sài Sơn ngắm lúa vàng
      Sông Đáy chậm nguồn quanh Phủ Quốc
      Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng…”
    Sơn Tây, nơi có “đôi mắt người Sơn Tây/ u uẩn chiều lưu lạc/buồn viễn xứ khôn khuây.” Sơn Tây, nơi “vừng trán em mang trời quê hương/ mắt em dìu dịu buồn Tây Phương/Tôi thấy xứ Đoài mây trắng lắm/em có bao giờ em nhớ thương/”

    Bài thơ “Đôi mắt người Sơn Tây” mang cái u uẩn của người xa xứ, luôn hoài niệm nhớ về quê làng xưa, thôn ấp cũ. Chiến tranh làm mọi người trôi dạt, nhưng vẫn mong có ngày trở về, để nghe tiếng sáo thanh bình, thấy lại đỉnh Ba Vì, để thấy lại quê Bất bạt…

    Và, không phải Quang Dũng chỉ là một thi sĩ, mà ông còn là nhạc sĩ. Bài hát “Ba Vì” thông dụng trong thời kháng chiến có những câu như:

    • “Ba Vì mờ cao
      làn sương chiều xa buông
      gió về hương ngát thơm
      đưa hồn về đâu?…”


    Một bản nhạc của tấm lòng yêu quê hương thiết tha!

    Quang Dũng (1921-1988) từ trần vào ngày 14 tháng 10 năm 1988 thì vào ngày này mười lăm năm sau, năm 2003, tình cờ tôi giở đúng một trang sách cũ viết nhân ngày kỷ niêm năm năm ngày mất của thi sĩ. Bài viết “Khúc Độc Hành Quang Dũng” của một tác giả tên Văn Chinh đăng trong nguyệt san Văn Nghệ Quân Đội xuất bản ở Hà Nội tháng 10 năm 1993. Trong đó tôi tìm được một vài đoạn làm tôi suy nghĩ. Như:

    “… Dọc con đường đến hiệu cà phê Hói, tôi cứ trân trân ngó tấm lưng gấu hơi gù của Quang Dũng, lòng cứ thắc mắc mãi. Một thân hình cao to quá khổ, mỗi bữa ăn hết một cân gạo cơm mậu dịch với năm mét phiếu vải và mười ba cân rưỡi gạo, ông sống thế nào nhỉ?
    Vậy mà ông đã đổ vạ cho tôi những tội danh “anh hùng cá nhân tiểu tư sản”! Trong sổ tay chép thơ hồi tôi còn đi học có bài Tây Tiến. Bị phát hiện, tôi phải làm kiểm điểm. Tôi còn nhớ rất rõ những day dứt tự xỉ vả và cả quá trình phấn đấu đầy nhọc nhằn xóa bài thơ khỏi trí nhớ và thản nhiên đốt cuốn sổ tay thơ. Cũng còn nhớ cảm giác chân thành thích thú rồi chân thành ghét bỏ Tây Tiến…”


    Ơ kìa, tại sao một bài thơ có thể gọi là tuyệt tác của thi ca Việt Nam mà lại bị coi như tài liệu quốc cấm như thế? Tại sao mà phải nhọc nhằn xóa bỏ bài thơ, phải đốt bỏ, phải tự kiểm điểm để ghét bỏ nó? Có phải vì chính sách chủ trương của lãnh đạo văn nghệ Đảng như vậy?

    Nhà thơ Quang Dũng đã tự nói về bài thơ tuy tâm huyết nhưng lại gây tai họa cho cuộc đời mình như sau trong bài viết “Nhớ về Tây Tiến” in trong Sách Nhà Văn nói về Tác Phẩm, Nhà xuất bản Văn Học:

    “… Chúng tôi lúc đầu đi bằng ô tô, sau chuyển sang hành quân bằng đôi chân, thực sự nếm mùi Tây Tiến: mở rừng, ngủ rừng. Những cái dốc thăm thẳm “heo hút cồn mây súng ngửi trời”, những chiều “oai linh thác gầm thét”, những đêm “Mường Hịch cọp trêu ngươi”… tôi mô tả trong thơ rất là thực… Hồi ấy trong đoàn chúng tôi có rất nhiều người sốt rét trọc cả đầu. Trong điều kiện gian khổ, thiếu thốn nên bộ đội không những bị ốm mà còn chết vì sốt rét cũng nhiều. Chúng tôi đóng quân ở nhà dân cứ mỗi lần nghe tiếng cồng nổi lên, lại tập trung ra đến nhà trưởng thôn để tiễn một con người vĩnh biệt núi rừng. Tiếng cồng ở Tây Tiến thật buồn. Buồn đến nẫu ruột. Kể chuyện lại, bây giờ tôi vẫn nghe văng vẳng tiếng cồng…”

    Tại sao một bài thơ mà mang lại nhiều hứng cảm cho tác giả đến cả mấy chục năm sau lại bị để ý và coi như là có “vấn đề”? có phải vì thành phần “tạch tạch sè (tiểu tư sản)” của lý lịch tác giả? Hay vì lòng ghen tài của thợ thơ Tố Hữu người cầm cân nảy mực lãnh đạo văn nghệ của Đảng? Hoặc vì ý tưởng lãng mạn của bài thơ nói thực cái tâm cảm của một người yêu nước? Chỉ biết, về sau, một tài năng thơ như Quang Dũng mà phải long đong mưu sinh và những tác phẩm sau cũng là những gượng gạo, những bước chân đi trong vòng kiềm tỏa, mang mang tâm thức của một người bất đắc chí lầm lũi trong cuộc nhân sinh. Cơm áo bó buộc, ăn không đủ no, mặc không đủ ấm, những nhu cầu tối thiểu của một con người cũng chưa đầy đủ, chưa nói đến cái nổi hãi sợ cứ luôn ám ảnh. Hoàn cảnh ấy làm sao mà có được môi trường sáng tác tốt cho văn chương hiển lộng?

    Tôi lại nhớ đến những câu thơ Nguyễn Bắc Sơn một thi sĩ của hai mươi năm văn học miền Nam. Những vần hào sảng ngang tàng. Những hình ảnh đẹp mà buồn bã, những câu thơ hùng tráng mà vẫn đầy chất lôi cuốn Thơ như những giong tay đi vào một thế giới lửa đạn, những câu như: “… Ta vốn hiền khô, ta là lính cậu. Đi hành quân rượu đế vẫn mang theo. Mang trong đầu những ý nghĩ trong veo…. ” hay “Lỡ mai đụng trận may còn sống. Về ghé sông Mao phá phách chơi. Chia sớt nỗi sầu cùng gái điếm. Đốt tiền mua vội một đêm vui…”

    Những nỗi buồn rất thật. Chiến tranh của những người yêu hòa bình, cầm súng để tự vệ. Bao nhiêu năm, những thanh niên cùng huyết thống giết nhau vì trò chơi chủ nghĩa. Máu xương chồng chất, sinh lực dân tộc bị phung phí vào đấu trường bày ra bởi những cường quốc chia hai phe quốc cộng tương tàn lẫn nhau. Vì chủ nghĩa Cộng Sản ngoại lai, miền Bắc gây ra cuộc chiến để bao nhiêu bi kịch xảy ra suốt mấy chục năm cho dân tộc. Thơ Nguyễn Bắc Sơn buồn như tâm sự mênh mang thiên cổ, của tấm lòng thi sĩ sinh bất phùng thời. Thơ là kết tinh từ nỗi đau gửi gấm lại cho đời những hằn dấu chung mang của cả một thế hệ. Thơ có chia sẻ chung của những con tim đập những nhịp đập của thời quốc biến vang dội từ tiếng trống thúc quân xa xưa đến âm vọng chinh phu chinh phụ bây giờ. Tôi thích thơ Nguyễn Bắc Sơn bởi lắng nghe một mẫu số chung của thời đại chúng tôi từ ngôn ngữ chân thành và nhịp điệu giục giã. Những người lính, không chỉ đơn thuần là những chiến sĩ mà là những con người tràn đầy tình cảm. Thơ nảy sinh từ traí tim…




    Trở lại bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng vẽ lại những hào hùng của những chàng trai Hà Nội. Theo lời nhà văn Mai Thảo khi còn sinh tiền hay kể về đơn vị đặc biệt này thì Trung đoàn Tây Tiến thành lập từ đầu năm 1947 gồm những chàng trai tiểu tư sản xuất thân từ thành thị. Họ xuất quân đi về phía biên giới Lào với những địa danh như châu Mai, châu Mộc sang Sầm Nứa rồi vòng qua phía tây Thanh Hóa. Lính Tây Tiến có những học sinh cũ các trường Bưởi, Thăng Long, Bảo Hộ… như Quang Dũng, Vạn Thắng, Tuấn Sơn, Như Trang… Lại có những nhân vật đặc biệt như bác sĩ Phạm Ngọc Khuê, hay cô y tá nổi tiếng hoa khôi một thời của Hà Thành mỹ danh Phương Lan một thời đã làm rung động những trái tim trai trẻ…

    Quang Dũng viết bài thơ trong cái hào khí một thời, chất ngất xúc cảm, đầy ắp không khí của Kinh Kha bên bờ Dịch Thủy:

    • “Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi
      Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
      Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
      Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
      Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
      Heo hút cồn mây súng ngửi trời
      Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
      Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi…”


    Những câu thơ mang lại tai họa cho Quang Dũng. Những câu thơ mà ngày sau có người đọc lại bị lôi cuốn vào những xúc động trùng trùng. Thơ như những làn kiếm sắc, vút lên rồi loang loáng ánh trăng. Những ngôn ngữ có âm vang của đồng vọng thiên cổ, của những hy sinh vô bờ mà con dân nước Việt ra đi không tiếc nuối xác thân:

    • “… Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
      Quân xanh màu lá dữ oai hùm
      Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
      Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
      Rải rác biên cương mồ viễn xứ
      Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
      Áo bào thay chiếu anh về đất
      Sông Mã gầm lên khúc độc hành…”


    Tây Tiến là một cuộc hành quân qua Lào từ ngõ Tây bắc để mở một mặt trận mới nhằm chia sẻ chủ lực của quân Pháp. Địa hình cực kỳ hiểm trở, và cuộc di hành đầy gian khổ đói rét. Trung đoàn Tây Tiến sau cuộc hành quân trở về bị hao hụt quân số trầm trọng. Nhưng, theo Đỗ Lai Thúy thì nhan đề của bài thơ còn một ý nghĩa nữa:

    “… Đó là một chuyến đi về phía Tây, phía núi, phía mặt trời lặn, phía, theo quan niệm dân gian, của những người chết. Không phải ngẫu nhiên mà xưa nay nghĩa địa làng, những làng ma đều ở phía tây. Và người chết đều được chôn chân về hướng núi, Tây Tiến như vậy, là từ (chìa khóa của bài thơ, bó lá dứa gai treo trước cổng những ngôi nhà tang tóc, điềm báo về cái chết.
    Anh bạn dãi dầu không bước nữa
    Gục bên súng mũ bỏ quên đời…”


    Nhưng cũng có lúc, sự lãng mạn đã đưa suy tưởng đến vùng liên tưởng xa hơn không gian và thời gian hiện tại. Mơ mộng giống như một sự thúc đẩy như hình ảnh vườn lê thơm ngọt của Tào Tháo gợi ra khi cả đoàn quân đang khát nước đến cực độ. Con người chiến sĩ cùng với tâm thức thi sĩ đã vượt qua những khắc nghiệt của chiến tranh, những gian nan của thiên nhiên cheo leo hiểm ác. Một phản xạ lạc quan của những người vì lòng yêu đất nước mà quên mình:

    • “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
      kìa em xiêm áo tự bao giờ
      khèn lên man điệu nàng e ấp
      nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
      người đi châu Mộc chiều sương ấy
      có thấy hồn lau nẻo bến bờ
      có nhớ dáng người trên độc mộc
      trôi dòng nước lũ hoa đong đưa…”


    Những câu thơ diễn tả lại một tâm trạng của một thế hệ. Có câu thơ nào gợi lại cho chúng ta một cảm giác mạnh mẽ hơn câu thơ “áo bào thay chiếu anh về đất. Sông Mã gầm lên khúc độc hành…” Chữ “gầm lên khúc độc hành” thật nhiều gợi cảm, thật nhiều liên tưởng đến những hình ảnh một thời hào hứng của đất nước chiến tranh.

    Rồi câu “mắt trừng gởi mộng qua biên giới. Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm…” lại bị phê bình là đầy chất tiểu tư sản mà mục tiêu nhắm đến của những cuộc đấu tranh giai cấp. Kháng chiến gian khổ mà còn nghĩ đến tình cảm lãng mạn ngại khó ngại khổ không chịu hy sinh!!!

    Đảng chuyên chế muốn con người thành những bộ máy vô tri không yếu mềm tình cảm. Thành ra, chế độ ấy đã mang cơm áo làm vòng kim cô để trói buộc con người. Cũng như, những Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường một đời trí thức thông minh tài hoa hết mực mà bị chế độ trù dập đến khi chết mà vẫn còn thấy “sợ”. Họ đánh vật với sinh kế chưa xong nói gì đến chuyện thực hiện những tâm đắc của đời mình. Một người như Nguyễn Tuân mà giới văn nghệ gọi là Nguyễn Bất Tuân với nhiều giai thoại cũng phải chịu khuất phục và thú nhận mình sống còn đến lúc đó là biết sợ.

    Quang Dũng thời kháng chiến tài hoa là như vậy, anh dũng là như vậy mà sau này bị loại khỏi quân đội, làm một nhân viên có cấp bậc lương thấp kém nhất và lúc nào cũng lẩn quẩn với sinh kế, vật lộn đến hụt hơi với cái ăn cái mặc. Người ông to cao nên sức ăn cũng nhiều hơn người thường nên bị đói kinh niên. Thảm thương cho người thi sĩ khi qua một câu chuyện kể về một bữa ăn giữa Quang Dũng và Nguyễn Tuân. Khách là Quang Dũng ăn hết tám bát xôi thịt trong khi người mời là Nguyễn Tuân chỉ ăn có một bát. Và câu mời lễ phép “Thưa ông, ông dùng nữa ạ?” của tác giả Vang Bóng Một Thời với câu trả lời bình thản của Quang Dũng “Vâng” tới tám lần như một điệp khúc nhói đau, của những người sinh ra lầm thế kỷ. Một người văn võ toàn tài, biết võ nghệ, đánh kiếm, lại thơ văn trác tuyệt, thế mà cứ lủi thủi trong góc hẹp thành phố để có lúc phải thét lên trong Mây Đầu Ô:

    • “Mây ở đầu ô mây lang thang
      Ôi! chật làm sao
      Góc phố phường
      Mây ở đầu ô
      Hẹn những chân trời xa lạ…”


    Cho nên, khi Quang Dũng được nghe những bài thơ như Đôi Bờ hay Đôi Mắt Người Sơn Tây được nhạc sĩ Phạm Đình Chương phổ nhạc qua giọng hát Thái Thanh thì nước mắt lại ròng ròng vừa cảm khái vừa sợ sệt. Cũng như khi nghe ai đó tán thưởng câu thơ “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” thì thi sĩ lại chắp tay lại than thở “Tôi suốt một đời khổ vì những câu thơ này!”. Ôi một chế độ bạo tàn đã làm sĩ khí Bắc Hà chỉ còn như trong chuyện cổ tích. Đã xa xôi lắm rồi có phải những ngẩng cao đầu đứng dậy nhìn ánh mặt trời?…Thế mà vẫn còn những câu thơ sống mãi. Như bài thơ Tây Tiến, như Đôi Mắt Người Sơn Tây. Mây Đầu Ô là tác phẩm tâm đắc cuối đời của ông. Nhưng, với tài năng và tên tuổi của Quang Dũng, tác phẩm như thế có đủ để biểu hiện hết những tinh hoa của nhà thơ đất Sơn Tây không?

    Không hiểu sao, khi tay tôi cầm cuốn sách, có một nỗi ngậm ngùi nào đó thoảng tới. Cuốn sách bìa mỏng, trình bày đơn sơ so sánh với những tuyển tập thơ của Tố Hữu, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Huy Cận,… hay những quan chức khác như Xuân Thủy, Sóng Hồng (Trường Chinh)…thì là một trời một vực. Một bên sang trọng giấy tốt bìa cứng một bên hẩm hiu giấy thường trang ít. Đó là chủ quan của tôi, một nhận định có từ thời chưa mở cửa đổi mới, khi những nhà văn Nhân Văn vẫn còn bị truy bức đe dọa.

    Nhà thơ Xuân Sách trong Chân Dung Nhà Văn đã phác họa lại khuôn mặt thi sĩ Quang Dũng bằng những câu thơ chứa đựng những tác phẩm của ông:

    • “Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi
      Về làm xiếc khỉ với đời thôi.
      Nhà đồi một nóc chênh vênh lắm
      Sống tạm cho qua một kiếp người
      Áo sờn thay chiếu anh về đất
      Mây đầu ô trắng, Ba Vì xanh
      Gửi hồn theo mộng về Tây Tiến
      “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.


    Khi viết những dòng phác họa lại thơ và người của một vóc dáng thi sĩ lớn, chắc Xuân Sách cũng cám cảnh của một người bị chế độ chuyên chính nghi ngờ và lãnh đạo đảng chèn ép vì tài năng và cũng vì cái lý lịch tiểu tư sản. Một người đã từng viết những câu thơ hào hùng như “Áo bào thay chiếu anh về đất, sông Mã gầm lên khúc độc hành” mà lại hạ bút là “về làm xiếc khỉ với đời thôi”. Có một điều gì câm nín, khó nói, khó hiểu?

    Đọc lại bài “Nghĩ về thơ bạn” của nhà văn Trần Lê Văn in ở đầu tác phẩm như một lời giới thiệu, tôi lò mờ hiểu được sự khó hiểu ấy. Có một sự gì tránh né không muốn nói hết ra những điều cần nói. Trong bài viết, Trần Lê Văn trích dẫn rất nhiều câu thơ của nhiều bài khác nhưng tuyệt nhiên không nhắc nhở đến bài “Mây Đầu ô”. Mà bài này lại được chọn làm nhan đề của toàn tập thơ. Tại sao như vậy? Có phải vì bài này chứa đựng một phần tâm sự của thi sĩ.

    Có một cái gì bức bối, giam hãm của hổ nhớ rừng, của những thôi thúc thầm lặng. Làm sao, vừa lòng được với cái góc phố hẹp này, cái khung cảnh tẻ nhạt kia được.

    • “Mây ở đầu ô mây lang thang
      Ôi! chật làm sao
      Góc phố phường
      Mây ở đầu ô
      Hẹn những chân trời xa lạ
      Qua một ngọn cột đèn… ”

    Hình như, có lần Quang Dũng đã nói đại ý ngày trước một mình trong rừng sâu với cây đoản côn ngắn mà vẫn hiên ngang không sợ hổ không sợ nguy hiểm bất thần. Còn bây giờ, nghe tiếng lá rơi cũng sợ. Thành ra, thơ của ông những ngày gần đây cũng có sự thay đổi theo.

    Ngày trước, Quang Dũng làm thơ: “Tôi viết chiều nay, chiều tưởng vọng. Làm thơ mình lại tặng riêng mình…” Bây giờ, Quang Dũng cũng làm thơ nhưng tâm sự của chính mình là phụ. Thơ phải viết cho cái “ta” chung, của những mẫu người có dũng cảm, có lao động, biết căm thù theo lệnh và cũng biết chịu ơn theo chủ trương được ấn định rõ ràng. Thơ là những vấn đề thời sự, là Ba Vì đón bác, là Bất Bạt đêm giao quân,… Thơ của “Mây Đầu Ô” có những bài đọc nghe giống như những khẩu hiệu được đọc trên đài được đăng trên báo. Thí dụ như:

    • “… Bác xuất hành thăm huyện Ba Vì…
      Phải vì con tằm của ta
      Đã ăn lá dâu trên sườn núi?
      Mà những con ma Mỹ
      Lại tan xác thù trên ruộng vườn Ba Trại?
      Hay Bác đẹp lòng vì những rừng cây
      Đã chắn gió giúp người canh tác
      Dân Ba Vì đã làm tốt tết trồng cây
      Huyện Ba Vì đã có nhiều “giếng thơi làm theo lời Bác”
      Hay Bác vui lòng vì những xã Yên kỳ, Phú hữu, Phú Sơn
      Sắp đi vào nghiêm chỉnh bước canh tân
      Phê phán thói làm ăn chưa cải tiến?
      Hỡi ai đi trên đường
      Hãy xuống xe ngả nón
      Vào “Đồi cây đón Bác”
      Gặp hai chú bạch đàn thẳng tắp
      Như còn tiếc những giờ
      Bác mắc cõng nghỉ trưa đồi cỏ
      Chuyện một năm qua mà đã vào cổ tích
      Bác ngồi đâu, Bác hỏi những ai
      Cô bí thư Tòng Bạt tuổi hai mươi
      Được Bác hỏi nếp làm ăn hợp tác
      Cháu thiếu nhi chăm làm chăm học
      Bác dành phần kẹo chia cho
      Bác mừng tuổi Dân
      Dân kéo đến đồi cây chúc thọ Bác Hồ
      Sáng mồng một tháng Giêng năm Kỷ Dậu.”


    Rằng… hay thì thiệt là… hay. Nghe ra… Còn đâu thuở hào hùng thời Tây Tiến như lời bình văn đăng trong Tiếng Nói Tri Âm:

    “… Từ Châu Mai, Châu Mộc sang Sầm Nứa vòng về tây Thanh Hóa, địa bàn hoạt động của Tây Tiến vốn là một vùng bao la hung hiểm qua nỗi nhớ của Quang Dũng- nỗi nhớ của một tâm hồn “mây ở đầu ô mây lang thang”, càng hung hiểm hơn lại đượm một chút phiêu diêu khó tả.

    Rừng sâu, núi thẳm trời xa, trải ra rất rộng, dựng lên rất cao… những nét vẽ ở đây thật hoành tráng tài hoa. Suốt mười bốn dòng đầu, tựu trung có ba nét lớn: một nét tả thung sâu, một nét tả núi cao, một nét tả thác chiều và cọp đêm nơi rừng suối. Ba nét thành ba mảng, mảng nào cũng dữ dằn gân guốc…

    Đoàn quân Tây tiến đã hành quân “tác chiến” trên một địa bàn như vậy. Dấu chân vệ quốc của họ đã in bóng nơi đây như một dấu tích trầm mặc kiêu hùng:

    • …Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
      Heo hút cồn mây súng ngửi trời
      Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
      Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
      Anh bạn dãi dầu không bước nữa
      gục lên súng mũ bỏ quên đời.


    Có một cái gì thật tàn khốc dữ dội trong cái lầm lũi nhọc nhằn giữa những cuộc hành quân như thế trận địa ở đây cơ hồ không nghe tiếng súng nổ, không bóng một quân thù, chỉ có núi dốc, sương tối với mưa chiều, thác ầm và cọp dữ… người lính đối mặt với dốc đá cheo leo, núi rừng hiểm trở, nước độc ngàn thiêng…”


    Tại sao, trở về sau này, thơ Quang Dũng lại mất đi cái vẻ ngang tàng hào hùng của một thời vùng vẫy. Có phải vì sự ghen tị của những người lãnh đạo văn nghệ như Tố Hữu? hay vì lề lối đè ép văn nghệ sĩ, bắt đi đúng theo con đường vạch ra của đề cương văn hóa nên cây sáng tác không thể đơm mầm nảy nụ? Lý Hồng Xuân trong Nhận Diện Chân Dung Nhà Văn có kể về trường hợp Quang Dũng:

    “… Đêm 19/12/1946, người Hà Nội mang đồ vật trong nhà của mình ra xây dựng chiến lũy, ngăn chận quân thù rồi ra đi kháng chiến, để lại sau lưng họ khói lửa ngút trời. Khi xa Hà Nội, mỗi khi nghĩ về Hà Nội, ai cũng trào dâng xúc cảm… Quang Dũng đã nói hộ họ nỗi niềm này trong bài thơ Tây Tiến. Ai đã đọc Tây Tiến đều xúc động nhớ về Hà Nội qua câu thơ đầy gợi cảm:
    • “Mắt trừng gởi mộng qua biên giới
      Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm…”


    Quan văn nghệ Tố Hữu đọc được câu thơ này chẳng những không thích thú mà còn buông lời châm chọc xỏ xiên… Quang Dũng bị ức chế, bị tổn thương tinh thần của một sĩ phu Bắc Hà thứ thiệt. Ông không còn hứng thú viết những vần thơ hay, thấm đượm tình nhân ái nữa, về sống lặng lẽ trong căn phòng nhỏ hẹp cùng gia đình của những văn nghệ sĩ chân chính, không xu nịnh để kiếm miếng đỉnh chung…

    Tạng người Quang Dũng to cao. Nhà nghèo, ông cảm thấy quanh năm đói, chỉ thèm được ăn một bữa dù là cơm rau, nhưng được no nê mà vẫn không được. Hoàn cảnh của nhân dân miền Bắc lúc bấy giờ (trước năm 1975) ai cũng như ai. Nếu làm việc ở cơ quan hành chính sự nghiệp, mỗi người mỗi tháng chỉ được mua 13 ký gạo, 250 gram thịt, 250 gram đường, 5 mét vải. Với sức vóc của ông, cái đói triền miên là tất nhiên. Sau năm 1975, các tiêu chuẩn này được nhích lên, nhưng cũng chẳng là bao. Quang Dũng vẫn ở trong số những văn nghệ sĩ đói…”

    Thế nên, mới có câu chuyện kể lại mỗi lần nhà thơ nghe khen ngợi bài thơ Tây Tiến của mình thì lại xua tay rồi chắp tay vái lạy. Bài thơ ấy đã làm cho ông không ngóc lên được và tạo cho ông tính chịu đựng.

    Nhà văn Trần Lê Văn, người bạn thân của ông nhận xét:

    “Có người nói thơ Quang Dũng thiên về sự buồn hơn là sự vui. Nói là “thiên về” thì không hoàn toàn chính xác. Đúng ra thơ anh có những lúc trầm xuống lắng buồn, gợn buồn. Bản chất con người anh cũng như thơ anh không phải bản chất buồn. Những ai quen anh đều biết anh là người vui tính, giỏi hài hước, một thứ hài hước lành mạnh và đôn hậu. Anh đến đâu là vui đấy, truyện trò rôm rả, những tiếng cười trong trẻo và ấm áp nổi lên, người lớn trẻ con đều khoái. Một người vui tính mà có lúc buồn cũng là điều dĩ nhiên, có gì lạ. Nadim HIchmét nhà thơ Cộng Sản Thổ Nhĩ Kỳ có nói: người ta có quyền buồn, có quyền xài cái xa xỉ (luxe) ấy, nhưng không có quyền bi quan… Thơ Quang Dũng ngay cả những lúc buồn cũng không bi quan…”

    Nhưng, Cộng sản ghét nhất nỗi buồn, nhất là cái buồn của “Tôi” tiểu tư sản. bao nhiêu nỗ lực trong bao nhiêu năm tháng, kéo dài cả một chương trình làm tiêu tan cái buồn trong văn nghệ, khai tử những suy tư mà giới lãnh đạo cũng như giới cầm bút cho là bạc nhược không có chất tranh đấu. Như Xuân Diệu hạ quyết tâm trong bài thơ “Chặt cái bùi ngùi” mà Nguyễn Hưng Quốc đã dẫn chứng cho lý luận cơ sở của mình khi nhận định như trên:

    • “Khi vui sướng, ta nổ cười huyên náo
      Lúc đau khổ ta gầm gầm giông bão
      Cắt cái bùi ngùi vứt nó xuống sông
      Chặt cái bùi ngùi dẫm nó dưới chân”


    Trong bài Một Vài Suy Nghĩ về Thơ, Hoài Thanh cũng nâng cái vui thành đối tượng thẩm mỹ:

    “… Từ sau cách mạng tháng tám, thứ lý tưởng thẩm mỹ ốm o bệnh tật ấy rõ ràng không còn lý do tồn tại. Nhưng chuyển từ buồn sang vui là khó, chuyển từ thích cái buồn sang thích cái vui lại càng khó. Qua phân tích mấy bài thơ về mưa, Xuân Diệu trên báo Văn nghệ ra ngày 6-3-1970 vừa rồi đã chỉ ra rất rõ quá trình chuyển biến của thơ Huy Cận. Cũng là mưa nhưng trước cách mạng tháng tám trong bài “Buồn Đêm Mưa” Huy Cận viết:
    • Tay nương nước giọt mái nhà
      Nghe trời nằng nặng nghe ta buồn buồn.
      Đến kháng chiến chống Pháp trong bài Mưa mười năm sau, anh lại viết:
      Mưa xưa rời rạc tần ngần
      Mưa nay ríu rít nhân quần tiếng vang
      Giọt mưa cũ ố vàng thơ phú
      Triều mưa này đoàn tụ lúa xanh


    Vừa nhắc lại cái buồn cũ, vừa nói lên cái vui mới. Thêm mười năm nữa, vào đầu năm 1959, trong bài Mưa Xuân trên biển, sẽ chỉ còn những lời thơ vui, cũng sâu và cũng đẹp không kém những lời thơ buồn ngày xưa của Huy Cận:

    • Thuyền đậu thuyền đi hạ kín mui
      Lưa thưa mưa biển ấm chân trời

    Bước đi của Huy Cận cũng là bước đi chung. Nói chung, những anh chị em làm thơ viết văn đi theo cách mạng đều trải qua một sự chuyển mình sâu sắc…”

    Mà thơ Quang Dũng trước đớ có nhiều bài thật buồn.

    Như “Buồn Êm Ấm”:

    • Có những đêm trường buông gối chăn
      Giận mình êm ấm chán tình nhân
      Tủi hờn với cả lời săn sóc
      Của những người lo tới phận mình
      Vi vút nỗi sầu ai thấu nhẽ
      Chao ơi tri kỷ ở ngàn phương
      Đêm đêm gió cuốn từng cơn nhớ
      Từng trận sầu tư lướt thướt đường…”

    Hay, nỗi buồn trong bài “Mưa”:

    • Quê anh không khăn trắng
      Nhưng chắc có màu tang
      Những người con đi vắng
      Những mẹ già nhớ thương
      Trời mưa giăng màu xám
      Bởi vì đâu thê lương
      Hoa cỏ dâng màu trắng
      Đời còn đang chiến trường
      Trời mưa giăng nước mắt
      Màu thê lương lại về
      Hoa mai dầu nở trắng
      Người người còn ra đi…”


    Đảng đâu muốn nỗi buồn như vậy. Đảng bắt phải vui vẻ quên mình đi vào lửa đạn hy sinh. Và, thơ văn phải làm công việc của những người luôn kêu gọi nụ cười, một tâm trạng vui tươi chung của nhiều người chứ không phải nỗi buồn riêng lẻ cá nhân dù có trong sáng lành mạnh chăng nữa. Bởi thế ở thi tập in lúc cuối đời, thơ trong Mây Đầu Ô đa phần vẫn là những bước chân đi theo lối vạch đã ấn định sẵn. Nào “Ba Vì đón bác”. Nào “Bất Bạt đêm giao quân”, nào “về đồng muối”, nào “Mười hai cô gái trồng cây”, nào “Pha Din”, nào “Hồng Phú Châu Giang “… Chỉ trong một thi tập có 22 bài mà nhiều đến thế! Nhà thơ đã theo đúng đường lối mà sao vẫn còn bị nghi ngờ, còn bị lẩn quẩn trong vòng bần bách. Hay là tại anh Lành (tức Tố Hữu) ghen tài đố kị? Hay tại vì lối suy nghĩ tiểu tư sản không có chỗ đứng trong văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa?.


    Nguyễn Mạnh Trinh



    Nguồn:http://vietluan.com.au



              
Trả lời

Quay về “Nguyễn mạnh Trinh”